Nghị quyết số 03-NQ/HNTW ngày 28/8/1987, Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) về chuyển hoạt động của các đơn vị kinh tế cơ sở quốc doanh sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế

Phần thứ nhất

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ KINH TẾ  VÀ NHIỆM VỤ ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN LÝ KINH TẾ

Từ Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương (khoá IV) năm 1979, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương cải tiến quản lý kinh tế theo hướng xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện chế độ tự chủ sản xuất, kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở. Một số địa phương, ngành và đơn vị kinh tế cơ sở đã bước đầu phát huy tính năng động, tự lực vươn lên, khắc phục khó khăn, mở ra hướng đi đúng đắn để phát triển sản xuất, kinh doanh có hiệu quả. Từ kinh nghiệm thực tiễn, Nghị quyết (dự thảo) 306 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá V) đã cụ thể hoá và nâng cao thêm một bước chế độ tự chủ sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở, chủ yếu là của các xí nghiệp quốc doanh. Ban Bí thư cũng đã ra Chỉ thị về cải tiến quản lý kinh tế, hoàn thiện việc khoán sản phẩm trong hợp tác xã nông nghiệp. Trong nền kinh tế đã bước đầu xuất hiện một số yếu tố của cơ chế quản lý mới và một số điển hình tương đối tốt ở cơ sở, địa phương và ngành. Tuy nhiên, nhìn chung các đơn vị kinh tế, nhất là các đơn vị kinh tế cơ sở quốc doanh, vẫn chưa chuyển được sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa; nhiều xí nghiệp sản xuất kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài, có tình trạng lỗ thật, lãi giả, mua đi, bán lại vật tư, hàng hoá để kiếm chênh lệch giá không chính đáng.

Thực trạng hiện nay là cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp về cơ bản vẫn chưa bị xoá bỏ, cơ chế quản lý theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa chưa được hình thành. Chúng ta đã không đồng thời đổi mới cơ chế quản lý nhà nước về kinh tế khi xác định quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh của các cơ sở kinh tế, chưa kiên quyết xoá bỏ hệ thống thể chế quản lý cũ lỗi thời. Các nghị quyết của Đảng về đổi mới quản lý kinh tế chậm được thể chế hoá, chưa được thể hiện đúng đắn và nhất quán trong các văn bản pháp quy. Bộ máy quản lý kinh tế cồng kềnh, kém hiệu lực, đẻ ra tệ ăn bám và nạn tham nhũng khá nặng nề và phổ biến. Thực trạng quản lý đó, một mặt trói buộc các cơ sở, cản trở sản xuất, lưu thông, làm giảm sút động lực và hiệu quả trong hoạt động kinh tế; mặt khác, làm cho tình trạng tuỳ tiện, phân tán, vô tổ chức vốn có của nền sản xuất nhỏ và các hiện tượng tiêu cực khác phát triển thêm nghiêm trọng, làm suy yếu hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước.

Ngoài nguyên nhân khách quan rất quan trọng do tình trạng yếu kém, mất cân đối, không ổn định của nền kinh tế, những nguyên nhân chủ quan đang kìm hãm sự ra đời của cơ chế quản lý kinh tế mới là:

1- Tư duy kinh tế chậm được đổi mới. Những nhận thức giản đơn về chủ nghĩa xã hội, về tập trung dân chủ, về kế hoạch hoá và những định kiến đối với quy luật giá trị, quan hệ hàng hoá - tiền tệ và thị trường dưới chủ nghĩa xã hội... chưa được giải quyết rõ ràng, thông suốt.

2- Việc đổi mới quản lý kinh tế ở cơ sở tiến hành chậm chạp, lúng túng về cách làm và bước đi, chậm sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm những mô hình tốt.

Sự chỉ đạo, điều hành của các cơ quan quản lý nhà nước vừa thiếu dân chủ, không kịp thời thể chế hoá, không sát tình hình thực tế, lại vừa thiếu tập trung, buông lỏng quản lý, không giữ nghiêm kỷ luật và pháp luật, đặc biệt là trong lĩnh vực phân phối, lưu thông.

3- Sự trì trệ, bảo thủ trong công tác cán bộ gắn với cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp. Việc đánh giá, bố trí cán bộ vẫn dựa trên quan điểm cũ, không được tiến hành một cách dân chủ và công khai, không trên cơ sở quy hoạch. Thiếu chuẩn bị cán bộ cho sự nghiệp đổi mới. Nhiều cán bộ chưa tự giải thoát khỏi tư duy cũ, còn do dự, không dứt khoát đổi mới. Một số không muốn đổi mới vì chạm đến đặc quyền, đặc lợi. Một số cán bộ thoái hoá, biến chất chống lại đổi mới.

Quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế hiện nay ở nước ta diễn ra trong bối cảnh có nhiều thuận lợi: có Nghị quyết của Đại hội lần thứ VI của Đảng soi sáng; được quần chúng nhiệt tình ủng hộ; có những kinh nghiệm tích luỹ được trong những năm qua; công cuộc cải tổ ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa vừa cổ vũ, vừa giúp thêm cho ta nhiều kinh nghiệm quý; việc mở rộng quy mô hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật với nước ngoài, đặc biệt là với Liên Xô và các nước khác trong Hội đồng tương trợ kinh tế ngày càng đặt ra yêu cầu cao hơn và tạo thêm điều kiện thuận lợi cho việc đổi mới quản lý kinh tế.

Mặt khác, chúng ta tiến hành đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trong điều kiện nước ta mới ở chặng đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn, lạc hậu; cơ cấu kinh tế đang mất cân đối nghiêm trọng, còn lệ thuộc nhiều vào bên ngoài; tình hình phân phối, lưu thông đang bị rối loạn; kẻ địch thường xuyên phá hoại, v.v..

Phải khẩn trương đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, bảo đảm quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở đi đôi với tăng cường quản lý nhà nước về kinh tế trên những vấn đề then chốt nhằm: giải phóng các năng lực sản xuất; tạo ra động lực thúc đẩy các đơn vị kinh tế và quần chúng lao động hăng hái phát triển kinh tế hàng hoá theo hướng đi lên chủ nghĩa xã hội với năng suất, chất lượng, hiệu quả ngày càng cao, dựa trên cơ sở đưa nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất; mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài và thiết lập trật tự kỷ cương trong mọi hoạt động kinh tế; trước mắt, nhằm phục vụ trực tiếp ba chương trình kinh tế lớn, tăng nhanh sản phẩm xã hội, thực hiện "bốn giảm"(1), từng bước ổn định tình hình kinh tế - xã hội, tạo tiền đề để tiến lên.

Để đạt mục đích đó, phải nắm vững phương hướng cơ bản về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đã được Đại hội lần thứ VI của Đảng đề ra là: kiên quyết xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, thiết lập và hình thành đồng bộ cơ chế kế hoạch hoá theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Phương hướng đó thể hiện ở những nội dung có tính nguyên tắc sau đây:

Một là, phải dứt khoát chuyển từ cơ chế quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu theo kiểu cấp phát và giao nộp, sang cơ chế quản lý bằng phương pháp kinh tế là chủ yếu, kết hợp với biện pháp hành chính và giáo dục, bảo đảm cho kế hoạch hoá thật sự đóng vai trò trung tâm trong hệ thống quản lý kinh tế trên cơ sở vận dụng tổng hợp hệ thống quy luật khách quan, trong đó các quy luật đặc thù của chủ nghĩa xã hội ngày càng phát huy vai trò chủ đạo trong sự vận động thống nhất với quy luật giá trị và các quy luật khác của sản xuất hàng hoá.

Hai là, thực hiện đúng đắn nguyên tắc tập trung dân chủ. Kiên quyết chống tập trung quan liêu, đồng thời chống tự do tuỳ tiện, vô tổ chức. Phát huy chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị kinh tế đi đôi với đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về kinh tế; phân định rõ và phối hợp tốt giữa chức năng quản lý nhà nước về kinh tế của bộ máy chính quyền các cấp và chức năng trực tiếp quản lý sản xuất, kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở; kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương và vùng lãnh thổ; phát huy tính chủ động, tinh thần trách nhiệm và sức mạnh của các ngành, các cấp cùng làm chủ dưới sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước trung ương; xây dựng nền nếp quản lý dân chủ và công khai từ trên xuống dưới. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, đáp ứng được yêu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, đặc biệt là trong công tác cán bộ.

Ba là, phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lợi ích của toàn xã hội, lợi ích của tập thể và lợi ích của người lao động, trong đó lợi ích của người lao động là động lực trực tiếp, làm cho người lao động thật sự làm chủ, mức thu nhập của tập thể và của người lao động tuỳ thuộc vào kết quả lao động và hiệu quả kinh tế. Từ đó mà thúc đẩy các tập thể và mọi người lao động quan tâm đến kết quả sản xuất, hiệu quả của đồng vốn, nâng cao nhiệt tình, kỷ luật và năng suất lao động.

Bốn là, đổi mới cơ chế quản lý phải kết hợp chặt chẽ và thúc đẩy việc sắp xếp, tổ chức lại sản xuất và cải tạo xã hội chủ nghĩa nền kinh tế, từng bước hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý, gắn công nghiệp với nông nghiệp, sản xuất với phân phối, lưu thông; làm cho việc tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật và đẩy nhanh tiến bộ khoa học - kỹ thuật thành nhân tố chủ yếu để tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả; thúc đẩy mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, chú trọng liên kết kinh tế trực tiếp ở cấp cơ sở.

Phần thứ hai

THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ TỰ CHỦ SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA CÁC ĐƠN VỊ KINH TẾ CƠ SỞ

I. CHẾ ĐỘ TỰ CHỦ SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA CÁC XÍ NGHIỆP QUỐC DOANH.

Những quy định chung đối với xí nghiệp công nghiệp quốc doanh dưới đây thay thế nội dung Nghị quyết (dự thảo) 306 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá V), làm cơ sở cho việc xây dựng cơ chế quản lý cụ thể đối với từng loại xí nghiệp và các liên hiệp sản xuất trong công nghiệp. Những nội dung có tính nguyên tắc này cũng được vận dụng để xây dựng cơ chế quản lý cụ thể đối với các đơn vị kinh tế quốc doanh trong các ngành hoạt động khác.

Tài sản của xí nghiệp quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân, được Nhà nước giao cho tập thể lao động trực tiếp quản lý, sử dụng để phát triển sản xuất, kinh doanh. Tập thể lao động và giám đốc xí nghiệp có trách nhiệm cộng đồng trong việc sử dụng hợp lý tài sản đó và tận dụng mọi khả năng để phát triển sản xuất kinh doanh theo phương hướng, mục tiêu của kế hoạch nhà nước, nhiệm vụ thiết kế của xí nghiệp, kết hợp chuyên môn hoá với kinh doanh tổng hợp, để đáp ứng nhu cầu của xã hội với hiệu quả cao nhất.

Những nhiệm vụ cơ bản của xí nghiệp là:

- Đáp ứng tốt nhất nhu cầu của Nhà nước và của xã hội, thực hiện các cam kết với khách hàng trong nước và nước ngoài về những sản phẩm hoặc dịch vụ phải đảm nhiệm.

- Sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, tự bù đắp các chi phí, tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi, tự tích luỹ để phát triển, thực hiện nghĩa vụ nộp ngân sách và trách nhiệm đối với địa phương nơi xí nghiệp đóng.

- Tận dụng năng lực sản xuất, bảo vệ và phát triển tài sản của xí nghiệp, đẩy nhanh việc đổi mới trang bị kỹ thuật và áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật nhằm tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả.

- ổn định và cải thiện từng bước đời sống vật chất và văn hoá của công nhân, viên chức, thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động và công bằng xã hội; không ngừng nâng cao trình độ văn hoá và nghề nghiệp của công nhân, viên chức trong xí nghiệp.

- Phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh trong toàn bộ nền kinh tế, mở rộng quan hệ liên kết với các thành phần kinh tế khác, góp phần tích cực vào việc tổ chức lại sản xuất và cải tạo nền kinh tế theo hướng xã hội chủ nghĩa.

- Tổ chức tốt việc bảo vệ môi trường, bảo vệ sản xuất, bảo vệ xí nghiệp, bảo vệ an ninh, trật tự xã hội và làm tròn nhiệm vụ quốc phòng.

- Chấp hành luật pháp; hạch toán và báo cáo trung thực theo chế độ do Nhà nước quy định; thực hiện chế độ làm chủ của tập thể lao động, thường kỳ báo cáo công khai hoạt động của xí nghiệp cho công nhân, viên chức trong xí nghiệp.

Những xí nghiệp hoạt động không có hiệu quả phải được củng cố để thực hiện tốt các nhiệm vụ trên. Nếu không đủ điều kiện để củng cố và không cần thiết duy trì hình thức quốc doanh thì chuyển sang hình thức sở hữu khác (kể cả cho tập thể, tư nhân thuê) hoặc giải thể, trước hết là những xí nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng không thuộc loại thiết yếu, xí nghiệp dịch vụ trang bị kỹ thuật thấp, bị thua lỗ thường xuyên.

Nội dung chủ yếu của việc đổi mới cơ chế quản lý đối với xí nghiệp quốc doanh:

1- Về kế hoạch hoá.

- Căn cứ vào nhiệm vụ của xí nghiệp, phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu, số hướng dẫn của kế hoạch nhà nước, các chính sách, tiêu chuẩn, định mức do Nhà nước ban hành, và căn cứ vào nhu cầu thị trường trong và ngoài nước, xí nghiệp chủ động xây dựng phương hướng phát triển dài hạn cũng như các kế hoạch 5 năm và hằng năm. Mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh, xã hội của xí nghiệp, không phân biệt nguồn cân đối vật tư và địa chỉ tiêu thụ sản phẩm, kể cả những mặt hàng ngoài nhiệm vụ thiết kế ban đầu, đều được phản ánh trong kế hoạch sản xuất - kỹ thuật - tài chính - xã hội thống nhất của xí nghiệp.

Toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh của xí nghiệp được hạch toán theo chế độ kế toán thống nhất của Nhà nước; sản phẩm được Nhà nước bảo đảm vật tư và sản phẩm do xí nghiệp tự cân đối vật tư được hạch toán theo giá thực mua; tỉ lệ khấu hao và đơn giá tiền lương trong sản phẩm tính theo quy định của Nhà nước. Trong tình hình giá cả còn biến động, cần hướng dẫn phương pháp phân tích chính xác để thấy rõ thực chất hoạt động kinh tế của xí nghiệp.

- Tuỳ theo yêu cầu cụ thể của Nhà nước đối với từng loại xí nghiệp và từng loại sản phẩm, cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp giao cho xí nghiệp từ một đến ba chỉ tiêu pháp lệnh sau đây:

a) Số lượng và chất lượng sản phẩm chủ yếu tiêu thụ theo địa chỉ quy định; trong đó ghi rõ phần cho quốc phòng và cho xuất khẩu, nếu có (giao cho những xí nghiệp sản xuất những sản phẩm theo yêu cầu của Nhà nước, được Nhà nước chỉ định nguồn cung ứng vật tư và địa chỉ tiêu thụ sản phẩm).

b) Giá trị sản lượng hàng hoá thực hiện, trong đó ghi rõ kim ngạch xuất khẩu, nếu có (giao cho những xí nghiệp mà Nhà nước xét thấy cần thiết).

c) Các khoản nộp ngân sách (giao cho tất cả các xí nghiệp).

Tổ chức làm thử việc chuyển từ hình thức giao chỉ tiêu pháp lệnh về sản phẩm chủ yếu sang hình thức Nhà nước đặt hàng và đấu thầu.

Mọi hình thức giao và thực hiện kế hoạch nhà nước đều thông qua hợp đồng kinh tế được ký kết giữa xí nghiệp với các đơn vị kinh tế được Nhà nước chỉ định cung ứng vật tư và tiêu thụ sản phẩm.

- Kế hoạch của xí nghiệp phải được công nhân, viên chức thảo luận, xây dựng và cuối cùng do Đại hội công nhân, viên chức quyết định trên nguyên tắc bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ đối với Nhà nước và các hợp đồng đã ký kết. Xí nghiệp được bổ sung kịp thời kế hoạch trong quá trình thực hiện cho phù hợp với tình hình thực tế biến đổi, nhưng cần báo cáo với cấp trên những vấn đề có liên quan đến việc thực hiện chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh và không được đơn phương tự ý thay đổi những hợp đồng kinh tế đã ký kết.

2- Về bảo đảm vật tư và tiêu thụ sản phẩm.

- Cơ quan nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh hoặc đưa đơn đặt hàng có trách nhiệm cân đối đủ các điều kiện vật chất cần thiết cho việc thực hiện và thông báo cho xí nghiệp biết các tổ chức được giao trách nhiệm bảo đảm vật tư, dịch vụ và tiêu thụ sản phẩm. Tổ chức vật tư, vận tải và thương nghiệp được chỉ định có trách nhiệm cùng xí nghiệp ký và thực hiện đúng hợp đồng về mua, bán vật tư, về vận tải và tiêu thụ sản phẩm; các bên ký hợp đồng phải chịu trách nhiệm vật chất về những thiệt hại gây ra khi không thực hiện đúng hợp đồng. Xí nghiệp có quyền yêu cầu và cơ quan giao kế hoạch có trách nhiệm điều chỉnh kịp thời nhiệm vụ kế hoạch giao cho xí nghiệp tương ứng với mức vật tư được bảo đảm.

Những xí nghiệp có nhu cầu vật tư ổn định, trước hết là những hộ tiêu thụ lớn, được nhận thẳng vật tư từ nơi sản xuất hoặc từ cảng nhập khẩu; thực hiện từng bước hợp đồng dài hạn về mua, bán vật tư.

Ngoài vật tư mua theo chỉ tiêu kế hoạch hoặc hợp đồng đặt hàng, xí nghiệp được chủ động tạo thêm nguồn vật tư để tận dụng công suất, theo đúng luật pháp và chính sách của Nhà nước.

- Sản phẩm xí nghiệp làm ra phải đăng ký nhãn hiệu, tiêu chuẩn, quy cách, chất lượng và phải bảo đảm thực hiện đúng. Xí nghiệp phải chịu trách nhiệm đối với khách hàng về chất lượng sản phẩm của mình, có thời gian bảo hành đối với những mặt hàng cần thiết và phải chấp hành quy định của Nhà nước xử lý những sản phẩm không bảo đảm tiêu chuẩn chất lượng.

Xí nghiệp có trách nhiệm thực hiện hợp đồng tiêu thụ sản phẩm theo chỉ tiêu pháp lệnh hoặc đơn đặt hàng của Nhà nước; đối với những sản phẩm còn lại, xí nghiệp được chủ động tìm nơi ký hợp đồng tiêu thụ trên cơ sở thoả thuận với khách hàng. Xí nghiệp được tự tổ chức bán chào hàng sản phẩm mới, kết hợp làm dịch vụ sửa chữa, bán phụ tùng lẻ và bảo hành.

3- Về tài chính, giá cả.

- Các xí nghiệp phải tự bù đắp chi phí, sản xuất kinh doanh có lãi. Đối với những mặt hàng do Nhà nước định giá bán cho người tiêu dùng, Nhà nước có chính sách giá tiêu thụ sản phẩm bảo đảm cho xí nghiệp thực hiện được hạch toán kinh doanh.

- Xí nghiệp được Nhà nước cấp phát vốn ban đầu một lần (khi Nhà nước điều chỉnh giá, mức vốn đó phải được xác định lại và được bổ sung kịp thời trong trường hợp cần thiết). Trừ những xí nghiệp mới xây dựng với nguồn vốn lớn chưa cần phải đổi mới thiết bị, các xí nghiệp khác được Nhà nước để lại toàn bộ vốn khấu hao để đổi mới tài sản cố định. Nhà nước quy định các khoản nộp ngân sách theo những định mức và tỉ lệ ổn định từ ba đến năm năm để khuyến khích xí nghiệp tích tụ vốn mở rộng tái sản xuất. Xí nghiệp được lựa chọn cơ sở ngân hàng để mở tài khoản và vay tín dụng; vốn gửi ngân hàng được hưởng lãi suất tiền gửi. Xí nghiệp được dùng nhiều hình thức để thu hút vốn của tập thể, cá nhân ở trong nước, của kiều bào, của nước ngoài và phải chịu trách nhiệm hoàn vốn, trả lãi và thực hiện các cam kết với người góp vốn, cho vay vốn. Trường hợp xí nghiệp cần phát triển với quy mô vượt quá khả năng tự giải quyết vốn, Nhà nước thấy cần thiết sẽ hỗ trợ thêm.

- Xí nghiệp có quyền chủ động sử dụng tài sản của mình, kể cả những tài sản được Nhà nước giao, chủ động mua sắm tài sản theo yêu cầu sản xuất, kinh doanh và đổi mới trang bị kỹ thuật; được mở rộng gia công, dịch vụ kỹ thuật để tận dụng công suất thiết bị; được thanh lý những tài sản không phù hợp (vốn thu hồi được từ những nguồn này phải đưa vào quỹ phát triển sản xuất của xí nghiệp), riêng tài sản của Nhà nước giao cho mà xí nghiệp không cần đến thì xí nghiệp phải báo cáo để cấp trên điều động đi nơi khác hoặc cho phép bán.

- Theo chính sách và cơ chế quản lý giá do Nhà nước quy định, xí nghiệp chủ động xây dựng kế hoạch giá theo sự hướng dẫn của cơ quan vật giá nhà nước. Về giá tiêu thụ sản phẩm của xí nghiệp, đối với những sản phẩm do Nhà nước quy định giá, nếu là hàng tiêu dùng thì theo giá bán lẻ của Nhà nước trừ chiết khấu thương nghiệp, nếu là tư liệu sản xuất thì theo giá bán buôn của Nhà nước trừ chiết khấu lưu thông vật tư. Trường hợp Nhà nước định giá bán thấp cho người tiêu dùng thì giá tiêu thụ sản phẩm phải bảo đảm cho xí nghiệp bù đắp đủ chi phí hợp lý và có lãi thoả đáng, Nhà nước trợ giá ở khâu lưu thông. Đối với những sản phẩm do xí nghiệp tự kiếm vật tư thì được hạch toán theo giá thực mua, áp dụng cách tính bình quân gia quyền giá vật tư, nguyên liệu của cả hai nguồn. Đối với cùng một loại sản phẩm chất lượng như nhau, bất cứ vật tư từ nguồn nào, giá bán phải thống nhất. Xí nghiệp thỏa thuận với khách hàng về giá cả và phương thức thanh toán.

- Lợi nhuận thuộc quyền sử dụng của xí nghiệp là phần còn lại của tổng doanh thu trừ (-) tổng chi phí và các khoản phải nộp vào ngân sách nhà nước. Đại hội công nhân, viên chức dựa vào hướng dẫn của Nhà nước về tỉ lệ tối thiểu phải đưa vào quỹ phát triển sản xuất để quyết định việc phân phối lợi nhuận đó vào các quỹ của xí nghiệp.

Làm thử cách hạch toán thu nhập của xí nghiệp, bao gồm cả tiền lương và lợi nhuận để lại xí nghiệp, do xí nghiệp chủ động phân phối.

4- Về lao động, tiền lương.

- Xí nghiệp có quyền chủ động bố trí sản xuất, bộ máy quản lý và sắp xếp lao động theo yêu cầu sản xuất, kinh doanh, bố trí việc làm và tạo điều kiện cho số lao động dôi ra có việc làm. Trường hợp xí nghiệp có khó khăn, Nhà nước có thể trợ giúp một phần. Rút kinh nghiệm những nơi làm thử để mở rộng việc thực hiện chế độ lao động theo hợp đồng có bảo hiểm xã hội và có tính thâm niên thay cho chế độ lao động trong biên chế. Quy định các chức danh và đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, kiểm tra cán bộ, công nhân theo chức danh.

Giám đốc xí nghiệp được quyền tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng lao động; coi trọng phát huy dân chủ, tham khảo ý kiến của tập thể lao động, tổ chức đảng và đoàn thể...; ưu tiên tuyển dụng lao động của địa phương sở tại và phải có sự thoả thuận của uỷ ban nhân dân địa phương nơi xí nghiệp đóng về tiêu chuẩn và số lượng người được nhận từ địa phương khác đến.

Giám đốc được quyền khen thưởng và thi hành kỷ luật công nhân, viên chức trong xí nghiệp đến hình thức buộc thôi việc theo đúng pháp luật của Nhà nước và nội quy của xí nghiệp.

- Tiền lương và toàn bộ thu nhập của công nhân, viên chức phụ thuộc vào hiệu quả kinh doanh cuối cùng của xí nghiệp và kết quả lao động của từng người. Xí nghiệp căn cứ vào thang lương, bậc lương do Nhà nước quy định để tính đơn giá tiền lương trong sản phẩm theo các định mức kinh tế kỹ thuật được xác định hợp lý và chặt chẽ; đơn giá đó được điều chỉnh theo tình hình giá cả biến động từng thời kỳ. Quỹ lương của xí nghiệp được xác định tương ứng với khối lượng sản phẩm và đơn giá lương. Xí nghiệp dựa trên cơ sở đó chủ động quản lý quỹ lương và lựa chọn hình thức trả lương.

Nhà nước chỉ quy định mức lương tối thiểu, không khống chế mức thu nhập tối đa dựa trên hiệu quả kinh doanh hợp pháp của xí nghiệp và kết quả về năng suất, chất lượng của người lao động. Trước mắt, trong khi chưa ban hành thuế thu nhập, Nhà nước có chính sách điều tiết thích hợp đối với những xí nghiệp có mức thu nhập thực tế của công nhân, viên chức (kể cả lương, quỹ thưởng, quỹ phúc lợi tính bình quân đầu người) quá cao so với điều kiện chung. Nhà nước có biện pháp ngăn ngừa và xử lý nghiêm minh những nguồn thu nhập bất hợp pháp và không chính đáng.

Xí nghiệp có trách nhiệm trích nộp đầy đủ quỹ bảo hiểm xã hội và tổ chức tốt công tác bảo hộ lao động, công tác vệ sinh công nghiệp.

Ban hành chế độ bảo hiểm xã hội và các quy định về chế độ lao động nhằm bảo vệ người lao động tại các cơ sở; nghiên cứu ban hành Luật lao động.

5- Về khoa học - kỹ thuật.

Xí nghiệp phải chủ động xây dựng chương trình phát triển khoa học - kỹ thuật, trang bị lại kỹ thuật và tổ chức lại sản xuất, tích cực áp dụng các thành tựu khoa học và kỹ thuật để không ngừng nâng cao trình độ kỹ thuật sản xuất, tạo ra sản phẩm mới và nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm.

Xí nghiệp phải thực hiện chế độ đăng ký phát minh, sáng chế, đăng ký nhãn hiệu hàng hoá, chất lượng sản phẩm; phải tuân thủ các tiêu chuẩn, quy trình, quy phạm kỹ thuật.

Xí nghiệp được quyền chủ động quyết định các phương án kỹ thuật, lập các tổ chức nghiên cứu, thử nghiệm kỹ thuật, các đơn vị chế thử, liên kết với các cơ quan nghiên cứu khoa học - kỹ thuật bằng mọi hình thức thích hợp. Xí nghiệp được chủ động sử dụng các nguồn vốn tự có, vốn ngân sách trợ cấp, vốn vay hoặc huy động góp vốn để tổ chức nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật.

Xí nghiệp có thể trích lập quỹ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và công nhân kỹ thuật của xí nghiệp. Số tiền tiết kiệm được hoặc lợi nhuận thu thêm nhờ áp dụng thành tựu khoa học - kỹ thuật được để lại cho xí nghiệp từ một đến ba năm đầu để đưa vào các quỹ và để thưởng các tập thể và cá nhân đã đóng góp vào việc đó. Mức thưởng được tính theo tỉ lệ so với hiệu quả thực tế thu được, không giới hạn số tuyệt đối.

Để đưa nhanh khoa học - kỹ thuật vào các đơn vị kinh tế cơ sở, Trung ương chỉ nắm những viện nghiên cứu những vấn đề cơ bản, những vấn đề tổng hợp liên ngành, còn thì chuyển các cơ quan nghiên cứu triển khai theo ngành về các liên hiệp xí nghiệp hoặc cơ sở sản xuất. Tổ chức, sắp xếp các cơ quan nghiên cứu, triển khai (viện, trung tâm, trạm, trại) theo hướng gắn khoa học với sản xuất và từng bước áp dụng hạch toán kinh tế từng phần hoặc toàn phần. Lực lượng khoa học ở các trường đại học và trung học chuyên nghiệp, ngoài nhiệm vụ chính là nghiên cứu, giảng dạy và học tập, cần tích cực tham gia phục vụ sản xuất và đời sống.

Ngân sách nhà nước cấp kinh phí cho các công trình nghiên cứu cơ bản có tính tổng hợp, liên ngành, thông qua hợp đồng giao việc. Các cơ quan nghiên cứu khoa học, kỹ thuật phải tạo thêm nguồn vốn nghiên cứu thông qua các hợp đồng ứng dụng khoa học và kỹ thuật ký với các tổ chức kinh tế.

Bổ sung, sửa đổi các chính sách khuyến khích đối với tiến bộ khoa học, kỹ thuật: thực hiện chế độ hợp đồng mua bán sáng chế, mua và thuê bản quyền tác giả, mua bán kết quả nghiên cứu, kỹ thuật tiến bộ theo nguyên tắc thoả thuận với các hình thức linh hoạt như "mua đứt, bán đoạn", trả theo hiệu quả kinh tế, không giới hạn mức tối đa, song phải thực hiện đúng quy định bảo vệ bí mật quốc gia. Quy định mức lợi nhuận thực sự có tác dụng khuyến khích chế tạo sản phẩm mới, sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu, sản phẩm đạt chất lượng cao; thực hiện chế độ tín dụng với lãi suất ưu đãi đối với các công trình áp dụng kỹ thuật tiến bộ, chế độ tạm ứng ngân sách cho các cơ quan nghiên cứu, triển khai; thực hiện hạch toán chi phí nghiên cứu áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật của các đơn vị sản xuất, các liên hiệp khoa học - sản xuất vào giá thành sản xuất, kinh doanh.

6- Về xuất, nhập khẩu và hợp tác kinh tế với nước ngoài.

Xí nghiệp có làm hàng xuất khẩu được Nhà nước tạo điều kiện tiếp cận với thị trường quốc tế. Nhà nước quy định những nguyên tắc và những điều kiện cho phép xí nghiệp được trực tiếp xuất, nhập khẩu, trực tiếp hợp tác với bạn hàng ở nước ngoài, chủ động ký kết các hợp đồng kinh tế trên nguyên tắc tự hoàn vốn ngoại tệ và có phần đóng góp vào quỹ ngoại tệ của Nhà nước. Các xí nghiệp đó chịu trách nhiệm hoàn toàn về việc thực hiện các hợp đồng mà mình đã ký kết. Xí nghiệp vay vốn nước ngoài nhập vật tư, thiết bị sản xuất, được miễn giảm mức ngoại tệ nộp vào ngân sách nhà nước trong thời gian chưa trả xong nợ. Nếu xí nghiệp uỷ thác việc xuất, nhập khẩu cho một đơn vị kinh tế khác thì xí nghiệp có quyền lựa chọn đơn vị và đôi bên thoả thuận với nhau theo nguyên tắc bình đẳng.

Xí nghiệp có thu nhập ngoại tệ phải nộp vào ngân sách nhà nước một phần lợi nhuận thực tế bằng ngoại tệ theo một tỉ lệ hợp lý. (Nghiên cứu ổn định tỉ lệ này dưới hình thức thuế). Xí nghiệp được quyền lập quỹ ngoại tệ gửi tại ngân hàng, vay ngoại tệ của ngân hàng; những xí nghiệp chỉ có thu nhập bằng tiền Việt Nam nhưng có nhu cầu nhập khẩu những vật tư, thiết bị mà Nhà nước không bảo đảm cung ứng, được mua ngoại tệ tại ngân hàng theo tỉ giá quy định. Nhà nước điều chỉnh kịp thời tỉ giá kết toán nội bộ cho phù hợp với tình hình thực tế, không để xí nghiệp làm hàng xuất khẩu bị lỗ vì tỉ giá bất hợp lý. Mọi trường hợp sử dụng ngoại tệ đều phải theo đúng quy định của Nhà nước. Tạo điều kiện để ngân hàng ngoại thương sớm thống nhất việc mua và bán ngoại tệ đối với tất cả các đơn vị sản xuất, kinh doanh.

7- Về quyền làm chủ của tập thể lao động và chế độ thủ trưởng.

- Đại hội công nhân, viên chức (hoặc Đại hội đại biểu công nhân, viên chức) là người quyết định cao nhất nội quy của xí nghiệp, kế hoạch kinh doanh và phân phối thu nhập của xí nghiệp. Đại hội công nhân, viên chức bầu Hội đồng xí nghiệp là cơ quan thường trực của mình, làm những nhiệm vụ chính dưới đây: giám sát việc thực hiện các quyết định của Đại hội công nhân, viên chức; tổ chức cho công nhân, viên chức thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát đối với sản xuất và phân phối trong xí nghiệp; chủ động kiến nghị với giám đốc những chủ trương, biện pháp cần thiết để thực hiện nghị quyết của Đại hội công nhân viên chức; quyết định triệu tập Đại hội công nhân, viên chức khi cần thiết. (Cần bổ sung và nâng cao Quyết định 182-CP cho phù hợp với tình hình mới).

Phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng trong việc tham gia quản lý xí nghiệp và động viên phong trào quần chúng thi đua thực hiện kế hoạch của xí nghiệp. Công đoàn, đoàn thanh niên phải đổi mới phương thức hoạt động để làm tốt chức năng của từng đoàn thể trong công tác quản lý xí nghiệp.

- Giám đốc xí nghiệp vừa đại diện cho Nhà nước, vừa đại diện cho công nhân, viên chức, thực hiện chế độ thủ trưởng phụ trách, có toàn quyền quyết định việc điều hành hoạt động của xí nghiệp theo đúng kế hoạch, chính sách, pháp luật Nhà nước và Nghị quyết của Đại hội công nhân, viên chức. Nếu có sự không thống nhất giữa giám đốc và Hội đồng xí nghiệp trong việc thực hiện, thì giám đốc quyết định, đồng thời báo cáo lên cấp trên, và chịu trách nhiệm về quyết định của mình trước Đại hội công nhân, viên chức.

Các phó giám đốc và kế toán trưởng do giám đốc đề nghị cấp trên bổ nhiệm sau khi tham khảo ý kiến của đảng uỷ xí nghiệp. Các cán bộ quản lý khác trong xí nghiệp do giám đốc quyết định bổ nhiệm trên cơ sở tôn trọng ý kiến của đảng uỷ xí nghiệp và của quần chúng.

8- Về công tác đảng trong xí nghiệp.

Đảng bộ xí nghiệp chịu trách nhiệm lãnh đạo các mặt công tác trong xí nghiệp: làm tốt công tác chính trị, tư tưởng, công tác xây dựng Đảng, công tác quần chúng; kiểm tra cơ quan quản lý và giám đốc trong việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật, chế độ quản lý và kế hoạch của Nhà nước và các hoạt động kinh tế khác của xí nghiệp; bảo đảm phát huy vai trò làm chủ của quần chúng và chế độ thủ trưởng trong công tác quản lý. Đảng bộ lãnh đạo quần chúng xây dựng kế hoạch của xí nghiệp, lãnh đạo phong trào thi đua hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ kinh tế, quốc phòng, an ninh, bảo vệ xí nghiệp, cải thiện đời sống. Đảng uỷ không quyết định công việc thuộc chức năng quản lý kinh doanh của giám đốc, nhưng có quyền kiến nghị với giám đốc các vấn đề cần giải quyết, yêu cầu giám đốc báo cáo và đòi hỏi giám đốc bảo đảm tính trung thực, công khai đối với Nhà nước và đối với tập thể lao động trong các hoạt động của xí nghiệp.

Về công tác cán bộ, đảng uỷ chỉ đạo và kiểm tra việc xây dựng và thực hiện quy hoạch cán bộ, đặc biệt là cán bộ chủ chốt trong bộ máy quản lý kinh tế của xí nghiệp, trong đảng uỷ, công đoàn, đoàn thanh niên; kiểm tra việc thực hiện chính sách cán bộ; thực hiện quá trình dân chủ hoá công tác cán bộ; tham gia ý kiến với cấp trên trong việc bổ nhiệm giám đốc và với giám đốc trong việc đề nghị cấp trên bổ nhiệm các phó giám đốc; kế toán trưởng và sắp xếp những cán bộ thuộc quyền quyết định của giám đốc.

Nghiên cứu để sớm có quy định hợp lý về tổ chức đảng và các đoàn thể trong liên hiệp các xí nghiệp. Liên hiệp các xí nghiệp nằm gọn trong một thành phố, khu công nghiệp được thành lập một đảng bộ. Đối với các liên hiệp khác, trước mắt, áp dụng hình thức hội nghị bí thư các đảng bộ trong liên hiệp để thảo luận những vấn đề có liên quan đến hoạt động kinh tế và công tác đảng, công tác quần chúng trong liên hiệp.

Trên đây là những quy định chung đối với xí nghiệp quốc doanh. Khi cụ thể hoá để thực hiện, cần chú ý tới đặc điểm của từng ngành theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VI).

II. CÁC HÌNH THỨC LIÊN KẾT KINH TẾ VÀ VAI TRÒ CHỦ ĐẠO CỦA KINH TẾ QUỐC DOANH

1- Mọi đơn vị cơ sở thuộc các thành phần kinh tế có toàn quyền quyết định việc tham gia các hình thức liên kết với các đơn vị kinh tế khác trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi.

Cần áp dụng nhiều hình thức liên kết, liên doanh giữa các đơn vị thuộc các thành phần kinh tế và các cấp quản lý nhằm mở rộng sự phân công hợp tác về kinh tế và khoa học kỹ thuật, khai thác tối đa mọi khả năng và thế mạnh về vốn, lao động và kỹ thuật để làm ra sản phẩm cuối cùng với hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất. Nghiêm cấm việc lợi dụng hình thức liên doanh liên kết kinh tế để mua đi bán lại kiếm chênh lệch giá. Với khả năng và ưu thế vốn có, các xí nghiệp quốc doanh phải thực hiện được vai trò chủ đạo trong quan hệ liên kết với các thành phần kinh tế khác, thực hiện chức năng quản lý và tổ chức từng ngành hàng bằng cách làm ăn có hiệu quả cao, phụ trách các khâu có ý nghĩa quyết định của quá trình sản xuất và lưu thông, đảm nhiệm việc nghiên cứu và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, giúp đỡ vốn và kỹ thuật, làm cho các thành phần kinh tế khác thấy liên kết với kinh tế quốc doanh là cần thiết và có lợi.

2- Việc thành lập các tổ chức liên hiệp sản xuất, kinh doanh phải xuất phát từ yêu cầu phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh tế, do các đơn vị kinh tế tự nguyện tham gia, không áp đặt bằng mệnh lệnh hành chính. Trước mắt, chú trọng các hình thức liên hiệp trong từng vùng. Đa dạng hoá các hình thức tổ chức liên hiệp. Chú trọng tập hợp các đơn vị kinh tế thuộc các thành phần khác nhau, và do các cấp quản lý thông qua hợp đồng kinh tế mà phân công, hợp tác để giải quyết một số yêu cầu chung trong sản xuất, kinh doanh với hiệu quả cao hơn so với từng đơn vị tự làm. Các liên hiệp theo dạng này được quản lý bằng hình thức Hội đồng quản trị với sự tham gia bình đẳng của các đơn vị thành viên. Một đơn vị kinh tế có thể tham gia một số liên hiệp khác nhau.

Các liên hiệp sản xuất kinh doanh đã thành lập (dưới hình thức liên hiệp các xí nghiệp, tổng công ty... hoạt động trên từng địa bàn hoặc có quy mô cả nước) đều phải chuyển sang kinh doanh xã hội chủ nghĩa, thực hiện hạch toán kinh tế tổng hợp, tự bù đắp chi phí, tự phát triển trên cơ sở phân công chuyên môn hoá và hiệp tác hoá sản xuất một cách hợp lý và mở rộng hạch toán kinh tế của các xí nghiệp thành viên. Quan hệ quản lý nội bộ liên hiệp phải được các xí nghiệp thành viên và cơ quan quản lý liên hiệp xây dựng thành điều lệ cụ thể phù hợp với trình độ tập trung và đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của liên hiệp. Nguyên tắc chung là phải phát huy tính chủ động của các xí nghiệp thành viên, kể cả trong quan hệ liên kết với các đơn vị kinh tế khác ngoài liên hiệp, đồng thời nâng cao hiệu quả quản lý của liên hiệp trong những vấn đề cần giải quyết tập trung thống nhất. Trong điều lệ xí nghiệp và liên hiệp các xí nghiệp sắp ban hành, cần có quy định rõ đối với xí nghiệp liên hợp, liên hiệp các xí nghiệp, liên hiệp khoa học - sản xuất.

Trên cơ sở chuyển các đơn vị kinh tế sang kinh doanh và phát triển các quan hệ liên kết kinh tế rộng rãi và đa dạng, xác định các hình thức tổ chức sản xuất theo ngành, theo địa phương và vùng lãnh thổ hợp lý và có hiệu quả nhất.

3- Mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả hợp tác sản xuất với Liên Xô, Lào, Cam-pu-chia, các nước xã hội chủ nghĩa khác; từng bước phát triển quan hệ kinh tế với một số nước khác, thu hút vốn và kỹ thuật của nước ngoài bằng nhiều hình thức: hợp tác sản xuất, gia công, nhận thầu dịch vụ, hợp doanh, đầu tư toàn bộ, vay vốn dài hạn... Huy động khả năng của Việt kiều tham gia xây dựng đất nước bằng mọi hình thức thích hợp. Trong cơ chế hợp tác, hình thức quan trọng nhất là quan hệ trực tiếp ở cấp xí nghiệp. Theo dõi rút kinh nghiệm các hình thức hợp doanh với một số công ty tư bản nước ngoài và làm thử các hình thức mới. Tích cực chuẩn bị ban hành Luật đầu tư.

Phần thứ ba

ĐỔI MỚI QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ

Để bảo đảm thực hiện chế độ tự chủ sản xuất, kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở và nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước, cơ quan chính quyền các cấp phải đổi mới một cách căn bản phương thức quản lý, thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước về kinh tế, giao hẳn chức năng quản lý sản xuất, kinh doanh cho các tổ chức và đơn vị kinh tế cơ sở; trên cơ sở đó, từng bước tổ chức lại theo hướng tinh giản và nâng cao chất lượng bộ máy nhà nước các cấp.

I. CHỨC NĂNG VÀ TỔ CHỨC BỘ MÁY QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ

1- Nâng cao hiệu lực lãnh đạo tập trung thống nhất của Nhà nước trung ương, bảo đảm thực hiện các chức năng quản lý nhà nước về kinh tế dưới đây:

- Xây dựng chiến lược kinh tế - xã hội và khoa học - kỹ thuật, quy hoạch dài hạn về kinh tế ngành và lãnh thổ; xây dựng các chương trình mục tiêu, các kế hoạch dài hạn, 5 năm và hằng năm; bảo đảm những cân đối chủ yếu của nền kinh tế quốc dân.

- Ban hành và hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện luật pháp, chính sách kinh tế đối nội và đối ngoại, chế độ quản lý kinh tế và khoa học kỹ thuật, các tiêu chuẩn và định mức kinh tế kỹ thuật chủ yếu.

- Tạo môi trường thuận lợi về kinh tế, xã hội cho hoạt động kinh doanh; hướng dẫn, kích thích và điều tiết, phối hợp hoạt động của các tổ chức và các đơn vị kinh tế; xử lý những việc ngoài khả năng tự giải quyết của các tổ chức và đơn vị kinh tế để bảo đảm thực hiện những nhiệm vụ Nhà nước giao.

- Thực hiện chính sách cán bộ, quy định các chức danh và tiêu chuẩn cán bộ, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, bổ nhiệm và miễn nhiệm cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý.

- Thực hiện sự kiểm soát của Nhà nước đối với toàn bộ các hoạt động kinh tế, bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh pháp luật và thể chế quản lý kinh tế ở các cấp, các ngành và cơ sở.

2- Tăng cường quyền hạn, trách nhiệm và phát huy tính chủ động của các cấp chính quyền địa phương trong việc thực hiện các chức năng quản lý nhà nước về kinh tế nói trên trong phạm vi địa bàn lãnh thổ; chấm dứt việc cơ quan chính quyền làm thay chức năng quản lý sản xuất, kinh doanh, vi phạm chế độ tự chủ của các đơn vị kinh tế cơ sở. Trên cơ sở vận dụng và tổ chức thực hiện pháp luật, chính sách, quy hoạch và kế hoạch chung của cả nước, chính quyền địa phương tiến hành quy hoạch và kế hoạch hoá trên địa bàn lãnh thổ để sắp xếp, tổ chức lại, cải tạo và phát triển kinh tế, xây dựng kết cấu hạ tầng, chăm lo đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân và làm tròn nghĩa vụ kinh tế với Nhà nước trung ương. Trong công tác chỉ đạo và quản lý nhà nước về kinh tế, trên cơ sở Nhà nước trung ương phải phân vùng kinh tế, chính quyền địa phương phải gắn kinh tế trên địa bàn địa phương với kinh tế chung của từng vùng lớn và của cả nước, khắc phục sự chia cắt theo cấp và theo địa giới hành chính; kiểm tra, giám sát và tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị kinh tế trung ương trên địa bàn lãnh thổ; trực tiếp quản lý các đơn vị kinh tế địa phương; thúc đẩy quan hệ liên kết kinh tế và tổ chức sự điều hoà, phối hợp hoạt động của các đơn vị kinh tế, văn hoá, xã hội thuộc các cấp quản lý trên địa bàn lãnh thổ, bảo đảm trật tự và an toàn xã hội.

Trong cơ chế chung, cần bổ sung nhiệm vụ, quyền hạn và phương tiện cho các địa phương có vai trò trung tâm kinh tế ở từng vùng, trước hết là đối với Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.

- Việc phân giao các đơn vị kinh tế cơ sở quốc doanh phải xuất phát từ hiệu quả kinh tế - xã hội, phù hợp với quy hoạch ngành và quy hoạch lãnh thổ, thúc đẩy việc hình thành ngành kinh tế kỹ thuật và bảo đảm nguyên tắc cấp nào quản lý có lợi nhất cho việc phát triển sản xuất, kinh doanh của đơn vị kinh tế cơ sở thì giao cho cấp ấy quản lý.

Ngân sách quốc gia là một thể thống nhất, là hiệu quả của nền kinh tế quốc dân và là trách nhiệm lớn của tất cả các ngành, địa phương và cơ sở.

Việc phân phối ngân sách phải bảo đảm nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội, bảo đảm sự phát triển đồng đều của tất cả các vùng, có ưu tiên đối với vùng trọng điểm.

Phân cấp ngân sách giữa Trung ương và địa phương phải theo một tỉ lệ hợp lý trong từng thời kỳ để bảo đảm chi tiêu của cả Trung ương và địa phương, có khuyến khích những nơi làm ăn có hiệu quả.

Chỉ đạo chặt chẽ việc tiếp tục nghiên cứu để giải quyết một cách cơ bản các vấn đề về kinh tế Trung ương và kinh tế địa phương, về quản lý theo ngành và theo lãnh thổ, về xây dựng quận, huyện và công tác quản lý của cấp quận, huyện.

- Cụ thể hoá nội dung và phương thức lãnh đạo của các cấp uỷ đảng phù hợp với cơ chế mới về quản lý kinh tế và sự phân cấp quản lý giữa các cấp chính quyền.

3- Bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế từ Trung ương đến địa phương cần được đổi mới phù hợp với chức năng và quan hệ phân công, phân cấp, gắn với quá trình chuyển các đơn vị kinh tế cơ sở sang kinh doanh, hình thành các tổ chức liên kết kinh tế. Hướng chung là giảm số đầu mối quản lý, bỏ các khâu trung gian không cần thiết, thực hiện Nghị quyết Trung ương hai về tinh giản mạnh biên chế hành chính.

ở Trung ương, cần xác định lại chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và nâng cao chất lượng bộ máy của các uỷ ban nhà nước, trước hết là Uỷ ban Kế hoạch nhà nước, các bộ theo hướng tập trung giải quyết các vấn đề chiến lược, kế hoạch, chính sách và luật pháp, không làm thay công việc điều hành sản xuất, kinh doanh của liên hiệp xí nghiệp và xí nghiệp. Tích cực chuẩn bị điều kiện để giảm mạnh số bộ quản lý ngành và cơ quan trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng. Trước mắt, giảm ngay các cục, vụ điều hành các cơ sở sản xuất, kinh doanh; gắn với các liên hiệp xí nghiệp hoặc xí nghiệp những tổ chức nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật. Luật tổ chức Hội đồng Bộ trưởng, Điều lệ tổ chức và hoạt động của các bộ, cơ quan ngang bộ và tổng cục cần được sửa đổi theo hướng nêu trên.

ở địa phương, uỷ ban nhân dân từng cấp chủ động vận dụng sự hướng dẫn của Hội đồng Bộ trưởng vào đặc điểm cụ thể của mình để sắp xếp bộ máy, trên nguyên tắc bảo đảm thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về kinh tế, chấp hành tốt sự chỉ đạo của các cơ quan chính quyền cấp trên; bộ máy chính quyền tỉnh, thành phố không nhất thiết rập khuôn theo cơ cấu bộ máy ở Trung ương. Sớm xác định cụ thể nội dung quản lý nhà nước về kinh tế của các cấp quận, huyện, phường, xã để bố trí bộ máy quản lý cho thích hợp, gọn nhẹ.

II. KẾ HOẠCH HOÁ CỦA CÁC CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

- Yêu cầu đổi mới kế hoạch hoá đối với cơ quan chính quyền Nhà nước trung ương là bảo đảm tính hiện thực và khoa học của hệ thống kế hoạch hoá kinh tế quốc dân, nâng cao chất lượng và hiệu lực kế hoạch hoá cả về hiện vật và giá trị, về kinh tế và xã hội, bảo đảm các cân đối cơ bản của nền kinh tế theo hướng bố trí lại cơ cấu kinh tế mà Đại hội VI đã xác định nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu xã hội; đặc biệt là phải tập trung vật tư, vốn đầu tư, ngoại tệ, lực lượng khoa học - kỹ thuật cho việc xây dựng và thực hiện ba chương trình kinh tế lớn; ưu tiên bảo đảm điều kiện vật chất cho các xí nghiệp, công trình, địa bàn trọng điểm sản xuất những sản phẩm trọng yếu với hiệu quả kinh tế cao. Trước mắt, nâng cao chất lượng kế hoạch hằng năm, đồng thời phấn đấu xây dựng tốt kế hoạch 5 năm, từng bước nghiên cứu phương hướng, nhiệm vụ dài hạn phát triển kinh tế gắn với việc hoạch định chiến lược kinh tế - xã hội.

Các bộ, tổng cục được giao phụ trách ngành kinh tế kỹ thuật phải xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành đó trong cả nước.

Chính quyền địa phương, trước hết là cấp tỉnh, thành phố phối hợp chặt chẽ với các ngành xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, kết hợp kinh tế với quốc phòng trên địa bàn lãnh thổ, bao gồm hoạt động của tất cả các đơn vị kinh tế trên lãnh thổ.

Phải thực hiện được việc xây dựng và tổng hợp kế hoạch từ dưới lên thay cho cách làm và giao kế hoạch từ trên xuống. Cải tiến và hoàn thiện việc giao sổ hướng dẫn và cung cấp đủ, kịp thời các thông tin cần thiết cho các cơ sở chủ động xây dựng kế hoạch. Theo hướng giảm dần các chỉ tiêu pháp lệnh, phải xây dựng và chỉ đạo thực hiện tốt các chính sách kích thích và điều tiết các hoạt động kinh tế, vận dụng tốt các chính sách đó trong công tác kế hoạch hoá để hướng các đơn vị kinh tế cơ sở phát triển sản xuất kinh doanh theo nhiệm vụ, mục tiêu của kế hoạch nhà nước. Dựa trên cơ sở tổng hợp kế hoạch của các đơn vị kinh tế cơ sở, cơ quan kế hoạch Nhà nước trung ương và địa phương xem xét các mặt cân đối quan trọng nhất của nền kinh tế trong phạm vi cả nước và trên địa bàn lãnh thổ; kịp thời kiến nghị điều chỉnh các công cụ đòn bẩy (thuế, lãi suất, giá...), và sử dụng lực lượng dự trữ nhà nước hoặc đẩy mạnh xuất nhập khẩu để tác động trở lại các đơn vị kinh tế cơ sở, bảo đảm các mặt cân đối của kế hoạch nhà nước.

- Nâng cao hiệu lực pháp lý của hợp đồng kinh tế như một công cụ chủ yếu để xây dựng và thực hiện kế hoạch. Xây dựng chế độ hợp đồng theo đơn đặt hàng của Nhà nước. Cơ quan trọng tài kinh tế cần được tăng cường quyền hạn và nâng cao chất lượng hoạt động để làm đúng chức năng, đáp ứng yêu cầu ấy.

- Đổi mới cơ chế kế hoạch hoá và quản lý vật tư. Vật tư do Nhà nước trực tiếp quản lý được phân phối theo kế hoạch cho các mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế. Đối với các đơn vị sử dụng, phải chuyển từ cách phân phối trực tiếp theo lệnh hành chính với giá bao cấp, bù lỗ sang hình thức mua bán vật tư qua hợp đồng ký với các tổ chức kinh doanh vật tư trên cơ sở chỉ tiêu pháp lệnh hoặc đơn đặt hàng của Nhà nước theo giá cả được điều chỉnh hợp lý. Làm thử hình thức bán vật tư cho các đơn vị sử dụng thông qua đấu thầu nhận đơn đặt hàng của Nhà nước. Chuyển hoạt động của các cơ quan vật tư sang kinh doanh, thiết lập quan hệ trực tiếp giữa cơ quan kinh doanh vật tư và các đơn vị kinh tế cơ sở. Tổ chức lại hệ thống kinh doanh vật tư theo Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VI).

- Nguồn vốn đầu tư tập trung của Nhà nước được phân phối theo kế hoạch cho các mục tiêu kinh tế; trước mắt phải điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư, tập trung cho ba chương trình kinh tế lớn. Tăng cường trách nhiệm và kỷ luật hoàn trả vốn đối với các công trình đầu tư. Khuyến khích các đơn vị kinh tế cơ sở tự đầu tư mở rộng sản xuất, bảo đảm quyền chủ động của các ngành, các địa phương trong việc bố trí kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản bằng nguồn vốn tự có một cách đúng hướng, song Nhà nước trung ương phải khống chế tổng mức đầu tư xây dựng cơ bản để giữ được các quan hệ cân đối lớn trong nền kinh tế và tính hợp lý trong cơ cấu đầu tư. Phân cấp xét duyệt và quản lý đầu tư xây dựng cơ bản cho các cấp tỉnh, huyện, xã tuỳ theo lĩnh vực đầu tư và hạn ngạch đầu tư.

Uỷ ban Kế hoạch nhà nước các cấp không can thiệp vào việc điều chỉnh trong hạn ngạch đã duyệt. Nhà nước chỉ cấp vốn cho các công trình phúc lợi công cộng và cơ sở hạ tầng. Khi các công trình đó đã đưa vào sử dụng thì phải thu phí để đủ duy trì sự tồn tại. Đối với các công trình sản xuất, dịch vụ không phân biệt quy mô đều chuyển qua vay vốn tín dụng.

- Tăng cường công tác thông tin kinh tế, kể cả thông tin về tình hình thị trường, giá cả trong nước và thế giới, thông tin về khoa học - kỹ thuật. Công tác thống kê phải được đổi mới cả về nội dung, phương pháp và tổ chức để đáp ứng yêu cầu thông tin kinh tế và phân tích kinh tế. áp dụng nhiều hình thức thu thập số liệu, nâng cao độ tin cậy của số liệu thống kê, xử lý nghiêm minh đối với các hiện tượng báo cáo sai sự thật. Phát triển mạnh các hình thức dịch vụ thông tin hoạt động theo phương thức hạch toán kinh tế. Quy định trách nhiệm của các cấp và các đơn vị cơ sở giữ bí mật kinh tế.

 

*

 

*       *

Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VI) đã quyết định những phương hướng, chính sách, biện pháp quan trọng về các chính sách kích thích và điều tiết hoạt động kinh tế: lưu thông vật tư hàng hoá, xuất nhập khẩu, giá cả, tiền lương, tài chính, ngân hàng và tiền tệ theo hướng xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực phân phối, lưu thông. Các chính sách kích thích và điều tiết các hoạt động kinh tế nêu trong Nghị quyết đó là một bộ phận rất quan trọng của cơ chế mới về quản lý kinh tế, cả trong sản xuất và phân phối lưu thông. Việc thực hiện Nghị quyết các Hội nghị lần thứ hai và lần thứ ba của Trung ương Đảng (khoá VI) phải gắn với nhau thành một thể thống nhất, nhằm đổi mới đồng bộ cơ chế quản lý kinh tế, tạo môi trường kinh doanh cho các đơn vị kinh tế cơ sở, đồng thời quy định rõ giới hạn mà các đơn vị kinh tế phải tuân theo, bảo đảm cho các cấp chính quyền sử dụng tốt các công cụ kích thích, điều tiết và kiểm soát các hoạt động kinh tế.

Các quy định trong Nghị quyết này về chuyển hoạt động của các đơn vị kinh tế cơ sở quốc doanh sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đổi mới quản lý Nhà nước về kinh tế cần sớm được thể chế hoá thành những văn bản pháp quy của Nhà nước.

Phần thứ tư

ĐỔI MỚI CÁN BỘ VÀ CÔNG TÁC CÁN BỘ

Cơ chế mới về quản lý kinh tế đặt ra những yêu cầu mới đối với cán bộ quản lý nhà nước về kinh tế, cán bộ quản lý ở đơn vị kinh tế cơ sở, và đòi hỏi công tác cán bộ phải được đổi mới một cách cơ bản.

1- Thực sự đổi mới về quan điểm xem xét, đánh giá, lựa chọn cán bộ.

Tiêu chuẩn cơ bản về phẩm chất và năng lực của cán bộ lãnh đạo và quản lý kinh tế hiện nay là thái độ tích cực đối với công cuộc đổi mới và năng lực thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới, thể hiện bằng hiệu quả thực hiện việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo đúng đường lối, chủ trương của Đảng. Cán bộ lãnh đạo, quản lý dù ở cương vị nào đều phải quán triệt Nghị quyết Đại hội VI và các nghị quyết của Trung ương, có năng lực quản lý, có phẩm chất, đạo đức cách mạng.

Năng lực của cán bộ quản lý phải thể hiện ở khả năng vận dụng đúng đắn đường lối, quan điểm của Đảng, đề ra các biện pháp thiết thực và sáng tạo để tổ chức thực hiện có hiệu quả; biết tập hợp quần chúng và phát huy nhiệt tình, trí tuệ của quần chúng; có ý thức tổ chức và kỷ luật cao, đồng thời biết quyết đoán và dám chịu trách nhiệm; luôn trau dồi trình độ mọi mặt để đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao.

Cán bộ quản lý nhà nước (trước hết là bộ trưởng, chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, thành) phải hiểu biết về kinh tế và am hiểu về kỹ thuật, nắm vững các tri thức về quản lý nhà nước, biết cụ thể hoá, thể chế hoá đường lối, quan điểm của Đảng thành quy hoạch, kế hoạch, chính sách và các chủ trương về kinh tế - xã hội; biết hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện; có hiểu biết về công tác đảng và công tác quần chúng; biết làm việc với cán bộ dưới quyền.

Giám đốc, tổng giám đốc các đơn vị kinh tế cơ sở phải biết kinh doanh và có bản lĩnh kinh doanh theo cơ chế quản lý mới; biết pháp luật kinh doanh trong nước và quốc tế; có khả năng nắm bắt thị trường trong nước và thế giới; năng động và quyết đoán; biết làm việc với các tổ chức, các cán bộ và quần chúng ở cơ sở.

2- Xây dựng và thực hiện cơ chế bảo đảm tính chủ động và khách quan trong việc tạo nguồn, phát hiện, tuyển chọn và sàng lọc cán bộ, trên nguyên tắc dân chủ hoá, công khai hoá. Phải xây dựng ngay quy hoạch cán bộ, cải tiến quy chế phân cấp quản lý cán bộ, sửa đổi những chính sách không còn phù hợp.

Phải bảo đảm dân chủ thực sự trong việc các cơ quan dân cử lựa chọn cán bộ quản lý nhà nước các cấp, có sự lãnh đạo đúng đắn của cấp uỷ đảng về tiêu chuẩn và cơ cấu cần thiết. Tập hợp được trung thực ý kiến của quần chúng, cán bộ, đảng viên để lựa chọn đúng cán bộ chủ chốt ở các cơ quan quản lý và đơn vị kinh tế cơ sở.

Thực hiện chế độ bỏ phiếu tín nhiệm, làm cơ sở cho cơ quan quản lý cấp trên xem xét bổ nhiệm người đứng đầu các đơn vị kinh tế cơ sở quốc doanh. Chuẩn bị tốt các điều kiện để làm thử và rút kinh nghiệm việc bầu giám đốc và các chức danh cần thiết trong xí nghiệp. Tổ chức cơ sở đảng có trách nhiệm tổ chức và lãnh đạo tốt việc thực hiện dân chủ hoá trong quá trình lựa chọn.

Qua cuộc vận động "làm trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức đảng và bộ máy nhà nước, làm lành mạnh các quan hệ xã hội" và qua định kỳ tổ chức bỏ phiếu tín nhiệm mà kịp thời xem xét điều chỉnh, bố trí lại cán bộ; kịp thời thay thế những phần tử thoái hoá, biến chất và những cán bộ không còn nhạy cảm với trào lưu đổi mới và tình hình thực tiễn của nước ta, những cán bộ không được đông đảo quần chúng tín nhiệm, không quy tụ được những người dưới quyền.

Khẩn trương bồi dưỡng và đổi mới đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức - cán bộ để đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới hiện nay, kịp thời thay thế những người không đáp ứng được yêu cầu.

3- Đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo (bao gồm đào tạo lại) và bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo và quản lý, cán bộ nghiên cứu và cán bộ giảng dạy theo tư duy mới về kinh tế và về quản lý; coi trọng tính thiết thực và nâng dần tính hệ thống. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương chủ trì và phối hợp với các bộ tổ chức tốt việc đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước về kinh tế và đội ngũ giám đốc các đơn vị sản xuất, kinh doanh. Sớm sửa đổi và biên soạn lại chương trình, tài liệu giảng dạy về kinh tế và quản lý kinh tế theo quan điểm của Đại hội lần thứ VI của Đảng và các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VI). Bổ sung các nội dung về pháp chế kinh tế, hạch toán kinh tế, tâm lý xã hội học trong quản lý kinh tế... Kịp thời tổng kết kinh nghiệm thực tiễn về quản lý ở trong nước và tổ chức thông tin kinh tế, kinh nghiệm quản lý ở nước ngoài.

Phần thứ năm

CHỈ ĐẠO VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN

1- Những bước đi.

Hội đồng Bộ trưởng khẩn trương thể chế hoá Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba của Trung ương Đảng (khoá VI), chỉ đạo các cơ quan có trách nhiệm nhanh chóng soạn thảo, ban hành trong năm 1987 và sáu tháng đầu năm 1988 các văn bản pháp quy cần thiết cho việc triển khai thực hiện cơ chế mới (trước hết là điều lệ xí nghiệp) thay thế cho các quy định cũ không còn phù hợp. Tích cực nghiên cứu và ban hành kịp thời cơ chế quản lý cụ thể đối với các xí nghiệp quốc doanh ngoài lĩnh vực công nghiệp.

Các ngành, các cấp, các đơn vị kinh tế tổ chức nghiên cứu quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba của Trung ương Đảng (khoá VI) và các văn bản pháp quy.

Từ đầu năm 1988, thực hiện cơ chế mới trong khu vực kinh tế quốc doanh (trước hết ở các đơn vị có quan hệ hợp tác với Liên Xô và các nước khác, các xí nghiệp chế biến và sản xuất hàng tiêu dùng có nguồn vật tư và tiêu thụ sản phẩm tương đối ổn định); đồng thời chuyển một bước hoạt động của các cơ quan chính quyền sang quản lý nhà nước về kinh tế theo cơ chế mới. Làm thử một số hình thức và biện pháp mới (như Nhà nước giao nhiệm vụ sản xuất theo đơn đặt hàng, thông qua đấu thầu; chế độ thi tuyển và bầu giám đốc; một số loại thuế mới...).

Trong hai năm 1989 - 1990, cơ bản hoàn thành việc chuyển các tổ chức và đơn vị kinh tế cơ sở quốc doanh sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đồng thời giải quyết tiếp những vấn đề tồn tại trong cơ chế quản lý nhà nước về kinh tế.

Năm 1990, tổng kết toàn diện để xác lập tương đối đồng bộ cơ chế quản lý mới cả ở tầm vi mô và vĩ mô, cả về thể chế quản lý và tổ chức sản xuất, tổ chức bộ máy và cán bộ; tiếp tục hoàn thiện trong những năm sau.

2- Cùng với việc thực hiện Nghị quyết này, nhanh chóng nghiên cứu, xây dựng cơ chế quản lý mới đối với nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản (bao gồm quốc doanh và tập thể); đối với tiểu thủ công nghiệp; sớm ban hành các chính sách đối với kinh tế tư bản tư nhân, công tư hợp doanh, kinh tế cá thể, tạo thành một hệ thống cơ chế đồng bộ đối với các loại đơn vị kinh tế cơ sở.

3- Phát huy dân chủ, đề cao kỷ luật, pháp luật trong việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện.

- Thực hiện dân chủ hoá trong quản lý, phát huy tính chủ động sáng tạo của quần chúng, mở rộng các hình thức quần chúng tham gia vào quản lý.

- Cùng với việc phát huy đầy đủ dân chủ, phải bảo đảm sự tập trung, thống nhất trong hành động, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ. Trong trường hợp có những vấn đề mà Trung ương và Nhà nước chưa có chính sách hoặc có những quy định chưa sát thực tế, thì các ngành, các cấp phải báo cáo, xin chỉ thị, không được tự ý làm trái với chủ trương, chính sách chung. Cấp trên có trách nhiệm trả lời đúng thời hạn những điều cấp dưới xin chỉ thị.

4- Tăng cường kiểm tra, thường xuyên tổng kết kinh nghiệm để kịp thời điều chỉnh, bổ sung, hoàn chỉnh nội dung cơ chế quản lý kinh tế mới.

- Các cấp, các ngành, các cơ sở phải có chương trình cụ thể thực hiện Nghị quyết Trung ương hai và ba, sáu tháng một lần có sơ kết, kịp thời kiến nghị điều chỉnh, bổ sung chủ trương, chính sách phù hợp với tình hình thực tế.

- Nâng cao cảnh giác chống mọi hoạt động tuyên truyền xuyên tạc và mọi mưu mô phá hoại của địch.

- Tăng cường kiểm tra từ trên xuống và từ dưới lên; kết hợp chặt chẽ việc kiểm tra của quần chúng ở cơ sở với việc kiểm tra, thanh tra của các cơ quan đảng và nhà nước cấp trên.

- Bảo đảm kỷ luật báo cáo, thông tin chính xác và kịp thời.

Các tỉnh uỷ, thành uỷ, các ban, ngành Trung ương phải báo cáo định kỳ với Ban Bí thư và Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng về diễn biến và kết quả đổi mới quản lý ở địa phương và ngành mình. Cuối năm 1988, Bộ Chính trị sơ kết việc thực hiện các Nghị quyết Trung ương hai và ba để báo cáo Ban Chấp hành Trung ương quyết định những chủ trương cụ thể cho bước tiếp theo.

 

T/M BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG

            Tổng Bí thư

 

Nguyễn Văn Linh

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Các tin khác

Chỉ thị của Ban Bí thư về công tác an toàn, vệ sinh lao động trong tình hình mới

(ĐCSVN) - Ngày 19/3/2024, đồng chí Trương Thị Mai ký ban hành Chỉ thị số 31-CT/TW về tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác an toàn, vệ sinh lao động trong tình hình mới.

Sớm đưa vào sử dụng các công trình, dự án hạ tầng cấp bách, trọng điểm về giao thông

(ĐCSVN) - Bộ Chính trị yêu cầu tập trung đầu tư, sớm đưa vào sử dụng các công trình, dự án hạ tầng cấp bách, trọng điểm về giao thông đường bộ, đường sắt, đường biển, đường thuỷ nội địa, đường hàng không kết nối các địa phương, vùng và khu vực, quốc tế.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

(ĐCSVN) - Các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội cần quán triệt, nâng cao nhận thức, tổ chức thực hiện nghiêm chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; xem đây là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của cả hệ thống chính trị và xã hội; là văn hoá ứng xử của mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và mỗi người dân, nhất là người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Bộ Chính trị ban hành quy định phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong điều tra, xét xử

(ĐCSVN) – Ngày 27/10/2023, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 132-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Liên kết website