Báo cáo về kế hoạch nhà nước năm 1981

Phần thứ nhất : Tình hình thực hiện kế hoạch nhà nước năm 1980 

Thực hiện kế hoạch Nhà nước năm 1980, các ngành, các địa phương đã có nhiều cố gắng khắc phục khó khăn, đạt được một số thành tích và tiến bộ. Tuy miền Bắc gặp thiên tai mất mùa nặng, nhưng Đồng bằng sông Cửu Long được mùa mấy vụ liền, miền Bắc đang cố gắng làm vụ đông. Năm 1980 huy động lương thực được 2 triệu tấn quy thóc, so với năm 1979 tăng 60 vạn tấn, các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long đạt 1-1,1 triệu tấn. Diện tích cây công nghiệp tăng 5%; đỗ tương, đay, cà phê, thuốc lá đều tăng, và thu mua đều khá hơn 1979. Một số hợp tác xã miền Bắc thực hiện chế độ khoán và thực hiện phân phối trong nội bộ hợp tác xã theo nguyên tắc thống nhất ba lợi ích đã có tác dụng khuyến khích lao động sản xuất, tăng năng suất lao động và sản lượng sản phẩm, củng cố hợp tác xã. Trong công nghiệp, một số xí nghiệp đã chủ động về nguồn cung ứng vật tư, thực hiện chế độ khoán sản phẩm cuối cùng (Nhà máy cơ khí Phổ Yên) đã động viên được các bộ phận sản xuất và phục vụ sản xuất trong dây chuyền làm ra sản phẩm, tăng năng suất lao động, nâng cao sản lượng và chất lượng sản phẩm. Nhưng nhìn chung, hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch Nhà nước năm 1980 đều đạt thấp. 

- Sản lượng lương thực ước đạt 13,7 triệu tấn (hụt kế hoạch 1,3 triệu tấn, giảm 30 vạn tấn so với năm 1979). 

Cây công nghiệp đạt 56 vạn ha, tăng 5%. Đay, lạc, cói, mía, chè, cao su, cà phê, thuốc lá tăng khá. 

Đàn lợn đạt 9,7 triệu con, tăng 4%, nhưng đàn lợn tập thể giảm 16% so với năm 1979. 

- Khai thác gỗ 1,7 triệu m3, đạt 95% kế hoạch. Trồng rừng 9,5 vạn ha, nhưng tỷ lệ cây sống rất thấp. 

- Sản lượng cá biển 35 vạn tấn, giảm 12 vạn tấn so với năm 1979; xuất khẩu 13 triệu đôla, giảm 20%. 

- Giá trị sản lượng công nghiệp 8,1 tỷ đồng, giảm 11% so với năm 1979, trong đó công nghiệp trung ương giảm 14%, công nghiệp địa phương giảm 9%, thủ công nghiệp giảm 5%. 

Sản lượng điện 3,78 tỷ kWh, giảm 5%; than 5,5 triệu tấn, đạt 85% kế hoạch; xi măng 75 vạn tấn, đạt 87% kế hoạch. Tình trạng thiếu than, thiếu điện rất nghiêm trọng. 

- Khối lượng đầu tư cơ bản 3,2 tỷ đồng, giảm 14% so với năm 1979. 

- Khối lượng hàng hoá vận tải trong nước giảm 6% về tấn/km. 

- Kim ngạch xuất khẩu vẫn dừng lại ở mức 320 triệu rúp và đôla (trong đó có 85 triệu đôla). 

- Huy động lương thực có tiến bộ, ước đạt 2 triệu tấn, tăng 60 vạn tấn so với năm 1979, nhưng còn hụt kế hoạch 50 vạn tấn. Thu mua thuốc lá, đỗ tương, đay, khá hơn trước. 

- Do thiếu năng lượng và nguyên vật liệu, số lao động thiếu việc làm trong khu vực nhà nước lên tới 30 vạn người. 

- Tài chính, tiền tệ tiếp tục bội chi lớn. Tiền mặt bội chi 1,5 tỷ đồng, nhưng vẫn thiếu tiền để thu mua nông, lâm, hải sản, chỉ xây dựng cơ bản và phát lương. Giá cả thị trường tự do tiếp tục tăng. Đời sống công nhân, viên chức còn nhiều khó khăn, nhất là ở các thành phố và khu công nghiệp. Số công nhân, viên chức thôi việc và bỏ việc vì đời sống khó khăn trên 5 vạn người. 

Năm 1980 là năm kết thúc kế hoạch 5 năm 1976-1980, nhưng lại là năm mà những khó khăn về kinh tế và đời sống đến mức gay gắt. Mặc dầu vậy trong thời kỳ 1976-1980 đã đạt được một số thành tựu nhất định trong việc phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng: 

Do kết quả của việc phục hoá và khai hoang, diện tích gieo trồng trong thời gian qua đã tăng trên 1 triệu ha. Các công trình thuỷ lợi được xây dựng đã cho phép tưới 65 vạn hécta đất nông nghiệp. Đã trồng thêm 50 vạn hécta rừng. Gần 4,2 triệu người được thu hút thêm vào nông nghiệp và lâm nghiệp. Mặc dầu bị thiên tai trong hai năm liền, sản lượng lương thực (quy thóc) trong 5 năm đã tăng khoảng 2,5 triệu tấn. 

Công suất sản xuất điện tăng thêm 20 vạn kW, xi măng tăng thêm 50 vạn tấn. Đã xây dựng các công trình gối đầu để huy động năng lực sản xuất mới vào các năm 1981-1985 ở một số ngành công nghiệp như xi măng, cơ khí, công nghiệp nhẹ, v.v.. Trong giao thông vận tải, đã khôi phục và xây dựng mới gần 1.500 km đường sắt, 38.000 mét cầu, 3.500 mét bến cảng, đưa vào sử dụng 2.000 toa xe mới, 5.000 ôtô vận tải, 10 vạn tấn trọng tải tàu biển và 20 vạn tấn trọng tải sà lan sông. 

Trong các lĩnh vực y tế, văn hoá, giáo dục và đào tạo cán bộ cũng đạt được những thành tựu mới. Đã hoàn toàn xoá bỏ nạn mù chữ ở miền Nam Việt Nam. Số học sinh cấp I và trung học, các lớp hàm thụ và học sinh đại học lên tới khoảng 16 triệu người. Bình quân cứ 3 người dân có 1 người đi học. Số lao động kỹ thuật đạt 2 triệu người, bằng 8% tổng số người có khả năng lao động. 

Nhưng, những năm qua trong việc phát triển kinh tế, đã nảy sinh những sự mất cân đối nghiêm trọng và nhiều thiếu sót: 

1. Lương thực, đặc biệt là lương thực khu vực nhà nước thiếu hụt lớn. Mức tiêu dùng lương thực thuộc khu vực nhà nước trong 5 năm qua là 11,8 triệu tấn quy gạo, nhưng huy động trong nước chỉ được 5,8 triệu tấn, bằng 49% mức tiêu dùng, phải sử dụng 5,62 triệu tấn nhập khẩu và xuất dự trữ nhà nước 38 vạn tấn. Đó là sự hạn chế rất lớn đối với đời sống, phát triển nông nghiệp, công nghiệp và xây dựng cơ bản. Nhìn chung, sự phát triển của sản lượng lương thực trong 5 năm qua chỉ mới bảo đảm được cho số người mới tăng thêm tự nhiên. Thiếu hụt lương thực vẫn ở mức 2 triệu tấn/năm là mức thiếu hụt khi bước vào kế hoạch 5 năm 1976-1980. 

2. Năng lượng (than, điện, xăng dầu) còn xa mới đáp ứng được nhu cầu tối thiểu của nền kinh tế. Hầu hết các ngành đều thường xuyên thiếu than, điện, xăng dầu; nhu cầu tối thiểu mỗi năm thiếu khoảng 1 triệu tấn than và nửa triệu tấn xăng dầu. Về điện, nhiều xí nghiệp và công trường thường xuyên bị cắt 1/2, thậm chí 2/3 nhu cầu. Lượng xăng dầu nhập khẩu, trong 5 năm liền giữ nguyên ở mức 1,9 - 2 triệu tấn/ năm, thậm chí năm 1980 còn chưa đạt được mức ấy, trong khi xe máy đưa vào sử dụng mỗi năm một tăng và nhu cầu của quốc phòng tăng lên. 

3. Nguyên liệu, vật liệu chỉ đáp ứng được 1/2 hoặc 1/3 nhu cầu của công nghiệp. Một mặt, sản xuất nguyên liệu trong nước không tăng mà một số thứ lại giảm; mặt khác, trong những năm 1976-1977, hằng năm chúng ta sử dụng 550-570 triệu rúp và đôla nguyên liệu, vật liệu nhập khẩu, nhưng từ năm 1978 trở lại đây, chỉ còn 450 triệu, trong khi giá cả thị trường thế giới tăng vọt; dự trữ vật tư ngày càng mỏng, nên hầu hết các ngành công nghiệp đều thường xuyên thiếu nguyên, vật liệu; nhiều ngành chỉ huy động được 1/3 công suất. 

4. Máy móc, thiết bị hư hỏng nhiều, vì phụ tùng thay thế không đủ, đại tu, bảo dưỡng không kịp tốc độ hao mòn của máy móc. Hậu quả là hầu hết các ngành sản xuất đều sử dụng công suất thiết bị, máy móc rất thấp (30-50%), nhiều loại máy móc, thiết bị nhất là ở miền Nam, không khôi phục được công suất cũ (ôtô vận tải, tàu thuyền đánh cá, công nghiệp dệt, công nghiệp thực phẩm, máy phát điện, v.v..). 

5. Năng lực vận tải yếu kém, gây ách tắc nghiêm trọng. Hoạt động giao thông vận tải chỉ đáp ứng 80% nhu cầu vận tải, khiến cho việc cung ứng vật tư cho sản xuất và xây dựng, phân phối vật phẩm tiêu dùng cho nhân dân thêm căng thẳng. Đặc biệt là ở khu vực cảng Hải Phòng, thường xuyên có lượng hàng ứ đọng tới 20-30 vạn tấn. 

6. Xây dựng cơ bản mở ra vượt quá sức cáng đáng của nền kinh tế, của khả năng cung ứng năng lượng, vật liệu cho xây lắp, gây nên hậu quả nghiêm trọng về nhiều mặt: không bảo đảm đủ vật tư cho sản xuất và đời sống vì vật tư bị hụt quá nhiều vào xây dựng cơ bản, không tập trung được lực lượng cho những mục tiêu xây dựng quan trọng nhất về sản xuất và đời sống, tăng lạm phát, hiệu quả đầu tư rất thấp, tăng thêm mất cân đối trên nhiều mặt của nền kinh tế. Trong 5 năm 1976-1980, vốn đầu tư cơ bản rải ra trên hàng vạn công trình, trong đó các ngành trung ương có trên 3.000 công trình; cùng một lúc triển khai xây dựng nhiều công trình lớn. Kết quả là trong 20 tỷ đồng đầu tư, bao gồm cả 2,3 tỷ đồng từ năm 1975 chuyển sang, có tới 8 tỷ đồng là xây dựng dở dang. Tình hình này còn để lại hậu quả nặng nề cho nhiều năm sắp tới, nhất là trong điều kiện vốn, xăng dầu, điện và vật liệu xây dựng hạn chế hơn trước. 

7. Ngân sách và tiền mặt bội chi liên tiếp và ngày càng lớn. Trong 5 năm qua, khối lượng tiền tệ lưu thông tăng ba lần trong khi khối lượng hàng hoá không tăng mà lại giảm. Đồng tiền mất giá khiến cho giá cả và tiền lương mất tác dụng đòn bẩy. Hệ thống phân phối, lưu thông bị rối loạn. Nhà nước nắm hàng và tiền ngày càng ít. 

8. Cán cân thanh toán quốc tế thiếu hụt nghiêm trọng. Kim ngạch xuất khẩu 5 năm chỉ đạt 1.500 triệu rúp, đôla, trong khi nhập khẩu lên tới 6.300 triệu rúp và đôla. Toàn bộ số nợ phải trả trong ba năm 1978-1980 là 720 triệu đôla, phải huy động nguồn dự trữ ngoại tệ và vay nợ để trả hoặc xin hoãn nợ. Tình hình càng khó khăn hơn đối với những năm 1981-1985, khi nguồn vay nợ để nhập khẩu hạn chế hơn trước, nguồn ngoại tệ dự trữ không còn, số nợ đến hạn phải trả lại lớn hơn nhiều (1.340 triệu đôla). 

9. Lao động thiếu việc làm. Tính đến cuối năm 1980, số hoàn toàn chưa có việc làm là trên một triệu người, trong đó 80 vạn ở thành thị. Trong khu vực nhà nước có khoảng 30 vạn người thiếu việc làm. Một bộ phận học sinh ra trường chưa có chỗ bố trí. Do công việc làm không ổn định và đời sống khó khăn nên nhiều công nhân viên chức phải kiếm thêm việc làm ngoài mới đủ sống; số bỏ việc, hoặc xin thôi việc để ra làm ngoài càng lớn (9-10 vạn người). 

10. Đời sống công nhân, viên chức giảm đến mức thấp nhất. Vấn đề cung cấp lương thực, thực phẩm, vải mặc và hàng tiêu dùng thiết yếu cũng khan hiếm. Vấn đề đời sống đã trở thành một yếu tố cản trở lao động, làm giảm năng suất lao động, và đặt ra nhiều vấn đề phức tạp về mặt xã hội. 

Những khó khăn và mất cân đối trên đây đặt ra cho kế hoạch Nhà nước năm 1981 cũng như cho 5 năm 1981-1985 những nhiệm vụ hết sức nặng. 

Những khó khăn nói trên bắt nguồn từ hàng loạt nguyên nhân khách quan và chủ quan. 

Trước hết, cần kể tới các nguyên nhân khách quan. Năm năm qua là một thời kỳ cực kỳ khó khăn, không ổn định, không thuận lợi đối với việc cải tạo và phát triển kinh tế. 

1- Nền sản xuất xã hội nước ta phổ biến là sản xuất nhỏ, cơ cấu kinh tế do lịch sử để lại vừa què quặt, có nhiều mặt không hợp lý, vừa lệ thuộc nặng vào nước ngoài; năng suất lao động xã hội rất thấp, một người làm không nuôi nổi một người, tích luỹ hoàn toàn không có; ta phải từ lao động và đất đai mà đi lên, nhưng diện tích canh tác cũng như diện tích gieo trồng, nhất là về cây lương thực, bình quân đầu người quá thấp. 

2. ảnh hưởng của 30 năm chiến tranh, của tình trạng đất nước bị chia cắt lâu dài và sự nô dịch thực dân mới trên một nửa nước rất nặng, từ chiến tranh chuyển sang hoà bình có những đảo lộn rất lớn về kinh tế và xã hội mà tác động của nó phải qua thực tế, chúng ta mới nhận thức hết được: 

- Hai tỷ đôla viện trợ hằng năm không còn, đã làm đình đốn nhiều ngành sản xuất, tác động trực tiếp đến đời sống của nhiều tầng lớp nhân dân. Sự giúp đỡ mới của Liên Xô và bạn bè quốc tế cùng những sự cố gắng của kinh tế trong nước, trong một thời gian ngắn, chưa thể bù đắp được những sự thiếu hụt do mất nguồn viện trợ, dù chỉ là những sự bù đắp hợp lý, cần thiết. 

- Hàng triệu người trước đây sống dựa vào bộ máy chiến tranh của Mỹ, ngụy trở thành một đội quân thất nghiệp khổng lồ mà chúng ta không thể dễ dàng và nhanh chóng giải quyết. 

- Hoà bình lập lại, xuất hiện những nhu cầu mới, cấp bách của các tầng lớp nhân dân, trong khi nền kinh tế chưa kịp phục hồi, sản xuất chưa kịp phát triển. Hơn nữa, tốc độ dân số phát triển quá nhanh, đã làm gay gắt thêm mâu thuẫn vốn có giữa sản xuất và tiêu dùng. 

3. Đất nước trong quá trình thống nhất, đưa hai nền kinh tế hoàn toàn khác nhau của hai miền thống nhất làm một. Tình hình đó, một mặt tạo ra những thuận lợi cơ bản, lâu dài; song trước mắt, đó là thời kỳ sắp xếp lại nền kinh tế, không tránh khỏi gây ra những sự không ổn định đối với việc phát triển sản xuất. 

4. Sự phá hoại và chiến tranh xâm lược... chống nhân dân ta diễn ra ngay khi chúng ta chưa kịp phục hồi nền kinh tế sau 30 năm chiến tranh, đã làm đảo lộn nhiều tính toán ban đầu của chúng ta, tạo nên những trở ngại rất lớn đối với công cuộc xây dựng kinh tế. Chiến tranh, một mặt gây ra nhiều tàn phá về vật chất; mặt khác buộc chúng ta phải tăng nhanh ngân sách quốc phòng, điều động một lực lượng lớn lao động sản xuất cho nhu cầu chiến đấu. 

5. Mấy năm qua, thiên tai xảy ra hầu như liên tiếp, gây nhiều tác hại cho sản xuất và đời sống, đặc biệt đối với nền kinh tế nghèo nàn của nước ta, sức chống đỡ rất yếu, dự trữ quốc gia không đáng kể. 

6. Chúng ta xây dựng kinh tế với một đội ngũ cán bộ chưa được đào tạo và bồi dưỡng cần thiết về kinh tế và kỹ thuật, nhất là ở các cơ sở và địa phương miền Nam. 

Nguyên nhân chủ quan: 

Song, điều quan trọng hơn hết là chúng ta phải nghiêm túc xem xét lại sự chỉ đạo và quản lý kinh tế, rút ra những bài học cần thiết cho thời kỳ tới. Đây là một công việc rất lớn, đòi hỏi có sự tổng kết chu đáo, tỉ mỉ và đầy đủ. Trong bản báo cáo này, chỉ bước đầu nêu ra một số nhận xét: 

Một là, khuyết điểm về bố trí kế hoạch và thực hiện kế hoạch. 

1) Quán triệt không đầy đủ nhiệm vụ kinh tế chủ yếu của thời kỳ 1976-1980 là thời kỳ - như đường lối của Đảng đã vạch ra - tạo tiền đề cần thiết để triển khai công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, bởi vì trong bước đầu của thời kỳ quá độ ở nước ta, "chẳng những về cơ bản chưa có đại công nghiệp cơ khí mà ngay những điều kiện tiên quyết để tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa cũng chưa được tạo ra"1. Lẽ ra trong thời kỳ này, như Nghị quyết 24 của Ban Chấp hành Trung ương khoá III đã xác định, phải chủ động sắp xếp lại cơ cấu kinh tế nhằm ổn định kinh tế và từng bước phát triển sản xuất trên cơ sở mới, ổn định đời sống, khắc phục những mặt không hợp lý do lịch sử để lại. Nhưng trên thực tế bố trí kế hoạch, chúng ta đã tiếp tục phát triển kinh tế trên cơ sở duy trì nguyên vẹn cơ cấu sản xuất và tiêu dùng cũ, và phát triển trên toàn tuyến, chưa thật sự tập trung sức phát triển sản xuất nông nghiệp trong một cơ cấu hợp lý với công nghiệp, nhằm giải quyết bằng được vấn đề lương thực, thực phẩm, khắc phục tình trạng thiếu những hàng tiêu dùng thiết yếu, xây dựng những cơ sở xuất khẩu quan trọng, tạo việc làm cho lao động xã hội. Đối với công nghiệp nói chung, chưa chú trọng khai thác chiều sâu (bổ sung, nâng cao, trang bị lại, tạm đình những cơ sở xét ra chưa có điều kiện sử dụng); trong xây dựng mới, thiếu chọn lọc và tính toán chặt chẽ về quy mô cũng như thời gian và địa điểm nhằm phục vụ tốt hơn nông nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng thông thường và xuất khẩu, phù hợp với khả năng thực tế về năng lượng, nguyên liệu và phụ tùng. 

2. Chưa chú trọng và có những biện pháp đồng bộ về kế hoạch, quản lý, chính sách, tổ chức để phát huy hai vốn quý nhất là lao động và đất đai,nhằm trước tiên giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm và tạo nguồn xuất khẩu, từ đó tạo ra sự cân đối đầu tiên cho sự phát triển của kinh tế, tạo nguồn tích luỹ cho công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. 

3. Chưa thực hiện được tốt chủ trương vừa xây dựng kinh tế trung ương, vừa tích cực phát triển, tổ chức và quản lý tốt kinh tế địa phương, giải quyết đúng đắn và kịp thời những vướng mắc trong vấn đề phát triển kinh tế địa phương; đặc biệt chưa thực hiện đáng kể chủ trương lấy huyện làm địa bàn chính để tổ chức và sử dụng lao động, khai thác đất đai và mở mang ngành nghề, đồng thời phân bố lại lao động trong phạm vi cả nước, xây dựng có hiệu quả các vùng kinh tế mới. Do đó mà đến năm 1980 chỉ đạt sản lượng lương thực gần 14 triệu tấn, nhiều mặt hàng tiêu dùng sản xuất bằng nguyên liệu trong nước sút kém, mặt hàng và khối lượng xuất khẩu nghèo nàn, ít ỏi là kết quả của những thiếu sót chủ quan, chứ không phải là kết quả tất yếu do thiếu vật tư, xăng dầu, phụ tùng như sự giảm sút của một số ngành công nghiệp. 

4. Xây dựng công nghiệp nặng không hoàn toàn dựa "trên cơ sở" nhu cầu và khả năng của nông nghiệp, nhằm phục vụ trước hết cho nông nghiệp mà có phần thoát ly công nghiệp. Trong cơ cấu công nghiệp, chưa tập trung sức vào xây dựng công nghiệp nhiên liệu điện than; vào việc phát triển và tạo nguồn nguyên liệu trong nước từ nông thôn, lâm sản mà có phần thiên về phát triển công nghiệp chế biến. 

5. Xây dựng cơ bản có khuyết điểm trên hai mặt chính là bố trí tổng mức đầu tư quá cao và phương hướng đầu tư có phần lệch. Mức đầu tư dự kiến trong kế hoạch 5 năm vượt gấp đôi khả năng thực hiện. Về phương hướng đầu tư, đã không tập trung đúng mức và đồng bộ cho nông nghiệp, cho việc khai thác tiềm năng của lao động và đất đai, đã phân tán, dàn ra quá nhiều mục tiêu và căng mỏng vật tư, tài chính và lực lượng thi công vào quá nhiều công trình. Việc sử dụng vốn đầu tư, việc quản lý công tác xây dựng, nhất là việc khảo sát chọn địa điểm, thiết kế và thi công có nhiều sai sót, gây ra lãng phí lớn và đưa lại hiệu quả rất thấp. 

Hai là, khuyết điểm trong lĩnh vực phân phối, lưu thông, vận dụng quan hệ hàng hoá - tiền tệ thể hiện không chỉ trong phạm vi một số chính sách mà trong một loạt chủ trương. Vấn đề này đã được Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị phân tích và kết luận. 

Ba là, khuyết điểm trong quản lý kinh tế 

- Cơ chế quản lý mang nặng tính chất hành chính bao cấp, không tạo ra được động lực cho kinh tế phát triển; không thể hiện được chế độ làm chủ tập thể, không phát huy được sức mạnh của cả nước, của từng địa phương, của từng cơ sở và của từng người lao động. 

- Chế độ kế hoạch hoá chưa phù hợp với nền kinh tế còn nhiều thành phần và đang có nhiều biến động phức tạp, các thông số kinh tế cơ bản không đầy đủ và chưa chính xác ở mức yêu cầu tối thiểu, hệ thống thông tin và chỉ đạo chưa hoàn thiện. Công tác kế hoạch hoá vừa chưa quán triệt và thể hiện được đường lối; vừa không bảo đảm cân đối, cũng không phát huy được tiềm năng. Kế hoạch không kết hợp với vận dụng thị trường và các đòn bẩy kinh tế. Có tình hình kế hoạch vừa gò ép, cứng nhắc khi xây dựng, vừa hình thức và không có hiệu lực khi thực hiện. Kỷ luật kế hoạch không được duy trì và tôn trọng, nhất là mấy năm gần đây. Nói chung, kế hoạch chưa phát huy được tác dụng là công cụ trung tâm trong chỉ đạo, điều khiển thực tiễn các hoạt động kinh tế; công tác kế hoạch chưa tương xứng với tầm vóc của yêu cầu và nhiệm vụ chính trị - kinh tế. 

- Các chính sách kinh tế vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc kết hợp ba lợi ích: xã hội, tập thể và cá nhân, nhất là vi phạm lợi ích của người lao động. 

Bốn là, thiếu sót trong công tác tổ chức và cán bộ. Vấn đề này đã được phân tích và kết luận trong nghị quyết gần đây của Bộ Chính trị. 

Năm là, những khuyết điểm trong công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa. 

Trong cải tạo, thiếu những hình thức và bước đi thích hợp, chưa kết hợp tốt với tổ chức lại và phát triển sản xuất, chưa quán triệt yêu cầu mở rộng vững chắc trận địa kinh tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời sử dụng thích đáng các thành phần kinh tế khác. 

Phần thứ hai: Phương hướng chung của những năm tới (1981-1985) 



Thời kỳ 5 năm 1981-1985 là một bước phấn đấu cực kỳ trọng yếu của Đảng ta và nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. 

Căn cứ đường lối của Đại hội lần thứ IV của Đảng và các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, thì nhiệm vụ kinh tế - xã hội chủ yếu của những năm trước mắt là: 

1. ổn định và từng bước phát triển kinh tế; giảm bớt khó khăn và cải thiện dần đời sống nhân dân. 

2. Hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. 

3. Củng cố quốc phòng và an ninh, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. 

4. Xây dựng từng bước cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. 

5. Củng cố quan hệ đặc biệt với Lào và Campuchia; đẩy mạnh hợp tác toàn diện với Liên Xô, liên kết kinh tế với các nước trong Hội đồng Tương trợ kinh tế. 

Thực hiện những nhiệm vụ kinh tế - xã hội nói trên, tuy chúng ta đang đứng trước tình hình có những khó khăn và mất cân đối nghiêm trọng, nhưng cũng có những thuận lợi cơ bản; nhiều nhân tố mới, tích cực xuất hiện gần đây trong nền kinh tế. Đó là: 

- Sức mạnh đoàn kết, nhất trí về chính trị và tinh thần của toàn Đảng, toàn dân dựa trên đường lối đúng đắn của Đảng. Nhân dân ta có truyền thống lao động cần cù và chiến đấu kiên cường. Cán bộ ta nói chung vững vàng về chính trị, có nhiều tiến bộ trong lãnh đạo và quản lý kinh tế. 

- Đất nước ta có nhiều khả năng. Ngoài những khả năng tiềm tàng cần có thời gian và đầu tư tương đối lớn mới phát huy như cây công nghiệp dài ngày, dầu khí, apatít, bốcxít đáng chú ý là có những khả năng hiện thực không đòi hỏi đầu tư lớn vẫn có thể phát huy được. Đó là lao động và đất đai, là thủ công nghiệp, là cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện có nếu được sử dụng tốt hơn, là một số tài nguyên khoáng sản và nhiều loại nguyên liệu khác. 

- Những nhân tố mới, tích cực: khí thế sản xuất ở nông thôn do có chính sách đúng về phân phối "ăn chia", quản lý và khoán trong nội bộ hợp tác xã, về thu mua và giá cả của Nhà nước; những giống mới có sức chống rầy, chịu chua phèn ở miền Nam và một số thành tựu khác của khoa học kỹ thuật có tác dụng thật sự đối với sản xuất; những hiện tượng hăng hái lao động, nâng cao số lượng và chất lượng sản phẩm trong công nghiệp do áp dụng đúng chính sách trả lương khoán... Đặc biệt hơn cả là những thực tiễn sinh động trong sản xuất và hoạt động kinh tế vừa qua (thành công cũng như thất bại) đã giúp cho chúng ta nhìn nhận những vấn đề kinh tế xã hội một cách rõ nét hơn, tìm thấy những cách làm đúng có hiệu quả, tạo nên sự nhất trí cao trong đông đảo cán bộ về nhận thức đường lối, đánh giá tình hình, xác định phương thức làm ăn mới. 

- Chúng ta có sự liên minh và hợp tác toàn diện với Liên Xô, quan hệ đặc biệt đoàn kết và hợp tác với hai nước anh em Lào và Campuchia, sự giúp đỡ và hợp tác của các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác, đặc biệt là sự liên kết kinh tế giữa nước ta với các nước trong Hội đồng tương trợ kinh tế. 



* * 

Để ổn định và từng bước phát triển kinh tế, giải quyết thắng lợi năm nhiệm vụ chủ yếu nói trên, chúng ta phải phấn đấu theo những phương hướng sau đây: 

- Đẩy mạnh khai thác các khả năng về lao động và đất đai, tiềm năng do áp dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, tiềm năng do tiết kiệm nghiêm ngặt trong sản xuất, xây dựng và tiêu dùng. 

- Bố trí lại cơ cấu kinh tế, quy mô và cơ cấu đầu tư xây dựng cơ bản. 

- Lập lại trật tự trên lĩnh vực thương nghiệp, tài chính, tiền tệ, giá cả, tiền lương. 

- Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế - xã hội, lấy yếu tố hiệu quả kinh tế làm mục tiêu. 

- Kiện toàn tổ chức, đổi mới chế độ làm việc, tăng cường và đổi mới đội ngũ cán bộ quản lý. 

1. Khai thác hai khả năng chủ yếu: lao động và đất đai và các khả năng hiện thực khác. 

a) Nền kinh tế nước ta đang ở trong tình trạng thiếu nghiêm trọng về nhiên liệu, vật tư, nguyên liệu, do đó chỗ dựa cơ bản trước mắt là ra sức khai thác các khả năng lao động và đất đai. Nguồn lao động dồi dào, nhất là có hàng chục vạn quân đội tham gia xây dựng kinh tế, cho phép chúng ta triển khai trên quy mô lớn việc khai phá các vùng đất mới để sản xuất lương thực và cây công nghiệp, làm thuỷ lợi và đường giao thông, tạo địa bàn phân bố lại lao động trong phạm vi cả nước. Để khai thác khả năng của lao động, trước hết cần sắp xếp và sử dụng tốt lao động trong từng xí nghiệp, từng hợp tác xã..., tổ chức lại lao động trên địa bàn từng huyện và phân bổ lại lao động trên phạm vi cả nước để mở rộng diện tích canh tác và thâm canh, tăng vụ, đẩy mạnh chăn nuôi các loại gia súc, mở mang các ngành, nghề tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp bằng nguồn nguyên liệu địa phương, sản xuất hàng xuất khẩu, tổ chức đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân các vùng. ở các thành phố, phải bằng mọi cách, tổ chức cho được lao động làm hàng tiêu dùng và xuất khẩu, xây dựng các cơ sở nguyên liệu ở những nơi có điều kiện. Đối với lao động thuộc khu vực nhà nước, dù là lao động sản xuất hay lao động sự nghiệp hành chính, đều phải được kiểm kê và sắp xếp lại, nhằm tăng năng suất lao động, giảm bớt biên chế, nhất là biên chế hành chính. Phải cải tiến mạnh chế độ lao động và chế độ trả công để khuyến khích hăng hái lao động và bắt buộc phải lao động. Bằng những biện pháp tổng hợp như: lợi ích kinh tế, giáo dục tư tưởng, tạo đủ điều kiện vật chất, tổ chức đúng và quản lý tốt lao động, phát động phong trào thi đua lao động từ thành thị đến nông thôn, nhất là trong khu vực quốc doanh và tập thể. Tổ chức có hiệu quả việc huy động bộ phận quan trọng lực lượng quân đội tham gia công tác xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất. 

b) Khai thác các tiềm năng do áp dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất. Nhằm nâng cao hiệu quả trong sản xuất và xây dựng, phải rất coi trọng công tác khoa học - kỹ thuật, bằng mọi cách đưa các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất. Trong 5 năm 1981-1985, đi đôi với nghiên cứu cơ bản, công tác khoa học - kỹ thuật phải nhằm vào mấy mục tiêu sau đây: 

+ Tìm và áp dụng các biện pháp khoa học - kỹ thuật cho phép sử dụng nhiều hơn cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện có, tiết kiệm nguyên vật liệu, nhiên liệu, năng lượng, phương tiện, thiết bị, nâng cao năng suất cây trồng và con gia súc. 

+ Nghiên cứu, khai thác, chế biến các tài nguyên trong nước nhằm thay thế nguyên liệu nhập khẩu, tăng mặt hàng xuất khẩu. 

+ Nâng cao hiệu suất sản xuất và sử dụng điện, cải thiện một bước cơ cấu năng lượng và màng lưới điện, sử dụng hợp lý các nguồn nhiên liệu hiện có và phát triển các nguồn nhiên liệu - năng lượng mới. 

+ Nâng cao chất lượng các mặt hàng tiêu dùng, các sản phẩm cơ khí, phương tiện giao thông vận tải, phụ tùng, chi tiết máy... 

+ Bổ sung và xây dựng mới các tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, các định mức kinh tế - kỹ thuật tiến bộ, làm cơ sở cho kế hoạch hoá và quản lý kinh tế. Tăng cường quản lý kỹ thuật trong từng đơn vị cơ sở và từng ngành. Tìm các giải pháp kỹ thuật ăn khớp với sự đổi mới cơ chế quản lý, để giải quyết những khó khăn, vướng mắc cụ thể trong sản xuất, xây dựng và phân phối, lưu thông. 

+ Tạo cơ sở khoa học kỹ thuật cho các chủ trương kinh tế, cho công tác phân vùng, quy hoạch, thiết kế... 

c) Thi hành chế độ tiết kiệm nghiêm ngặt. Tiết kiệm phải trở thành chế độ. Đặc biệt phải tiết kiệm xăng dầu, than, điện, sắt thép, lương thực, phân bón hoá học, các hoá chất nhập khẩu. Phải xây dựng lại các định mức và xây dựng thêm những định mức mới và có các biện pháp quản lý hành chính và quản lý kinh tế thích hợp để các định mức được áp dụng. Giảm tiêu hao vật chất trong nguyên liệu, vật tư, xăng dầu trên một đơn vị sản phẩm. Có chế độ thu hồi phế liệu, phế phẩm, phục hồi phụ tùng, chi tiết máy, săm lốp, tái sinh dầu nhờn, v.v.. Thưởng thích đáng những thành tích tiết kiệm và phạt nghiêm khắc những sai lầm, khuyết điểm gây lãng phí. 

2. Bố trí lại cơ cấu kinh tế nhằm khắc phục những sự mất cân đối về cơ cấu do lịch sử để lại, sửa chữa những khuyết điểm và bố trí cơ cấu trong thời gian qua, tạo điều kiện xây dựng cơ cấu mới, hợp lý. Công việc này bao gồm những nội dung chính sau đây: 

a) Điều chỉnh chương trình xây dựng cơ bản theo hướng: giành ưu tiên cho nhiệm vụ sản xuất lương thực, thực phẩm, một số hàng tiêu dùng thiết yếu, xuất khẩu, thăm dò và khai thác dầu khí, bố trí một tỷ lệ thích đáng cho các ngành phục vụ các nhiệm vụ trên: điện, than, giao thông vận tải, cơ khí; chú trọng khai thác chiều sâu, chú trọng đầu tư nhỏ để khai thác khả năng lao động phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu; bảo đảm cân đối giữa yêu cầu và khả năng xây dựng, bảo đảm hiệu quả kinh tế trong xây dựng. Với tinh thần đó, trước hết, cần soát xét lại các hạng mục công trình không có điều kiện xây dựng hoặc không bảo đảm hiệu quả kinh tế; tập trung lực lượng để xây dựng nhanh những công trình quan trọng; xem xét kỹ và quản lý chặt công trình dưới hạn ngạch. Tăng cường công tác chuẩn bị ban đầu, công tác thiết kế và thi công, khắc phục tình trạng xây dựng tràn lan, kéo dài, dở dang, lãng phí. Chỉ có như vậy mới đủ lực giải quyết dứt điểm những công trình cần thiết, đạt được các mục tiêu trọng điểm đã đề ra. 

b) Điều chỉnh một số mặt trong lực lượng sản xuất, nhằm góp phần tạo thế cân đối mới: 

+ Dành vật tư, năng lượng, thiết bị cho việc sản xuất lương thực, thực phẩm, cho việc sử dụng tốt hơn các khả năng hiện có của sản xuất, tăng dần năng suất lao động xã hội, tạo điều kiện phát triển mạnh lực lượng sản xuất trong các kế hoạch sau. 

+ Đối với công nghiệp, cần kiểm tra lại tất cả các xí nghiệp để có sự phân loại cần thiết; những cơ sở không có điều kiện hoạt động hoặc rất kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài thì phải dừng lại củng cố hoặc đình hẳn; dành vật tư, năng lượng cho những cơ sở làm ăn khá và quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân. Những xí nghiệp dùng nguyên liệu nhập khẩu mà nay không có nguyên liệu thì chuyển sang dùng nguyên liệu trong nước nếu được, hoặc tìm cách gia công cho nước ngoài, hoặc chuyển sang làm sản phẩm khác; nếu đã tìm mọi cách mà không có kết quả thì phải tạm ngừng, điều công nhân đi làm việc khác, bảo quản xí nghiệp tìm cơ hội giải quyết. Để làm việc này, dưới sự chỉ đạo của Thường vụ Hội đồng Chính phủ, từng ngành, từng địa phương phải chủ động rà xét lại tất cả các xí nghiệp thuộc ngành mình và địa phương mình, có kế hoạch xử lý cụ thể đối với từng xí nghiệp. 

Phải cân đối lại công nghiệp chế biến và sản xuất nguyên liệu theo hướng ra sức phát triển sản xuất nguyên liệu; việc xây dựng mới công nghiệp chế biến, chỉ tiến hành khi đã sử dụng hết công suất của công nghiệp chế biến hiện có. Cần xem lại cơ cấu của ngành cơ khí chế tạo, của công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm trong cả nước. (Chẳng hạn phải đặt lên hàng đầu việc tận dụng công nghiệp chế biến của Thành phố Hồ Chí Minh để cân đối với sản xuất nông nghiệp của các tỉnh miền Đông và miền Tây Nam Bộ). 

+ Một quan hệ khác cần được xem xét là quan hệ giữa sử dụng lao động cơ giới hoá và lao động thủ công. Hướng lâu dài là phải tiến hành cơ giới hoá và từng phần tự động hoá để nâng cao năng suất lao động xã hội; song tốc độ và quy mô cơ giới hoá cần được xác định hợp lý, phù hợp với khả năng thực tế của từng thời kỳ. Trong 5 năm tới, chúng ta sẽ có hơn 6 triệu người cần có việc làm, khả năng xăng dầu, xe máy bị hạn chế rất nhiều, cho nên việc sử dụng lao động bằng phương thức thủ công phải trở thành một phương hướng quan trọng của các ngành, các cấp, nhất là trong các ngành nông nghiệp, thuỷ lợi, ngư nghiệp, lâm nghiệp, xây dựng, vận tải, sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu, v.v.. Việc nhập thêm máy để cơ giới hoá lao động phải được tính toán chặt chẽ, chỉ tiến hành ở những khâu, những địa bàn thật cần thiết và có điều kiện. Trong lĩnh vực tiêu dùng, phải hạn chếgắt gao việc sử dụng xe máy, xăng dầu, chuyển mạnh sang phương tiện thủ công, nửa cơ giới. 

Dân số phi nông nghiệp, cũng cần được sắp xếp lại cho phù hợp với trình độ phát triển thực tế của công nghiệp, và mức năng suất sinh vật và năng suất lao động của nông nghiệp. Để giảm bớt dân số phi nông nghiệp, một mặt, phải động viên thanh niên và những người lao động khác chưa có việc làm ở các thành phố, những biên chế thừa trong bộ máy nhà nước đi tham gia sản xuất ở các nông trường, lâm trường, các vùng kinh tế mới, nhất là ở những vùng sản xuất cho xuất khẩu như cao su, cà phê, chè,... Mặt khác, phải hết sức hạn chế việc tuyển lao động nông nghiệp vào các hoạt động kinh tế ở thành phố, ít nhất là trong mấy năm trước mắt. 

Cần xem xét lại quy mô và tốc độ đào tạo cán bộ kỹ thuật và công nhân, theo hướng nâng cao chất lượng, thật sự xuất phát từ nhu cầu thực tế, phù hợp với tốc độ và quy mô xây dựng kinh tế. 

+ Khắc phục một bước sự chênh lệch quá xa giữa quy mô và chất lượng của kết cấu kinh tế hạ tầng so với yêu cầu của sản xuất và lưu thông. Đặc biệt coi trọng cải tiến quản lý và tăng thêm năng lực giao thông vận tải, trước hết ở các cảng biển, trên trục giao thông Bắc Nam và một số tuyến chiến lược. 

3. Xây dựng hệ thống mới về thương nghiệp, giá cả, tiền lương, nhằm lập lại trật tự trên mặt trận phân phối, lưu thông, ổn định tài chính và tiền tệ, phát huy hiệu lực của các công cụ đòn bẩy trong việc phát triển sản xuất, bảo đảm Nhà nước làm chủ được thị trường, hàng hoá và giá cả, phục vụ tốt đời sống nhân dân, không để tư nhân hoạt động lũng đoạn thị trường. 

Sắp xếp lại mạng lưới cung ứng vật tư kỹ thuật, mạng lưới thu mua, mạng lưới bán buôn và bán lẻ hàng tiêu dùng, nhằm gắn chặt mua với bán, chấm dứt sự cắt đứt hoặc chậm trễ giữa sản xuất và lưu thông, xoá bỏ các khâu trung gian cách bức không cần thiết, phục vụ tốt hơn sản xuất và đời sống, bảo đảm nắm chắc nguồn hàng trong tay Nhà nước. 

Trong việc phân phối sử dụng các nguồn của cải vật chất, cần điều chỉnh lại nhu cầu: cắt giảm những nhu cầu xét ra chưa phù hợp với khả năng cung ứng của nền kinh tế tập trung sức giải quyết cho được những nhu cầu bức thiết của sản xuất xây dựng và đời sống, trước hết ở những vùng trọng điểm về nông nghiệp và công nghiệp, ở Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, các khu công nghiệp lớn, các vùng kinh tế mới, v.v.. 

Thực hiện việc phân phối và phân phối lại thu nhập của các tầng lớp dân cư một cách hợp lý, không để tư nhân hoạt động bất hợp pháp và có thu nhập rất cao; cải thiện đời sống của người lao động sản xuất. 

4. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế - xã hội 

Những thiếu sót trong cơ chế quản lý kinh tế hiện hành đang là trở ngại rất lớn đối với việc khai thác các khả năng thực tế, các khả năng hiện thực mà nền kinh tế nước ta sẵn có. Vì vậy, cải tiến quản lý kinh tế trở thành một khả năng hiện thực mà dựa vào đó, chúng ta có thể không cần đầu tư thêm vốn, vẫn có thể tăng thêm năng suất lao động, phát triển thêm sản xuất. 

Trong việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế - xã hội, một mặt phải nghiên cứu đề ra một hệ thống cơ bản mới cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân; mặt khác, và đây là mặt cấp bách trước mắt, phải giải quyết gấp những vấn đề quản lý cụ thể có tác dụng thiết thực đối với sản xuất và đời sống. Ví dụ vấn đề khoán và trả công trong hợp tác xã, chế độ thu mua sản phẩm nông nghiệp; hạch toán kinh tế, chế độ trả lương trong xí nghiệp quốc doanh; quan hệ giữa kinh tế trung ương và kinh tế địa phương; chế độ xuất nhập khẩu, v.v.. Những vấn đề cụ thể trong quản lý kinh tế phát sinh trong thực tiễn hiện nay, những sáng kiến phong phú của nhiều cơ sở, nhiều địa phương cần được nghiên cứu, kết luận sớm để áp dụng rộng rãi trong các ngành, các cấp. 

5. Kiện toàn tổ chức, đổi mới chế độ làm việc, tăng cường và đổi mới đội ngũ cán bộ quản lý theo tinh thần nghị quyết gần đây của Bộ Chính trị. 



* * 

Để khai thác các tiềm năng và những khả năng nắm được trong tay nói trên, vấn đề có tính chất quyết định là từng ngành, từng địa phương phải bám sát cơ sở (xí nghiệp và hợp tác xã) nhất là huyện, kiểm kê nắm vững tình hình lao động, đất đai và thiết bị, máy móc, khả năng vật tư, xăng dầu, để có kế hoạch cụ thể khai thác tiềm năng theo tinh thần với nguồn tiền vốn, vật tư, xăng dầu không tăng, thậm chí bị giảm bớt, nhưng bằng những phương hướng đúng, tổ chức quản lý tốt và cách làm sáng tạo, thích hợp, vẫn có thể đẩy được sản xuất cao hơn, bảo đảm được nhu cầu tối thiểu trước mắt, tạo thế đi lên một cách vững chắc. Những điển hình tiên tiến và những nhân tố mới gần đây trong nông nghiệp, công nghiệp, hải sản, thuỷ lợi, trong thu mua và cung ứng hàng hoá ở trên nhiều địa phương đã khẳng định điều đó. Trong bản kế hoạch trình Hội nghị Trung ương lần này, chỉ mới nêu lên được một số quan điểm và phương hướng lớn, chưa thể đi sâu khai thác hết các khả năng trong thực tế. Vì vậy, quá trình giao kế hoạch xuống cấp dưới thực hiện kế hoạch, sự chỉ đạo điều hành trực tiếp hàng ngày của Hội đồng Chính phủ, của các cấp uỷ Đảng và chính quyền có ý nghĩa quyết định đối với việc khai thác các tiềm năng và khả năng, làm chuyển biến tình hình trong thời gian tương đối ngắn. 

Phần thứ ba: Phương hướng, nhiệm vụ và những mục tiêu chủ yếu của kế hoạch Nhà nước năm 1981 

Năm 1981 là năm đầu tiên của kế hoạch 5 năm 1981-1985. Những vấn đề kinh tế và xã hội mà kế hoạch năm 1981 phải giải quyết, và những phương hướng cơ bản để giải quyết các vấn đề đó cũng chính là những vấn đề và phương hướng giải quyết vấn đề của kế hoạch 5 năm 1981-1985 đã trình bày ở phần trên. ở đây, cần nhấn mạnh là: 

Bước sang năm 1981, chúng ta có nhiều tiềm năng và khả năng to lớn, song về một số mặt (vật tư, xăng dầu và ngoại tệ tư bản) có phần khó hơn năm 1980: 

1. Những loại vật tư chủ yếu: 

Năm 1981, khả năng vật tư, nguyên liệu giảm sút nhiều so với các năm trước. Giá trị vật tư hàng hoá nhập khẩu dự kiến khoảng 760 triệu rúp, đôla (chưa kể thiết bị toàn bộ), chỉ bằng 2/3 so với năm 1979 và 85% so với năm 1980, trong đó nhập từ thị trường tư bản 130 triệu đô la, chỉ bằng 22% so với các năm 1977, 1978 và bằng 1/3 so với năm 1980. 

Nhiều loại vật tư mất cân đối nghiêm trọng. Trừ gỗ, than, gang đúc, đồng, chì, nhôm, kẽm, thuốc nổ, xút canxinê, có thể bằng hoặc giảm chút ít so với năm 1980, còn các loại vật tư khác: xăng dầu, thép, xút cốttích, săm lốp ôtô, máy kéo, hoá chất công nghệ, vật liệu điện, chất dẻo, tơ sợi tổng hợp, nhựa đường... giảm nhiều. 

- Xăng dầu: Mặc dầu Liên Xô cung cấp mỗi năm một tăng (từ 70 vạn tấn năm 1977, lên 1,3 triệu tấn năm 1979 và 1,6 triệu tấn năm 1981) nhưng số dầu vay của Trung Đông sử dụng mấy năm nay cạn dần, năm 1981 hoàn toàn không còn nữa. Do đó, số xăng dầu của năm 1981 giảm 24% so với năm 1979 và 20% so với năm 1980. 

- Thép: Do không có ngoại tệ nhập khẩu ở thị trường tư bản và do sản xuất trong nước giảm nhiều (vì thiếu than mỡ) nên mặc dù thép do Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cung cấp có tăng hơn trước, nhưng thép đưa vào sử dụng mấy năm gần đây giảm nhiều, từ 41 vạn tấn năm 1979 xuống 32 vạn tấn năm 1980 và năm 1981, dự kiến chỉ có 22 vạn tấn, giảm 30% so với năm 1980 và 45% so với năm 1979. 

- Xút cốttích: Mấy năm qua, mỗi năm nhập khẩu trên dưới 2 vạn tấn và sản xuất trong nước gần 1 vạn tấn. Do đó, có thể phân phối cho các nhu cầu 2,8 - 2,9 vạn tấn. Năm 1981 nhập khẩu giảm 1 vạn tấn, vì không có ngoại tệ nhập ở thị trường tư bản, nên dự kiến chỉ phân phối 2,2 vạn tấn, giảm 25% so với năm 1979 và giảm 22% so với năm 1980. 

- Săm lốp ôtô, máy kéo: Do nhập khẩu ngày càng giảm (từ 21 vạn bộ năm 1977 xuống 15 vạn bộ năm 1979 và 12 vạn bộ năm 1981) trong khi sản xuất lốp trong nước giảm sút do thiếu ngoại tệ nhập tanh, hoá chất và vải mành, nên số săm lốp năm 1981 giảm 23% so với năm 1980 và giảm 50% so với năm 1979. 

2. Cân đối ngoại tệ tư bản: 

Nhu cầu chi:
 600 triệu đôla 

Nhập khẩu 130 " 

Trả nợ và lãi đến hạn 400 " 

Thuế tàu vận tải 50 " 

Chi về phi mậu dịch 20 " 

Nguồn thu 150 " 

Xuất khẩu 85 " 

Vận tải 15 " 

Thu về phi mậu dịch và khoản khác 50 triệu đôla 

Thiếu 450 triệu đôla 

Như vậy, toàn bộ số nợ đến hạn phải trả 400 triệu đôla và một phần tiền mua nguyên vật liệu cần thiết cho các ngành kinh tế phải tìm nguồn giải quyết. 

(Ngoài ra, dự kiến sẽ nhập một số phân đạm urê và thanh toán bằng cách xuất khẩu gạo; số này không tính vào cân đối ngoại tệ chung trên đây). 

Dựa theo những phương hướng chung của kế hoạch 5 năm đã trình bày ở trên, và căn cứ khả năng cân đối hiện thực của năm 1981, nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch Nhà nước năm 1981 được xác định như sau: 

1. Tập trung sức đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là lương thực, thực phẩm, cây công nghiệp, lâm nghiệp, nghề cá, cấp bách giải quyết vấn đề đời sống, sản xuất hàng tiêu dùng. 

Ra sức phát triển sản xuất hàng xuất khẩu. 

(Phải thấy rõ tập trung sức cho nông nghiệp thì giải quyết được cả vấn đề ăn, cây công nghiệp và xuất khẩu). 

Đẩy mạnh các ngành công nghiệp năng lượng và nguyên liệu: điện, than, xi măng, gỗ, phân bón. 

Tập trung sức của ngành cơ khí để phục vụ nông nghiệp và giao thông vận tải. 

Cố gắng đến mức cao nhất để sớm khắc phục khó khăn về vận tải, nhất là vận tải thuỷ và đường sắt. 

Tiếp tục thực hiện phân bố lại lao động trong cả nước nhằm tận dụng lao động và đất đai, đẩy mạnh sản xuất, nhất là sản xuất nông nghiệp. 

2. Trên cơ sở quán triệt Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị về phân phối lưu thông, đẩy mạnh thu mua nắm nguồn hàng vào Nhà nước, tăng cường quản lý thị trường, chấn chỉnh công tác tài chính, ngân hàng, thu hẹp lạm phát, tích cực chuẩn bị cho việc cải cách giá cả và tiền lương. 

3. Soát xét lại quy mô và mục tiêu đầu tư cơ bản, nhằm tập trung lực lượng đẩy mạnh xây dựng các công trình có ý nghĩa quan trọng nhất và có hiệu quả kinh tế, kiên quyết đình, hoãn những công trình chưa thật cấp bách, kém hiệu quả, không bảo đảm được vật tư và lực lượng thi công hoặc không bảo đảm được nguyên liệu, năng lượng để huy động công trình vào sản xuất. 

4. Tiến hành một cách có hệ thống việc cải tiến tổ chức và quản lý, sửa đổi và bổ sung các chính sách kinh tế, tăng cường và đổi mới đội ngũ cán bộ quản lý. 

Sau đây là nhiệm vụ cụ thể của các ngành kinh tế: 

I- nông nghiệp 

Về sản xuất lương thực: 

Tập trung mọi sức lực để đạt cho được 15 triệu tấn lương thực quy thóc (trong đó 12 triệu tấn thóc, 3 triệu tấn mầu quy thóc), tăng 1,3 triệu tấn so với năm 1980. 

Phải có những biện pháp đồng bộ và chỉ đạo rất sít sao để giải quyết cho được vấn đề diện tích và sản lượng lúa, màu. 

- Huy động đến mức tối đa đất đai vào sản xuất. Riêng diện tích gieo trồng cây lương thực phải đạt cho được 7,37 triệu ha, tăng 54,6 vạn ha so với năm 1980 trong đó diện tích màu 1,6 triệu ha, tăng 21 vạn ha. 

- Tập trung sức hoàn thành những công trình thuỷ lợi đang xây dựng, vận động phong trào quần chúng ở Đồng bằng sông Cửu Long và các nơi khác làm kênh mương, bờ vùng, bờ thửa, đưa diện tích lúa được tưới lên 4 triệu ha, và màu được tưới lên 40 vạn ha. 

- Ngoài việc đẩy mạnh làm phân chuồng, phân xanh, bèo dâu... dự kiến cung cấp 70 vạn tấn phân đạm, chỉ đạo điều phân đạm về kịp thời vụ, tập trung ưu tiên cho các vùng sản xuất trọng điểm, phân đạm nên tập trung vào vụ chiêm xuân ở miền Bắc, và vụ hè-thu ở Tây Nam Bộ. Vận động nông dân làm phân đạm viên để sử dụng phân đạm có hiệu quả và tiết kiệm. 

- Coi trọng việc lựa chọn các giống lúa mới thích hợp cho từng vùng. ở những vùng thường bị ngập úng, cần chọn những giống lúa cao cây. 

- Chấn chỉnh, tăng cường quản lý nông nghiệp, nhất là quản lý hợp tác xã, tập đoàn sản xuất. Một trong những biện pháp then chốt là sớm ban hành những chính sách có tác dụng khuyến khích sản xuất, khuyến khích tận dụng đất đai và lao động nông nghiệp, tăng cường quản lý hợp tác xã và chỉ đạo tốt việc khoán trong hợp tác xã, vừa giải quyết lợi ích chung và lợi ích riêng của người sản xuất, củng cố hợp tác xã. 

Về cây thực phẩm: 

Diện tích cây thực phẩm 36 vạn ha, tăng 19% so với 1980. Bộ Nông nghiệp và các địa phương cần quy hoạch và chỉ đạo cụ thể các vùng rau tập trung để năm 1981 bảo đảm cho được yêu cầu rau phục vụ các thành phố lớn, các khu công nghiệp và xuất khẩu. 

Về cây công nghiệp và cây ăn quả 82,3 vạn ha, tăng 8% so với năm 1980. Cần tập trung sức phát triển mạnh các cây công nghiệp ngắn ngày để bảo đảm nguyên liệu cho công nghiệp và để tăng nhanh khối lượng hàng xuất khẩu. Diện tích đay 2 vạn ha, tăng 30%; bông 7.000 ha, tăng 4,7%; lạc 10 vạn ha, tăng 5,2%; mía 10 vạn ha, tăng 11%, chỉ đạo chặt chẽ việc mở rộng nhanh diện tích trồng mía ở các vùng tập trung và có chính sách khuyến khích thoả đáng để bảo đảm thu mua đủ mía cho các nhà máy đường quốc doanh chạy hết công suất và thu mua các lò đường thủ công 3 vạn tấn. 

Thuốc lá 4 vạn ha, tăng 33%. Bộ Nông nghiệp cần nghiên cứu gấp phương án tăng nhanh hơn nữa sản lượng thuốc lá để xuất khẩu trong các năm sau. 

Phát triển thật mạnh cây đậu tương, coi đây là một mũi nhọn quan trọng nhằm giải quyết nhu cầu thực phẩm (đậu phụ, nước chấm,...). Năm 1981, đưa diện tích lên 8 vạn ha, tăng hơn 100% so với năm 1980. Cần có chính sách giá cả và cung cấp lương thực thích đáng ở từng vùng sản xuất tập trung để khuyến khích nông dân phát triển mạnh sản xuất và bán sản phẩm cho Nhà nước. Chỉ đạo chặt chẽ việc làm đậu tương ở Nam Bộ, Trung Bộ và các tỉnh miền núi phía Bắc. Các năm tới 1982-1983 sẽ tăng mạnh hơn nữa. 

Đối với cây công nghiệp dài ngày, trước hết phải tập trung khai thác cho hết và thâm canh trên diện tích các vườn cây đã có để đạt năng suất và sản lượng cao nhất. Có biện pháp khôi phục, đưa vào khai thác ngay thêm 1 vạn ha cao su đã có sẵn. Gấp rút bổ sung đủ lao động, bảo đảm đủ lương thực, giải quyết nhà ở và các điều kiện khác cho công nhân và cung cấp kịp thời các vật tư, thiết bị cần thiết để phục vụ thâm canh, tận thu sản phẩm và chế biến sản phẩm. Đồng thời phải chỉ đạo chặt chẽ việc trồng mới cao su, cà phê, chè ở những nơi có điều kiện bảo đảm yêu cầu thâm canh ngay từ đầu. Dự kiến trồng mới 3.200 ha cà phê, 5.000 ha cao su, 3.500 ha chè,... xúc tiến các công tác chuẩn bị để các năm sau, đẩy mạnh việc trồng mới các cây này nhằm trước hết thực hiện cho được các hiệp định về hợp tác với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác. 

Về cây ăn quả, tập trung sức đẩy mạnh sản xuất dứa xuất khẩu. 

Về chăn nuôi: Chỉ đạo thực hiện tốt chính sách chăn nuôi đã ban hành để chấm dứt tình trạng giảm sút đàn trâu bảo đảm cuối năm có 2,3 triệu con, tăng 2% so với năm 1979. Đàn bò 1,66 triệu con, tăng 2%. Đàn lợn 10 triệu con, tăng 3,3%. Gia cầm 64,5 triệu con, tăng 7%. 

Về khai hoang: Dự kiến khai hoang 11 vạn ha (1,1 vạn do các lâm trường làm để sản xuất lương thực). Ngoài ra vận động nhân dân ở những nơi có điều kiện nhà nước có giúp đỡ một phần chủ động tổ chức khai hoang, mở thêm diện tích. Tiếp tục hoàn chỉnh diện tích đã khai hoang từ nhiều năm trước và xúc tiến công tác khảo sát, quy hoạch, thiết kế để chuẩn bị đẩy mạnh khai hoang trong những năm sau; biện pháp điều động đủ lao động, cung cấp đủ lương thực và giải quyết đời sống cho công nhân nông trường và nhân dân đi xây dựng vùng kinh tế mới. 

Về vốn đầu tư và vật tư phục vụ nông nghiệp: 

- Năm 1981 dành 26% tổng số vốn đầu tư để đầu tư cho nông nghiệp, thuỷ lợi (năm 1980: 23%). Ngành nông nghiệp phải có những biện pháp cụ thể để thực hiện vốn đầu tư này. 

- Điện phục vụ nông nghiệp 340 triệu kWh, bằng năm 1980. 

- Xăng dầu cho nông nghiệp và thuỷ lợi giữ bằng mức năm 1980, có dự phòng cho chống hạn, chống úng. 

- Dành 25% số sắt thép của ngành cơ khí để sản xuất công cụ, phụ tùng máy móc... phục vụ nông nghiệp. 

- Ngoài 70 vạn tấn phân đạm trong kế hoạch, sẽ thông qua con đường xuất nhập để bổ sung thêm. 

- Thuốc trừ sâu dự kiến nhập khẩu 5 triệu rúp và 5 triệu đôla. 

Nhiệm vụ huy động lương thực, thực phẩm và các nông sản khác, có tầm quan trọng đặc biệt trong kế hoạch Nhà nước năm 1981 nhằm khắc phục sự thiếu hụt về lương thực của khu vực nhà nước, bảo đảm nguyên liệu cho công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và tăng nguồn hàng xuất khẩu, qua đó giải quyết một phần khó khăn về tài chính và tiền tệ, bảo đảm ổn định đời sống công nhân viên chức. 

Cần gấp rút chấn chỉnh, tăng cường bộ máy tổ chức làm nhiệm vụ này, và sớm ban hành các chính sách mới theo tinh thần Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị. 

Riêng về lương thực, với mức sản xuất như trên, sau khi trừ phần chi dùng cho nông dân, dự kiến huy động 3 triệu tấn lương thực quy thóc, đưa vào cân đối 2,8 triệu (miền Bắc 80 vạn tấn, các tỉnh Khu V cũ 20 vạn tấn, và các tỉnh B2 cũ 1,8 triệu tấn). 

Để đạt mục tiêu trên đây, cùng với việc chỉ đạo tốt hơn nữa công tác huy động lương thực, nhất là ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, cần xúc tiến việc xây dựng các kho lương thực và tăng thêm sà lan vận tải ở các tỉnh phía Nam, (kế hoạch huy động lương thực trên đây chưa tính số lương thực xuất khẩu để đổi phân đạm). 

II- Lâm nghiệp, ngư nghiệp 

- Trồng rừng: 7 vạn ha, tập trung chủ yếu vào các vùng trọng điểm cho giấy sợi, trụ mỏ, phòng hộ ven biển và một số rừng cây đặc sản. Ngoài trồng rừng quốc doanh, cần chỉ đạo tốt việc trồng cây của khu vực tập thể và nhân dân thực hiện việc khoán rừng trồng cây sống, sử dụng hợp lý đất rừng và tạo ra nguồn củi, gỗ tại các địa phương để thoả mãn nhu cầu của nhân dân địa phương về đồ gỗ và củi đốt. Bộ Lâm nghiệp cùng các địa phương tổ chức lại công tác bảo vệ tu bổ rừng, có biện pháp tích cực ngăn chặn nạn đốt phá rừng. Dựa vào hợp tác xã nhân dân và quân đội để với một số tiền chừng ấy có thể trồng rừng được thêm, giảm bớt chi phí cho 1 ha rừng trồng. 

- Khai thác gỗ: 1,6 triệu m3, bảo đảm phân phối 1,4 triệu m3, xuất khẩu 20 vạn m3. Phải có kế hoạch cụ thể sử dụng gỗ cành ngọn không để lãng phí (có thể tới 30-40% gỗ khai thác). 

Khai thác 1,26 triệu xite củi, tăng 25 vạn xite so với năm 1980. 

Bộ Lâm nghiệp cần có biện pháp khắc phục tình trạng hàng năm để mất 20-30 vạn m3 gỗ khai thác mà không đưa vào kế hoạch phân phối. 

Bộ Lâm nghiệp cần trình Thường vụ Chính phủ các biện pháp cần thi hành để buộc các địa phương phải chấp hành nghiêm chỉnh kế hoạch giao nộp gỗ, nhựa thông, cánh kiến. 

- Về hải sản, yêu cầu cấp bách đối với ngành hải sản là chấn chỉnh quản lý, tổ chức lại sản xuất, bảo đảm hiệu quả kinh tế; tích cực mở rộng đánh cá bằng thuyền thủ công, trước hết ở miền Bắc và Trung Bộ, dành xăng, dầu cho những đơn vị sử dụng phương tiện cơ giới có hiệu quả (ít nhất 1 tấn xăng dầu, Nhà nước phải thu được 4 tấn cá). 

Phát triển mạnh nghề nuôi cá nước ngọt, nước lợ trong cả nước là một hướng giải quyết thực phẩm rất có hiệu quả, cần được hết sức coi trọng, nhất là ở xung quanh các thành phố và khu công nghiệp. Ngành hải sản cần có phương án toàn diện về phát triển mạnh nghề nuôi trồng thuỷ sản, bao gồm các chính sách cần bổ sung như: đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, giống, giá cả, cung cấp vật tư hàng hoá nhằm nâng cao các tỷ lệ huy động cá nước ngọt, nước lợ. 

Kể cả việc khai thác cá biển và nuôi cá nước ngọt, lợ cả phương tiện cơ giới và chuyển sang phương thức thủ công, cần phải bảo đảm 40 vạn tấn cá, 50 triệu lít nước mắm. 

Đối với việc xuất khẩu hải sản, đề nghị từ nay áp dụng phương thức dùng ngoại tệ xuất khẩu hải sản để tự bảo đảm các yêu cầu nhập khẩu. Nhà nước chỉ cho vay vốn và vật tư để kinh doanh. 

III- Công nghiệp 

Tập trung ưu tiên các điều kiện để giữ vững và đẩy mạnh sản xuất các sản phẩm có nhu cầu bức thiết như: điện, than, phân bón, ximăng, sản xuất và sửa chữa phương tiện vận tải, sản xuất phụ tùng, và công cụ lao động; đẩy mạnh công tác thu mua nông sản để phát triển các sản phẩm tiêu dùng bằng nguyên liệu trong nước; chủ động giảm mức sản xuất hoặc không sản xuất một số sản phẩm không bảo đảm cân đối nguyên liệu, nhiên liệu, không có hiệu quả kinh tế. 

Điện: Năm 1981 nguồn xăng dầu bị giảm nhiều nhưng vẫn phải bảo đảm cho điện bằng mức năm 1980. Phải cải tạo mạng lưới điện, tách được mạng lưới điện, để khi cần phải cắt điện, vẫn giữ được những xí nghiệp và mặt hàng vẫn phải bảo đảm; không cắt điện tràn lan. 

Khẩn trương hoàn chỉnh Nhà máy nhiệt điện Uông Bí, sửa chữa kịp các nhà máy điện khác; tận lực huy động thêm công suất các nhà máy nhiệt điện, thuỷ điện, các cụm máy điêden và một phần công suất của tuốcbin khí, để đạt sản lượng 4 tỷ kWh, tăng 6% so với năm 1980. Phải bảo đảm đủ điện cho nông nghiệp, cho các công trình xây dựng trọng điểm, các xí nghiệp công nghiệp quan trọng và các Nhà máy xi măng Bỉm Sơn, Hoàng Thạch bắt đầu đi vào sản xuất. Nhưng điện phục vụ cho các nhu cầu khác có thể chỉ bảo đảm được 50% nhu cầu, Do vậy phải kiên quyết thực hiện các biện pháp để tiết kiệm điện, nhất là điện dùng cho sinh hoạt ở thành thị cũng như ở nông thôn. 

Than, dự kiến khai thác 6 triệu tấn than sạch, bốc đất đá 22 triệu m3. 

- Cần phải có kế hoạch cụ thể củng cố các phương tiện vận chuyển, sản xuất phụ tùng, để sửa chữa, đồng thời phải tranh thủ phía Liên Xô cung cấp cho những thiết bị và phụ tùng sửa chữa trong ngành than; có kế hoạch đầy đủ các mặt để tăng sản lượng than sạch trong những năm tới, Bộ Giao thông vận tải cũng phải tăng nhanh việc đóng sà lan để vận chuyển kịp than từ mỏ về nội địa. 

Bộ Cơ khí và Luyện kim khai thác 8 vạn tấn than mỡ, và cùng Bộ Điện và Than tìm biện pháp khai thác thêm than mỡ ở các mỏ nhỏ địa phương như Đầm Đùn (Hà Nam Ninh), Khe Bố (Nghệ Tĩnh)... 

Cơ khí, do khả năng cung cấp sắt thép có hạn, phải ưu tiên bố trí vật tư để tăng nhanh các sản phẩm có nhu cầu bức thiết như canô, tàu kéo, sà lan vận tải sông, biển và sà lan chuyên dùng, trung đại tu sà lan, toa xe, sửa chữa máy móc và sản xuất phụ tùng, sản xuất công cụ lao động. Giảm mức sản xuất máy cắt gọt kim loại. 

Bộ Cơ khí và Luyện kim cùng các bộ cần nghiên cứu tạm thời chuyển một số cơ sở cơ khí chế tạo sang làm nhiệm vụ sửa chữa hoặc sản xuất phụ tùng trong lúc phải hạn chế sản phẩm chế tạo. Tiếp tục hoàn chỉnh các dây chuyền sản xuất sản phẩm xuất khẩu theo phương thức gia công (dụng cụ đồ nghề, xe đạp, quạt máy...). 

Cũng có khả năng đưa một số máy bán cho nông dân, mua nông sản của nông dân, xuất lấy ngoại tệ tư bản nhập thép chế tạo về sản xuất. 

Luyện kim: Do thiếu ngoại tệ nhập than mỡ, than cốc, nên chỉ bố trí huy động 1 lò cao và 1 lò khác chạy cầm chừng. Dự kiến sản xuất 4,3 vạn tấn gang, 3,7 vạn tấn thép. 

Sản xuất 380 tấn thiếc và 15.000 tấn quặng crôm khô. 

Hoá chất: sản xuất 34 vạn tấn phân lân, 4 vạn tấn phân đạm urê, 1 vạn tấn thuốc trừ sâu, 5.000 tấn đất đèn, 6 triệu lốp xe đạp, 2,4 vạn tấn xà phòng các loại (bằng năm 1980), v.v.. 

Không bố trí sản xuất: săm lốp ôtô và máy kéo, vải giả da... vì không có ngoại tệ nhập nguyên liệu. 

Vật liệu xây dựng: sản xuất 1,25 triệu tấn ximăng, 1,9 tỷ viên gạch, 370 triệu viên ngói, 7 triệu m3 đá và 1,2 triệu tấn vôi. 

- Cần bảo đảm tiến độ xây dựng hai Nhà máy ximăng Bỉm Sơn và Hoàng Thạch để có thể huy động 45 vạn tấn trong năm 1981. 

- Tổ chức tốt việc sản xuất thạch cao từ các đồng muối và vận chuyển thạch cao từ Đồng Hến về. 

Công nghiệp hàng tiêu dùng: Phát triển mạnh các mặt hàng làm bằng nguyên liệu trong nước: đường mật, chè, thuốc lá, đồ gỗ, mây tre, sành sứ, chiếu cói, bảo đảm giấy viết cho học sinh, v.v.. 

- Thu mua cho được 70 vạn tấn mía cho các nhà máy đường quốc doanh trung ương để sản xuất 5,5 - 6 vạn tấn đường, tăng 3 vạn tấn so với năm 1980, 22.000 tấn thuốc lá lá để chế biến 600 triệu bao thuốc lá (dành 250 triệu bao và 1.000 tấn thuốc lá lá để xuất khẩu); 9,5 vạn tấn chè búp tươi để chế biến 2 vạn tấn chè, tăng 2.000 tấn so với năm 1980. 

- Phải hoàn chỉnh nhanh các dây chuyền sản xuất sợi và chấn chỉnh quản lý ngành dệt để bảo đảm sản xuất 4,2 vạn tấn sợi, tăng 7.000 tấn, dệt 230 triệu mét vải, tăng 40 triệu mét so với năm 1980. Chú ý cung cấp điện đều đặn cho ngành sợi dệt. 

Tăng mức gia công sợi, sản xuất và xuất khẩu hàng may mặc, rượu, bia. 

- Do tiêu hao dầu quá lớn, hiệu quả kinh tế quá thấp nên cần soát xét lại ngành sản xuất mỳ chính; chấn chỉnh lại quản lý, để cố gắng duy trì sản xuất nhằm đáp ứng một số yêu cầu. Do thiếu xút nên sản xuất giấy địa phương phải dùng phương pháp vôi, chỉ dành xút cho những nhà máy giấy có yêu cầu kỹ thuật cao. 

Nói chung đối với các ngành công nghiệp do vật tư có hạn chế nên chỉ tiêu sản xuất này là mức tối thiểu phải đạt, các ngành công nghiệp nhất là công nghiệp thực phẩm, công nghiệp nhẹ, cơ khí, điện than, hoá chất, trong quá trình giao và thực hiện ở cơ sở phải phát huy những khả năng thực tế để có thể đưa sản lượng lên, vừa tăng sản phẩm, vừa giải quyết công việc làm cho công nhân, vừa tăng thêm hàng cho xuất khẩu. 

IV- Đầu tư cơ bản 

Căn cứ vào khả năng về tài chính, vật tư và lực lượng thi công, dự kiến vốn đầu tư xây dựng cơ bản năm 1981 khoảng 3 tỷ đồng, (giảm 200 triệu đồng so với năm 1980), trong đó vốn xây lắp 1.600 triệu đồng. Từ năm 1981, do nguồn vật tư giảm nhiều và do yêu cầu phải dành vốn đầu tư thích đáng cho công trình thăm dò và khai thác dầu khí nên buộc phải sắp xếp lại kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản theo hướng: 

- Bảo đảm đầu tư đồng bộ cho các ngành nông nghiệp, sản xuất hàng xuất khẩu, dầu khí, điện, than, phân bón, ximăng, bến cảng và một số công trình quan trọng khác. Các ngành khác chỉ được đầu tư với mức hạn chế và vì vậy phải lựa chọn mục tiêu đầu tư một cách hết sức chặt chẽ. 

- Soát xét lại các công trình xây dựng dở dang, kiên quyết ngừng xây dựng những công trình sau khi hoàn thành, không bảo đảm được hiệu quả vốn đầu tư hoặc không có điều kiện huy động vào sản xuất. 

- Chú trọng đầu tư theo chiều sâu nhằm tận dụng các năng lực sản xuất hiện có chưa được khai thác hết. Rất hạn chế việc mở thêm công trình xây dựng mới. Coi trọng đầu tư vào các công trình sớm huy động vào sản xuất. 

Chủ trương đầu tư đối với một số ngành kinh tế như sau: 

Trong nông nghiệp, thuỷ lợi: Đầu tư mạnh cho lương thực thực phẩm và các cây công nghiệp hợp tác với các nước. Đẩy mạnh thi công các công trình thuỷ lợi đang xây dựng. Tăng thêm năng lực tưới 8,4 vạn ha, năng lực tiêu 9,5 vạn ha (trong đó có 6.600 ha ở các vùng úng lớn). 

Trong công nghiệp: Tập trung xây dựng Nhà máy điện Phả Lại (bảo đảm tháng 5-1983 huy động một tuốc bin), khu công nghiệp dầu khí, các mỏ than. Bảo đảm tiến độ xây dựng Nhà máy thuỷ điện Hoà Bình, Mỏ apatít Lào Cai, Nhà máy supe phốtphát Lâm Thao, Nhà máy động cơ điêden Gò Đầm, Nhà máy sửa chữa tàu biển Phà Rừng, Nhà máy đại tu ôtô mỏ, Nhà máy giấy Bãi Bằng, Mỏ thiếc Tĩnh Túc và Sơn Dương. Hoàn thành xây dựng Nhà máy ximăng Hoàng Thạch, Bỉm Sơn, Nhà máy ximăng Hải Phòng mở rộng, Nhà máy điện tuốc bin khí Hải Phòng, Mỏ pyrít Giáp Lai, Nhà máy đất đèn Tràng Kênh, Nhà máy kéo sợi Thắng Lợi... 

Tạm ngừng thi công các công trình sau đây vì không cân đối được vật tư, tiền vốn và sức thi công: Nhà máy kính Đáp Cầu, Nhà máy sản xuất đũa Phổ Yên, Nhà máy sản xuất máy công cụ số 3 (Đồng Nai), Nhà máy cơ khí nông nghiệp Thủ Đức (A.74), Nhà máy sửa chữa tàu Song Mai (Hải Phòng), Nhà máy cơ khí thuỷ sản Vật Cách (Hải Phòng), các nhà máy sửa chữa ô tô Hậu Giang, Bình Trị Thiên, Plâyku, các Nhà máy bê tông Việt Trì, Vinh, Xuân Mai, Nhà máy pin tầng Xuân Hoà, Khu liên hiệp chế biến gỗ Việt Trì, Nhà máy dệt kim Đông Xuân, Nhà máy xay lúa mỳ Quảng Ninh, mở rộng Nhà máy in Tiến Bộ... 

Ngành giao thông vận tải: Tập trung xây dựng cảng Hải Phòng, Chùa Vẽ, Vật Cách, Cửa Lò. Hoàn thành tuyến đường sắt Kép - Uông Bí, các cảng sông Hà Nội, Nam Định. Bảo đảm tiến độ xây dựng cầu Thăng Long, cầu Đuống. Khởi công xây dựng đoạn đường sắt Uông Bí - Bãi Cháy, Chí Linh - Phả Lại, Mai Pha - Na Dương. 

Đề nghị không thi công: cầu cáp qua sông Hồng, đường Trường Sơn, đường liên tỉnh 30 Đồng Tháp, đường 14B, đường sắt Di An - Lộc Ninh. 

Khu vực không sản xuất: 

- Về nhà ở, ưu tiên xây dựng nhà ở cho công nhân các nhà máy sắp đưa vào sản xuất, các mỏ than, các nông trường quốc doanh, các vùng kinh tế mới và Thủ đô Hà Nội. Xây dựng một số khách sạn chuyên gia ở ngoài Bắc. Bảo đảm tiến độ xây dựng các nhà trẻ, trường học, bệnh viện do các tổ chức quốc tế giúp. 

- Không xây dựng các trụ sở. 

Để bảo đảm mức khống chế về vốn đầu tư trên đây, ngoài việc đình và hoãn một số công trình trên hạn ngạch như đã nêu trên, cần có biện pháp quản lý chặt chẽ vốn đầu tư cho các công trình dưới hạn ngạch chiếm tỷ trọng 40% tổng số vốn đầu tư và là khâu hiện có nhiều sơ hở, gây lãng phí lớn. 

V- Vận tải 

Phải tập trung sức đẩy mạnh vận tải đường thuỷ, đường sắt, giảm mạnh khối lượng vận tải ô tô. Vận tải ô tô phải chạy hai chiều. Đối với các địa phương, giảm 30% khối lượng vận tải hàng hoá trong tỉnh bằng cơ giới, giảm 50% khối lượng vận tải hành khách bằng ô tô. Phát triển mạnh vận tải thô sơ. 

Nhiệm vụ của ngành vận tải năm 1981 là: 

- Tiếp nhận và vận chuyển 4,5 triệu tấn hàng hoá nhập khẩu; 

- Vận chuyển 1,4 triệu tấn hàng hoá xuất khẩu, tăng 55%; 

- Vận chuyển 4,7 triệu tấn than Quảng Ninh, tăng 32%; 

- Vận chuyển 1 triệu tấn hàng hoá trên tuyến Bắc - Nam, gấp hai lần năm 1980; 

- Vận chuyển 59 vạn tấn hàng hoá cho các tỉnh miền núi phía Bắc, tăng 8%. 

Bộ Giao thông vận tải cần đặc biệt chú trọng chấn chỉnh tổ chức bộ máy và tăng cường quản lý, chỉ đạo ngành giao thông vận tải, trước hết là ngành đường sắt, đường biển và cảng Hải Phòng, phải chú ý quay vòng toa xe đường sắt và sà lan. Nếu thực hiện được quay vòng toa xe đường sắt như mức trước đây 4,2 - 5 ngày, và quay vòng được sà lan thì ta cũng không phải khẩn trương trong việc đóng sà lan và toa xe đường sắt như hiện nay. Để khắc phục tình hình thiếu lốp xe ô tô, phải tận dụng và tiến hành đắp lốp xe ô tô, cơ sở ta đã có sẵn. 

- Khắc phục tình hình thiếu xăng dầu cũng phải chuyển sang chạy gazozène. 

Bộ Xây dựng và Bộ Giao thông vận tải cần có biện pháp bảo đảm vận chuyển xi măng xuất khẩu từ các nhà máy xi măng ra cảng. 

Bộ Giao thông vận tải, Bộ Quốc phòng cần kết hợp việc sử dụng ôtô chở hàng sang Lào để vận chuyển 3 vạn tấn thạch cao từ Đồng Hến về nước. 

Đối với việc vận chuyển hàng hoá cho Lào và Campuchia, ta cố gắng bảo đảm yêu cầu của Bạn. 

VI- Xuất khẩu 

Theo Hiệp định về ngoại thương (đã ký và sắp ký), kim ngạch xuất khẩu sang các nước xã hội chủ nghĩa năm 1981 khoảng 320 triệu rúp; yêu cầu ngoại tệ với mức tối thiểu cần thiết để nhập vật tư, nguyên liệu ở thị trường tư bản để duy trì mức sản xuất, xây dựng như năm 1980 cũng cần phải có 140 triệu đôla. Như vậy yêu cầu xuất khẩu phải đạt 450 triệu rúp và đôla. 

Nhưng trên cơ sở sản xuất đã bố trí, dự kiến khả năng xuất khẩu chỉ mới được 400 triệu rúp và đôla (300 triệu rúp và 100 triệu đôla) tăng 80 triệu so với năm 1980. Các mặt hàng chủ yếu như sau: 

- Về hàng nông sản, nông sản chế biến: thuốc lá lá 1.000 tấn, thuốc lá điếu 250 triệu bao; cao su 3,5 vạn tấn, tăng 5.000 tấn so với năm 1980; chè 1 vạn tấn, tăng 25%; cà phê 4.500 tấn, tăng 12%; rau quả hộp 1,6 vạn tấn, tăng 45%; quả đông lạnh 5.000 tấn, tăng 67%; quả tươi 4 vạn tấn; rượu 10 triệu lít. (Riêng mặt hàng rau quả xuất sang Xibêri (Liên Xô) còn đang tính toán thêm). 

- Hàng công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp: bảo đảm gia công sợi, vải và hàng may mặc cho Liên Xô, để đạt 74 triệu rúp về các mặt hàng này. 

- Các loại hàng khoáng sản: dành 80 vạn tấn than, 10 vạn tấn ximăng xuất khẩu để trang trải một phần yêu cầu nhập khẩu của ngành than và ximăng; tăng xuất khẩu thiếc lên 300 tấn, crômít lên 1,5 vạn tấn... 

Với mức xuất khẩu như trên, chưa kể tiền trả nợ, còn thiếu 45 triệu đôla là tiền nhập vật tư, nguyên liệu cho sản xuất trong nước. Đề nghị giải quyết khoản tiền này bằng các biện pháp sau đây: 

- Dành toàn bộ số tiền viện trợ của Thụy Điển cho năm 1981 (khoảng 15-20 triệu đôla) để nhập vật tư, nguyên liệu. 

- Không lấy đường nhập khẩu để đưa vào tiêu dùng trong nước, mà để tái xuất. 

- Mức xuất khẩu cà phê mấy năm nay chỉ được 3.000-4.000 tấn, năm nay sản lượng cà phê 7.200 tấn, đề nghị có biện pháp buộc các nông trường giao nộp đủ sản lượng cà phê, và có biện pháp khuyến khích tăng thu mua của tư nhân để có thêm 1.000 tấn đến 1.500 tấn xuất khẩu, thu thêm 3-5 triệu đôla. 

- Tinh dầu sả, dầu bạc hà trước đây đã xuất 200 tấn/năm, nhưng mấy năm qua giảm xuống còn 40-50 tấn. Đề nghị có biện pháp khuyến khích khôi phục và phát triển sản xuất để xuất khẩu được 200 tấn, thu thêm 4 triệu đôla. 

Riêng việc trang trải chênh lệch về cước phí vận tải hàng năm khoảng 35-40 triệu đôla, đề nghị tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật cho các sân bay Quốc tế, mở rộng hoạt động hàng không với nước ngoài để thu ngoại tệ về bay qua bầu trời; giao cho Bộ Ngoại thương việc kinh doanh vận tải ngoài nước. Các ngành và địa phương cần tìm tòi khả năng trong khi thực hiện để có thể tăng thêm xuất khẩu, khắc phục thêm một phần chênh lệch giữa xuất và nhập. Dưới sự chỉ đạo và hướng dẫn của Bộ Ngoại thương, các địa phương và các ngành nhất là các công ty, liên hiệp xí nghiệp đã làm hạch toán kinh tế - nên chủ động hơn trong việc giao dịch buôn bán để đẩy mạnh xuất khẩu như các nghị quyết của Chính phủ đã ban hành. 

VII- Lao động 

1. Về phân bổ lực lượng lao động xã hội: lực lượng lao động xã hội năm 1981 có khoảng 25,8 triệu người, tăng thêm 1 triệu người, nếu kể cả số người chưa có việc làm năm 1980 chuyển qua thì số người cần sắp xếp việc làm là 2,5 triệu người, trong đó 1 triệu người ở thành phố. 

Năm 1981 có khả năng bố trí việc làm cho hơn 1 triệu lao động gồm 80 vạn tăng cho sản xuất nông nghiệp để thâm canh, tăng vụ, mở rộng diện tích, sản xuất rau, cây công nghiệp xuất khẩu, phát triển chăn nuôi; 10 vạn người cho sản xuất thủ công nghiệp và khoảng 20 vạn người cho các ngành khác (văn hoá, giáo dục, y tế...). 

Để mở rộng việc làm cho mọi người đến tuổi lao động; cần xác định tốt phương hướng đầu tư, có chính sách đầu tư để huy động thêm sức dân mở rộng sản xuất xây dựng, phát huy các tiềm năng ở cơ sở, nhất là phát triển sản xuất nông nghiệp, lâm, ngư nghiệp, hàng tiêu dùng và mở mang các ngành nghề trên địa bàn huyện, bố trí hợp lý quan hệ giữa lao động cơ giới và lao động thủ công ở tất cả các ngành; dành một phần đất làm kinh tế phụ gia đình cho ngư dân ở 80 huyện, dọc ven biển, để kết hợp làm biển với sản xuất nông nghiệp, tạo thêm việc làm và tăng thêm sản phẩm xã hội. 

Riêng ở các thành phố, cần chú ý giải quyết việc làm cho số thanh niên và học sinh thôi học đến tuổi lao động (khoảng 25 - 30 vạn người). Dự án kế hoạch Nhà nước năm 1981 đã bố trí việc làm được khoảng 20 vạn người gồm: tăng cho thủ công nghiệp 7 vạn người, tuyển cho đào tạo trong nước, ngoài nước và cho quân đội hơn 10 vạn người, tăng cho các ngành dịch vụ khoảng 3 vạn người. Đối với số còn lại sẽ chú ý mở rộng gia công xuất khẩu, mở rộng vành đai thực phẩm, các hoạt động kinh tế dịch vụ ở thành phố và điều đi xây dựng nông thôn, vùng kinh tế mới để giải quyết thêm việc làm. Cần chú ý bảo đảm nguyên liệu cho 50 vạn thợ thủ công ở các thành phố hiện nay. 

Năm 1981 cần phát động phong trào lao động sản xuất, nhất là trong quân đội và trong thanh niên hướng về sản xuất nông nghiệp, xây dựng nông thôn xã hội chủ nghĩa và bảo đảm điều động cho các yêu cầu nhà nước khoảng 47 vạn người: ngoài việc tuyển cho các lực lượng vũ trang, sẽ tuyển cho đào tạo 14 vạn người, đưa đi hợp tác lao động với các nước xã hội chủ nghĩa 1,2 vạn người; đưa đi các nông trường cao su, cà phê ở Đông Nam Bộ và Tây Nguyên, các nông trường lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long. 

2. Đối với khu vực nhà nước: Lực lượng lao động khu vực nhà nước hiện nay có 3,5 triệu người là quá đông, năng suất lao động rất thấp. Số lao động không qua đào tạo đến 1,5 triệu người, số cần về hưu 10 vạn người, số ốm đau mất sức 15 vạn người. 

Năm 1981 cần bắt đầu sắp xếp lại cơ cấu lao động khu vực nhà nước theo hướng tiếp nhận lao động kỹ thuật, nghiệp vụ được đào tạo: tăng số trẻ, nâng cao chất lượng và bố trí, sắp xếp lại cơ cấu tổ chức lao động phù hợp với yêu cầu sản xuất, tăng năng suất lao động. 

Dự kiến năm 1981 sẽ bố trí lại để giữ tổng số lao động khu vực nhà nước khoảng 3,2 - 3,3 triệu người. Cần có ngay kế hoạch tiếp nhận số cán bộ, công nhân ra trường, và sắp xếp 40 - 50 vạn người dôi ra (công nghiệp 20 vạn người, xây dựng 15 vạn người, thương nghiệp, vận tải 10 vạn người, các ngành không sản xuất 3,5 vạn người). 

Việc giải quyết số lao động dôi ra nói trên về cơ bản vẫn phải dựa trên cơ sở tổ chức lại sản xuất; có chính sách thoả đáng chuyển người qua các khâu sản xuất ở khu vực kinh tế tập thể hoặc cá thể; điều số mới tuyển một, hai năm lại đây trở về sản xuất nông nghiệp; điều một bộ phận cán bộ, công nhân kỹ thuật về hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp được hưởng lương nhà nước và được trả thêm công điểm, tiền công của hợp tác xã. Sắp xếp lại bộ máy quản lý, xoá bỏ chế độ bao cấp, sửa đổi chế độ tuyển dụng lao động và bảo hiểm xã hội, sửa đổi chính sách tiền lương, nhằm nâng cao trách nhiệm của các ngành, các cấp, các đơn vị cơ sở trong việc tổ chức, sắp xếp lao động. Nghiên cứu lại chính sách để cho về hưu 10 vạn người, cho nghỉ mất sức 10 vạn người. 

3. Mạnh dạn thực hiện một số biện pháp để khắc phục tình hình giảm sút năng suất lao động 

- Từng ngành, từng địa phương, phải kiên quyết sắp xếp, tổ chức lại sản xuất của các xí nghiệp, công trường không có việc làm, các điểm bán hàng thường xuyên không có hàng hoá. 

- Tách số lao động dôi ra khỏi dây chuyền sản xuất. 

- Kiên quyết sửa đổi chính sách lương để thực hiện việc trả lương theo kết quả hoàn thành kế hoạch sản xuất, xây dựng... mở rộng các hình thức trả lương theo công việc, theo sản phẩm, lương khoán. 

- Chăm lo giải quyết đời sống hằng ngày cho công nhân, viên chức. 

VIII - Đời sống 

Đi đôi với việc đẩy mạnh sản xuất và tăng cường nắm nguồn hàng vào nhà nước, phải mạnh dạn cải tiến phương thức phân phối, tăng cường quản lý thị trường, bảo đảm phân phối hàng hoá đến người tiêu dùng, nhất là bảo đảm các mặt hàng thiết yếu cho công nhân viên chức. Theo hướng đó, các thành phố và khu công nghiệp sẽ được phân phối lương thực, thực phẩm theo tiêu chuẩn được đều đặn, các vùng nông thôn có nhiều nông sản bán cho Nhà nước sẽ được phân phối hàng công nghiệp. 

Trong tình hình hàng hoá còn nhiều khó khăn, trước hết phải tập trung sức giải quyết những mặt hàng thiết yếu phục vụ công nhân, viên chức theo tinh thần Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị. 

Về lương thực, giữ tiêu chuẩn phân phối như năm 1980 và tổ chức phân phối đều đặn cho công nhân, viên chức. 

- Cố gắng phấn đấu để có thể bán cung cấp cho mỗi công nhân viên chức, trước hết ở thành phố lớn và khu công nghiệp tập trung mỗi tháng 1 kg đậu phụ, 1 kg cá, 1/2 lít nước chấm, 2 ô phiếu thịt và khoảng 8 kg rau. 

Đường, dự kiến sẽ cung cấp cho cán bộ công nhân viên chức 6 tháng đường theo tiêu chuẩn định lượng, cấp cho trẻ em dưới 15 tháng ở các tỉnh miền Bắc và các nhà trẻ ở miền Nam. Đường cho sản xuất bánh kẹo và ăn uống, giải khát ở các địa phương thì tuỳ khả năng từng nơi mà tự giải quyết. 

Chất đốt: Năm 1980 đã cung cấp cho nhu cầu chất đốt 73 vạn tấn than, 40 vạn ste củi và 6 vạn tấn dầu hoả. Do tình hình dầu hoả khó khăn nên phải chuyển nhanh sang dùng than và củi thay thế. Tuy nhiên, năm 1981 vì chưa chuyển kịp ngay từ đầu năm nên vẫn còn bố trí 2,5 vạn tấn dầu hoả làm chất đốt cung cấp cho cán bộ công nhân viên chức ở Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. 

Vải mặc: Phải cung cấp đều đặn điện cho ngành dệt sợi, để nâng sản lượng của các nhà máy dệt sợi sản xuất được thêm vài chục triệu mét vải thì mới giải quyết nổi cho mỗi người 2 mét (trừ những thứ như quần áo bảo hộ lao động, sản phụ, vải buồm, v.v.). 

- Tích cực và kiên quyết vận động sinh đẻ có kế hoạch, để giảm bớt tốc độ tăng dân số hiệu quả cao. 

IX- Giáo dục y tế, văn hoá, xã hội 

1. Giáo dục, tiếp tục nâng cao chất lượng dạy và học, thực hiện một bước việc hướng nghiệp cho học sinh cuối cấp để sau khi tốt nghiệp có thể sẵn sàng bước vào lao động sản xuất, chuẩn bị các điều kiện vật chất để tiến hành cải cách giáo dục vào những năm sau. Đẩy mạnh công tác bổ túc văn hoá, chống nạn mù chữ trở lại, nhất là các tỉnh miền núi phía Bắc và các tỉnh miền Nam. 

Dự kiến số học sinh mẫu giáo năm học 1981 - 1982 khoảng 1,65 triệu cháu, tăng 3,2% so với năm học 1980 - 1981; số học sinh phổ thông có mặt đầu năm học 12,3 triệu em, tăng 2% (trong đó cấp I: 8,23 triệu em, tăng 1,4%, cấp II: 3,55 triệu em, tăng 2,6%; cấp III: 75 vạn em, tăng 5,6%); số học sinh bổ túc văn hoá tập trung 8 vạn người, tăng 3%. 

2. Y tế, xã hội, đẩy mạnh sản xuất vácxin để đáp ứng nhu cầu phòng dịch của nhân dân; phấn đấu không để xảy ra các dịch: đậu mùa, bại liệt; hạn chế và dập tắt kịp thời không để lây lan các bệnh dịch tả, dịch hạch, sốt xuất huyết,... Phát huy vai trò mạng lưới y tế cơ sở, đặc biệt là y tế xã để làm tốt việc chăm sóc và quản lý sức khoẻ của nhân dân. 

Do khả năng thuốc bán ra còn khó khăn, nên phải đẩy mạnh việc trồng và khai thác các nguồn dược liệu ở địa phương, ở các trạm y tế, bệnh viện, cửa hàng,... để duy trì cung cấp thuốc cho nhân dân. Đưa số cơ sở điều trị điều dưỡng lên 11.700, tăng 7% so với năm 1980; 202 nghìn giường bệnh, tăng 3%. 

Củng cố và kiện toàn các cơ sở nuôi dưỡng thương binh, bệnh binh, kết hợp công tác điều trị với phục hồi chức năng, chuyển dần số thương binh nặng đã ổn định về địa phương và gia đình; nghiên cứu bổ sung và cải tiến các chính sách đối với thương, bệnh binh, thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội. 

Nâng cao chất lượng các nhà trẻ đồng thời với việc phát triển nhà trẻ một cách vững chắc, gắn liền với tổ chức sản xuất và xây dựng. Dự kiến tổng số cháu được thu nhận vào các nhà trẻ tăng 6% so với năm 1980. 

3. Văn hoá, thông tin, hướng các hoạt động văn hoá, thông tin tập trung phục vụ những nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch nhà nước, nhằm thúc đẩy phong trào lao động sản xuất và tiết kiệm. 

Về xuất bản, cố gắng duy trì mức phát hành như hiện nay đối với báo Nhân dân, báo Quân đội nhân dân, sách giáo khoa phổ thông, giấy tờ quản lý kinh tế, còn các sách báo, tạp chí, tập san khác phải giảm bớt. 

Củng cố và nâng cao chất lượng phát thanh và truyền hình. Đưa số đài và trạm truyền thanh tăng 7% so với năm 1980, số loa truyền thanh tăng 8,5%. Nâng cao chất lượng các buổi truyền hình, giảm bớt các buổi phát trong tuần. 

Đẩy mạnh các hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao nhằm phục vụ các nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước và tăng thêm doanh thu. 

X- Cải tiến tổ chức và quản lý kinh tế 

Kế hoạch Nhà nước năm 1981 đã dựa trên sự tính toán tương đối sát các điều kiện vật chất hiện thực, tập trung các điều kiện đó cho những mục tiêu quan trọng nhất, những nhu cầu quan trọng nhất; nhằm khắc phục một bước các khó khăn về mất cân đối hiện nay, đồng thời tạo thế đi lên cho những năm sau, và vì thế, đã mạnh dạn điều chỉnh một số mặt trong sản xuất và tiêu dùng, một số đối tượng xây dựng cơ bản xét ra chưa có điều kiện, hoặc vượt quá khả năng của nền kinh tế. 

Tuy nhiên, vẫn còn nhiều khó khăn và mất cân đối chưa thể khắc phục được trong một năm kế hoạch, như khó khăn về nguyên liệu, năng lượng, thiếu hụt về ngoại tệ, v.v.. 

Kế hoạch Nhà nước năm 1981 muốn được thực hiện tốt, tạo chuyển biến bước đầu trong nền kinh tế xã hội, cần dựa vào công tác tổ chức và quản lý, đặc biệt là dựa vào việc thực hiện hai Nghị quyết cực kỳ quan trọng của Bộ Chính trị về phân phối, lưu thông, về kiện toàn tổ chức và bố trí lại cán bộ. Nói cách khác, việc đẩy mạnh khai thác những tiềm năng sẵn có của đất nước tuỳ thuộc một phần rất lớn vào sự chuyển biến trong công tác tổ chức, quản lý, chỉ đạo và điều hành của các cấp khi thực hiện. 

Trong năm 1981 và một vài năm sau, phải thực hiện những công tác chủ yếu sau đây nhằm cải tiến một bước tổ chức và quản lý kinh tế. 

1. Bổ sung kịp thời các phương án cụ thể để thực hiện Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị về phân phối - lưu thông. Chú trọng mấy vấn đề lớn: 

- ổn định đời sống bằng cách bảo đảm các nhu cầu tối thiểu về ăn, mặc và hàng tiêu dùng thiết yếu khác. 

- Thực hiện các chính sách về đẩy mạnh thu mua và nắm nguồn hàng (lương thực, nông sản, hàng tiêu dùng khác về công nghiệp...). 

- Tổ chức tốt và tăng cường quản lý thị trường, mở rộng thương nghiệp quốc doanh, thương nghiệp hợp tác xã. Thu hẹp thị trường tự do. 

- Làm tốt công tác thu thuế công thương nghiệp, công tác đăng ký kinh doanh, mở tài khoản tư nhân, chống đầu cơ, buôn lậu. 

- Giảm bội chi ngân sách và bội chi tiền mặt; củng cố kỷ luật tiền mặt trong các tổ chức quốc doanh và tập thể; tăng cường vai trò kiểm tra của tài chính và ngân hàng đối với các hoạt động sản xuất và kinh doanh. Khẩn trương nghiên cứu việc cải cách giá cả và tiền lương nhằm phát huy vai trò đòn bẩy của giá cả và tiền lương, thực hiện đầy đủ nguyên tắc phân phối theo lao động, bảo đảm sự nhất trí giữa ba lợi ích xã hội - tập thể và cá nhân người lao động. 

2. Cải tiến công tác kế hoạch hoá 

- Phải đánh giá đúng khả năng của các ngành, các địa phương và của toàn bộ nền kinh tế quốc dân để xây dựng một kế hoạch cân đối hiện thực,khai thác đến mức cao nhất các khả năng thực tế, bảo đảm tốt nhu cầu và hiệu quả kinh tế. 

- Trong hệ thống cân đối, phải chú trọng trước hết các cân đối về lao động và đất đai, về xây dựng cơ bản, về vật tư, nguyên liệu và nhiên liệu, về xuất nhập khẩu, về tài chính và tiền tệ, v.v.. 

- Thực hiện nghiêm chỉnh chế độ kế hoạch hoá ba cấp nhằm bảo đảm vững chắc quyền tập trung của Trung ương trên những chỉ tiêu chủ yếu, đồng thời phát huy rộng rãi quyền chủ động và tinh thần trách nhiệm của các cấp, địa phương và cơ sở. Thực hiện cho được việc xây dựng kế hoạch từ cơ sở. Giữ vững kỷ luật của kế hoạch, Uỷ ban Kế hoạch phải xây dựng một trình tự xây dựng kế hoạch từ trên xuống dưới và bắt buộc mọi ngành, mọi cấp phải tuân theo. 

3. Mở rộng quyền chủ động kinh doanh cho các xí nghiệp quốc doanh 

Chấn chỉnh các ngành kinh tế - kỹ thuật và các tổ chức liên hiệp sản xuất ngành và khu vực. 

Trong điều kiện phương tiện vật chất của Nhà nước có hạn, cần tập trung cho những xí nghiệp trọng điểm, bảo đảm kế hoạch của nó được cân đối và ổn định, tạo điều kiện cho những xí nghiệp này thi hành đầy đủ các chế độ về kế hoạch hoá và hạch toán kinh tế. (Các ngành và các địa phương cần lập danh mục những xí nghiệp này). Còn những xí nghiệp khác, Nhà nước không bảo đảm đủ phương tiện, vật tư, hay chỉ bảo đảm một phần, cần nghiên cứu và thực hiện ngay những chính sách, phương pháp kế hoạch hoá và hạch toán kinh tế thích hợp. Nhằm sử dụng đầy đủ hơn năng lực sản xuất và tăng khối lượng sản phẩm. 

Nghiên cứu gấp và áp dụng rộng rãi chế độ khoán và trả lương theo sản phẩm; tạo điều kiện thực hiện hạch toán kinh tế; đề cao quyền tự chủ tài chính và kinh doanh của xí nghiệp, kiên quyết chống lối quản lý hành chính bao cấp. 

4. Cải tiến quản lý hợp tác xã nông nghiệp 

- Kiên quyết thi hành chính sách ổn định nghĩa vụ (thuế và bán theo hợp đồng hai chiều). 

- Thực hiện rộng rãi chế độ khoán sản phẩm cuối cùng cho đội và hộ xã viên trên nguyên tắc tăng sản lượng, tăng thu nhập cho xã viên, không phương hại đến quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, không giảm nghĩa vụ đối với Nhà nước. 

- Điều chỉnh quy mô hợp tác xã cho phù hợp với trình độ quản lý; tổ chức lại các đội, tổ sản xuất để tận dụng lao động, tăng năng suất và phát triển ngành nghề, hoàn thiện chế độ phân phối "ăn chia" trong hợp tác xã để khuyến khích lao động, bảo đảm thực hiện tốt chính sách hậu phương. 

- Khuyến khích, giúp đỡ kinh tế phụ gia đình xã viên phát triển đúng hướng. 

- Ra sức xây dựng huyện đi đôi với củng cố hợp tác xã. 

5. Tiếp tục công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam 

- Đối với nông nghiệp: 
có phương án và biện pháp riêng cho từng vùng (Đồng bằng sông Cửu Long - Tây Nguyên - Các tỉnh ven biển miền Trung), xác định hình thức và bước đi thích hợp nhằm đẩy mạnh cải tạo, phát triển sản xuất, xây dựng nông thôn mới, thắt chặt quan hệ giữa Nhà nước và nông dân trong sản xuất cũng như trong lưu thông trên những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội. 

- Đối với công thương nghiệp tư doanh: phải kiểm tra để kết luận rõ hơn về đợt cải tạo vừa qua, củng cố và phát huy những việc làm tốt, uốn nắn những sai sót; ban hành và thực hiện chính sách khuyến khích phát triển sản xuất đúng hướng, có lợi cho xã hội, đề phòng và ngăn chặn những mặt tiêu cực vốn có của nó; ưu tiên khuyến khích lĩnh vực sản xuất, đồng thời mạnh dạn sử dụng cả những khả năng kinh doanh xuất khẩu, dưới sự quản lý và độc quyền của Nhà nước về ngoại thương và ngoại hối. 

6. Mở rộng quyền chủ động của địa phương (tỉnh, thành phố, huyện). Soát xét lại và xác định đúng đắn cơ cấu kinh tế địa phương (do tỉnh, thành phố, huyện quản lý), khắc phục tình trạng chia cắt, tranh chấp giữa Trung ương và địa phương, giữa địa phương này với địa phương khác. 

Trên cơ cấu đã xác định, mạnh dạn tạo điều kiện cho địa phương được chủ động hơn về kế hoạch, ngân sách, tổ chức, cán bộ... để địa phương phát huy được các khả năng tiềm tàng nhằm phát triển sản xuất, bảo đảm đời sống nhân dân địa phương, đồng thời hoàn thành tốt nghĩa vụ đối với Nhà nước. Một mặt, phải chống tập trung quan liêu; mặt khác, phải chống những cách làm tuỳ tiện, vượt ra ngoài các chế độ, chính sách của Nhà nước, vượt khỏi quyền quyết định của địa phương và cơ sở. 

7. Ban hành và thực hiện một số chính sách đối với cán bộ khoa học - kỹ thuật và trí thức (kể cả đối với trí thức của chế độ cũ để lại ở miền Nam và Việt kiều), nhằm sử dụng tài năng, chuyên môn của họ, khuyến khích phát huy óc sáng tạo, nghiên cứu và sáng chế phát minh. 

8. Những công tác nói trên phụ thuộc vào vấn đề tổ chức và cán bộ. Bộ Chính trị vừa họp bàn và quyết định vấn đề này. Thực hiện nghiêm chỉnh Nghị quyết về tổ chức, cán bộ của Bộ Chính trị là một bộ phận mấu chốt trong công tác tổ chức và quản lý kinh tế. 

Để thực hiện các biện pháp quản lý trên đây, dưới sự chỉ đạo thống nhất của Ban Bí thư và Thường vụ Hội đồng Chính phủ, các cơ quan có trách nhiệm ở Trung ương phải phối hợp với nhau, đến ngay tại các địa phương, các xí nghiệp, các hợp tác xã đang thực hiện nhiều sáng kiến khác nhau về quản lý để khảo sát, phân rõ đúng sai, xác định những kinh nghiệm tốt có ý nghĩa phổ biến bổ sung và nâng cao những kinh nghiệm ấy thành những biện pháp thiết thực về quản lý do Nhà nước chính thức quy định để các nơi đều thực hiện.Việc này cần làm khẩn trương, chu đáo, không chần chừ, kéo dài. 

Đồng thời với những việc thiết thực và cấp bách, trong năm 1981, phải tiếp tục đi sâu hơn, nghiên cứu xây dựng những chủ trương và biện pháp toàn diện và cơ bản về cải tiến quản lý kinh tế, gắn chặt với việc xây dựng kế hoạch 5 năm 1981 - 1985. 

Lưu tại Kho Lưu trữ
Trung ương Đảng

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Các tin khác

Chỉ thị của Ban Bí thư về công tác an toàn, vệ sinh lao động trong tình hình mới

(ĐCSVN) - Ngày 19/3/2024, đồng chí Trương Thị Mai ký ban hành Chỉ thị số 31-CT/TW về tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác an toàn, vệ sinh lao động trong tình hình mới.

Sớm đưa vào sử dụng các công trình, dự án hạ tầng cấp bách, trọng điểm về giao thông

(ĐCSVN) - Bộ Chính trị yêu cầu tập trung đầu tư, sớm đưa vào sử dụng các công trình, dự án hạ tầng cấp bách, trọng điểm về giao thông đường bộ, đường sắt, đường biển, đường thuỷ nội địa, đường hàng không kết nối các địa phương, vùng và khu vực, quốc tế.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

(ĐCSVN) - Các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội cần quán triệt, nâng cao nhận thức, tổ chức thực hiện nghiêm chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; xem đây là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của cả hệ thống chính trị và xã hội; là văn hoá ứng xử của mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và mỗi người dân, nhất là người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Bộ Chính trị ban hành quy định phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong điều tra, xét xử

(ĐCSVN) – Ngày 27/10/2023, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 132-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Liên kết website