Công nghiệp hoá dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh

PGS, TS. Mạch Quang Thắng

 

I- Quá trình công nghiệp hoá ở Việt Nam - thành tựu và những vấn đề đặt ra

Công nghiệp hoá là một nhiệm vụ tất yếu của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ ba của Đảng (9-1960) đã chính thức xác định những nội dung cơ bản của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nước ta.

Đại hội khẳng định: "Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ ở nước ta. Thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhằm xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật chủ nghĩa xã hội, tạo điều kiện cơ bản cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi".

Đại hội III của Đảng còn chỉ rõ: "Thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nước ta là xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại, kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, nhằm biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại"2.

Phương châm thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc mà Đại hội III vạch ra là kết hợp những xí nghiệp quy mô lớn với những xí nghiệp quy mô vừa và nhỏ, kết hợp kỹ thuật hiện đại với kỹ thuật thô sơ, kết hợp xây dựng những xí nghiệp mới với việc tận dụng những xí nghiệp cũ, kết hợp phát triển công nghiệp trung ương với phát triển công nghiệp địa phương.

Đảng ta cho rằng điểm mấu chốt của công nghiệp hoá là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng và chỉ rõ: cơ cấu và quy mô của công nghiệp nặng phải thích hợp với điều kiện và nhu cầu của ta, phù hợp với sự phân công hợp tác trong hệ thống xã hội chủ nghĩa. Công nghiệp nặng bao gồm những ngành mà nước ta nhất thiết phải xây dựng và có điều kiện xây dựng như điện lực, luyện kim, chế tạo cơ khí, nhiên liệu, vật liệu xây dựng, hoá học v.v... và trong mỗi ngành, chúng ta sẽ xây dựng những cái gì cần thiết và có thể phát triển nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cần thiết cho chủ nghĩa xã hội, tạo điều kiện để phục vụ nhu cầu ngày càng lớn của nhân dân về ǎn, mặc, ở học.v.v...

Đảng ta còn chủ trương kết hợp lực lượng của Nhà nước với lực lượng của nhân dân, kết hợp sự cố gắng của kinh tế quốc doanh với sự đóng góp của kinh tế tập thể, kết hợp phát triển vùng đồng bằng và vùng biển với phát triển vùng trung du, vùng núi, kết hợp sự lãnh đạo toàn diện của trung ương với việc phát huy tính chủ động sáng tạo của địa phương, kết hợp việc bảo đảm tích luỹ xã hội chủ nghĩa với việc không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân lao động, kết hợp việc dựa vào lực lượng bản thân ta là chính với việc sử dụng tốt sự giúp dữ của các nước anh em.

Trong quá trình thực hiện đường lối công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, Đảng ta còn cụ thể hoá thêm: coi cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt trong ba cuộc cách mạng. Đảng cũng thấy rõ hơn mối quan hệ giữa công nghiệp nặng với nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Do vậy, Đảng ta chủ trương: Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.

Trải qua một quá trình hàng chục nǎm tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa kể cả trong phạm vi miền Bắc và trong phạm vi cả nước sau ngày 30-4-1975, chúng ta có thể đánh giá một cách tổng quát những thành tựu và những vấn đề đặt ra như sau:

Một là: Đảng ta đã xác định một cách đúng đắn đường lối công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.

Đường lối, chủ trương, phương chân công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa của Đảng đã hoàn toàn xuất phát từ những vấn đề cơ bản của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, cǎn cứ vào yêu cầu cách mạng Việt Nam, có tính đến những đặc điểm cụ thể của miền Bắc cũng như của cả nước là từ một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên, cơ sở vật chất - kỹ thuật không có bao nhiêu lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Đường lối, chủ trương, phương châm đó cũng đã tính đến hoàn cảnh quốc tế, đến đặc điểm cách mạng nước ta trong mối quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là với Liên Xô và Trung Quốc.

Việc xác định mục tiêu công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa của Đảng là phù hợp vì đã nhấn mạnh tới việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, ngoài ra còn nhấn mạnh việc tạo ra cơ cấu kinh tế hợp lý, kể cả mối quan hệ giữa các vùng và giữa tích luỹ với bảo đảm đời sống nhân dân.

Đường lối của Đảng về công nghiệp hoá chủ nghĩa xã hội được phản ánh tại Đại hội III đã được thực hiện và là cơ sở để sau này đến Đại hội VIII nǎm 1996, Đảng ta xác định rõ hơn mục tiêu trong thời kỳ mới: "Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, vǎn minh. Từ nay đến nǎm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp".

Hai là: Quá trình thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa đã tạo ra được cơ sở vật chất - kỹ thuật bước đầu cho chủ nghĩa xã hội.

Đây là thành tựu rất quan trọng của nước ta trong điều kiện một nước nông nghiệp lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá rất nặng nề. Vốn đầu tư xây dựng kinh tế nói chung và cho công nghiệp nói riêng tǎng mạnh. Đến nǎm 1975, số xí nghiệp công nghiệp tǎng gấp 16,5 lần số xí nghiệp nǎm 1955. Nhiều khu công nghiệp lớn đã hình thành. Trong cơ cấu công nghiệp, đã có những cơ sở đầu tiên của các ngành công nghiệp nặng quan trọng như điện, than, cơ khí, luyện kim, hoá chất, vật liệu xây dựng, đồng thời một số ngành công nghiệp nhẹ cũng được xây dựng v.v...

Người ta có thể đánh giá hậu quả thấp của các khu công nghiệp, sự hạn chế về phía nước ta trong việc sử dụng sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa trong việc xây dựng các nhà máy, xí nghiệp, v.v... nhưng một thực tế hiển nhiên là các khu công nghiệp, các nhà máy xí nghiệp đó đã đóng vai trò to lớn, là những "con chim đầu đàn" trong nền công nghiệp Việt Nam.

Sản phẩm công nghiệp đã đáp ứng được nhiều nhu cầu của sản xuất và đời sống của nhân dân và mở rộng xuất khẩu. Công nghiệp quốc doanh chiếm 70% giá trị sản lượng công nghiệp, công nghiệp ngoài quốc doanh được mở rộng. Những nǎm gần đây, nền công nghiệp nước ta có sự đổi mới về cơ cấu, cơ chế quản lý và công nghệ có bước phát triển mới góp phần quan trọng tạo nhịp độ tǎng trưởng kinh tế tương đối khá.

Với quá trình thực hiện công nghiệp hoá miền Bắc nước ta dần dần bảo đảm được về cơ bản hàng tiêu dùng (cuối nǎm 1964) góp phần bảo đảm hậu cần cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và bảo đảm đời sống nhân dân.

Sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi nǎm 1975, chúng ta đã tận dụng được cơ sở công nghiệp cũ và bước đầu phát huy những nǎng lực của các cơ sở đó.

Ba là: quá trình công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa đã tạo ra đội ngũ giai cấp công nhân và những người lao động hùng hậu, làm cơ sở vững chắc cho khối liên minh công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức do giai cấp công nhân lãnh đạo.

Đến nǎm 1996, số lượng giai cấp công nhân nước ta đã lên khoảng 5 triệu người (chiếm khoảng 13% lực lượng lao động toàn xã hội). Con số đó thật ra không nhiều, nó phản ánh một thực trạng đất nước ta công nghiệp hoá dù trải qua mấy chục nǎm nhưng cũng chỉ mới là bước đầu. Tuy vậy, số liệu nêu lên lại có ý nghĩa lớn đối với một nước vốn từ nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội. Lực lượng công nhân đã nắm giữ quyền làm chủ trong hệ thống cơ sở vật chất - kỹ thuật, các ngành kinh tế then chốt của nền kinh tế quốc dân.

Trong những nǎm qua, Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng được một hệ thống các trường đại học, cao đẳng, các viện nghiên cứu, các cơ sở dạy nghề, chǎm lo đào tạo lực lượng cán bộ khoa học - công nghệ và công nhân kỹ thuật.

Những kết quả trên đây tuy là bước đầu nhưng là thành tựu cực kỳ quan trọng không những có ý nghĩa về mặt kinh tế - xã hội mà còn có ý nghĩa lớn về chính trị. Đó là thắng lợi của một chế độ mới. Liên minh công - nông - trí đã được tǎng cường với chất lượng mới. Giai cấp công nhân Việt Nam vẫn đang giữ vai trò giai cấp lãnh đạo, phát triển cả về số lượng và chất lượng.

Sự lớn mạnh của giai cấp công nhân nói riêng và của khối liên minh công - nông - trí nói chung là chỗ dựa vững chắc cho hệ thống chính trị ở nước ta, là cơ sở để xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng nước ta trong các thời kỳ.

Song, quá trình thực hiện đường lối công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa cũng bộc lộ một số hạn chế.

Trước hết, trong nhận thức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng về công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa có biểu hiện nôn nóng, duy ý chí, ham làm to về quy mô mà không chú ý đúng mức đến hiệu quả.

Quan điểm về công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ chưa được thấu suốt và cụ thể hoá nhằm từng bước tạo ra cơ cấu kinh tế kết hợp chặt chẽ giữa công nghiệp với nông nghiệp.

Một khuyết điểm rõ nhất là trong bố trí cơ cấu kinh tế thường là chủ quan, muốn đi nhanh mà lại không tính đến điều kiện và khả nǎng thực tế và không kết hợp ngay từ đầu công nghiệp và nông nghiệp thành một cơ cấu hợp lý. Nhìn chung, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra những chỉ tiêu, kế hoạch quá cao về xây dựng cơ bản, nhất là trong thời kỳ 1975-1980. Chúng ta đã không coi trọng đúng mức việc khôi phục và sắp xếp lại nền kinh tế, thiên về xây dựng công nghiệp nặng và những công trình có quy mô lớn, không tập trung sức giải quyết cơ bản nông nghiệp và công nghiệp nhẹ sản xuất hàng tiêu dùng - những ngành được xác định là cơ sở cho phát triển công nghiệp nặng. Do vậy, đầu tư cho công nghiệp nặng, xây dựng cơ bản thì nhiều so với vốn hiện có nhưng hiệu quả rất thấp.

Trên thực tế ở một số nơi, công nghiệp hoá được hiểu một cách thô thiển là cứ xây dựng nhà máy, xí nghiệp thật nhiều. Điều này đã phải trả giá khi công nghệ nhanh chóng lạc hậu, khi thị trường đã chuyển đổi cơ chế và buộc phải cạnh tranh cả lực lượng lao động và nhất là cạnh tranh sản phẩm làm ra. Điều này cũng tác động tiêu cực đến vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh đối với nền kinh tế quốc dân khi chuyển từ cơ chế tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Thứ hai là nền công nghiệp, công nghệ nước ta còn nhiều yếu kém.

Trong cơ cấu kinh tế, nông nghiệp nước ta vẫn chiếm tỷ trọng lớn, điều này phản ánh tốc độc công nghiệp hoá còn chậm và chưa vững chắc. Tỷ trọng công nghiệp trong GDP nǎm 1993 còn thấp, mới chỉ vẻn vẹn 20%, những nǎm sau có cao hơn nhưng mức tǎng không đáng kể. Tỷ trọng lao động công nghiệp chỉ chiếm khoảng 13% lực lượng lao động toàn xã hội.

Nhưng đáng chú ý là lao động thủ công còn phổ biến, phần do sử dụng máy móc làm ra trong giá trị tổng sản phẩm xã hội đến nǎm 1996 mới chiếm khoảng 35%. Công nghiệp nước ta chưa đủ sức đầu tư phát triển, khả nǎng trang bị cho nền kinh tế quốc dân, trước hết là cho sản xuất nông nghiệp chưa đáng kể.

Ngành cơ khí mà Đảng ta chủ trương ưu tiên xây dựng trong mấy chục nǎm qua rất non yếu, công nghệ lạc hậu nhanh mà không kịp thời đổi mới. Nhìn chung, ngành cơ khí chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu về các loại công cụ, máy móc, phụ tùng ít phức tạp. Các ngành công nghiệp nguyên vật liệu cơ bản chưa phát triển. Đến nǎm 1996, nước ta còn phải nhập tới 60% sắt thép, 90% nhiên liệu (trừ điện, than), 80% phân bón hoá học... Công nghiệp chế biến kém phát triển.

Nhiều doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả. Công nghiệp ngoài quốc doanh còn chiếm tỷ trọng nhỏ, kỹ thuật lạc hậu. Hệ thống môi trường pháp lý cũng như kết cấu hạ tầng chưa tạo ra điều kiện đầy đủ cho đầu tư của nước ngoài. Trình độ công nghệ nhìn chung rất lạc hậu. Mạng lưới dịch vụ công nghệ cũng như nǎng lực đánh giá, lựa chọn công nghệ còn bất cập so với yêu cầu.

Thứ ba, khoa học và công nghệ nước ta còn gặp khó khǎn và lạc hậu.

Trong sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, nước ta có công nghệ ở trình độ thấp, hệ thống thiết bị lạc hậu từ 2 đến 4 thế hệ so với thế giới, lại bị chắp vá từ nhiều nguồn và rất thô sơ (chỉ tiêu tự động hoá chưa đạt 20%). Tình hình công nghệ như vậy dẫn tới một hậu quả là tiêu hao nǎng lượng cao, ô nhiễm môi trường, nǎng suất, chất lượng hàng hoá thấp, khả nǎng cạnh tranh kém. Nǎng suất lao động công nghiệp chỉ đạt mức 30% mức trung bình của thế giới.

Công nghệ tiên tiến nhập vào nước ta chưa đáp ứng được yêu cầu. Trong các dự án liên doanh với nước ngoài, phần chi phí về vật tư, nguyên liệu nhập rất lớn, có khi quá 70%, hàm lượng công nghệ góp phần vào giá trị gia tǎng còn thấp, chỉ đạt khoảng 20%. Trong khi đó, số công nghệ được sản sinh trong nước nhờ các hoạt động nghiên cứu - triển khai còn rất ít. Trong thời đại bùng nổ thông tin nhưng tình trạng thiếu thông tin còn nhiều, thiếu cán bộ hiểu biết công nghệ và công tâm trong việc mua công nghệ nước ngoài. Việc phân bổ đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật bộc lộ nhiều nhược điểm. Tỷ lệ cán bộ khoa học và công nghệ trong doanh nghiệp còn thấp: nǎm 1990 đạt 32% (trong khi đó các nước trong khu vực đều đạt trên 50%). Việc đào tạo nghề có lúc buông lỏng, công tác đào tạo lại "hồng" nhiều kiến thức.

Hệ thống chính sách để đẩy mạnh công nghệ, phát triển đội ngũ khoa học - công nghệ, chưa cải tiến kịp thời và đồng bộ. Việc đầu tư kinh phí cho hoạt động khoa học và công nghệ từ ngân sách nhà nước hàng nǎm đều không quá 1% chi ngân sách (trong khi đó nhiều nước trong khu vực phổ biến là trên 2% - chưa kể lấy từ nhiều nguồn khác ngoài ngân sách nhà nước). Chính sách khen thưởng, đãi ngộ chưa tạo ra được động cơ hướng khoa học và công nghệ vào phát triển kinh tế, đổi mới công nghệ.

II- Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh:

Sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta hiện nay đứng trước những thuận lợi và khó khǎn mới. Đó là nước ta đã hình thành cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng nền kinh tế nước ta vẫn kém phát triển, 4 nguy cơ như Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII đã chỉ ra vẫn là những thách thức lớn đối với sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Một yêu cầu lớn đặt ra cho nước ta để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tranh thủ thời cơ, phát huy thuận lợi, khắc phục khó khǎn, đẩy lùi nguy cơ, vượt qua thử thách. Vận dụng những quan điểm của Hồ Chí Minh về công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn cách mạng mới, chúng ta có thể đề cập chủ yếu trên một số vấn đề sau đây:

Một là, trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vấn đề quan trọng là tìm và khai thác các nguồn lực. Trong các nguồn lực, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, phải coi nội lực là chính, có tính chất quyết định, nguồn lực bên ngoài đóng vai trò quan trọng.

Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh ý chí tự lực tự cường. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải là sự nghiệp của toàn dân, của các thành phần kinh tế. Tâm lý ỷ lại bên ngoài là hoàn toàn xa lạ đối với việc cần phải đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong tình hình hiện nay, hợp tác quốc tế được đặt trên một cơ sở mới khi mà hệ thống xã hội chủ nghĩa không còn, sự giúp đỡ kiểu cũ trong thời kỳ bao cấp cũng không còn thì lại càng không được ỷ lại, trông chờ. Hơn nữa, mọi sự viện trợ từ nguồn vốn bên ngoài phải được sử dụng một cách có hiệu quả nhất trên tinh thần dựa vào sức mình là chính.

Nhưng tự lực tự cường không có nghĩa là đóng cửa mà cần phải tǎng cường mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá theo đúng tư tưởng Hồ Chí Minh.

Trong quan hệ kinh tế đối ngoại phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo tư tưởng Hồ Chí Minh phải hội nhập vào nền kinh tế thế giới nhưng không hoà tan, kiên quyết giữ vững độc lập, tự chủ. Phải hợp tác trên tinh thần bình đẳng, cùng có lợi không can thiệp công việc nội bộ của nhau.

Trong tất cả các nguồn lực để phát triển đất nước nói chung và đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói riêng, Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh đến vai trò quyết định của nhân tố nguồn lực con người. Trước đây, phải phát huy nguồn lực con người, động viên toàn dân xây dựng đất nước, không ngừng tǎng đầu tư cho phát triển.

Nói đến nguồn lực con người, trong thời kỳ hiện nay, đất nước ta đang có thuận lợi và đồng thời lại có những khó khǎn lớn. Cái khó khǎn nhiều khi lại nằm trong cái thuận lợi. Chẳng han, lực lượng lao động của nước ta đông, trẻ so với tỷ lệ dân cư. Đây là lợi thế của nước ta so với nhiều nước khác trên thế giới. Có thể coi đây là "tài nguyên" quan trọng bậc nhất của nước ta.

Nhưng vấn đề đó sẽ trở thành "con dao hai lưỡi", sẽ trở thành một khó khǎn lớn khi nguồn lực con người đó có một chất lượng không bảo đảm yêu cầu cho sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nói đến chất lượng nguồn lực này, phải kể đến các yếu tố sau đây: Thế lực, sự giác ngộ chính trị; có tri thức cần thiết cho công việc của mình. Ba yếu tố trên đây là những yếu tố cơ bản trong việc xây dựng nguồn lực con người của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Điều này liên quan đến tất cả các ngành, các cấp trong việc đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục cũng như chǎm lo sức khoẻ cho con người. Hồ Chí Minh coi trọng yếu tố con người mà cơ bản là đòi hỏi phải vừa có đức, vừa có tài, trong đó đức là gốc.

Hai là: Trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, một vấn đề cơ bản được đặt ra theo tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ cấu kinh tế ở nước ta về cơ bản là cơ cấu công nông nghiệp. Hồ Chí Minh xác định nền kinh tế nước ta đi bằng hai chân: công nghiệp và nông nghiệp. Do vậy, trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trước hết phải chú trọng tới công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.

Từ một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội Hồ Chí Minh coi nông nghiệp là một cơ sở cho phát triển công nghiệp, đồng thời công nghiệp phải thúc đẩy nông nghiệp phát triển. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra ở các vùng là khác nhau thuỳ theo điều kiện của từng vùng nhưng nhìn một cách tổng thể của cả nước vẫn là cơ cấu công - nông nghiệp.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII trên vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn là phải chú trọng phát triển nông nghiệp một cách toàn diện (hiểu nông nghiệp bao gồm cả nông - lâm - ngư nghiệp), hình thành các vùng chuyên canh tập trung tạo ra nhiều hàng hoá có chất lượng cao, số lượng bảo đảm để cung ứng tốt cho nhu cầu thị trường trong nước và thị trường ngoài nước đồng thời đáp ứng tốt cho công nghiệp chế biến. Phát triển nông nghiệp toàn diện với chất lượng cao cũng là để bảo đảm an toàn lương thực cho toàn xã hội, nhân tố bảo đảm cho chính sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn còn yêu cầu phải thực hiện thuỷ lợi hoá, điện khí hoá, cơ giới hoá, sinh học hoá v.v.. Coi trọng việc đưa tiến bộ khoa học và nông nghiệp, trước hết là tạo giống, nguồn nguyên liệu lớn, chất lượng cao cho công nghiệp chế biến. Phát triển mạnh cơ sở chế biến nông - lâm - thuỷ sản và các cơ sở công nghiệp vệ tinh cho công nghiệp ở thành thị. Phát triển các ngành, các làng nghề truyền thống. Coi trọng việc giải quyết nước sạch, phát triển các công trình điện, đường, trường, trạm ở nông thôn, tạo ra bộ mặt nông thôn mới khang trang, sạch đẹp, vǎn minh.

Đồng thời với những nhiệm vụ trên, phải hoàn thành cơ bản việc giao đất, khoán rừng cho hộ nông dân, điều chỉnh việc phân bổ vốn và huy động thêm nguồn vốn cho phát triển nông - lâm - ngư nghiệp và kinh tế nông thôn. Có chính sách khuyến khích và trợ giúp nông dân trong xây dựng kết cấu hạ tầng, chuyển giao công nghệ, giải quyết các khó khǎn về vốn, về giá cả vật tư nông nghiệp và hàng nông sản, về thị trường tiêu thụ nông sảng v.v...

Ba là: Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo tư tưởng Hồ Chí Minh đòi hỏi phải đẩy mạnh việc xây dựng giai cấp công nhân.

Hồ Chí Minh luôn luôn trǎn trở với việc xây dựng giai cấp công nghiệp Việt Nam. Một yêu cầu đặt ra hiện nay là phải nhanh chóng xây dựng giai cấp công nhân đông về số lượng, mạnh về chất lượng.

Để thực hiện mục tiêu đến nǎm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, tức là lực lượng sản xuất sẽ đạt trình độ tương đối hiện đại, lao động sử dụng bằng máy móc sẽ thay thế phần lớn lao động thủ công, cơ bản thực hiện được điện khí hoá toàn quốc, nǎng suất lao động xã hội cao, GDP tǎng từ 8 đến 10 lần so với nǎm 1990, công nghiệp và dịch vụ sẽ chiếm tỷ trọng rất lớn trong GDP và trong lao động xã hội thì số lượng giai cấp công nhân Việt Nam sẽ phải phát triển vượt bậc. Không thể coi là một nước công nghiệp được khi số lượng giai cấp công nhân chỉ vẻn vẹn khoảng 5 triệu người như hiện nay.

Trong số lượng ngày càng tǎng của giai cấp công nhân, cơ cấu sẽ rất đa dạng, có mặt ở tất cả các khu vực kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân, liên doanh, kể cả trong những công ty 100% vốn nước ngoài. Trước đây, trong các nước tư bản chủ nghĩa, công nghiệp hoá phải trải qua thời gian dài hàng trǎm nǎm; vì thế cơ cấu giai cấp - xã hội cũng biến đổi một cách lâu dài. Còn với thời gian khoảng hơn 20 nǎm, ở nước ta, sự biến chuyển cơ cấu ấy là rất nhanh vì vậy còn phải chú ý đến cả sự ổn định xã hội, nghĩa là nó phải được diễn ra theo tính tất yếu sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta.

Nhưng thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta không chỉ làm cho giai cấp công nhân có sự tǎng cường về số lượng và biến đổi về cơ cấu giai cấp đó trong các khu vực kinh tế mà còn là và chủ yếu là sự tǎng cường chất lượng. Nói đến giai cấp công nhân để đảm nhận vai trò lãnh đạo cách mạng là nói đến giai cấp công nhân tiên tiến, nghĩa là công nhân của nền đại công nghiệp, hiểu theo nghĩa công nhân đã được giác ngộ sâu sắc về chính trị, về ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong đại công nghiệp và trình độ học vấn, trình độ tay nghề cao, v.v... Vì vậy, đây là một nhiệm vụ quan trọng, một yêu cầu nghiêm khắc đối với quá trình xây dựng giai cấp công nhân trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Việc xây dựng giai cấp công nhân trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là trách nhiệm của cả các tổ chức trong hệ thống chính trị, trước hết là Đảng cộng sản Việt Nam sau nữa là của các tổ chức công đoàn Việt Nam. Có thể nêu lên sau đây những giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Trong nhận thức, cần thấy rằng, việc xây dựng giai cấp công nhân và đẩy mạnh phong trào công nhân trở thành một điều kiện cơ bản để xây dựng Đảng, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa.

Vấn đề Đảng - giai cấp - dân tộc luôn luôn gắn bó chặt chẽ với nhau. Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vấn đề xây dựng giai cấp công nhân càng được đặt ra một cách cấp thiết hơn bao giờ hết, nó trở thành một trong những vấn đề cốt tử trong sự nghiệp đổi mới. Nhận thức về tầm quan trọng của việc xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ mới không phải chỉ được thể hiện trong cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, trong các chương trình hành động của các tổ chức trong hệ thống chính trị mà còn là và chủ yếu là phải được thể hiện trong hành động thực tế của cán bộ, đảng viên, của mỗi công nhân.

- Tǎng cường số lượng giai cấp công nhân đi đôi với tǎng cường chất lượng.

Việc tǎng cường số lượng giai cấp công nhân là vô cùng cấp thiết trong cả thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nhưng việc tǎng số lượng giai cấp công nhân lại hoàn toàn phụ thuộc vào tốc độ, bước đi, quy mô của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nghĩa là không phải cứ muốn là được. Nó là tất yếu khách quan, là nhu cầu tất yếu từ sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Tǎng số lượng giai cấp công nhân, không phải là công việc cơ học, lấy vào cho đủ biên chế.

Nước ta vốn là nước nông nghiệp đi lên chủ nghĩa xã hội. Trước đây, trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, công nhân Việt Nam chiếm tỷ lệ rất ít so với dân cư (khoảng hơn 1% so với dân số), trong đó công nhân đại cơ khí theo quan niệm của Mác lại càng rất ít. Tuy ít nhưng giai cấp công nhân công nghiệp vẫn đóng vai trò lãnh đạo cách mạng khi nó bước lên vũ đài chính trị, trở thành giai cấp "tự giác". Nói chung, ở giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền hội đủ những yếu tố làm thành chất lượng tốt, sự giác ngộ về tinh thần quốc tế vô sản, có tính kỷ luật, có tổ chức chặt chẽ là chủ lực quân của cách mạng, liên minh chặt chẽ với giai cấp công nhân và tầng lớp trí thức trở thành nòng cốt cho khối đại đoàn kết toàn dân, lại có Đảng Cộng sản lãnh đạo.

Nhưng đặc điểm đó chỉ nên nhấn mạnh cho thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, khi công nhân ở vào địa vị người làm thuế cho bọn tư bản. Ngày nay, công nhân đã ở vào địa vị người làm chủ, cần phải tǎng cường số lượng bằng việc đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đương nhiên không thể bất chấp những điều kiện cần thiết cho sự đẩy nhanh đó.

Chú trọng nâng cao giác ngộ giai cấp, tinh thần yêu nước, tự lực tự cường và đặc biệt là nâng cao trình độ học vấn, nghề nghiệp cho công nhân.

Trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, yêu cầu về nâng cao trình độ học vấn, trình độ chuyên môn - kỹ thuật càng được đặt ra một cách cấp thiết. Đầu những nǎm 90, nước ta đã có một đội ngũ cán bộ khoa học đáng kể, song so với nhiều nước trong khu vực thì tỷ lệ đội ngũ đó vẫn còn thấp, số cán bộ khoa học - kỹ thuật làm việc trong các doanh nghiệp chiếm tỷ lệ còn thấp hơn nữa. ở nước ta, số công nhân kỹ thuật cao còn ít. Thực trạng đó đòi hỏi phải quan tâm hơn nữa đến công tác giáo dục, đào tạo, dạy nghề... tạo ra đội ngũ công nhân có chất lượng cao. Cần khôi phục lại hệ thống các trường dạy nghề mà hiện đang bị xuống cấp nghiêm trọng.

- Chǎm lo đời sống vật chất và tinh thần của công nhân.

Đời sống của nhân dân nói chung và giai cấp công nhân nói riêng không thể vượt quá những gì đang có. Bằng các chính sách cụ thể, cần phải bảo đảm cho công nhân những điều kiện tối thiểu như: có việc làm ổn định, có chế độ bảo hiểm tốt trong cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt, cải thiện điều kiện lao động cho công nhân; tiền công của công nhân phải bảo đảm được cuộc sống cho bản thân và tối thiểu cho gia đình.

Một tình hình đã và đang xảy ra trong những nǎm gần đây khi nền kinh tế nhiều thành phần được mở ra là nhiều người có trình đọ và tay nghề cao chuyển sang làm việc cho các công ty liên doanh với nước ngoài hoặc công ty tư nhân vì ở những nơi đó họ được trả tiền công lao động cao hơn khu vực doanh nghiệp nhà nước. Đó là tình trạng "chảy máu chất xám", "chảy máy lực lượng lao động có tay nghề cao" ngay ở trong nước. Tình hình đó làm cho hoạt động của một số doanh nghiệp nhà nước gặp nhiều khó khǎn. Một trong những biện pháp để khắc phục tình hình đó là: tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh chính sách tiền lương và tiền công lao động, thực hiện đúng nguyên tắc phân phối theo lao động, có chính sách khuyến khích công nhân giỏi nghề, làm cho tiền lương, tiền công thật sự đóng vai trò là đòn bẩy kích thích lao động sáng tạo. Bên cạnh việc chǎm lo đời sống vật chất cho công nhân, cần chú trọng hơn nữa việc chǎm lo đời sống tinh thần cho họ bởi vì chính giai cấp công nhân là một trong những lực lượng trong xã hội nước ta vừa là chủ thể sáng tạo ra vǎn hoá đồng thời họ có quyền hưởng thụ các sản phẩm của vǎn hoá và đấu tranh chống những hành vi phản vǎn hoá.

- Tǎng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, vai trò của các đoàn thể chính trị - xã hội, đặc biệt là vai trò của Công đoàn trong việc tập hợp, vận động công nhân xây dựng đất nước.

Sự lãnh đạo của Đảng là một nhân tố quyết định đối với sự lớn mạnh của giai cấp công nhân Việt Nam. Đảng là đội tiên phong của giai cấp. Không thể có một giai cấp công nhân mạnh khi Đảng ta yếu, và ngược lại. Đảng phải tǎng cường bản chất giai cấp công nhân, thường xuyên quan tâm lãnh đạo xây dựng giai cấp của mình về mọi mặt, coi đó là điều kiện sống còn trong quá khứ xây dựng Đảng, xây dựng giai cấp công nhân trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Bản chất giai cấp nhà nước là bản chất giai cấp công nhân. Nhà nước là đại diện cho ý chí của giai cấp công nhân. Vì thế, xây dựng giai cấp công nhân còn là trách nhiệm của Nhà nước. Mọi chính sách của Nhà nước đều chỉ nhằm đưa lại quyền lợi cho nhân dân lao động, trong đó trước hết là cho giai cấp công nhân, bởi vì đây là lực lượng, chỗ dựa vững chắc cho sự tồn tại và phát triển của Nhà nước.

Khi đất nước bước vào thời kỳ mới, vai trò của mặt trận Tổ quốc Việt Nam càng quan trọng trong việc củng cố và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân. Tổ chức công đoàn là một tổ chức chính trị - xã hội, là thành viên của Mặt trận, đồng thời là thành viên của hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cần khắc phục tình trạng một số nơi, có lúc chưa chú trọng đến vai trò của công đoàn, cấp uỷ và chính quyền không chǎm lo đến tổ chức công đoàn, bản thân một số tổ chức công đoàn hoạt động hời hợt, nặng về hình thức.

 

 

NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000

2,3. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ ba của Đảng Lao động Việt Nam: Vǎn kiện Đại hội, Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam xuất bản, 1960, tr.65, 66-67.

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Chính sách mới có hiệu lực từ tháng 5

(ĐCSVN) - Tiêu chuẩn chức danh công chức lãnh đạo, quản lý trong cơ quan hành chính nhà nước; quy định mới về xét tặng danh hiệu "Nhà giáo nhân dân", "Nhà giáo ưu tú"; vi phạm quy định về khai thác thủy sản trong khu vực cấm bị phạt tới 90 triệu đồng;... là những chính sách mới có hiệu lực từ tháng 5/2024.

Chống khai thác thủy sản bất hợp pháp

(ĐCSVN) - Đồng chí Trương Thị Mai vừa ký Chỉ thị số 32-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác chống khai thác thủy sản bất hợp pháp, không báo cáo, không theo quy định (IUU) và phát triển bền vững ngành thủy sản.

Sớm đưa vào sử dụng các công trình, dự án hạ tầng cấp bách, trọng điểm về giao thông

(ĐCSVN) - Bộ Chính trị yêu cầu tập trung đầu tư, sớm đưa vào sử dụng các công trình, dự án hạ tầng cấp bách, trọng điểm về giao thông đường bộ, đường sắt, đường biển, đường thuỷ nội địa, đường hàng không kết nối các địa phương, vùng và khu vực, quốc tế.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

(ĐCSVN) - Các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội cần quán triệt, nâng cao nhận thức, tổ chức thực hiện nghiêm chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; xem đây là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của cả hệ thống chính trị và xã hội; là văn hoá ứng xử của mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và mỗi người dân, nhất là người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Bộ Chính trị ban hành quy định phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong điều tra, xét xử

(ĐCSVN) – Ngày 27/10/2023, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 132-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Liên kết website