Quan điểm của Đại hội XI về xu thế phát triển của lịch sử và sự lựa chọn con đường đi lên CNXH ở Việt Nam PGS.TS. Nguyễn An Ninh
Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh
I. Nhận định của ĐCS Việt Nam về xu thế phát triển của lịch sử
Nhận định về xu thế phát triển về lịch sử là nội dung rất quan trọng của các đảng công sản trong quá trình lãnh đạo nước mình thực hiện SMLS toàn thế giới của GCCN. Nhận thức đó phản ánh hai vấn đề lớn: một, nhận định về bối cảnh và xu thế chung; hai, tự giác coi cuộc cách mạng ở nước mình là một bộ phận của cách mạng thế giới. Theo đó, việc nhận thức đầy đủ và đúng đắn xu thế của lịch sử có mối quan hệ mật thiết với lộ trình, quy mô và tốc độ của cách mạng.
Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo cách mạng luôn coi ''cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới'' và đặt nó trong xu thế của thời đại. Nhận thức này liên tục được hoàn thiện thông qua Cương lĩnh chính trị và Văn kiện các Đại hội Đảng. Đại hội XI vừa qua đã đánh dấu mốc nhận thức của Đảng ta về xu thế phát triển của lịch sử thông qua 2 văn kiện quan trọng là Cương lĩnh bổ sung, phát triển và Báo cáo chính trị của ĐH XI.
Nhận định về xu thế thời đại của Cương lĩnh bổ sung và phát triển năm 2011 phản ánh đánh giá của Đảng về một giai đoạn ''từ nay đến giữa thế kỷ XXI”, hiển nhiên là đánh giá quan trọng nhất và cần được quan tâm đầu tiên. Thực chất đây là nhận thức về bối cảnh lớn của thời kỳ quá độ lên CNXH của Việt Nam. Nó thể hiện nhiều nhận thức mới so với Cương lĩnh 1991 về thời đại và thế giới trong tương lai. Có thể thấy điều đó khi so sánh 2 cương lĩnh như sau.
Về các yếu tố cấu thành nội dung của thời đại hiện nay và góp phần định hình xu thế chung của thế giới đương đại, Cương lĩnh bổ sung, phát triển những nhận thức mới sau đây:
* Một là, bổ sung nhận thức về các yếu tố kinh tế - kỹ thuật góp phần thúc đẩy và định hình xã hội hiện đại. Đây là cơ sở duy vật lịch sử để nhận định về xu thế của nó.
So với Cương lĩnh 1991, Cương lĩnh 2011 đã làm rõ hơn mấy nhân tố sau: Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại được gắn liền với kinh tế tri thức và toàn cầu hóa (thay cho quốc tế hóa). Kinh tế tri thức là trình độ mới của LLSX trong các giai đoạn xã hội hóa và toàn cầu hóa, là một trong những ''vật mang'' các thành tựu KH&CN hiện đại và cả kinh tế tri thức đến với các quốc gia. Đánh giá tác động của nó là ''sâu sắc với quá trình phát triển của các nước'' (thay cho nhận thức về tác động ''cuốn hút tất cả các nước với mức độ khác nhau'' của Cương lĩnh 1991) đã phản ánh và thể hiện rõ hơn vai trò chủ động, tự giác của chủ thể quá trình phát triển về khả năng và diện tác động của yếu tố kinh tế - kỹ thuật này.
Báo cáo chính trị ĐH XI chỉ ra tác động sâu sắc của các yếu tố này không chỉ thuần túy trên lĩnh vực kinh tế mà còn góp phần vào những nhân tố xã hội: ''Toàn cầu hoá và cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức'' thông qua quá trình ''cơ cấu lại thể chế, các ngành, lĩnh vực kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ ở các nước''. Theo đó tương quan sức mạnh kinh tế giữa các nước, nhất là giữa các nước lớn có quan hệ ảnh hưởng nhiều với nước ta, có nhiều thay đổi.
Bên cạnh đó là những tác động tiêu cực, bất ổn do toàn cầu hóa mang lại như làm chậm tốc độ phục hồi sau khủng hoảng kinh tế; ''chủ nghĩa bảo hộ phát triển dưới nhiều hình thức''; ''Cạnh tranh về kinh tế - thương mại, tranh giành các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường, công nghệ, nguồn vốn, nguồn nhân lực chất lượng cao... giữa các nước ngày càng gay gắt. Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, nước biển dâng cao, thiên tai, dịch bệnh... sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp''...Tất cả những tác động này đều thông qua ''kênh dẫn truyền'', ''vật mang'' là toàn cầu hóa.
Như vậy, nhận thức nổi bật về các yếu tố kinh tế - kỹ thuật hiện nay là vai trò rất to lớn cả chiều tích cực - thúc đẩy và chiều thách thức - đặt vấn đề của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, kinh tế tri thức trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, trình độ kinh tế tri thức của thế giới hiện đại đang phát triển ''mạnh như vũ bão'' mang lại nhiều tiền đề thuận lợi cho quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội song mặt xã hội của chúng cũng đặt ra nhiều thách thức với định hướng xã hội chủ nghĩa. Có thể thấy được một số thách thức lớn sau đây:
Thứ nhất, tình trạng bất bình đẳng xã hội sẽ tăng trong quá trình chuyển biến sang kinh tế tri thức; không phải ai cũng có điều kiện, năng lực để tiếp cận tri thức và công nghệ, theo đó phân phối theo lao động sẽ khác nhau giữa người lao động có trình độ khác nhau. Có nhà nghiên cứu gọi tình trạng thiếu tri thức - thông tin là một dạng nghèo đói - ''đói tri thức'', trong thế giới đương đại. Dạng đói này làm cho nhiều người bị tách khỏi dòng chủ lưu của phát triển. Lạc hậu về kinh tế, bất bình đẳng trong quyền được học tập là hai nhân tố chính tạo ra vấn đề này.
Thứ hai, chính trị hiện đại đang chi phối mạnh mẽ kinh tế tri thức. Biểu hiện trước tiên là lợi ích của những chủ thể tham gia vào kinh tế tri thức như các quốc gia, dân tộc; các tập đoàn kinh doanh... Quyền và lợi ích của các chủ thể này sẽ quy định mức độ tham gia, những điều khoản cho sự tham gia và sự chuẩn bị nhiều mặt cho quá trình đó. Ưu thế về kinh tế tri thức đang được chủ nghĩa tư bản khai thác, lợi dụng để tạo ra ưu thế, sự chèn ép với các quốc gia đang phát triển khác. Đó chính là những điều kiện chính trị -xã hội trong quá trình tiếp nhận - chuyển giao các sản phẩm của kinh tế tri thức: luật bảo hộ sản phẩm công nghệ, quyền tác giả - sở hữu trí tuệ, chống độc quyền, bảo hộ... Trong bối cảnh chính trị - xã hội hiện đại, muốn đi vào kinh tế tri thức không đơn giản chỉ là có tri thức, có vốn là dễ dàng bước vào trình độ này. Những rào cản, những điều luật, những ''luật chơi'' do chủ nghĩa tư bản áp đặt đang là những cản trở lớn cần phải thấy và vượt được khi chủ nghĩa xã hội hướng tới kinh tế tri thức.
Thứ ba, có một vấn đề ngày càng lộ rõ là có hai lực tác động theo hai hướng đang làm lớn dần khoảng cách với kinh tế tri thức. Vấn đề này xuất hiện ngay trong lòng các nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Và có lẽ đây là nhận thức mới được làm rõ trong thập niên gần đây. Lực thứ nhất là vươn lên, hướng tới kinh tế tri thức; Lực thứ hai, xuất phát từ một vài nhóm lợi ích mà chủ yếu là những nhóm gắn với lĩnh vực quản lý nhà nước (cán bộ và doanh nhân) nhóm này đang cố gắng níu giữ cơ chế cũ hoặc lợi dụng những kẽ hở của quản lý để trục lợi. Với nhóm này, tình trạng quản lý thiếu dân chủ, không minh bạch, cơ chế xin cho... là cơ hội để tham nhũng và lợi dụng. Trước đây, vào thập niên 90, khi mua về công nghệ cũ - lạc hậu... có thể người ta còn biện bạch rằng ''do hạn chế về nhận thức, kinh nghiệm'' nhưng các vụ án tham những ở PMU (2006), Dự án 112 CP ''Tin học hoá quản lý văn phòng'' (2007) Công ty Veđan phá hoại môi trường (2008); vụ Vinashin (2010)... là những ví dụ điển hình cho thấy biết luật mà vẫn cứ làm bừa. Chính họ cũng là lực cản trực tiếp và to lớn đối với sự phát triển kinh tế tri thức ở nước ta.
Trong tương lai gần, những nhân tố này bên cạnh những thuận lợi, cơ hội phát triển, thì khó khăn thách thức là to lớn, phức tạp và không thể xem thường. Bởi vì, những nhân tố đó không tồn tại tự thân mà luôn gắn với con người, với những lợi ích khác biệt. Điều này rõ hơn khi quan sát các yếu tố chính trị - xã hội sau đây.
Hai là, bổ sung, hoàn thiện nhận thức về các nhân tố chính trị - xã hội đương đại tác động vào xụ thế chung và thực tiễn xây dựng CNXH ở nước ta. Các nhân tố này thể hiện trên hai phương diện: xu thế lớn và những nét cơ bản của tình hình chính trị thế giới.
Đây là một trong những nội dung nhận thức được tập trung bổ sung và phát triển nhiều nhất khi so sánh hai Cương lĩnh. Cả hai đều hàm chứa những cục diện, đặc điểm và hướng vận động khá phức tạp. Tính hai mặt của tình hình và quan hệ chính trị - xã hội quốc tế hiện nay vừa định hình xu thế lớn là ''Hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển'' vừa xác nhận tính chất khó khăn, phức tạp trong quá trình thể hiện và tương tác với các biểu hiện phức tạp và có tính ly tâm với xu thế lớn: Tiêu biểu là ''...đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo, tài nguyên và cạnh tranh quyết liệt về lợi ích kinh tế tiếp tục diễn ra phức tạp''. Báo cáo chính trị Đại hội XI còn làm rõ thêm về ''các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao trong các lĩnh vực tài chính - tiền tệ, điện tử - viễn thông, sinh học, môi trường... còn tiếp tục gia tăng.''
Như vậy, các yếu tố tiêu cực và mang tính ly tâm với xu thế lớn có khá nhiều, biểu hiện đa dạng hầu khắp các lĩnh vực và chưa có khả năng giải quyết trong tương lai gần. Nhận thức rõ hiện trạng này để thấy rõ những nhân tố gây khó khăn trở ngại cho một thế giới hòa bình, dân chủ, công bằng, phát triển bền vững và quá độ lên CNXH của nhân loại. Song, lịch sử cũng chứng minh rằng, ''nhân loại bao giờ cũng chỉ đặt ra cho mình những nhiệm vụ mà nó có thể giải quyết được vì khi xét kỹ hơn, bao giờ người ta cũng thấy rằng bản thân nhiệm vụ ấy chỉ nảy sinh khi những điều kiện vật chất để giải quyết nhiệm vụ đó đã có rồi, hay ít ra cũng đang ở trong quá trình hình thành'' (C.Mác). Hai nhóm nhân tố: nhu cầu phát triển trong bối cảnh LLSX hiện đại đang phát triển mạnh mẽ và bảo vệ lợi ích của quốc gia dân tộc sẽ là các nhân tố thúc đẩy và buộc cả nhân loại phải tìm giải pháp cho những vấn đề toàn cầu. Theo đó, ''Cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ hơn, xu thế dân chủ hoá trong quan hệ quốc tế tiếp tục phát triển...''
Có ba nhóm quan hệ cùng tác động vào tình hình và định hình xu thế lớn trên của quan hệ quốc tế hiện đại:
Nhóm thứ nhất là quan hệ giữa CNXH và CNTB. Đây là quan hệ chính trị xã hội được quan tâm hàng đầu. Đánh giá về CNXH hiện thực của Cương lĩnh 2011 đã kế thừa nhiều nhận định của Cương lĩnh 1991 về vai trò to lớn của hệ thống XHCN trong thời đại ngày nay, rằng ''đã đạt những thành tựu to lớn về nhiều mặt, từng là chỗ dựa cho phong trào hoà bình và cách mạng thế giới, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội''. Điều đó cũng cắt nghĩa cho giá trị và sức sống của CNXH hiện nay, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn nhưng ''một số nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam, vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng, tiến hành cải cách, đổi mới, giành được những thành tựu to lớn, tiếp tục phát triển''. Những nguyên nhân, kinh nghiệm rút ra từ thất bại, khủng hoảng giai đoạn vừa qua sẽ là bài học quý báu để CNXH tiếp tục cải cách, đổi mới và phát triển. Vì vậy cùng những bước hồi phục của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, CNXH hiện thực cải cách và đổi mới sẽ vẫn là những chủ thể chính trị quan trọng góp phần định hình diện mạo chính trị thế giới trong tương lai.
CNTB hiện đại là mặt thứ hai của quan hệ chính trị xã hội hiện đại. Về phương pháp luận tư duy tương lai, Mác có một tư tưởng rằng ''không một hình thái xã hội nào diệt vong trước khi tất cả những lực lượng sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho phát triển, vẫn chưa phát triển, và những quan hệ sản xuất mới, cao hơn, cũng không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi trong lòng bản thân xã hội cũ.'' Cương lĩnh 2011 chỉ ra 3 nét tiêu biểu của CNTB hiện đại: 1- nó còn còn tiềm năng phát triển, 2 - về bản chất nó vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công; 3 - ''mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc và ''Chính sự vận động của những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động sẽ quyết đinh vận mệnh của chủ nghĩa tư bản. Chính những nhân tố đó sẽ góp phần định hình tương lai nhân loại. Theo đó, từ nay đến 2050, CNTB vẫn là một thực thể vừa đối lập, vừa đồng hành và có tác động qua lại với CNXH.
Nhóm thứ hai là ''Các nước đang phát triển, kém phát triển phải tiến hành cuộc đấu tranh rất khó khăn, phức tạp chống nghèo nàn, lạc hậu, chống mọi sự can thiệp, áp đặt và xâm lược để bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, dân tộc.” Theo đó, hạt nhân là vấn đề lợi ích quốc gia, dân tộc và sự ''xuất hiện các hình thức tập hợp lực lượng và đan xen lợi ích mới'' giữa các nước trong bảo vệ lợi ích ấy. Đây cần được xem là một nhận định quan trọng của các Văn kiện ĐH XI.
Có mấy nét mới của lợi ích quốc gia, dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế hiện nay. Sự mở rộng quan niệm về chủ quyền và các yếu tố lợi ích là điểm đầu tiên. Chủ quyền quốc gia được xác định trong không gian ba chiều (vũ trụ, lãnh thổ - lãnh hải và tài nguyên dưới mặt đất) và bị chi phối thêm chiều thứ tư là thời gian - triển vọng. Đó là lợi ích của các quốc gia đang phát triển trong một thế giới toàn cầu hoá và trong chiến lược toàn cầu hoá lợi ích của những nước lớn đang có tham vọng trên ''bàn cờ lớn''. Điều đáng quan tâm là do tính hữu hạn của không gian phát triển (chủ quyền và biên giới) cho nên các toan tính lợi ích của nhiều nước lớn thường mang tính chất đế quốc. Theo đó, lợi ích của một nước lớn có khi xuất hiện và được quan tâm trên mức bình thường không chỉ khi ở sát kề mà cả khi nó ở cách biên giới của họ cả ngàn dặm, khi nó là một triển vọng của vài thập niên sau, thậm chí cả thế kỷ sau. Và, nó buộc các quốc gia đang phát triển, muốn sống hoà bình yên ổn làm bạn với tất cả, không chuốc thù oán với một ai... phải coi thứ lợi ích đế quốc ấy là đối tượng để cảnh giác bằng tầm xa của tư duy chiến lược quốc phòng an ninh quốc gia.
Tranh chấp chủ quyền trên vùng lãnh hải, thềm lục địa là vấn đề đang nóng dần. Biên giới và chủ quyền quốc gia kết hợp với xung đột bởi ''biên giới mềm” sẽ vẫn là điểm nhạy cảm nảy sinh tranh chấp, xung đột quân sự. Đây sẽ là trung tâm của các vấn đề quốc tế suốt thế kỷ XXI. Hiện nay, hầu hết các đường biên trên lãnh thổ đã được xác đinh. Phần còn lại là ''miền mờ'' tương đối - là xác định lãnh hải và vùng chủ quyền. Hướng về đại dương để khai thác tài nguyên, phát triển vị thế lại đang là xu thế chung của các nước có biển, và theo đó là tranh chấp - xung đột - chiến tranh cục bộ ... Nói chung là các nguy cơ với quốc phòng an ninh quốc gia đã mở rộng ra hướng biển, từ biển mà tới. Thềm lục đia, tranh chấp chuyền vùng biển đảo sẽ là trận tuyến đầu tiên và trận địa phòng ngự của nhiều quốc gia.
Đối tượng thành đối tác và ngược lại, trong đối tác có yếu tố đối tượng trong đối tượng có mặt đối tác - chuyển hoá ấy được chuyển biến rất nhanh thậm chí chỉ trong một thập kỷ, song cũng có thể nhanh tới mức bất ngờ. Có thể xét đoán vấn đề này thông qua các động thái chính trị của các nhà cầm quyền và bang giao quốc tế. Hai yếu tố đó lại bị chi phối bởi đường lối - chiến lược mà đường lối thì bao giờ cũng từ vấn đề ý thức hệ.
Những bất trắc trong một thế giới toàn cầu hoá kinh tế sẽ mang đến cho một quốc gia đang phát triển nhiều điều rắc rối khó lường và cũng kích hoạt sớm những xung đột chủ quyền - lãnh thổ. Trước mắt, nó gây ra khủng hoảng tài chính hiện nay và làm suy giảm tốc độ tăng trưởng vài % GDP của mỗi quốc gia, làm bộc lộ những điểm yếu cốt tử của một nền kinh tế, nó làm bùng phát những vấn đề về năng lực quản lý xã hội... Đại loại là nó làm quốc gia ấy phải đối diện và phải giải quyết những vấn đề từ bên trong. Tư duy đế quốc có một giải pháp khá thông lệ là đẩy những rắc rối nội bộ ra thành xung đột ngoại biên. Chính vì thế, khi bối cảnh quốc tế hội đủ những điều ấy, thì tư duy chiến lược an ninh quốc gia của những nước đang phát triển phải bắt đầu nghĩ tới những thách thức, thử thách mới, sắp xuất hiện mà lẽ ra, có thể nó chưa tới.
Cùng với ''diễn biến hoà bình'', những âm mưu lấn chiếm, thôn tính lãnh thổ sẽ là hai nguy cơ trực diện, song hành và đặt vấn đề trực tiếp đối với tư duy về quốc phòng - an ninh quốc gia. Nó kết hợp tới hàng loạt học thuyết mới trên thế giới về kinh tế - quân sự và chính trị để tạo ra nhiều tình huống có vấn đề cho tư duy chiến lược. Bảo vệ chế độ chính trị và bảo vệ toàn vẹn chủ quyền quốc gia sẽ là hai vấn đề thường trực và có quan hệ biện chứng trong tư duy và hành động của chiến lược xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Nhóm vấn đề thứ ba là những vấn đề toàn cầu cấp bách có liên quan đến vận mệnh loài người buộc toàn thể nhân loại phải cùng quan tâm và chung sức giải quyết. ''Đó là giữ gìn hoà bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, chống khủng bố, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, hạn chế sự bùng nổ về dân số, phòng ngừa và đẩy lùi những dịch bệnh hiểm nghèo...''
Nếu như lợi ích quốc gia dân tộc là nhân tố có tính chia rẽ tiềm tàng các quốc gia trong bối cảnh hiện nay, thì những vấn đề toàn cầu cấp bách lại buộc họ phải quan tâm và xích lại gần nhau. ''Việc giải quyết những vấn đề đó đòi hỏi sự hợp tác và tinh thần trách nhiệm cao của tất cả các quốc gia, dân tộc''. Quá trình phát triển của Việt Nam cũng không thề tách rời bối cảnh và tính quy định của những xu thế xuất hiện từ các nhân tố chính trị - xã hội của bối cảnh ấy.
Theo đó, ''Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc.''
II. Về sự lựa chọn con đường đi lên CNXH ở Việt Nam
Cương lĩnh 2011 nêu 3 luận cứ cơ bản cho sự khẳng định ''Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tich Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử.''
CNXH - khát vọng của nhân dân Việt Nam. Tổ quốc được độc lập - tự do - hạnh phúc, đất nước được thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh... là những khát vọng lớn lao mà cụ thể, bình dị của cả dân tộc Việt Nam nhiều thế kỷ nay. Có mối quan hệ biện chứng giữa CNXH với tư cách là một chế độ chính trị - xã hội với các khát vọng trên. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, những khát vọng ấy đã từng bước được hiện thực hóa và luôn nằm trong lộ trình của con đường đi lên CNXH của Việt Nam. Thời kỳ đổi mới chính là quãng thời gian mà những mục tiêu, khát vọng trên của cả dân tộc đạt được nhiều thành tựu to lớn và có ý nghĩa lich sử. Tiếp tục đẩy mạnh toàn diện và sâu sắc sự nghiệp đổi mới theo định hướng XHCN là để thực hiện những khát vọng đó của cả dân tộc.
Chính từ góc độ tiếp cận này, CNXH ở Việt Nam tìm được sự đồng thuận lớn của cả dân tộc với mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền CNXH.
CNXH - sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc chỉ có con đường của chủ nghĩa Mác - Lênin, xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh và công bằng để ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành… đó là những mục đích mà Chủ tịch Hồ Chí Minh trọn đời cống hiến và cũng là quan niệm cụ thể của Người về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Và suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người đã tận hiến cho mục tiêu ấy.
Được Chủ tich Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện, Đảng Cộng sản Việt Nam đã giữ vững định hướng XHCN trong quá trình lãnh đạo dân tộc hơn 80 năm qua. Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là ngọn cờ mà Đảng luôn gương cao và cũng chính từ đây định hình sức mạnh và xu thế phát triển của Dân tộc trong thời gian tới. Đảng ta cũng ý thức được rằng: “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan.” Và, nguy cơ hàng của một đảng lãnh đạo - cầm quyền là “sai lầm về đường lối”. Vì vậy, định hướng quá trình phát triển của đất nước, bên cạnh khát vọng của dân tộc, trước hết phải căn cứ vào những điều kiện khách quan và xu thế của lịch sử.
Đi lên CNXH là phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã vạch ra nguyên nhân sâu xa cho sự ra đời của CNXH chính là từ xu thế xã hội hóa của LLSX hiện đại, từ xu thế dân chủ hóa đời sống chính trị. Xu thế ấy ngày càng rõ trong thực tế kinh tế - chính trị hiện đại. Vài thập niên gần đây, bất cứ thể chế chính trị nào không ý thức được và tuân theo những xu thế ấy đều gặp khủng hoảng chính trị và suy thoái kinh tế. Những cuộc khủng hoảng lớn của mô hình CNXH ở Liên xô và Đông Âu, cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế hiện nay ở ngay những nước trung tâm của CNTB, những rối ren về chính trị xã hội gần đây ở các nước vùng Bắc Phi... xác nhận điều đó.
Cũng từ thực tế, người ta thấy rằng, các biện pháp khắc phục khủng hoảng, nếu xa rời xu thế xã hội hóa và dân chủ hóa đều không có kết cục tốt đẹp. Thất bại của cải tổ ở Liên xô, Đông Âu trước đây là ví dụ điển hình về những sai lần trong tư nhân hóa kinh tế và sai lầm khi lựa chọn giải pháp đa nguyên chính trị và đa đảng đối lập khi phát triển dân chủ theo kiểu phương Tây. Cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế thế giới gần đây (từ năm 2008) tuy chưa đến hồi kết, song có điều rõ ràng là người ta đã thừa nhận rằng: ''chủ nghĩa tự do mới đã thất bại''; CNTB hiện đại đã phải tiếp tục điều chỉnh theo hướng xã hội hóa bằng cách tăng cường vai trò quản lý của nhà nước, điều tiết, hạn chế vai trò ''bàn tay vô hình'' của thị trường, quan tâm hơn đến lợi ích của xã hội...Thực tế này xác nhận lời của Lênin: ''Ngày nay thì chủ nghĩa xã hội đang hiện ra trực tiếp, trên thực tiễn, trong mỗi biện pháp quan trọng tạo thành một bước tiến trên cơ sở chủ nghĩa tư bản hiện đại ấy''1.
Cần lưu ý rằng, quá trình điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản hiện đại trước tiên là để củng cố, duy trì sự thống trị của bản thân nó. Đó là cái cơ bản để tạo ra độc quyền vốn khoa học và công nghệ cho chủ nghĩa tư bản và tạo sức mạnh thách đố, lấn át ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội hiện thực. Chủ nghĩa đế quốc cũng chưa bao giờ từ bỏ dã tâm ngăn chặn, tiêu diệt chủ nghĩa xã hội trên thế giới. Hiện nay, và trong vài thập niên tới, không loại trừ những hành động phiêu lưu của chủ nghĩa đế quốc gây xung đột nội bộ, bao vây, cấm vận...có thể gây nhiều khó khăn cho chủ nghĩa xã hội. Đồng thời sự phát triển của chủ nghĩa tư bản cũng tạo ra ngày càng nhiều nhân tố tự phủ định nó và cũng không loại trừ khả năng tiến hoá - diễn biến hòa bình ngay trong một số nước tư bản.
Thế giới hiện nay đang vận động khá phức tạp với nhiều khuynh hướng và nhân tố, song có một ''mẫu số chung'' là ''hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển là xu thế lớn''.
Hai nhân tố cơ bản sau quy định điều đó:
Nhân tố thứ nhất là sự phát triển mạnh mẽ của LLSX hiện đại với các biểu hiện là kinh tế tri thức và toàn cầu hóa kinh tế. Nhân loại đang bước vào một trình độ mới của sản xuất trên cơ sở của tri thức khoa học và công nghệ hiện đại. Vai trò của tri thức ngày càng tăng đối với tăng năng xuất lao động xã hội, sử dụng tối ưu tài nguyên và bảo vệ môi trường sinh thái...là một thực tế. Song cần nhận rõ, tri thức ở đây khá đa dạng, gồm tri thức - kỹ năng để sản xuất, tri thức được hoá thân vào công nghệ, tri thức để quản lý quá trình sản xuất và để marketing sản phẩm, giúp nó trở thành hàng hoá... chứ không chỉ là tri thức trừu tượng hay chỉ để thoả mãn nhu cầu nhận thức. Thực tiễn sản xuất hiện đại và quan điểm duy vật về lịch sử cho chúng ta hiệu rõ hơn rằng, tri thức chỉ trở thành một nguồn lực, một lực lượng sản xuất trực tiếp khi nó được gắn kết, hoá thân vào công nghệ và sức lao động. Đây là giá đỡ vật chất của tri thức, là điều kiện để tri thức hiển thị vai trò của nó. Chỉ có thể hiệu rõ vai trò là nguồn lực trong phát triển của tri thức khi tiếp cận nó từ góc độ này. Bản thân tri thức không thôi, tự nó chưa làm ra của cải vật chất. Nhận thức này hàm ý, muốn sử dụng kinh tế tri thức làm công cụ để thúc đẩy quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam thì cần phải chú ý tới mặt xã hội của vấn đề: công bằng trong điều kiện học tập và nâng cao trình độ văn hoá tay nghề; tạo điều kiện cho những người lao động (công nhân, trí thức và nông dân) tiếp cận với công nghệ ở trình độ kinh tế tri thức để từ đó làm chủ và sáng tạo ra công nghệ mới; làm tăng hàm lượng chất xám trong hàng hoá v.v. Mặt khác, muốn có một bối cảnh, môi trường xã hội thuận lợi để hướng tới và khai triển những ưu việt của kinh tế tri thức thì chỉ có CNXH đích thực mới có thể tạo ra không gian xã hội cho mỗi người và cho mọi người phát huy nhĩmg năng lực sáng tạo một cách tự do và toàn diện.
Nhân tố thứ hai chính là vấn đề lợi ích quốc gia, dân tộc trong bối cảnh chính trị hiện đại. Có hai lực chi phối lợi ích này: sức phát triển của LLSX hiện đại, phân công lao động quốc tế thì khiến cho các quốc gia buộc phải liên hệ, chấp nhận sự tương tác, cộng sinh với nhau; còn tính chất của QHSX, lợi ích cục bộ và tư duy thiển cận về lợi ích quốc gia dân tộc lại là tác nhân khiến cho xuất hiện các xung đột, chia rẽ và “Xuất hiện các hình thức tập hợp lực lượng và đan xen lợi ích mới.” Hai lực này dường như trái chiều và gây nên khá nhiều tình huống cho chính trị thế giới: đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo, tài nguyên và cạnh tranh quyết liệt về lợi ích kinh tế tiếp tục diễn ra phức tạp…
Tuy vậy, một điều rõ nét là thế giới dường như đang tái cấu trúc lực lượng theo hướng: ''Tình hình thế giới trong hơn một thập kỷ qua, nổi lên mâu thuẫn gay gắt giữa một bên là thế lực hiếu chiến mưu toan thống trị thế giới và các thế lực theo đuôi chúng, với một bên là nhân dân lao động và các lực lượng đấu tranh chống chiến tranh, chống chủ nghĩa bá quyền, bảo vệ hòa bình, độc lập dân tộc, chủ quyền, sự bình đẳng giữa các quốc gia và lợi ích mỗi nước.''2 Theo đó, sẽ là một trật tự mới sẽ dần được xác lập theo nguyên tắc hai cực, một bên là CNXH, nhân loại tiến bộ đang đấu tranh vì dân chủ, chủ quyền quốc gia dân tộc, tiến bộ xã hội và quyền phát triển... Và bên kia, là các thế lực của chủ nghĩa đế quốc, các tập đoàn tư bản, các nước theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan các thế lực cực hữu nắm chính quyền, bọn phản động khủng bố quốc tế... Quan niệm này sẽ giúp chúng ta có một cái nhìn rõ nét hơn về cuộc đấu tranh chính trị hiện đại. CNXH vẫn là một giải pháp và một lực lượng để thế giới hòa bình, dân chủ và phát triển.
Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam cần nhận thức rõ và được đặt vào trong xu thế đó./.
___________
Tính đúng đắn của sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lê, n chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) PGS, TS. Lê Văn Yên
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng vừa qua đã thông qua nhiều văn kiện quan trọng, thể hiện sự kết tinh trí tuệ và ý chí của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thới kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) có giá trị định hướng và chỉ đạo sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta trong suốt hai thập kỷ qua. Những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của đất nước trong 20 năm qua chứng minh tính đúng đắn của Cương lĩnh (năm 1991). Tuy nhiên, từ đó đến nay, tình hình thế giới và trong nước đã có những biến đổi to lớn và sâu sắc. Nhiều vấn đề mới nảy sinh, nhiều nội dung liên quan được Đảng ta nhận thức sâu sắc và giải quyết có hiệu quả, trong đó có nhận thức về xu thế phát triển của lịch sử và tính đúng đắn của việc lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội Việt Nam được phản ánh trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011).
1. Nhận thức xu thế phát triển của lịch sử
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) nêu một cách khái quát, cô đọng những đặc điểm cơ bản, những xu thế chủ yếu, các phong trào, các nhân tố chi phối sự vận động của thế giới, từ đó chỉ ra những thời cơ và thuận lợi, những thách thức và khó khăn. Với tinh thần đó, Cương lĩnh nhận định “Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh quốc tế có những biến đổi to lớn và sâu sắc”. Dưới đây xin điểm qua một số xu thế chính.
- Xu thế toàn cầu hóa. Tất thảy chúng ta đều biết, thế giới ngày nay đang bước vào thời kỳ sôi động chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, thế giới nảy sinh hàng loạt vấn đề mới mẻ, phức tạp. Trật tự hai phe, hai cực, hai hệ thống bị phá vỡ, thế giới diễn ra quá trình sắp xếp lại trật tự mới đa cực, yếu tố dân tộc trở thành một đặc điểm cực kỳ quan trọng. Đến nay, cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ hơn, xu thế dân chủ hóa trong quan hệ quốc tế tiếp tục phát triển, nhưng các nước lớn vẫn sẽ chi phối các quan hệ quốc tế. Toàn cầu hóa và cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và kinh tế tri thức đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, đang làm thay đổi căn bản tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất và đẩy nhanh quá trình phân công và hợp tác quốc tế.
Tình hình đó đặt ra cho mỗi quốc gia, dân tộc những thời cơ mới to lớn và những thách thức mới ngặt nghèo. Đặc biệt, cuộc cách mạng này cùng với quá trình toàn cầu hóa tạo ra hàng loạt cơ hội cho sự phát triển kinh tế ở mỗi nước, mỗi khu vực và toàn thế giới. Quá trình này tạo ra điều kiện cho các nước tham gia vào quá trình giao lưu, liên kết, hợp tác giữa các nước ngày càng tăng, mỗi nước trở thành một bộ phận của thế giới mở, làm cho cả thế giới là một thị trường phân công lao động, hợp tác quốc tế hết sức năng động, cả thế giới thành môi trường chung trước một sự kiện nổi bật. Văn hóa, thể thao, du lịch... mang nhiều nét toàn cầu hóa. Chưa khi nào thế giới đạt được những thành tựu như hiện nay. Toàn cầu hóa là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia với cả thời cơ và nguy cơ, vừa có mặt tiêu cực, vừa có mặt tích cực. Nước nào chấp nhận và hội nhập với thế giới thì có thời cơ phát triển; ngược lại, nước nào không chấp nhận và không theo xu thế đó sẽ bị bỏ rơi, tụt hậu. Tuy nhiên, mặt trái của nó cũng ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của các nền kinh tế, nhất là các nước đang phát triển.
Vì thế, Cương lĩnh nêu: “Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến sự phát triển của nhiều nước”.
- Xu thế tiềm ẩn những nhân tố mất ổn định và những vấn đề toàn cầu cấp bách. Có thể thấy, sau chiến tranh lạnh, hòa bình, hợp tác, phát triển trở thành nhu cầu bức thiết đối với các quốc gia, dân tộc. Muốn hội nhập, hợp tác quốc tế có hiệu quả, các nước trước hết hướng tới việc hợp tác khu vực, lấy thế mạnh khu vực để hợp tác quốc tế. Bởi lẽ, hợp tác khu vực có nhiều lợi thế: cận kề về địa lý, gần gũi về văn hóa, phong tục tập quán có nét tương đồng, có cùng mối quan tâm trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, điển hình như Liên minh châu Âu, khu vực các nước ASEAN, khu vực các nước Mỹ La tinh...
Hòa bình, liên kết, hợp tác, phát triển tuy là xu thế lớn, nhưng còn tiềm ẩn những bất trắc, nhân loại đang đối mặt với những vấn đề toàn cầu cấp bách. Tình hình thế giới gần đây cho thấy những chuyển biến mau lẹ, khó lường. Đó là: Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới vẫn tồn tại và phát triển, có mặt sâu sắc hơn, nội dung và biểu hiện có nhiều nét mới, đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức. Xung đột sắc tộc, tôn giáo, chiến tranh cục bộ, hoạt động can thiệp lật đổ, khủng bố đang diễn ra gay gắt. Các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống, tội phạm lợi dụng công nghệ cao gia tăng. Khủng hoảng tài chính, tiền tệ, năng lượng... tiếp tục diễn biến phức tạp. Kinh tế thế giới mặc dù đang trên đà phuc hồi sau khủng hoảng, nhưng còn nhiều khó khăn, bất ổn. Chủ nghĩa bảo hộ phát triển dưới nhiều hình thức. Cơ cấu lại thể chế, ngành, lĩnh vực kinh tế diễn ra mạnh mẽ. Tương quan sức mạnh kinh tế giữa các nước có nhiều thay đổi. Cạnh tranh kinh tế, thương mại, tranh giành các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường, công nghệ, nguồn vốn, nhân lực chất lượng cao... giữa các nước ngày càng gia tăng.
Hiện nay, nhân dân thế giới đang đứng trước những vấn đề toàn cầu cấp bách: giữ gìn hòa bình, nguy cơ chiến tranh, khủng bố quốc tế, an ninh tài chính, năng lượng và lương thực, biến đổi khí hậu, nước biển dâng cao, bùng nổ dân số, thiên tai, dịch bệnh hiểm nghèo... đang diễn biến gia tăng và phức tạp. Những vấn đề trên, một nước không thể làm nổi, đòi hỏi sự hợp tác với tinh thần trách nhiệm cao của tất cả các quốc gia, dân tộc mới có thể giải quyết được.
Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có Đông Nam Á, là khu vực phát triển năng động. Kinh tế khu vực này phát triển với tốc độ cao trong ba thập kỷ qua, đã thực hiện quá trình liên kết kinh tế, khu vực hóa thương mại và mở rộng quan hệ thương mại quốc tế. Song, khu vực này cũng tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định, đặc biệt là tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo ngày càng gay gắt, xuất hiện các hình thức tập hợp lực lượng và đan xen lợi ích mới. Khu vực Đông Nam Á tuy còn nhiều khó khăn, thách thức, nhưng tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong khu vực.
Vì thế, Cương lĩnh ghi: ''Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những hình thức và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển. Hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển đang là xu thế lớn; nhưng đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo, tài nguyên và cạnh tranh quyết liệt về lợi ích kinh tiếp tục diễn ra phức tạp. Khu vực Châu Á- Thái Bình Dương và Đông Nam Á phát triển năng động, nhưng cũng tiềm ẩn những nhân tố mất ổn định. Tình hình đó tạo thời cơ phát triển, đồng thời đặt ra những thách thức gay gắt, nhất là đối với những nước đang và kém phát triển''.
- Xu thế phục hồi và tăng cường ảnh hưởng của các Đảng Cộng sản. Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước đây đã từng là thành trì của chủ nghĩa xã hội thế giới, là lực lượng chủ yếu giữ gìn hòa bình, ngăn ngừa chiến tranh hạt nhân. Nhưng do duy trì quá lâu những khuyết tật của mô hình cũ của chủ nghĩa xã hội, chậm trễ trong tiếp thu cách mạng khoa học và công nghệ, lại bảo thủ, trì trệ, duy ý chí, đã lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Đảng Cộng sản và công nhân ở các nước này không còn nắm vai trò lãnh đạo, nên dẫn đến sụp đổ. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước chủ nghĩa xã hội Đông Âu, chủ nghĩa xã hội hiện thực thế giới lâm vào giai đoạn khó khăn nhất. Một số nước theo con đường xã hội chủ nghĩa như Trung Quốc, Việt Nam, Cuba... vẫn kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, nhạy bén trước thời cuộc kịp thời tiến hành cải cách, đổi mới, nên đã giành được những thành tựu to lớn và tiếp tục phát triển.
Sau những biến động lịch sử cuối thế kỷ XX, xu thế phục hồi và tăng cường ảnh hưởng của các Đảng Cộng sản và công nhân xuất hiện là do bản thân phong trào có bước thích nghi mới đối với thời đại, đã kịp thời đúc rút những bài học kinh nghiệm sau khi đổ vỡ, đã có sự tập hợp lực lượng dưới nhiều hình thức, đã tìm lại được vị trí của mình. Các nước xã hội chủ nghĩa, các Đảng Cộng sản và công nhân, các lực lượng tiến bộ trên thế giới kiên trì đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Gần đây, phong trào cánh tả ở Tây Âu và Mỹ Latinh có bước phát triển mới, đặc biệt là phong trào ''Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XIX'' nổi lên ở nhiều nước Mỹ Latinh. Xu thế này khẳng định sức sống của lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đồng thời khẳng định đường lối cải cách, đổi mới đúng hướng và có nguyên tắc của các nước xã hội chủ nghĩa là có sức thuyết phục. Tuy nhiên, các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, phong trào cộng sản, công nhân cánh tả còn gặp nhiều khó khăn, bởi các thế lực thù địch tiếp tục chống phá, tìm mọi cách để xóa bỏ chủ nghĩa xã hội trên hành tinh chúng ta.
Vì thế, Cương lĩnh nêu rõ: “Trong quá trình hình thành và phát triển, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác đã đạt được những thành tựu to lớn về nhiều mặt, từng là chỗ dựa cho phong trào hòa bình và cách mạng thế giới, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ là tổn thất lớn đối với phong trào cách mạng thế giới. Một số nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam, vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng, tiến hành cải cách, đổi mới, giành được những thành tựu to lớn, tiếp tục phát triển; phong trào cộng sản công nhân quốc tế có những bước phục hồi”.
- Xu thế độc lập tự chủ, chống sự can thiệp, áp đặt. Hiện nay, các quốc gia, dân tộc đều nâng cao ý thức độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đấu tranh chống lại sự áp đặt và can thiệp của nước ngoài. Các nước độc lập đang đấu tranh bảo vệ độc lập chủ quyền về kinh tế, văn hóa, củng cố độc lập về chính trị. Để hội nhập khu vực và hội nhập quốc tế có hiệu quả và không bị “hòa tan” nhất thiết các nước phải tự khẳng định tính tự chủ và chủ quyền quốc gia, dân tộc, phải giữ vững độc lập về chính trị và kinh tế, đồng thời phải chống mọi sự can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia mình. Đặc biệt là phải chống áp đặt cái gọi là ''giá trị phương Tây'' của chủ nghĩa tư bản đối với các quốc gia độc lập, có chủ quyền. Chỉ có độc lập, tự chủ mới có thể hội nhập trong thế giới đa cực một cách bền vững. Tuy nhiên, đây là cuộc đấu tranh gay go, phức tạp trước âm mưu ''toàn cầu hóa tư bản chủ nghĩa'' của chủ nghĩa đế quốc hiện đại.
Vì thế, Cương lĩnh nêu: “Các nước đang phát triển, kém phát triển phải tiến hành cuộc đấu tranh rất khó khăn, phức tạp chống nghèo nàn, lạc hậu, chống lại sự can thiệp, áp đặt và xâm lược để bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, dân tộc”.
- Xu thế vận động của chủ nghĩa tư bản. Thực tế vừa qua, chủ nghĩa tư bản có sự điều chỉnh, nhờ ứng dụng những thành tựu mới của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, cải tiến phương pháp quản lý, thay đổi cơ cấu sản xuất, điều chỉnh các hình thức sở hữu và chính sách xã hội để thích nghi, để điều hòa mâu thuẫn, vươn lên khá hơn. Song, những thay đổi đó không làm mất đi mâu thuẫn nội tại thuộc bản chất của nó với tư cách là một chế độ xã hội dựa trên sự áp bức, thống trị và bóc lột. Đó là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa sản xuất ngày càng cao đến mức đa quốc gia, siêu quốc gia, khu vực hóa, quốc tế hóa với chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất ngày càng sâu tập trung vào tay một số ít nhà tư bản kếch sù. Thậm chí những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản gay gắt hơn trước rất nhiều. Tình trạng cạnh tranh, cá lớn nuốt cá bé, bất bình đẳng về sở hữu và phân phối, phân hóa giàu nghèo ngày càng quyết liệt, xã hội đầy rẫy những tệ nạn tiêu cực, bất công, đạo đức băng hoại, v.v.. Rõ ràng, chủ nghĩa tư bản không phải là xu thế phát triển của lịch sử. Biện chứng khách quan của lịch sử là chính những phương tiện mà chủ nghĩa tư bản đã tạo ra trở thành phương tiện chống lại và đưa chủ nghĩa tư bản đến chỗ tự phủ định mình.
Vì thế, cương lĩnh cũng nêu: “Hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng trở nên sâu sắc. Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội, vẫn tiếp tục xảy ra. Chính sự vận động của những mâu thuẫn nội tại đó và các cuộc đấu tranh của nhân dân lao động sẽ quyết định vận mệnh của chủ nghĩa tư bản”.
Sau khi chỉ rõ sự biến đổi nhanh chóng của tình hình quốc tê với các xu hướng lớn trên đây, Cương lĩnh nhấn mạnh: “Đặc biệt nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập, dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp khó khăn thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”.
2. Tính đúng đắn của việc lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là vấn đề lý luận và thực tiễn rất cơ bản. Nó không chỉ liên quan đến nhận thức, ý chí cách mạng, đến đường lối chính sách, mà còn liên quan đến lý tưởng, mục tiêu và phương hướng đi lên của đất nước. Chúng ta đều biết, lựa chọn mục tiêu con đường đi lên chủ nghĩ xã hội không thể làm việc tùy tiện, cảm hứng chủ quan, mà đây thực sự là vấn đề khoa học rất nghiêm túc, là trách nhiệm thiêng liêng trước dân tộc và đất nước.
Đảng và nhân dân ta không chọn con đường tư bản chủ nghĩa là vì: thời đại ngày nay không phải là thời đại của chủ nghĩa tư bản và theo quy luật phát triển của lịch sử, chủ nghĩa tư bản sẽ bị phủ định. Thực tiễn lịch sử tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản cho thấy đó là lịch sử của máu và nước mắt. Vì thế, nó không phải là mẫu mực để cho chúng ta noi theo. Sở dĩ Đảng và nhân dân ta kiên định con đường xã hội chủ nghĩa mặc dù biết rõ đây là sự nghiệp vô cùng khó khăn, phức tạp và hiện thời chủ nghĩa xã hội thế giới đang lâm vào thoái trào, vì đây là con đường phát triển hợp quy luật khách quan của lịch sử nhân loại.
Ở Việt Nam, lịch sử đã giải quyết vấn đề lựa chọn này từ những năm 20 của thế kỷ XX. Từ thực tiễn bôn ba tìm đường cứu nước, lặn lội trong phong trào đấu tranh cách mạng, Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận: “Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”, “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Chủ nghĩa Mác – Lênin như Hồ Chí Minh đã từng nói là “cái cẩm nang thần kỳ”, là “kim chỉ nam” giúp Người tìm ra con đường đó. Người vui sướng và xúc động cho rằng: “Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”.
Tìm ra con đường cứu nước theo phương hướng xã hội chủ nghĩa là công lao vĩ đại đầu tiên của Hồ Chí Minh. Kể từ đây Người thực hiện quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học về Việt Nam, tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930. Có thể nói, Hồ Chí Minh là người đầu tiên chọn con đường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Chủ nghĩa xã hội là con đường đúng đắn, là sự lựa chọn sáng suốt có ý nghĩa thời đại, thể hiện vị trí anh minh, linh khiếu chính trị tuyệt vời, một tình cảm giai cấp và dân tộc sâu sắc của Hồ Chí Minh. Ngay trong Chính cương vắn tắt được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng tháng 2 năm 1930, Người đã nêu: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”, tức là tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Trung thành với mục tiêu và con đường mà lãnh tụ Hồ Chí Minh đã lựa chọn, Đảng ta chủ động vận dụng trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể với những nhiệm vụ và phương pháp cụ thể. Cương lĩnh chính trị tháng 10 – 1930 của Đảng đã nêu rõ: “Tiến hành cách mạng dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo, tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa”. Chính cương Đảng Lao động Việt Nam được thông qua Đại hội lần thứ II của Đảng tháng 2 – 1951 cũng nêu rõ: “Cách mạng Việt Nam hiện nay là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) kết luận: “ Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đó là bài học xuyên suốt nước ta”. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2001) một lần nữa khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”.
Nêu lại những quan điểm trên đây để khẳng định tính đúng đắn và nhất quán của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Bởi đây là sự lựa chọn của chính lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khoát từ năm 1930 với sự ra đời của Đảng ta do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện. Có thể nói, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được đặt ra ngay từ đầu và trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong đường lối của Đảng, là quy luật của cách mạng Việt Nam. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc.
Con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta lựa chọn nhất thiết phải trải qua thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen. Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc.
Những bài học lớn trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) PGS,TS. Nguyễn Trọng Phúc
Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng tổng kết thực tiễn, làm rõ những kinh nghiệm, những bài học có giá trị. Đó là cơ sở rất cần thiết và quan trọng để phát triển sáng tạo và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận của cách mạng Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: ''Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác - Lênin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta''1. Người nhiều lần nhấn mạnh, lý luận là sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn trong quá trình lịch sử, đó là lý luận chân chính. Không coi trọng tổng kết kinh nghiệm, bài học sẽ không thể có lý luận, càng không thể phát triển lý luận. Và đương nhiên phát triển lý luận là để soi sáng thực tiễn bảo đảm cho thực tiễn vận động, phát triển đúng hướng có hiệu quả. Hồ Chí Minh cho rằng lý luận phải kết hợp chặt chẽ với thực tiễn.
Từ thực tiễn lãnh đạo cách mạng, Đảng đã sớm nhận thức tầm quan trọng và ý nghĩa của những kinh nghiệm và bài học tổng kết từ quá trình lịch sử. “Tổng kết kinh nghiệm là một phương pháp hết sức quan trọng để nâng cao trình độ lý luận và năng lực công tác của cán bộ, đảng viên''2.
Quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới theo con đường xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam tại các Đại hội đại biểu toàn quốc đã tổng kết những bài học lớn có giá trị lý luận và thực tiễn. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng rõ hơn, đường lối, Cương lĩnh của Đảng ngày càng được bổ sung, phát triển hoàn thiện hơn mang lại những thành tựu to lớn, một phần rất quan trọng là dựa trên tổng kết những kinh nghiệm, những bài học đó.
Cương lĩnh là văn kiện cơ bản của Đảng định rõ mục tiêu chiến lược của sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc trong một thời kỳ tương đối dài, xác định lực lượng, động lực, phương hướng cơ bản và các giải pháp chủ yếu để thực hiện có hiệu quả mục tiêu và phương hướng đó. Để bảo đảm tính khoa học và hiện thực của Cương lĩnh, nhất thiết phải tổng kết chặng đường lịch sử đã qua với những kinh nghiệm, bài học cần thiết. Cương lĩnh năm 1991 do Đại hội VII Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua (6.1991) đã nêu lên 5 bài học chủ yếu. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) do Đại hội XI của Đảng thông qua (1.2011) cũng đã nêu bật 5 bài học chủ yếu. Đó là sự tổng kết 81 năm Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam và nhất là 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991.
''Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau''3. Đây là bài học lớn xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam có ý nghĩa như một quy luật phát triển tất yếu của cách mạng và dân tộc Việt Nam trong thời đại mới". Ngay từ Cương lĩnh đầu tiên (2.1930) Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh sáng lập đã xác định rõ con đường phát triển của cách mạng là làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập để đi tới xã hội cộng sản. Mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được kiên trì thực hiện trong tất cả các thời kỳ phát triển của cách mạng. Có thời kỳ, độc lập dân tộc đặt lên hàng đầu và trực tiếp, chủ nghĩa xã hội là định hướng đi tới (1930-1954); có thời kỳ cả hai mục tiêu chiến lược đó được thực hiện đồng thời, có quan hệ mật thiết và quyết định lẫn nhau (1954-1975) và từ sau 1975, nhất là từ khi thực hiện công cuộc đổi mới, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được nhận thức và thực hiện với những nội dung và thành tựu mới đã khẳng định giá trị khoa học và hiện thực của con đường gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã lựa chọn - sự lựa chọn dứt khoát từ năm 1930 khi Đảng ra đời.
Trong công cuộc đổi mới từ năm 1986, Đảng đã từ kinh nghiệm trong nước và quốc tế, sớm đề ra những nguyên tắc chỉ đạo quá trình đổi mới. Một trong những nguyên tắc đó là: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của nước ta, là sự lựa chọn sáng suốt của Bác Hồ và của Đảng ta. Xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, là lý tưởng của Đảng và nhân dân ta. Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp''4.
Trải qua một phần tư thế kỷ đổi mới, nhận thức về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đã không ngừng phát triển. Độc lập dân tộc là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển đảo của Tổ quốc; là bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ cuộc sống của nhân dân; là bảo vệ công cuộc đổi mới và con đường phát triển độc lập tự chủ của đất nước; là bảo vệ giá trị truyền thống, và văn hóa dân tộc; là giữ gìn môi trường hòa bình, hữu nghị, hợp tác với tất cả các nước và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế. Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội được Đảng và nhân dân Việt Nam nhận thức ngày càng sáng tỏ hơn cả về mục tiêu, mô hình; nội dung và khả năng bỏ qua chủ nghĩa tư bản để tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội và những giải pháp cần thiết để thực hiện mục tiêu của chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Độc lập dân tộc là khát vọng cao cả của toàn dân tộc, mục tiêu chiến lược của Đảng, nhưng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh, nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì. Vì vậy, độc lập phải đi tới chủ nghĩa xã hội để giải phóng triệt để giai cấp, xã hội và con người, mang lại tự do, hạnh phúc thật sự cho mọi người. Cương lĩnh năm 2011 nêu rõ: Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau.
“Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Trong tác phẩm Đường cách mệnh (1927) lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh nêu rõ: ''cách mệnh là việc chung của dân chúng chứ không phải việc một hai người''5. Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân xuất phát từ quan niệm đúng đắn đó và đã được chứng minh trong lịch sử. Người nhấn mạnh: ''Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”6.
Sau 30 năm hoạt động, tranh đấu ở nước ngoài, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về Tổ quốc ngày 28.1.1941, cùng Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Tại Pác Bó (Cao Bằng) Người đã trao đổi, thảo luận với đồng chí Võ Nguyên Giáp và các đồng chí trong nước, sự nghiệp bắt đầu từ đâu? Người nhấn mạnh, bắt đầu từ dân, dân trước súng sau, có dân sẽ có súng, có dân sẽ có tất cả. Đó là luận điểm có giá tri lớn lao, sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn như đồng chí Võ Nguyên Giáp đã nhiều lần đề cập. Nhờ sức mạnh toàn dân mà có được thắng lợi vẻ vang của Cách mạng tháng Tám năm 1945 mở ra thời đại mới trong lịch sử dân tộc, có được thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt chống đế quốc, thực dân, giành độc lập thống nhất hoàn toàn và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Bước vào công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đặt lên hàng đầu bài học: lấy dân làm gốc. Mục tiêu của đổi mới cũng nhằm xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội với chất lượng, hiệu quả cao chăm lo cải thiện đời sống của nhân dân. Cũng cần nhấn mạnh rằng, chính lợi ích, sáng kiến, nguyện vọng của nhân dân là nguồn gốc của đường lối đổi mới. Cũng chính nhân dân là người tích cực hưởng ứng, thực hiện đường lối đổi mới và mang lại lợi ích cho chính mình. Đảng, Nhà nước đã tổ chức, hướng dẫn, động viên cao độ sức dân để làm lợi cho dân. Sự thống nhất giữa đường lối của Đảng với lợi ích, nguyện vọng của nhân dân đã thật sự làm nên thắng lợi của công cuộc đổi mới. Cương lĩnh năm 2011 nhấn mạnh: ''Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng”7.
''Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế''. Đó là truyền thống quý báu và là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng Việt Nam. Trong Cương lĩnh đầu tiên tại Hội nghị thành lập Đảng (2.1930) Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nêu cao tư tưởng, đoàn kết mọi giai cấp, tầng lớp, lực lượng trong xã hội, đoàn kết và tranh thủ sự ủng hộ quốc tế, đoàn kết thống nhất trong nội bộ Đảng, xoá bỏ mọi thành kiến, xung đột của các tổ chức cộng sản trước đó. Nhờ đoàn kết mà cách mạng Việt Nam vượt qua biết bao thử thách khó khăn, có lúc tưởng chừng không vượt nổi để đi đến thắng lợi. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.
Trong công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng củng cố đoàn kết toàn Đảng phấn đấu vì nước, vì dân. Đoàn kết toàn Đảng trước hết phải dựa trên nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; đoàn kết dựa trên Cương lĩnh, đường lối và Điều lệ Đảng phấn đấu thực hiện mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; đoàn kết phải dựa trên những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình có lý, có tình và thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng.
Đoàn kết toàn dân và đoàn kết dân tộc phải dựa trên phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ thật sự của nhân dân. Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; xoá bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung... để tập hợp, đoàn kết mọi người vào mặt trận chung, tăng cường đồng thuận xã hội. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hoà quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội.
Đoàn kết quốc tế dựa trên chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân. Dựa trên việc thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; và lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh.
“Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế''. Khi đi tìm con đường giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã nhận thức rõ các dân tộc thuộc địa phải dựa vào sức của chính mình để tự giải phóng. Đồng thời, Người cũng ra sức tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè, đồng chí quốc tế. ''Nhưng muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã''8.
Cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi là kết quả của ý chí tự lực tự cường của dân tộc Việt Nam quyết đem sức ta mà tự giải phóng cho ta, đồng thời tranh thủ được thời cơ thuận lợi khi chủ nghĩa phát xít đầu hàng đồng minh. Các cuộc kháng chiến oanh liệt chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược thắng lợi là nhờ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời có sự giúp đỡ to lớn, có hiệu quả của các nước xã hội chủ nghĩa, sự ủng hộ của bạn bè quốc tế, trong đó cả nhân dân tiến bộ Pháp và Mỹ.
Trong công cuộc đổi mới, Đảng, Nhà nước bằng hệ thống chính sách, pháp luật đã khơi dậy mạnh mẽ mọi tiềm năng, thế mạnh của đất nước, đất đai và các tài nguyên khác, sức lao động và năng lực sáng tạo của nhân dân tạo thành nội lực to lớn của đất nước với ý chí vươn lên thoát khỏi đói nghèo, ra khỏi tình trạng nước kém phát triển. Mặt khác, với đường lối chính sách đối ngoại đúng đắn đã tranh thủ có hiệu quả vốn đầu tư của nước ngoài, đẩy mạnh hợp tác và hội nhập quốc tế, kết hợp đúng đắn nội lực với ngoại lực.
Bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại được thể hiện xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam và ở mỗi thời kỳ cách mạng lại có những nội dung cần được nhận thức rõ và nhấn mạnh. Ngày nay, sức mạnh dân tộc ngoài những giá trị truyền thống cần phải nhấn mạnh tới những yếu tố căn bản nhất là sức mạnh và sự ổn định vững chắc của chế độ chính trị, của con đường phát triển đúng đắn của đất nước, ở nguồn nhân lực dồi dào cần được đào tạo ở trình độ cao, ở thế và lực đã được tạo dựng những năm qua. Sức mạnh thời đại trước hết là chủ nghĩa xã hội từ những kinh nghiệm thành công và thất bại ở các nước, đang được nhận thức đúng hơn, củng cố lại và tìm được hướng đi đúng đắn để có cơ sở khẳng định rằng, theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội. Sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học - công nghệ trên thế giới, hòa bình, hợp tác và phát triển và là xu thế lớn, toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế ngày càng phát triển. Đó là những điểm nổi bật của thời đại cần tranh thủ để phát triển đất nước nhanh và bền vững.
“Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam''. Ngay từ khi ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng chỉ có mục tiêu là giải phóng dân tộc, giành độc lập thống nhất hoàn toàn, xây dựng chủ nghĩa xã hội mang lại cuộc sống tự do, sung sướng hạnh phúc cho nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn khẳng định: ngoài lợi ích của giai cấp, dân tộc và nhân dân, Đảng không có lợi ích nào khác.
Để hoàn thành được sứ mệnh lịch sử vẻ vang đó, Đảng phải thật sự là đội tiên phong lãnh đạo, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, thường xuyên tự đổi mới và chỉnh đốn để xứng đáng là người lãnh đạo và người đầy tớ thật trung thành của nhân dân như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Toàn Đảng và mỗi cán bộ đảng viên phải nâng cao trình độ trí tuệ, tư tưởng và lý luận. ''Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đê do thực tiễn cách mạng đặt ra''9. Đảng coi trọng xây dựng, phát triển Cương lĩnh, đường lối và đường lối, chủ trương của Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tiễn của đất nước và lợi ích chính đáng của nhân dân, xuất phát từ sự vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan, khắc phục biểu hiện chủ quan, duy ý chí. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) nhấn mạnh: ''Phải phòng và chống những nguy cơ lớn: Sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự tha hoá, biến chất của cán bộ, đảng viên''10.
Từ bài học của quá trình cách mạng, sự lãnh đạo của Đảng hiện nay tập trung vào bổ sung, phát triển Cương lĩnh, làm sáng tỏ hơn những vấn đề lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhận thức lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, lý luận về Đảng cầm quyền, Nhà nước pháp quyền, về văn hoá và con người, về quốc phòng, an ninh, đối ngoại và về thời đại. Đảng chăm lo xây dựng Đảng về tổ chức, tăng cường kỷ luật Đảng, học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Những bài học lớn trong Cương lĩnh và được Đại hội XI của Đảng (l.2011) thông qua, là những tổng kết có ý nghĩa sâu sắc về lý luận và thực tiễn, không chỉ khẳng định những vấn đề mang tính quy luật của cách mạng Việt Nam trong những chặng đuờng đã qua mà còn tiếp tục được nhận thức và phát triển để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước Việt Nam.
_______________
1. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 8, tr.494.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 21, tr.942.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.65.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tập 49, tr. 590-591.
5. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 2, tr.261-262.
6. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 2, tr.270.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội XI, đã dẫn, tr.65.
8. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 2, tr.293.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội XI, đã dẫn, tr.66.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội XI, đã dẫn, tr.66.
Năm bài học lớn trong Cương lĩnh và nhiệm vụ xây dựng Đảng Hà Đăng
Tạp chí Cộng sản
Tổng kết thực tiễn cách mạng Việt Nam trong 80 năm qua, Đảng ta, qua ''Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm lớn:
Một, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Hai, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Ba, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.
Bốn, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế.
Năm, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Về năm bài học này, có không ít câu hỏi đặt ra xoay quanh hai loại vấn đề:
l. Giá trị đích thực của 5 bài học đối với cách mạng nước ta.
2. Ý nghĩa thực tiễn của 5 bài học đối với nhiệm vụ xây dựng Đảng trong tình hình hiện nay.
Vấn đề thứ nhất: Giá trị đích thực của 5 bài học đối với cách mạng nước ta.
Đối chiếu với Cương lĩnh 1991, ta thấy phần viết về 5 bài học trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) gần như được giữ nguyên, từ đầu đề và thứ tự các bài học cho đến nội dung của từng bài học. Sự sửa đổi chủ yếu ở cách diễn đạt theo hướng lược bỏ một vài câu diễn giải để các bài học được trình bày súc tích và nổi bật hơn. Có một số chi tiết quan trọng được bổ sung như: Trước nói ''Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước'', nay nói: ''Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng'' (bài học 2). Hoặc trước nói: ''Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam'', nay nói: ''Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam'' (bài học 5) (những chữ ngả là do T.g nêu lên để nhấn mạnh).
Sự sửa đổi và bổ sung, ít như vậy có thể dẫn tới một vài điều băn khoăn. Phải chăng trong quá trình tổng kết Cương lĩnh, Đảng ta đã làm qua loa, không chú trọng đúng mức đến việc đúc rút những bài học kinh nghiệm? Hay vì thực tiễn cách mạng trong mấy thập kỷ qua chưa đủ độ phát triển để rút ra những bài học mới?
Sự thật là, suốt hai mươi năm kể từ sau Cương lĩnh 1991 ra đời, 5 bài học lớn đã là một trong những chủ đề trung tâm của sự học tập, nghiên cứu và giảng dạy chính trị. Đảng ta luôn coi 5 bài học lớn đó là báu vật trong hành trang lãnh đạo của mình, luôn vận dụng chúng vào việc hoạch định đường lối, chủ trương và chính sách, đồng thời thông qua thực tiễn mà kiểm nghiệm, bổ sung và phát triển. Liền trong ba kỳ Đại hội Đảng từ VIII đến X, không Đại hội nào Đảng ta không đề cập tới các bài học lớn và làm phong phú thêm bằng những bài học cụ thể của đổi mới. Quá trình chuẩn bị Đại hội XI và tổng kết Cương lĩnh 1991 cũng diễn ra như vậy. Từ các cuộc thảo luận trong các tiểu ban văn kiện Đại hội cho đến Đại hội Đảng các cấp thảo luận các văn kiện, không ít ý kiến đề nghị bổ sung và phát triển các bài học, nhất là các bài học sống động của đổi mới. Nhưng rồi cũng qua các cuộc thảo luận nghiêm túc và đầy trách nhiệm, Đảng ta đã đi đến nhận thức chung rằng, ở thời kỳ đổi mới, dẫu có thể nêu lên nhiều bài học cụ thể mới, song nếu xuyên suốt quá trình cách mạng 80 năm thì 5 bài học lớn do Cương lĩnh Đại hội VII đúc kết được là cơ bản nhất, bao quát nhất, xứng đáng ở tầm Cương lĩnh. Ở đây, không thể nói sự khẳng định lại các bài học, đã được thực tế kiểm nghiệm là đúng đắn trong tình hình mới và với nhận thức mới, là không bao hàm ý nghĩa của bổ sung và phát triển.
Có người đặt câu hỏi: Năm bài học kinh nghiệm lớn trong Cương lĩnh là 5 bài học chung của cách mạng Việt Nam hay là 5 bài học cho riêng sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng?
Câu trả lời tùy thuộc vào cách tiếp cận giá trị của những bài học ấy.
Nếu nhìn một cách tổng quát, 5 bài học lớn vừa nêu lên tính chất, nội dung, phương hướng và phương thức phát triển của cách mạng Việt Nam lại vừa làm rõ tính chất, nội dung, phương hướng và phương thức lãnh đạo của Đảng nhằm bảo đảm thắng lợi của cách mạng.
Trước hết, cách mạng Việt Nam trong suốt 80 năm, đã trải qua nhiều thời kỳ với những nhiệm vụ và tên gọi khác nhau như cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nhưng bản chất và mục tiêu nhất quán của cuộc cách mạng ấy là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong ngôn ngữ thường dùng có khi ta nói: độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội, hoặc độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, song thực chất vẫn là một.
Về sự lãnh đạo của Đảng, trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, Đảng ta giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc. Trong kháng chiến chống Pháp, ngọn cờ của chúng ta là dân tộc dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội. Trong kháng chiến chống Mỹ, với hai chiến lược cách mạng khác nhau - chiến lược cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và chiến lược cách mạng dân chủ nhân dân ở miền Nam, Đảng ta đồng thời giương cao hai ngọn cờ: ngọn cờ độc lập dân tộc và ngọn cờ chủ nghĩa xã hội. Từ sau ngày đất nước thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội và có cùng chiến lược chung với hai nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa thì ngọn cờ chiến đấu duy nhất của Đảng và nhân dân ta là ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Chính vì vậy, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là bài học lớn đầu tiên được nêu lên trong Cương lĩnh. Bài học này cho thấy: Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Không nắm vững mà để lung lay ngọn cờ này sẽ là lầm lạc chết người về chính trị.
Thứ hai, cách mạng Việt Nam là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Đối với cuộc cách mạng ấy, nhân dân vừa là chủ thể vừa là đối tượng phục vụ.
Chính vì vậy, toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng.
Thứ ba, cách mạng Việt Nam là cuộc cách mạng vĩ đại của nhân dân ta trong thời đại mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.
Trong toàn bộ quá trình của cuộc cách mạng ấy, nhất là trong thời là xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay, lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc là thống nhất. Động lực chủ yếu để phát triển đất nước không phải đấu tranh giai cấp mà là đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức.
Chính vì vậy, Đảng ta đặc biệt trân trọng bài học ''không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đại đoàn kết là sức mạnh, là bài học từng được chủ tịch Hồ Chí Minh tổng kết: ''Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công.''
Đảng ta cũng trân trọng bài học: Kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Và khẳng định: Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ và nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại.
Vấn đề thứ hai: Ý nghĩa thực tiễn của 5 bài học đối với nhiệm vụ xây dựng Đảng trong tình hình hiện nay.
Năm bài học lớn trong Cương lĩnh phản ánh tư duy của Đảng ta về cách mạng Việt Nam và về sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng. Năm bài học lớn ấy tạo thành một giá trị tổng thể, có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc đối với nhiệm vụ xây dựng Đảng trong tình hình hiện nay.
Đi sâu vào bài học thứ 5, ta thấy sự đánh giá của Đảng ta là khách quan và trung thực: ''Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam”. Có nghĩa, không phải bất cứ sự lãnh đạo nào của Đảng cũng đều dẫn tới thắng lợi. Không. Chỉ có sự lãnh đạo đúng đắn mới là nhân tố quyết định thắng lợi. Đúng đắn vừa là tiền đề vừa là điều kiện tiên quyết. Còn lãnh đạo sai thì kết quả sẽ hoàn toàn ngược lại.
Những thành tựu vĩ đại mà cách mạng nước ta giành được trong 80 năm qua chứng minh rằng sự lãnh đạo của Đảng là đúng đắn. Nhưng bên cạnh đó, Đảng có lúc cũng phạm sai lầm, khuyết điểm, có những sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng do giáo điều, chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan. Điều đáng ghi nhận là Đảng đã nghiêm túc tự phê bình, sửa chữa khuyết điểm, tự đổi mới, chỉnh đốn để tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên.
Để bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, bài học thứ 5 nhấn mạnh những nội dung sau: Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng và chống những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên.
Gắn liền với bài học thứ 5, Cương lĩnh, phần nói về Đảng, cũng viết; Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết trong Đảng, tăng cường dân chủ và kỷ luật trong hoạt động của Đảng. Thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và mọi hành động chia rẽ, bè phái,...
Xuất phát từ 5 bài học lớn trong Cương lĩnh, đặc biệt là bài học thứ 5, trong sự nghiệp đổi mới mấy chục năm qua. Đảng ta luôn coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt.
Đại hội X (2006) lấy việc ''nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng'' làm thành tố quan trọng đầu tiên trong chủ đề của Đại hội. Theo đó, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng là nâng cao năng lực hoạch định đường lối chính sách; năng lực tổ chức chỉ đạo thực hiện; năng lực tổng kết lý luận - thực tiễn, tạo thống nhất nhận thức và hành động trong Đảng; năng lực lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể quần chúng, tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân. Đó còn là năng lực kiểm tra giám sát các hoạt động của các tổ chức Đảng. Nâng cao sức chiến đấu của Đảng là làm cho từng cán bộ, đảng viên, từng tổ chức và cấp uỷ đảng, nói chung là toàn Đảng, phải có ý chí phấn đấu vươn lên, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao; thường xuyên rèn luyện phẩm chất đạo đức, không nể nang, né tránh, “dĩ hoà vi quý”; kiên quyết đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, suy thoái ở ngay trong bản thân mỗi đảng viên, ở trong tổ chức đảng, cơ quan nơi mình sinh hoạt, công tác, ở trong Đảng, và trong xã hội; dũng cảm đấu tranh chống các tư tưởng, quan điểm và hành động sai trái, thù địch...
Đại hội XI (2011) mới đây một lần nữa xác định ''Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng” là nhiệm vụ bao trùm và nội dung chủ yếu nhất về xây dựng Đảng trong tình hình hiện nay.
Kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội X, Đại hội XI khẳng định: ''Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được tăng cường, đạt một số kết quả tích cực”. Nhưng Đại hội cũng chỉ rõ: ''Công tác xây dựng Đảng còn nhiều hạn chế, yếu kém, chậm được khắc phục''. Đó là những hạn chế, yếu kém trong công tác chính trị, tư tưởng, tổ chức cán bộ, trong phương thức lãnh đạo và trong công tác kiểm tra, giám sát. Đáng lưu ý là ''tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng với sự phân hóa giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều hành của nhiều cấp, nhiều ngành làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước''. Cũng cần lưu ý rằng ''năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng còn thấp, công tác quản lý đảng viên chưa chặt chẽ, sinh hoạt đảng chưa nền nếp, nội dung sinh hoạt nghèo nàn, tự phê bình và phê bình yếu, v.v.
Chính vì vậy, nhiệm vụ xây dựng Đảng đã được Đại hội XI nêu lên một cách toàn diện, bao gồm: (1) Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị. (2) Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận. (3) Rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. (4) Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị. (5) Kiện toàn tổ chức cơ sở Đảng và nâng cao chất lượng đảng viên. (6) Đổi mới công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ. (7) Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, (8) Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Năm bài học lớn trong Cương lĩnh được rút ra từ thực tiễn lãnh đạo cách mạng của Đảng trong các thời kỳ đã qua nhưng đến lượt nó, lại phục vụ đắc lực cho các hoạt động lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ hiện nay và sắp tới. Sức sống và các bài học không chỉ ở chỗ được đúc kết một cách đúng đắn mà còn ở chỗ được vận dụng một cách sáng tạo trong tinh thần đổi mới và phát triển./.
Đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa trong Cương lĩnh – Mục tiêu phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân ta trong thời kỳ quá độ GS, TS, NGND. Lê Hữu Nghĩa
Phó Chủ tịch Hội đồng lý luận Trung ương
1. Chủ nghĩa xã hội theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin là giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội tiến bộ, ưu việt hơn tất cả các xã hội trước đó về các đặc trưng kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội nhằm giải phóng con người khỏi mọi tình trạng áp bức, bóc lột, bất công. Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, những người cộng sản phải hình dung, phác thảo ra được những đường nét cơ bản nhất của mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa (mà chúng ta gọi đó là những ''đặc trưng''). Nếu không phác thảo được mô hình, những đường nét cơ bản thì rất khó xác định mục tiêu phấn đấu, định hướng để xây dựng chủ nghĩa xã hội và biến chúng thành hiện thực trong cuộc sống. Hơn nữa, những đặc trưng thể hiện mô hình đó phải phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử xã hội loài người, phản ánh được nét đặc sắc của truyền thống dân tộc và xu thế phát triển của thời đại. Đây là đòi hỏi tất yếu nhưng cũng rất khó khăn đối với các Đảng cộng sản trong quá trình lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là trong bối cảnh tình hình hiện nay, khi mà chủ nghĩa xã hội trên thế giới vẫn đang còn trong tình trạng thoái trào.
Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã có những dự báo về những đặc trưng của xã hội chủ nghĩa xã hội dựa trên thực tiễn đương thời. Tuy không coi đó là mô hình bất biến, song các ông đã hình dung và phác thảo về chủ nghĩa xã hội - một chế độ xã hội ưu việt và tiến bộ hơn so với các chế độ xã hội trước đó, thể hiện trên một số nét cơ bản như sau:
(1) Mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người khỏi mọi ách bóc lột về kinh tế và nô dịch về tinh thần, tạo điều kiện cho con người phát triền toàn diện.
(2) Cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội được tạo ra bởi lực lượng sản xuất tiên tiến, hiện đại;
(3) Chủ nghĩa xã hội là từng bước xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất (chủ yếu);
(4) Chủ nghĩa xã hội tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới với năng suất cao;
(5) Chủ nghĩa xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động;
(6) Chủ nghĩa xã hội là một xã hội dân chủ, dân chủ gấp nhiều lần dân chủ tư sản;
(7) Nhà nước trong chủ nghĩa xã hội là nhà nước dân chủ kiểu mới, thể hiện bản chất giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của nhân dân lao động;
(8) Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, các quan hệ giai cấp - dân tộc - quốc tế được giải quyết phù hợp, kết hợp lợi ích giai cấp - dân tộc với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
Trên cơ sở nhận thức về thời đại, nhận thức về dân tộc và sức mạnh dân tộc từ thực tiễn của công cuộc đổi mới đất nước dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Đảng ta ngày càng rõ hơn. Trong quá trình đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta nhận thấy việc xác định đúng mô hình chủ nghĩa xã hội là yếu tố có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Bởi đó là cơ sở, là định hướng để Đảng và Nhà nước ta hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách và pháp luật nhằm hiện thực hoá mục tiêu chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh 1991) của Đảng, mô hình chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng đã được phác hoạ với 6 đặc trưng. Đại hội lần thứ X (năm 2006) của Đảng đã bổ sung, phát triển làm cho mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam toàn diện hơn, gồm 8 đặc trưng. Trong Cương lĩnh 2011 (bổ sung, phát triển năm 2011) Đảng ta tiếp tục xác định 8 đặc trưng trên cơ sở kết hợp, bổ sung, phát triển những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội trong hai văn kiện nói trên.
Các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng trong Cương lĩnh 2011 là thành quả của 25 năm đổi mới, trước hết là thành quả của đổi mới nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong điều kiện hiện nay. Đó cũng là thành quả của sự kết hợp hài hòa giữa ''cái phổ biến” và ''cái đặc thù”, cái chung và cái riêng để tạo nên một mô hình: Chủ nghĩa xã hội Việt Nam.
2. Về đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Cương lĩnh 2011 đã khẳng định: “Xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ, có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới''(1)
Trong 8 đặc trưng nêu trên, so với Cương lĩnh 1991, có những sự bổ sung, phát triển quan trọng sau đây:
Có 2 đặc trưng bổ sung mới là:
Đặc trưng thứ nhất “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đây vừa là đặc trưng tổng quát, đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Chủ nghĩa xã hội phải làm cho dân giàu, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Nghèo đói không phải là chủ nghĩa xã hội. Dân giàu là giàu cả đời sống vật chất và đời sống văn hóa tinh thần. Dân giàu nhưng phải làm cho nước mạnh, dân có giàu nước mới mạnh, phải nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia. Dân giàu nhưng phải đảm bảo công bằng xã hội, đây là thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Lần này trong Cương lĩnh 2011, khi diễn đạt đặc trưng thứ nhất có sự thay đổi về trật tự từ so với diễn đạt trong Văn kiện Đại hội X của Đảng: Cụm từ ''dân chủ'' được đưa lên trước cụm từ ''công bằng''. Sự thay đổi này không phải ngẫu nhiên và không đơn thuần là sắp xếp lại thứ tự mà phản ánh sự nhận thức ngày càng sâu sắc hơn của Đảng ta đối với mục tiêu dân chủ. Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực, là nguồn lực phát triển đất nước. Dân chủ, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tức dân là chủ, dân làm chủ, dân là gốc, dân chủ là chìa khóa vạn năng. Do đó dân chủ phải được đặt ở một vị trí tương xứng với tầm vóc, giá trị của nó trong Cương lĩnh 2011 và khi đề cao dân chủ, chúng ta không hề coi nhẹ kỷ luật, kỷ cương phép nước là cái hiện nay chúng ta còn nhiều yếu kém. Càng coi trọng dân chủ càng phải coi trọng kỷ luật, pháp luật, kỷ cương phép nước trong quản lý đời sống xã hội. Cả dân chủ và cả kỷ luật đều là những mặt chúng ta còn nhiều hạn chế, cần phải phấn đấu nâng cao.
Đặc trưng mới thứ hai là ''có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo''. Đặc trưng này là kế thừa của Văn kiện Đại hội X của Đảng, phản ánh đường lối xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế của thời đại. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội, song Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Vì vậy, để tránh hiểu lầm hoặc sự xuyên tạc của một số người khi cho rằng ''dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản'' nghĩa là Đảng ta đứng trên Nhà nước và pháp luật, nêu trong Cương lĩnh 2011 đã thay từ “dưới'' sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản bằng từ ''do'' Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Trong nhiều đặc trưng còn lại của Cương lĩnh 2011, đều có sự bổ sung, phát triển cho phù hợp với thực tiễn và nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội. Ngay cả ở đặc trưng về văn hóa ''có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc'' tuy không có sự thay đổi gì về câu chữ so với Cương lĩnh 1991 và Văn kiện Đại hội X song vẫn chứa đụng những nhận thức mới sâu sắc hơn của Đảng ta về nội hàm khái niệm ''nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, về vai trò của văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, về quan hệ giữa kinh tế và văn hóa...
Kế thừa Văn kiện Đại hội X, trong Cương lĩnh 2011 Đảng ta khẳng định lại đặc trưng ''do nhân dân làm chủ'' (bỏ cụm từ ''lao động'' trong Cương lĩnh năm 1991). Sự khẳng định đó nhằm phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; mỗi người dân Việt Nam đều là người chủ đất nước, có trách nhiệm xây dựng đất nước, dù mình sống trong hay ngoài nước.
Về đặc trưng kinh tế của chủ nghĩa xã hội, kế thừa Văn kiện Đại hội X (năm 2006), Cương lĩnh xác định: “Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp'' (thêm từ ''tiến bộ'' so với Văn kiện Đại hội X và không có cụm từ ''chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu” như trong Cương lĩnh 1991). Trong đặc trưng về kinh tế của chủ nghĩa xã hội, nếu đặc trưng về lực lượng sản xuất ý kiến khá thống nhất thì đặc trưng về quan hệ sản xuất vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau cần phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu. Tuy nhiên, ở đây có thể hiểu quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp là quan hệ sản xuất được xét trong chỉnh thể trên cả ba mặt: quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối và sự phù hợp không chỉ với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mà còn phù hợp với chế độ xã hội, với từng điều kiện lịch sử - cụ thể, với đặc thù dân tộc... Quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp ở nước ta chính là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa (trong chủ nghĩa xã hội). Đến khi chúng ta xây dựng xong chủ nghĩa xã hội, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp đó phải dựa trên chế độ công hữu về các tư liệu chủ yếu.
Trong đặc trưng về con người, trên cơ sở kế thừa Cương lĩnh 1991, song tách đặc trưng về phân phối ra, Cương lĩnh 2011 xác định ''con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Muốn có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, tất yếu phải giải phóng con người khỏi áp bức bóc lột, bất công, coi sự phát triển con người là mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội. Tất cả vì con người và do con người. Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển.
Trong đặc trưng về quan hệ dân tộc, Cương lĩnh 2011 khẳng định: “Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển”. Việc bổ sung cụm từ “tôn trọng” so với Cương lĩnh 1991 là rất có ý nghĩa bởi vì tôn trọng là một trong những nguyên tắc cơ bản để giải quyết vấn đề dân tộc trong một quốc gia đa dân tộc như Việt Nam, nhất là sự tôn trọng của dân tộc đa số đối với các dân tộc thiểu số. Không tôn trọng thì không thể có bình đẳng, đoàn kết thực sự giữa các dân tộc.
Cuối cùng, đặc trưng về hợp tác quốc tế, trên cơ sở kế thừa Cương lĩnh 1991, song xác định có quan hệ hữu nghị và hợp tác không chỉ với nhân dân mà với cả các nhà nước, các Đảng Cộng sản và công nhân, các phong trào xã hội tiến bộ, các đảng cánh tả, đảng cầm quyền và các đảng khác... nên Cương lĩnh 2011 khẳng định: ''Có quan hệ hữu nghĩa và hợp tác với các nước trên thế giới”. Đặc trưng này phản ánh xu thế lớn của tình hình thế giới là hoà bình, hợp tác và phát triển, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, và cũng là nguyện vọng chân thành của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Chúng ta thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Các đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa được nêu ra trên đây trong Cương lĩnh 2011 là những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng xong, tức khi đã kết thúc thời kỳ quá độ (mặc dù có một số đặc trưng đã được thể hiện ra với nhĩmg mức độ khác nhau ngay trong thời kỳ quá độ).
Mặt khác, nhận thức về các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà chúng ta nêu ra trong Cương lĩnh 2011 không phải là khép kín, chết cứng, mà là một hệ thống mở bởi vì nhận thức là một quá trình. Chúng ta tin rằng, với quá trình phát triển của thực tiễn đổi mới và của nhận thức, Đảng ta chắc chăn sẽ có những nhận thức mới tiếp tục bổ sung, phát triển, hoàn thiện đặc trưng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội nêu trong Cương lĩnh 2011 là một hệ thống chỉnh thể bao quát các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, chúng có quan hệ biện chứng với nhau, tác động lẫn nhau - thể hiện các mối quan hệ hợp quy luật giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, giữa kinh tế và chính trị, kinh tế và văn hoá - xã hội, kinh tế và quốc phòng - an ninh - đối ngoại, giữa nội lực và ngoại lực, giữa mục đích và phương tiện... trong đó mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người ra khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất công, con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện, thể hiện phẩm giá của mình. Đó là giá trị cao cả, nhân văn, nhân đạo của chủ nghĩa xã hội, theo đúng tư tưởng của C.Mác và Hồ Chí Minh.
3. Các đặc trưng của xã hội chủ nghĩa nêu trong Cương lĩnh vừa thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng, vừa là mục tiêu phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Các đặc trưng này của chủ nghĩa xã hội không phải bỗng nhiên mà có, không phải từ trên trời rơi xuống mà là kết quả của quá trình phấn đấu gian khổ, lâu dài của toàn Đảng, toàn dân ta để xây dựng nó. Các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội có quá trình hình thành, vận động, phát triển, ngày càng chín muồi tùy thuộc vào các điều kiện khách quan và sự nỗ lực của nhân tố chủ quan. Đó cũng là quá trình vừa định hướng và từng bước định hình trong hiện thực. Vì vậy cần phải xem xét chủ nghĩa xã hội và các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội bằng quan điểm động, nó có quá trình sinh thành, phát triển theo quy luật khách quan.
Để thực hiện các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, điều có ý nghĩa quyết định trước tiên trong điều kiện hiện nay là phải kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, tức phải “nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội'' - bài học lớn số một mà Đảng ta đã rút ra trong Cương lĩnh 2011 qua hơn 80 năm lãnh đạo Cách mạng. Gắn kết độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt Cách mạng Việt Nam. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc, Cương lĩnh 2011 đã khẳng định: ''Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử''(2) Hiện tại, tuy chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Vì vậy, đúng như Cương lĩnh 2011 khẳng định: ''Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định tiến tới chủ nghĩa xã hội''(3). Sự lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa của Đảng và nhân dân ta cũng chính là sự lựa chọn của lịch sử để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Vì vậy cần tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, nhân dân ta, nhất là cho thế hệ trẻ về lý tưởng, mục tiêu xã hội chủ nghĩa, nâng cao giác ngộ chính trị, tích cực đấu tranh, phê phán bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa.
Trong Cương lĩnh 2011, Đảng ta không chỉ vạch ra các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà còn chỉ ra con đường để thực hiện những đặc trưng đó với lộ trình, bước đi phù hợp. Chúng ta phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, để đến giữa thế kỷ XXI, xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, và đến khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
Để thực hiện thành công các mục tiêu trên, chúng ta phải nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, ý chí tự lực tự cường, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, quán triệt và thực hiện tốt các phương hướng cơ bản đã nêu trong Cương lĩnh 2011 là:
- Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
- Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
- Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
- Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
- Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất.
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
- Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Trong Cương lĩnh 2011, một nội dung rất mới mà Đảng yêu cầu phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết là các mối quan hệ lớn, mang tính chất biện chứng của đời sống xã hội, cấu thành nên nội dung của công cuộc đổi mới. Đó là: Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa, giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ(4). Khắc phục lối tư duy phiến diện, cực đoan, duy chí.
Để tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, thực hiện có hiệu quả các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ hơn lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, tiếp tục nghiên cứu làm rõ những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội cũng như những phương hướng cơ bản và những mối quan hệ lớn, lý giải những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình đổi mới, khắc phục những mặt lạc hậu, yếu kém của công tác lý luận, phục vụ tốt cho sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước ta trong bối cảnh phức tạp, đầy biến động của tình hình thế giới với nhiều thời cơ và thách thức to lớn./.
Chú thích:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.70.
2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI: Sđd, tr. 70.
3. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI: Sđd, tr. 70.
4. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI: Sđd, tr. 73.
Đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam theo tinh thần Đại hội XI của Đảng GS.TS Nguyễn Văn Huyên
Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh
Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu và lý tưởng của toàn Đảng và toàn dân ta. Từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo toàn dân đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước, dựng nên nhà nước dân chủ cộng hòa, tiến hành công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhằm thực hiện lý tưởng cao đẹp của toàn Đảng, toàn dân: xây dựng Việt Nam thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh.
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội từ ngày lập nước đến nay của Đảng và nhân dân ta là quá trình không ngừng vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong cách mạng Việt Nam. Đó cũng là quá trình không ngừng tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận để vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hiện thực, vừa hoàn thiện những đặc trưng xã hội xã hội chủ nghĩa về mặt lý luận của Đảng qua mười một kỳ đại hội.
Tư tưởng về chủ nghĩa xã hội do các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin vạch ra đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo và có kết quả vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tuy nhiên, đó cũng mới chỉ là những nét khái quát: Xã hội không có áp bức bóc lột; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, làm theo năng lực, phân phối theo lao động; đời sống vật chất và tinh thần cao; con người được phát triển toàn diện; xã hội công bằng, bình đẳng; có chế độ công hữu về tư liệu sản xuất; nhà nước của toàn dân; v.v.. Hơn nữa, trong một thời gian dài, chủ nghĩa xã hội được xây dựng theo mô hình kế hoạch hóa tập trung đã bị biến dạng và tụt hậu không chỉ ở Việt Nam mà cả ở các nước thành trì của chủ nghĩa xã hội.
Đường lối đổi mới (từ Đại hội VI) của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đột phá vào những quan điểm sai lầm về chủ nghĩa xã hội, như tuyệt đối hóa vai trò của chế độ công hữu; đối lập một cách máy móc sở hữu tư nhân với chủ nghĩa xã hội; đồng nhất chế độ phân phối bình quân với chế độ phân phối xã hội chủ nghĩa; phủ định chủ nghĩa tư bản một cách sạch trơn; phủ định kinh tế hàng hóa trong chủ nghĩa xã hội; đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản; v.v..
Tổng kết 5 năm đổi mới, Đại hội VII của Đảng (năm 1991) đã nêu 6 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa: “Đó là xã hội: Do nhân dân lao động làm chủ; Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới”(1).
Đến Đại hội X (năm 2006), Đảng ta nhận định: “lý luận về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã hình thành trên những nét cơ bản”. Đặc trưng xã hội xã hội chủ nghĩa được Đảng nêu cụ thể hơn: “là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”(2). “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (bổ sung, phát triển năm 2011) đã điều chỉnh, chuẩn hóa một số nội dung và cô đọng hóa một số đặc trưng: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”(3).
1 - Đặc trưng bao quát nhất của xã hội xã hội chủ nghĩa do nhân dân ta xây dựng được Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định, là: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là những giá trị xã hội tốt đẹp nhất, ước mơ ngàn đời của loài người, cho nên cũng là mục tiêu phấn đấu của chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, đây là đặc trưng phổ quát, có tính bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa, nó thể hiện sự khác nhau căn bản, sự tiến bộ hơn hẳn của chế độ xã hội chủ nghĩa so với các chế độ xã hội trước đó. Xã hội tư bản có đời sống vật chất và tiện nghi rất cao; dân có thể giàu, nước có thể mạnh, nhưng từ trong bản chất của chế độ xã hội tư bản, ở đó không thể có công bằng và dân chủ: nhà nước là nhà nước tư sản; giàu có là cho nhà tư bản; sự giàu mạnh có được bằng quan hệ bóc lột. Trong xã hội như vậy, người dân không thể là chủ và làm chủ xã hội.
Xây dựng xã hội “dân chủ, công bằng, văn minh” là quá trình vô cùng khó khăn, gian khổ và lâu dài trong hoàn cảnh và điều kiện Việt Nam - một nước còn nghèo, đang phát triển, chưa có “nền đại công nghiệp” (điều kiện cần thiết để xây dựng chủ nghĩa xã hội như C.Mác đã chỉ rõ), v.v.. Nhưng để trở thành xã hội xã hội chủ nghĩa với những đặc trưng nêu trên, không có cách nào khác là toàn Đảng, toàn dân ta phải nỗ lực sáng tạo, chiếm lĩnh các đỉnh cao của xã hội. Và, Việt Nam đang từng bước đạt tới các mục tiêu cần có trong hiện thực.
Đảng ta đã vạch ra phương hướng, chính sách cụ thể, có cơ sở lý luận - thực tiễn để thực hiện trong hiện thực: “nước mạnh” gắn với “dân giàu”, “công bằng” và “văn minh”, bảo đảm “dân chủ”; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức; phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; hoàn thiện nhà nước pháp quyền với nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; v.v..
2 - Xã hội “do nhân dân làm chủ”.
“Làm chủ” được coi là bản chất và quyền tự nhiên của con người, bởi xã hội là xã hội của loài người, xã hội đó do con người tự xây dựng, tự quyết định sứ mệnh của mình; tuy nhiên trong thực tiễn lại là chuyện khác. Lịch sử đấu tranh cho tiến bộ của nhân dân các dân tộc trên thế giới chính là lịch sử đấu tranh giành và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Chỉ đến chủ nghĩa xã hội, nhân dân mới thực sự có được quyền đó. Cho nên “nhân dân làm chủ xã hội” là đặc trưng quan trọng và quyết định nhất trong những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa. Đặc trưng này không thể tách rời những yêu cầu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Nói dân giàu, nước mạnh chính là thể hiện vai trò chủ thể của nhân dân đối với nhà nước - dân là chủ. “Dân chủ” trong đặc trưng nêu trên chính là nền dân chủ của xã hội - xã hội vận hành theo chế độ và nguyên tắc dân chủ. Và chính nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng thể hiện xã hội “do nhân dân làm chủ”. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta; với bản chất nêu trên, nó vừa là mục tiêu, lại vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Để có một xã hội do nhân dân thực sự làm chủ, chúng ta phải nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa để bảo đảm “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”; mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân; cán bộ, công chức phải là “công bộc” của nhân dân, hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân; có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ.
3 - “Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”.
Để có được một xã hội giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, điều tiên quyết là xã hội đó phải có một nền kinh tế phát triển. Bởi vì kinh tế là lực lượng vật chất, nguồn sức mạnh nội tại của cơ thể xã hội, nó quyết định sự vững vàng và phát triển của xã hội. Đến lượt mình, nền kinh tế đó chỉ có thể phát triển dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại. Mác đã khẳng định: chủ nghĩa xã hội chỉ thực hiện được bởi “một nền đại công nghiệp”. Nền đại công nghiệp phát triển trên cơ sở khoa học - công nghệ, là hiện thân và là yếu tố tạo nên lực lượng sản xuất hiện đại. Lực lượng sản xuất hiện đại quyết định việc nâng cao năng suất của nền sản xuất - yếu tố quy định sự phát triển lên trình độ cao của phương thức sản xuất mới. Trên cơ sở đó thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa tiến bộ phù hợp để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Với các nội dung và lô-gíc vận động như đã luận giải trên, Đảng ta đã tập trung phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mà trước mắt là hoàn thiện thể chế của nó; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, nhằm xây dựng một lực lượng sản xuất hiện đại để có một nền kinh tế phát triển cao - điều kiện bảo đảm cho sự phát triển bền vững xã hội xã hội chủ nghĩa.
4 - “Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.
Nếu như “nền kinh tế phát triển cao” là nội lực, là sức mạnh vật chất cho phát triển xã hội thì văn hóa là nguồn lực tinh thần bên trong của phát triển xã hội. Văn hóa là tinh hoa con người và dân tộc, tinh hoa xã hội và thời đại; bởi vậy, nó là sức mạnh con người và dân tộc, sức mạnh xã hội và thời đại. Mỗi nền văn hóa phải kết tinh tinh hoa và sức mạnh thời đại để tiến tới đỉnh cao thời đại, đồng thời phải chuyển hóa chúng thành các giá trị của dân tộc, làm đậm đà thêm bản sắc riêng của mình. Nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, vì vậy, chính là mục tiêu của xã hội xã hội chủ nghĩa, đồng thời là động lực và sức mạnh thúc đẩy xã hội đó phát triển. Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chúng ta cần kế thừa và phát huy những giá trị, tinh hoa văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc; đồng thời, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và văn hóa thời đại để phát triển văn hóa Việt Nam thực sự là nền văn hóa vừa tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc dân tộc, thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực và sức mạnh cho xã hội phát triển. Hơn nữa, bản chất xã hội xã hội chủ nghĩa là tiến bộ, khoa học và nhân văn. Cho nên, chủ nghĩa xã hội đồng chất và cùng chiều với văn hóa; phấn đấu cho những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội cũng chính là phấn đấu cho những giá trị văn hóa - xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội văn hóa cao. Những phẩm chất, những giá trị của xã hội xã hội chủ nghĩa là những phẩm chất và giá trị phổ quát của xã hội tương lai. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội đại đồng không tồn tại những bản sắc riêng biệt. Xã hội xã hội chủ nghĩa là một vườn hoa muôn sắc các phẩm chất, các giá trị, ở đó bản sắc văn hóa các dân tộc, cộng đồng người khác nhau phải được độc lập tồn tại, tôn vinh, phát huy, phát triển. Chính vì vậy, Đảng ta chủ trương phát triển nền văn hóa vừa tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc dân tộc; thống nhất trong đa dạng, làm phong phú diện mạo văn hóa Việt Nam.
5 - “Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”.
Nói đến cùng, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, quá trình phấn đấu đạt tới những giá trị của xã hội xã hội chủ nghĩa đều là vì con người. Con người là thực thể cao nhất của giới tự nhiên, nó là sản phẩm của thiên nhiên nhưng cao siêu và bí ẩn gấp ngàn lần thiên nhiên. Bởi con người có trí tuệ và tình cảm, có khát vọng và khả năng chiếm lĩnh những đỉnh cao hiểu biết để tạo cho mình một thế giới Người - thế giới Văn hóa. Cho nên lịch sử của loài người là lịch sử con người đấu tranh xóa bỏ mọi lực cản thiên nhiên và xã hội để vươn tới một xã hội cao đẹp nhất - xã hội đó chính là xã hội xã hội chủ nghĩa. Bản chất xã hội xã hội chủ nghĩa, trình độ phát triển của xã hội chủ nghĩa, rõ ràng, là bản chất và trình độ phát triển người, của con người. Xã hội xã hội chủ nghĩa phải đem lại ấm no cho con người như là đòi hỏi tiên quyết. Nhưng bản tính con người là không bao giờ thỏa mãn với những gì đã đạt được. Con người phải được tự do - tự do không chỉ bó hẹp trong nghĩa được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, nô dịch, kìm hãm về mặt xã hội. Điều quan trọng hơn là nó được thăng hoa tiềm năng trí tuệ, tình cảm và năng lực vốn có để thực hiện những khát vọng cao đẹp của mình. Sự phát triển toàn diện con người là ước mơ, khát vọng của con người tự do. Xã hội xã hội chủ nghĩa chính là nơi: sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người... như C.Mác đã nói. Đặc trưng người nhất của khát vọng con người là hạnh phúc. Bởi có thể người ta giàu có, đầy đủ tiện nghi, được phát triển, song vẫn bất hạnh. Hạnh phúc là trạng thái yên lành, hài hòa, là tinh thần thoải mái biểu hiện sự mãn nguyện thanh cao nhất của con người. Phấn đấu đạt tới một xã hội bảo đảm hạnh phúc cho con người, đó là một xã hội văn hóa cao.
6 - “Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển”.
Nếu như các đặc trưng nêu trên (kinh tế, văn hóa, con người) là những yếu tố thuộc phẩm chất bên trong tạo nên một chỉnh thể xã hội, thì ở đặc trưng này đòi hỏi những yếu tố thiết yếu cho sự tồn tại bền vững của xã hội lành mạnh. “Bình đẳng” là một phẩm chất và giá trị nhân quyền thể hiện trình độ phát triển và chất nhân văn cao của xã hội. Một đòi hỏi quan trọng của xã hội chủ nghĩa là bảo đảm bình đẳng không chỉ cho cá nhân người công dân, mà còn ở cấp độ cho tất cả các cộng đồng, các dân tộc trong một quốc gia. Ngay trong xã hội hiện đại, ở các nước phát triển, thực hiện bình đẳng giữa các tộc người, các dân tộc cũng đang là vấn đề nan giải. Mặt khác, “đoàn kết” là sức mạnh - đó là một chân lý. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, vì thắng lợi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đã kêu gọi: Những người lao động ở tất cả các nước trên thế giới đoàn kết lại (C.Mác); còn trong cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khái quát một chân lý: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công. Đồng thời đây cũng là một giá trị đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa. “Bình đẳng” và “đoàn kết” chính là nền tảng của sự “tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển”. Tôn trọng và giúp nhau không chỉ là tình thương, lòng nhân đạo, mà thực sự là đòi hỏi, yêu cầu, trách nhiệm và điều kiện thiết yếu cho sự phát triển của từng cá nhân, cộng đồng, dân tộc; là một tiêu chuẩn quan trọng của xã hội phát triển. Đoàn kết toàn dân, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc đã làm nên thành công của cách mạng Việt Nam. Và giờ đây, tinh thần đó, phương châm đó đang là những nét đặc sắc của giá trị xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
7 - “Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”.
Nhà nước pháp quyền là một hình thức quản lý nhà nước trên một trình độ cao và hiệu quả. Nó điều hành hoạt động của các cơ quan nhà nước và xã hội bằng pháp luật. Nhưng vấn đề ở đây là pháp luật nào? Pháp luật của ai và vì ai?
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước quản lý và điều hành đất nước và xã hội bằng pháp luật thể hiện quyền lợi và ý chí của nhân dân; vì vậy, là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Đây là nhà nước mà tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân với nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật, tổ chức và quản lý xã hội bằng hệ thống pháp luật đó và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương. Tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đòi hỏi khách quan để thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa hiện nay. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân không thể nào khác là dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản - đảng mang bản chất, lý tưởng, nội dung xã hội chủ nghĩa, là đảng thực hiện mục tiêu và lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
8 - “Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”.
Theo nguyên lý phát triển xã hội, đặc biệt trong thế giới hiện đại, mỗi quốc gia là một bộ phận hợp thành cộng đồng quốc tế. Sự phát triển quốc gia xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ có được khi đẩy mạnh “quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”. Quan hệ hữu nghị và hợp tác chính là thể hiện bản chất hòa hảo, thiện chí và tạo điều kiện cho các quốc gia hội nhập, tiếp thu những thành quả phát triển của mỗi bên, tích lũy kinh nghiệm và rút ngắn quá trình phát triển của mỗi nước. Điều có ý nghĩa lớn lao hơn là ở chỗ, “hữu nghị”, “hợp tác”, “phát triển” chính là bản chất, là khát vọng hòa đồng theo bản chất trí tuệ và tình cảm nhân văn cao cả có tính nhân loại của con người, của loài người; điều thể hiện bản chất cao đẹp nhất của xã hội xã hội chủ nghĩa.
Qua đó chúng ta thấy quan điểm, đường lối, chính sách xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trước sau đều phù hợp với bản chất xã hội xã hội chủ nghĩa nêu trên. Đây là một đặc trưng nổi bật của nội dung và mục tiêu xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Và chính nó là yếu tố, điều kiện để Việt Nam phát triển nhanh chóng trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Để thực hiện được đặc trưng nêu trên, Đảng ta vạch ra đường lối đối ngoại: độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, văn minh.
*
* *
Với tinh thần và tư duy biện chứng về phát triển xã hội, Đảng ta quan niệm: Tiến lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình vận động, chuyển hóa liên tục, không ngừng phát triển từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Các đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa cũng luôn luôn vận động, chuyển hóa và phát triển. Mười, mười lăm, hai mươi năm tới, các đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa hiện nay chắc chắn sẽ có những bổ sung mới đáp ứng đòi hỏi mới của phát triển xã hội. Điều đó đặt ra cho Đảng ta trọng trách là phải không ngừng đổi mới tư duy, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận để vừa tiếp tục khám phá ra những vấn đề, những nội dung, những đặc trưng mới, vừa sáng suốt lãnh đạo toàn dân ta xây dựng xã hội đạt tới các phẩm chất và các giá trị, vươn tới các đặc trưng mới của xã hội xã hội chủ nghĩa trong tương lai./.
____________
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 111
(2) Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 68
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 70
Nghiên cứu mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam – một số vấn đề cần quan tâm PGS.TS Phạm Văn Đức
Viện trưởng Viện Triết học
Trong những năm trước đổi mới, ở Việt Nam và các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, người ta thường nhắc tới khái niệm mô hình chủ nghĩa xã hội. Vào thời kỳ đó, đã có lúc mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu trở thành hình mẫu lý tưởng cho các nước đang phát triển đi theo con đường này noi theo. Nhưng, đến đầu những năm 90 của thế kỷ XX, trước sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu, giới lý luận mácxít ở Việt Nam đã tiến hành phân tích một loạt nguyên nhân cả khách quan lẫn chủ quan và đi đến kết luận rằng, đó là sự sụp đổ của một mô hình cụ thể về chủ nghĩa xã hội chứ không phải là sự sụp đổ của lý luận khoa học về chủ nghĩa xã hội. Trong suốt một thời gian dài, khoảng hơn 20 năm, ít người nói đến mô hình chủ nghĩa xã hội. Nhưng, đến những năm gần đây, cùng với những thành công to lớn của công cuộc đổi mới cải cách, mở cửa ở Việt Nam và Trung Quốc, giới lý luận 2 nước đã đặt lại vấn đề mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và Trung Quốc. Vậy, mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam có những đặc trưng và đặc điểm gì?
Trước hết để hiểu thế nào là mô hình chủ nghĩa xã hội, chúng ta cần làm rõ khái niệm mô hình xã hội là gì?
Mô hình phát triển xã hội là khái niệm để chỉ chủ thể của hoạt động xã hội sử dụng các phương tiện, phương thức để đạt được mục tiêu phát triển trong thực tiễn phát triển xã hội, là những khái quát chung nhất về mục tiêu con đường hay cách thức để hiện thực hóa quá trình chuyển biến của xã hội trình độ thấp sang trình độ cao.
Xét trên phương diện phổ quát nhất, mô hình phát triển xã hội bao gồm các phương diện chủ yếu sau: thứ nhất, nhìn từ góc độ bản chất, mô hình phát triển xã hội là sự thống nhất giữa mục tiêu phát triển và con đường hiện thực hóa mục tiêu; thứ hai, nhìn từ góc độ nội dung, mô hình phát triển xã hội chỉnh thể hữu cơ của các mô hình phát triển trong từng lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội, như mô hình phát triển kinh tế, mô hình phát triển chính trị, mô hình phát triển xã hội và mô hình phát triển văn hóa; thứ ba, nhìn từ góc độ hình thức, mô hình phát triển xã hội hết sức đa dạng, có những biểu hiện đặc thù do điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của từng quốc gia dân tộc quy định.
Trên thực tế, thế giới đã từng chứng kiến hai mô hình phát triển xã hội tiêu biểu nhất, đã được hiện thực hóa, song song tồn tại, đó là mô hình chủ nghĩa tư bản và mô hình chủ nghĩa xã hội. Nhưng bản thân các mô hình chủ nghĩa tư bản lẫn mô hình chủ nghĩa xã hội cũng luôn có những dạng cụ thể khác nhau. Chẳng hạn đối với mô hình của chủ nghĩa tư bản, ngoài những đặc trưng chung nhất để phân biệt nó với mô hình chủ nghĩa xã hội, chúng ta có thể kể ra một số dạng thức cụ thể của mô hình này như sau:
Một là, mô hình chủ nghĩa tư bản châu Âu truyền thống. Đây là mô hình của một số nước phát triển ở Tây Âu với mục tiêu gắn sự phát triển xã hội với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đặc trưng chủ yếu của loại mô hình này là phát triển kinh tế thị trường xã hội, đề cao tầm quan trọng về tầm nhìn và sự điều tiết của nhà nước đối với phát triển kinh tế; coi trọng sự vận hành lành mạnh và ổn định của nền kinh tế, nhấn mạnh đến công bằng thị trường; chú trọng việc xây dựng phúc lợi xã hội; v.v..
Hai là, mô hình kinh tế thị trường tự do Mỹ. Nền tảng của loại mô hình này là đề cao sự tự điều chỉnh của thị trường, song vẫn chấp nhận sự điều tiết vĩ mô, bao gồm cả việc can thiệp của nhà nước và điều hành của chính phủ. Đặc trưng của loại mô hình này là nhấn mạnh đến tính tích cực và lợi ích của việc bảo vệ kinh doanh tư nhân, từ đó dẫn đến việc chủ thể của mô hình nằm trong tầm kiểm soát và chi phối của tư nhân, bị tư nhân lũng đoạn, đồng thời nhà nước có chức năng phục vụ cho sự phát triển của kinh tế tư nhân.
Ba là, mô hình chính phủ chủ đạo của Nhật Bản. Nét đặc trưng của loại mô hình này là lấy điều tiết thị trường làm tiền đề; trên cơ sở đó, nhấn mạnh tác dụng chỉ đạo và dẫn dắt của chính phủ đối với nền kinh tế. Điểm khác biệt của loại mô hình này với mô hình của các nước phát triển khác được thể hiện tập trung ở hai điểm: thứ nhất, chính phủ đóng vai trò quan trọng trong sự vận hành của nền kinh tế; thứ hai, tính dân chủ của các quyết sách được thể hiện ở chỗ mọi quyết sách đều được công khai lấy ý kiến và đảm bảo lợi ích của các bên; về cơ bản, các quyết sách đều xuất phát từ lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc và lợi ích dân chủ.
Bốn là, mô hình Đông Á. Về mặt kinh tế, loại mô hình này đề cao quan điểm phát triển kinh tế nhằm xây dựng đất nước hoặc đi theo chủ nghĩa ưu tiên kinh tế, sử dụng chiến lược chú trọng xuất khẩu; đồng thời, duy trì kinh tế thị trường dưới sự chủ đạo của nhà nước. Về mặt chính trị, loại mô hình này sử dụng thể chế chính trị của chủ nghĩa uy quyền; đồng thời, sử dụng phương thức điều hành đất nước cả bằng người tài và lẫn bằng luật pháp, nêu cao tiến trình dân chủ hoá từng bước. Về mối quan hệ giữa hành pháp và tư pháp ở các nước phát triển theo mô hình loại này đặc trưng lớn nhất là hành pháp giữ vai trò chủ đạo. Trên thực tế, ở các nước đó, hành pháp quyết định cả lập pháp lẫn tư pháp.
Mô hình chủ nghĩa xã hội hay loại hình chủ nghĩa xã hội (Socialist model; Socialist mode; Socialist pattern) là khái niệm chỉ các dạng chủ nghĩa xã hội khác nhau được tiến hành ở các nước khác nhau trên thế giới. Điều đó nghĩa là, các nước khi tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội đều có hình thức, phương hướng và con đường của riêng mình. Do có sự khác biệt giữa các nước về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa cho đến dân số, điều kiện tự nhiên,... nên mô hình chủ nghĩa xã hội ở các nước, thậm chí ngay trong một nước nhưng ở từng giai đoạn lịch sử khác nhau, cũng có những hình thức khác nhau với những nét đặc trưng riêng. Mỗi nước xã hội chủ nghĩa căn cứ vào điều kiện thực tiễn của đất nước mình mà đề ra mục tiêu và phương thức phát triển khác nhau trong từng giai đoạn cụ thể.
Mô hình chủ nghĩa xã hội có thể được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, mô hình chủ nghĩa xã hội là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm về mục tiêu, phương tiện (cách thức) và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội nói chung; Theo nghĩa hẹp, mô hình chủ nghĩa xã hội là toàn bộ những lý luận, quan điểm về mục tiêu, phương tiện và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong một giai đoạn, một hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mỗi nước.
Mô hình chủ nghĩa xã hội trong thời gian qua cũng có nhiều loại khác nhau và có thể được khái quát thành hai loại tiêu biểu sau:
Một là, mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Liên Xô (đại diện cho các nước Đông Âu). Trong loại mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu này, chúng ta thấy có hai giai đoạn tương đối nổi bật, đó là giai đoạn Lênin và giai đoạn Stalin. Mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Lênin có các đặc trưng chủ yếu sau: thứ nhất, nhà nước lấy danh nghĩa xã hội trực tiếp chiếm hữu và sử dụng tư liệu sản xuất; thứ hai, nhà nước quyết định kế hoạch, giám sát quá trình sản xuất và phân phối sản phẩm của toàn xã hội, toàn thể người dân (trong độ tuổi lao động) cùng lao động, cùng thụ hưởng trong một tiêu chuẩn và điều kiện lao động chung; thứ ba, biến xây dựng đất nước thành một bộ máy quản lý, tạo nên một cơ chế quản lý từ trên xuống dưới. Cho đến trước khi Liên Xô ra đời, tất cả các mô hình chủ nghĩa xã hội đã được nêu ra kể từ các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng đầu thế kỷ XVI cho đến chủ nghĩa xã hội khoa học của C. Mác và Ph. Ăngghen đều chưa trở thành hiện thực. Mô hình Liên Xô trước đây là mô hình chủ nghĩa xã hội đầu tiên được hiện thực hoá.
Thứ hai, mô hình chủ nghĩa xã hội tập trung cao độ kiểu Stalin (hay còn gọi là mô hình tập trung cao độ) bao gồm một số đặc trưng chủ yếu: thứ nhất, thực hiện chế độ công hữu đơn nhất, loại bỏ toàn bộ các thành phần kinh tế khác; thứ hai, xây dựng nền kinh tế hiện vật chứ không phải là nền kinh tế hàng hóa, sử dụng mô hình quản lý tập trung cao độ trên phương diện tổ chức quản lý; thứ ba, thực hiện chuyên chính vô sản trên phương diện đời sống chính trị, cho rằng động lực phát triển của xã hội xã hội chủ nghĩa là cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Kiểu mô hình chủ nghĩa hội này mang những đặc trưng của thể chế thời chiến mà cơ bản dựa trên nguyên tắc lý luận và lý tưởng cách mạng. Khiếm khuyết đó khiến mô hình này có một khuyết điểm khá nghiêm trọng là xa rời thực tiễn cuộc sống.
Hai là, mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Trung Quốc. Mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Trung Quốc cũng có hai giai đoạn là giai đoạn Mao Trạch Đông và giai đoạn cải cách mở cửa. Thứ nhất, mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Mao Trạch Đông là mô hình chủ nghĩa xã hội thể chế kế hoạch hành chính trung ương tập trung cao độ. Loại mô hình này chịu một số ảnh hưởng của mô hình Liên Xô cũ, tạo ra những nét đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc, song nhìn chung vẫn không vượt qua được khuôn khổ của mô hình chủ nghĩa xã hội Liên Xô cũ, đặc biệt là trên phương diện thể chế kinh tế. Thứ hai, kiểu mô hình chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc hiện nay là mô hình phát triển xã hội gắn với lý luận Đặng Tiểu Bình, học thuyết ''ba đại diện'' và quan điểm phát triển một cách khoa học. Điểm nhấn mạnh của mô hình này là đổi mới mạnh mẽ về mặt tư tưởng, tập trung mọi nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế, mà các nhà lý luận của Trung Quốc gọi là phát triển lực lượng sản xuất. Một trong những đột phá lý luận quan trọng nhất của Đặng Tiểu Bình là việc xác lập được lý luận kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Việc xác lập này không chỉ đột phá vào lý luận kinh tế kế hoạch truyền thống - lý luận đã phủ nhận quan hệ hàng hoá, tiền tệ, phủ định vai trò của kinh tế thị trường, mà còn đột phá vào lý luận kinh tế thị trường truyền thống vốn coi điều tiết thị trường là của riêng sở hữu tư nhân. Sau lý luận của Đặng Tiểu Bình và tư tưởng ''ba đại diện'' của Giang Trạch Dân, tư tưởng xã hội hài hoà của Hồ Cẩm Đào được coi là bước phát triển mới trên con đường nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc.
Nội dung cơ bản của quan điểm về xã hội hài hoà được thể hiện ở 4 điểm cơ bản sau: thứ nhất, ''xã hội hài hoà là thuộc tính bản chất của chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc, là đảm bảo quan trọng nhất cho sự giàu mạnh của quốc gia, hưng thịnh của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân''; thứ hai, xã hội hài hoà là mục tiêu phấn đấu không ngừng của Đảng Cộng sản và của nhân dân Trung Quốc; thứ ba, ''xây dựng xã hội hài hoà xã hội chủ nghĩa là một quá trình liên tục điều hoà không ngừng các mâu thuẫn xã hội''; thứ tư, ''xã hội hài hoà xã hội chủ nghĩa là xã hội hài hoà do toàn thể nhân dân xây dựng, toàn thể nhân dân hưởng thụ''. Mô hình chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc hiện nay đang đạt được nhiều thành tựu lớn lao, được cả thế giới ghi nhận.
Ngoài hai hệ thống mô hình trên, hiện nay mô hình ''con đường thứ ba'' trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế đang thu hút sự quan tâm, chú ý. Mô hình ''con đường thứ ba'' có các đặc trưng cơ bản sau: một là, lấy cân bằng giữa tác dụng của thị trường và sự điều tiết của nhà nước làm nguyên tắc để tạo ra nền kinh tế mới; hai là, lấy cân bằng giữa trách nhiệm và quyền lợi làm nguyên tắc để xây dựng hệ thống phúc lợi mới; ba là, lấy cân bằng giữa hiệu quả kinh tế và công bằng xã hội làm nguyên tắc để đề xuất chính sách mới; bốn là, lấy cân bằng giữa chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa quốc làm nguyên tắc trong thực thi chính sách đối ngoại.
Hiện nay chưa có một hệ thống lý luận chặt chẽ về mô hình ''con đường thứ ba''. ''Con đường thứ ba'' xuất hiện là do xuất phát từ điều kiện thực tế của chủ nghĩa tư bản trong quá trình toàn cầu hóa, các chính đảng cánh tả của phương Tây phải đưa ra các giải pháp để xử lý các vấn đề hiện thực trong xã hội tư bản, phản ánh hiện tượng và xu thế tả khuynh của hình thái ý thức chính trị các nước phương Tây. Về thực chất, đây là một sự thỏa hiệp chính trị giữa chủ nghĩa tư bản tự do và chủ nghĩa xã hội dân chủ, là một phong trào tư tưởng của chủ nghĩa tư bản vượt ra ngoài cả ''tả'' và ''hữu'' trong điều kiện toàn cầu hóa nhằm khắc phục những vấn đề nội tại của chính mình. Mặc dù mô hình này có một số nội dung và đặc điểm mới, song về bản chất, nó xuất phát từ tiền đề bảo vệ chủ nghĩa tư bản, tập trung vào điều chỉnh phương thức quản lý và cách thức điều hành đất nước.
Còn ở Việt Nam, trước đổi mới chúng ta thường nhắc tới mô hình chủ nghĩa xã hội mà chúng ta sẽ xây dựng mang dáng dấp của mô hình chủ nghĩa xã hội của Liên Xô và Đông Âu. Đó là một mô hình chủ nghĩa xã hội dựa trên những đặc trưng do C. Mác và Ph. Ăngghen phác thảo và Stalin hiện thực hóa trong thực tế. Nhưng sau sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu, Việt Nam đã chủ động tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, hoàn thiện dần mô hình mới về chủ nghĩa xã hội với những mục tiêu và phương tiện xác định để từng bước đạt tới mục tiêu đó. Căn cứ vào các Văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt là các Văn kiện của Đại hội XI, chúng ta có thể phác họa mô hình chủ nghĩa xã hội của Việt Nam với những nội dung chủ yếu như sau:
Thứ nhất, mục tiêu bao trùm và thể hiện bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang xây dựng là: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Thứ hai, mục tiêu đó được cụ thể hóa bằng một loạt các đặc trưng cơ bản trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, đó là:
1. Do nhân dân làm chủ;
2. Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp;
3. Có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc;
4. Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện;
5. Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển;
6. Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng cộng sản lãnh đạo;
7. Có quan hệ và hợp tác với các nước trên thế giới.
Các đặc trưng trên đây thể hiện một cách toàn diện những nét căn bản nhất các lĩnh vực khác nhau của một xã hội, từ chính trị đến kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại. Các đặc trưng đó là sự kế thừa quan điểm của Đảng tại Đại hội X; đồng thời, có sự bổ sung và phát triển mới cho phù hợp với thực tiễn.
Tuy nhiên, theo chúng tôi, ở đây có 2 điểm mà cách diễn đạt của Đại hội X cụ thể và hay hơn so với Đại hội XI:
Một là, khi nói về đặc trưng kinh tế, Đại hội XI khẳng định: ''Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp''. So với đại hội X, Đại hội XI bổ sung thêm 2 chữ tiến bộ1. Nhưng thế nào là quan hệ sản xuất tiến bộ thì cần được giải thích thêm.
Hai là, trong đặc trưng nói về con người, Đại hội XI chỉ rõ xã hội mà chúng ta xây dựng là xã hội trong đó con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. So với Đại hội X, Đại hội XI bỏ đi cụm từ ''được giải phóng khỏi áp bức bất công''. Cách diễn đạt này tuy gắn gọn nhưng chưa thật lôgic với điểm diễn đạt về khuyết điểm của chủ nghĩa tư bản được nêu trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 20112. Khi đánh giá về chủ nghĩa tư bản, Cương lĩnh viết: Chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công (tác giả nhấn mạnh) 3. Chủ nghĩa tư bản chắc chắn sẽ bị thay thế và loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội. Nếu vậy thì cái xã hội thay thế xã hội tư bản tất yếu phải cao hơn, tốt đẹp hơn chủ nghĩa tư bản, tức là không có áp bức, bóc lột và bất công. Do đó, việc giữ lại cụm từ con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công là cần thiết và phù hợp với nhận định trên đây.
Vấn đề đặt ra là, phải chăng đây là mô hình tổng quát về chủ nghĩa xã hội mà nhân dân Việt Nam sẽ xây dựng. Nếu quy mô hình chủ nghĩa xã hội về các đặc trưng như trên thì ngoài các đặc trưng đã nêu còn có các đặc trưng nào khác? Các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã được thay đổi và bổ sung nhiều lần, còn có những vấn đề gì cần tiếp tục thảo luận?
Thứ ba, xã hội hiểu theo nghĩa tổng quát, bao gồm các lĩnh vực khác nhau, như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Vấn đề đặt ra là, ngoài mô hình tổng quát về chủ nghĩa xã hội, có thể nói về mô hình phát triển của từng lĩnh vực cụ thể hay không? Sở dĩ đặt vấn đề như vậy là vì, trong thời gian gần đây, ở Việt Nam, nhiều học giả đã đặt vấn đề nghiên cứu mô hình chính trị, mô hình kinh tế, mô hình xã hội và mô hình văn hóa của Việt Nam. Chẳng hạn, nhiều nhà kinh tế khẳng định mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ của Việt Nam là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nếu cách đặt vấn đề trên đây là đúng thì nội dung cụ thể của các mô hình phát triển trong từng lĩnh vực là gì? Phải chăng chúng ta có thể nói đến mô hình xã hội của Việt Nam là kết hợp giữa tăng trưởng với việc giải quyết tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước hoặc từng giai đoạn của sự phát triển; giải quyết tốt vấn đề an sinh xã hội, v.v..
Theo chúng tôi, những vấn đề nêu trên cần được tiếp tục tìm hiểu và làm sáng tỏ về mặt lý luận và thực tiễn. Đây là một điều hết sức bình thường, bởi nhận thức là một quá trình. Chính việc phát hiện những vấn đề mới nảy sinh và tìm cách giải quyết chúng một cách thỏa đáng sẽ góp phần quan trọng vào việc định hình ngày càng chính xác mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, từ đó định hướng cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của chúng ta đi tới thành công.
___________
1.Nguyên văn câu trong Đại hội X là: Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Theo chúng tôi, chỉ cần diễn đạt như thế này là đầy đủ và rõ nghĩa.
2.Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện.
3.Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.68.
Lựa chọn mô hình phát triển trong điều kiện hiện nay GS, TS. Lưu Văn Sùng
Học viện Chính trị - HCQG Hồ Chí Minh
Thực tiễn lịch sử cho thấy, nhân loại đã trải qua hai lần thất bại: Thất bại của thị trường tự do tư bản thiếu sự quản lý, điều tiết của nhà nước vào thế kỷ XVIII - XIX; và thất bại của nhà nước phi thị trường (mô hình Xôviết trong thế kỷ XX). Khắc phục hai sự thất bại ấy đã ra đời ba loại hình kinh tế thị trường:
1. Kinh tế thị trường tự do (ở Tây Âu và Bắc Mỹ);
2. Kinh tế thị trường xã hội (Đức và các nước Bắc Âu);
3. Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa (Trung Quốc) và định hướng xã hội chủ nghĩa (Việt Nam).
Sự lựa chọn mô hình phát triển không chỉ do yêu cầu khách quan của kinh tế, mà còn bị quy định bởi chế độ chính trị - xã hội và những điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia dân tộc.
Phân tích tính tất yếu khách quan của sự phát triển kinh tế thị trường và các loại hình kinh tế thị trường đặt trong điều kiện lịch sử nước ta cho thấy, việc lựa chọn mô hình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phù hợp với điều kiện hiện nay.
1. Tính tất yếu khách quan của sự phát triển kinh tế thị trường
Trước đây, thường có quan niệm rằng kinh tế thị trường là riêng có của chủ nghĩa tư bản. Nhưng theo quan điểm của C.Mác, sự phát triển xã hội như là một quá trình lịch sử tự nhiên, con người không thể dùng sắc luật để bỏ qua một giai đoạn phát triển của xã hội, kinh tế thị trường là một giai đoạn tất yếu của lịch sử mà nền kinh tế nào cũng phải trải qua; phải phát triển đầy đủ nền kinh tế thị trường thì mới đạt tới nấc thang cao hơn trên con đường tiến hóa. Nấc thang cao hơn đó là nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn đầu là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, nền kinh tế thị trường được C.Mác xác định là một nấc thang tất yếu, phổ biến trên con đường phát triển của tất cả các quốc gia dân tộc. Kinh tế thị trường được thừa nhận là thành tựu chung của văn minh nhân loại, không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản, mặc dù nó ra đời gắn với chủ nghĩa tư bản và được phát triển đầy đủ dưới chủ nghĩa tư bản.
Tính phổ biến của kinh tế thị trường thể hiện ở cấu trúc khung chung cho mọi nền kinh tế thị trường. Những yếu tố cơ bản quy định kinh tế thị trường, cũng là những yếu tố của cấu trúc kinh tế thị trường, bao gồm 5 yếu tố sau:
Thứ nhất, chủ thể của kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường đòi hỏi sự tồn tại của các chủ thể kinh tế độc lập dưới nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Về nguyên tắc, nền kinh tế thị trường có cấu trúc đa sở hữu. Trong cấu trúc này, sở hữu tư nhân luôn là thành tố tất yếu, bắt buộc.
Thứ hai, hệ thống đồng bộ các thị trường và thể chế tương ứng.
Mọi nền kinh tế thị trường đều bao gồm các loại hình thị trường: thị trường hàng hóa và dịch vụ, thị trường đất đai, thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường khoa học và công nghệ... Để nền kinh tế thị trường hoạt động có hiệu quả, phải bảo đảm hai yêu cầu: Một là, có sự hiện diện đầy đủ tất cả các thị trường nói trên. Hai là, các thị trường phải vận hành đồng bộ và hiệu quả.
Thứ ba, hệ thống giá cả do thị trường quyết định là yếu tố cốt lõi quy định sự vận hành của các thể chế thị trường và của cả nền kinh tế. Nền kinh tế thị trường chỉ có thể vận hành được một khi hệ thống giá cả được quyết định bởi thị trường trên cơ sở giá trị và quan hệ cung cầu nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận - động lực chủ yếu thúc đẩy nỗ lực hoạt động và nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp.
Thứ tư, cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường là cạnh tranh tự do và bình đẳng. Về bản chất, cơ chế cạnh tranh thị trường là cơ chế tự điều chỉnh. Do vậy, nó còn được gọi là “bàn tay vô hình”. Cơ chế này giúp nền kinh tế tạo lập sự cân bằng khi cân đối cũ bị phá vỡ và thiết lập sự cân đối mới.
Thị trường và cạnh tranh cũng là cơ chế chủ yếu phân bổ các nguồn lực phát triển của doanh nghiệp và nền kinh tế.
Thứ năm, vai trò của nhà nước. Thị trường có những khuyết tật và cơ chế thị trường có thể bị thất bại trong việc giải quyết những vấn đề phát triển, như khủng hoảng, đói nghèo, công bằng xã hội, môi trường... Cơ chế cạnh tranh tự do càng hoạt động mạnh, những khuyết tật này càng lộ rõ. Để khắc phục chúng và tránh mắc phải thất bại của thị trường, nhà nước phải tham gia quản lý, điều tiết sự vận hành của nền kinh tế. Nhà nước tham gia các quá trình kinh tế thị trường vừa với tư cách là bộ máy quản lý xã hội, vừa là một yếu tố nội tại của cơ chế vận hành nền kinh tế. Với tư cách đó, trong nền kinh tế thị trường hiện đại, nhà nước thực hiện ba chức năng cơ bản sau đây:
(1) Định hướng, tạo môi trường, hỗ trợ, kiểm soát và điều tiết sự phát triển;
(2) Phân phối và tái phân phối nguồn lực phát triển và thu nhập quốc dân;
(3) Giải quyết các vấn đề xã hội, bảo vệ môi trường và bảo đảm phát triển bền vững.
Để thực hiện ba chức năng đó, nhà nước phải giải quyết bốn nhiệm vụ chủ yếu:
(1) Cung cấp khung khổ pháp lý rõ ràng, nghiêm minh, có hiệu lực và phù hợp với đòi hỏi của cơ chế thị trường;
(2) Kiến tạo và bảo đảm môi trường vĩ mô ổn định, có tính khuyến khích kinh doanh;
(3) Cung cấp kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội (bao gồm hạ tầng “cứng” như giao thông vận tải, điện, nước v.v.. và hạ tầng “mềm” như dịch vụ thông tin, bưu chính - viễn thông; dịch vụ tài chính v.v..) cũng như các dịch vụ hàng hóa công cộng khác (chăm sóc sức khỏe, giáo dục - đào tạo, bảo vệ môi trường v.v..);
(4) Hỗ trợ cho nhóm người nghèo có các điều kiện tối thiểu để tham gia thị trường một cách bình đẳng.
Năm yếu tố trên là những yếu tố cấu thành cơ bản của khung thể chế chung của mọi nền kinh tế thị trường. Chúng tạo thành một tổng thể quy định lẫn nhau. Thiếu bất cứ yếu tố nào trong số đó đều không thể có nền kinh tế thị trường bình thường, vận hành hiệu quả. Tuy nhiên, dù đây là 5 yếu tố cấu thành bắt buộc, song trong mỗi nền kinh tế thị trường, tùy theo chế độ chính trị - xã hội và các điều kiện phát triển cụ thể của mỗi quốc gia mà vai trò, vị trí và chức năng của từng yếu tố không hoàn toàn giống nhau. Điều này tạo nên tính đặc thù của các mô hình kinh tế thị trường và nền kinh tế thị trường ở mỗi quốc gia.
2. Các loại hình kinh tế thị trường và sự lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
Thực tế cho thấy kinh tế thị trường không phát triển theo mô hình đơn nhất, nó được thực hiện dưới nhiều mô hình khác nhau. Cơ bản có ba loại:
Mô hình kinh tế thị trường tự do
Kinh tế thị trường trong khuôn khổ chủ nghĩa tư bản chủ yếu phát triển theo mô hình tự do, được thực hiện ở hầu hết các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa hàng đầu ở Tây Âu và Bắc Mỹ. Mô hình này đề cao vai trò của chủ sở hữu tư nhân, của tự do cá nhân và cạnh tranh tự do. Trong mô hình kinh tế thị trường tự do, sự can thiệp, điều tiết của nhà nước vào các quá trình kinh tế được hạn chế ở mức thấp. Quá trình phát triển kinh tế chủ yếu do khu vực tư nhân đảm nhiệm dưới sự điều tiết của “bàn tay vô hình” (tức cơ chế cạnh tranh tự do). Chức năng chính của nhà nước là bảo vệ chế độ tư hữu tư nhân và các quyền tự do cá nhân, bảo đảm ổn định vĩ mô, tạo điều kiện để kinh tế tư nhân và cơ chế thị trường tự do vận hành thuận lợi nhất. Sự tham gia của nhà nước vào quá trình phân phối lại, vào hệ thống phúc lợi xã hội nhằm giảm thiểu tình trạng bất bình đẳng, tạo lập công bằng xã hội, ngăn chặn và xử lý các thất bại của thị trường tuy được coi trọng, nhưng không nhiều như ở các mô hình khác. Ở mô hình này, vai trò động lực phát triển của lợi ích tư nhân, cá nhân (lợi nhuận) được đề cao tối đa, còn vai trò “người cầm lái” của nhà nước (bàn tay hữu hình) lại tương đối bị xem nhẹ.
Mô hình này được xây dựng trên cơ sở lý thuyết tự do tư sản. Theo trường phái này, sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất chính là tự do của từng người về những cái mà người ấy có. Tự do cạnh tranh và thị trường tự do sẽ tạo ra sự hài hòa trong xã hội và cực đại hóa thịnh vượng xã hội. Trên cơ sở đó hình thành nền chính trị tự do: Thiết lập và thực thi quyền lực nhà nước nhưng không vi phạm, hạn chế tự do cá nhân, mà phải bảo đảm tự do cá nhân; các chính đảng tự do cạnh tranh qua bầu cử để giành quyền lực nhà nước, thiết lập thể chế đa nguyên chính trị; các nhóm lợi ích chính trị là những tập đoàn áp lực tác động vào chính sách và hoạt động của nhà nước nhằm bảo đảm lợi ích của mình.
Nền kinh tế tự do là một động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Nhưng tự do cạnh tranh “cá lớn nuốt cá bé”, chỉ mang lại tự do cho người giầu có sở hữu, còn người nghèo không có sở hữu thì không có tự do, có chăng chỉ là tự do bán sức lao động. Bất bình đẳng, bất công xã hội dẫn đến tình trạng “kẻ ăn không hết, người lần không ra”. Xung đột giai cấp, dân tộc gay gắt, quyết liệt. Còn nền chính trị tự do tưởng như bảo đảm tự do, dân chủ, công bằng cho mọi người, nhưng trong thực tế, các nhà tư bản lớn nắm giữ quyền lực chính trị. Bầu cử tự do, nhưng thắng cử thuộc về các đảng lớn đại diện cho lợi ích của các tập đoàn tư bản mạnh, tuyệt đại bộ phận các nghị sĩ là giới thượng lưu tư sản. Hội các chủ doanh nghiệp lớn và hội các quan chức là những nhóm lợi ích chính trị hỗ trợ, tạo điều kiện cho hoạt động của quốc hội và chính phủ; hai cơ quan này lại liên kết với nhau để ban hành các chính sách phục vụ cho các nhóm lợi ích; hình thành tam giác quyền lực - quyền lực nhà nước bên trong nhà nước. Nền kinh tế tự do và chính trị tự do không giải quyết được bất công và xung đột xã hội. Khủng hoảng tài chính phát sinh từ trung tâm tài chính phố Uôn của Mỹ và lan ra toàn cầu; các nước có nền kinh tế tự do thường là chủ công trong những cuộc chiến tranh khống chế nguồn nguyên liệu, bao vây cấm vận các nước khác trên trường quốc tế. Tính chất dã man của chủ nghĩa tư bản vẫn hiện hữu, tuy biểu hiện dưới hình thức mới dưới nhãn hiệu “dân chủ”, “nhân quyền”... Mô hình tự do đã lỗi thời, không thể là tương lai của nhân loại.
Mô hình kinh tế thị trường xã hội
Mô hình này được thực hiện thành công ở Cộng hòa Liên bang Đức và các nước Bắc Âu, điển hình là ở Thụy Điển. Về nguyên tắc, mô hình kinh tế thị trường xã hội thừa nhận các yếu tố cơ bản phổ biến của kinh tế thị trường, như cấu trúc đa sở hữu với sở hữu tư nhân làm nòng cốt, hệ thống các thể chế thị trường, cơ chế cạnh tranh tự do và vai trò của nhà nước trong nền kinh tế. Tuy nhiên, so với mô hình kinh tế thị trường tự do mô hình này có hai đặc trưng nổi bật:
- Coi các mục tiêu xã hội và phát triển con người (công bằng xã hội, phúc lợi cho người nghèo và người lao động, quyền tự do phát triển của mọi người dân...) cũng là mục tiêu của quá trình phát triển kinh tế thị trường.
- Nhà nước dẫn dắt nền kinh tế thị trường phát triển không chỉ nhằm mục tiêu tăng trưởng và hiệu quả kinh tế mà còn cả mục tiêu phát triển và hiệu quả xã hội.
Với những đặc trưng trên đây, tuy mô hình kinh tế thị trường xã hội là một biến thể của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, song nó phản ánh một xu hướng tất yếu của sự phát triển. Đó là đến một trình độ phát triển nhất định, trong những điều kiện cụ thể, tự kinh tế thị trường không thể giải quyết hiệu quả tất cả các vấn đề phát triển, nhất là các mục tiêu phát triển xã hội và con người. Để đạt được điều đó, trong cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường, cần có thêm “bánh lái” để định hướng thúc đẩy quá trình phát triển đi đúng quỹ đạo nhằm phục vụ tốt nhất không chỉ tăng trưởng và hiệu quả kinh tế mà cả nhiệm vụ phát triển xã hội và con người. Như vậy, để đạt hiệu quả cao nhất quá trình phát triển kinh tế thị trường, cần hướng tới mục tiêu xã hội và phát triển con người. Phương thức để đạt mục tiêu đó không phải là phủ nhận thị trường, xóa bỏ cơ chế thị trường mà là đặt nhà nước vào vị thế tham gia điều tiết và định hướng sự phát triển kinh tế thị trường với tư cách là một yếu tố cấu thành bên trong của cơ chế thị trường hiện đại. Mô hình thị trường xã hội còn chịu tác động của trào lưu tư tưởng xã hội dân chủ. Khác với chủ nghĩa tự do định hướng hiệu quả - khơi dậy động cơ vụ lợi của con người để cực đại hóa thịnh vượng xã hội, trào lưu xã hội dân chủ xuất phát từ định hướng giá trị - mọi người sống trong xã hội phải được bảo đảm cuộc sống phù hợp với nhân phẩm; tự do, bình đẳng là giá trị xuất phát và hướng tới mục tiêu dân chủ. Để đạt giá trị ấy cần thực hiện nền kinh tế hỗn hợp, đa sở hữu, trong đó kinh tế tư nhân là nòng cốt; nền chính trị đa nguyên; nhà nước phúc lợi xã hội; bằng hệ thống bảo hiểm hoàn chỉnh, những chính sách công bằng tự do đã bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội cho mọi người. Có thể nói thị trường xã hội, dưới tác động của nhà nước phúc lợi, tuy vẫn là kinh tế tư bản, nhưng so với Tây Âu và Bắc Mỹ, đời sống xã hội ở các nước Bắc Âu dân chủ và công bằng hơn, nhân đạo và đồng thuận hơn. Đó là một bước tiến của nền kinh tế thị trường và văn minh chính trị. Nhưng trong phạm vi chủ nghĩa tư bản, kinh tế tư nhân còn là nòng cốt thì không thể thực hiện được những chính sách thực sự vì xã hội, vì con người, tác dụng của nhà nước phúc lợi cũng có giới hạn.
Mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Loại mô hình kinh tế thị trường này đang được thực thi ở Trung Quốc (kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa) và ở Việt Nam (kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa). Thời gian tồn tại của nó chỉ mới hơn 1/4 thế kỷ và đang từng bước được khẳng định. Tuy vậy, kết quả thực tế đã chứng tỏ đây là mô hình có sức sống mạnh mẽ và có triển vọng lịch sử to lớn. Kinh tế tăng trưởng nhanh và liên tục trong nhiều năm. An sinh xã hội được bảo đảm, chính trị - xã hội ổn định. Loại mô hình này đứng vững trong khủng hoảng kinh tế toàn cầu và khắc phục nhanh hậu quả khủng hoảng tác động đến nền kinh tế trong nước. Việt Nam lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vì đó là mô hình tiến bộ trong tiến trình phát triển xã hội, đồng thời cũng phù hợp với yêu cầu công cuộc đổi mới ở nước ta - thay đổi cấu trúc mô hình chủ nghĩa xã hội nhưng không từ bỏ mục tiêu xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu ấy bằng phương thức mới, bằng nền kinh tế thị trường. Do vậy chuyển từ nền kinh tế hành chính bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, một mặt, phải xác lập và hoàn thiện đầy đủ 5 yếu tố của thể chế thị trường để khơi dậy mọi động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo điều kiện vật chất và tinh thần đáp ứng mục tiêu xã hội và giải phóng con người; mặt khác, phải thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Định hướng xã hội chủ nghĩa là hướng tới xã hội nhân đạo hoàn thiện, khắc phục tha hóa, áp bức, bóc lột, bất công, mọi người được phát triển tự do, “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” (C.Mác). Trước hết là xây dựng đất nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, “đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Vì vậy, vấn đề an sinh xã hội, công bằng xã hội, tạo môi trường cho mọi người có điều kiện tự do phát triển cũng chính là mục tiêu của quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện mục tiêu ấy cần coi trọng vai trò của Nhà nước, vai trò của “bàn tay hữu hình” trong quản lý, điều tiết nền kinh tế. Nhà nước quản lý nền kinh tế, định hướng điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, chính sách và lực lượng vật chất. Lực lượng vật chất chính là các nguồn lực của kinh tế nhà nước. Chỉ trên cơ sở nguồn lực kinh tế mạnh, Nhà nước mới có thể cung cấp kết cấu hạ tầng xã hội bảo đảm giao thông, điện, nước, thông tin, giáo dục - đào tạo, bảo vệ môi trường... Và, cũng chỉ trên cơ sở nguồn lực kinh tế mạnh, Nhà nước mới bảo đảm an sinh xã hội, hỗ trợ người nghèo, hạn chế bất công xã hội... Vì vậy, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Song, kinh tế nhà nước ở nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế, khuyết tật, chức năng chủ sở hữu chưa được xác định rõ ràng, thể chế và cơ chế vận hành còn nhiều bất cập tạo môi trường cho tham nhũng, lãng phí, nhất là khi bộ phận thoái hóa biến chất nắm kinh tế cấu kết với bộ phận thoái hóa biến chất nắm quyền lực chính trị tìm cách chiếm đoạt của cải sẽ gây nên tổn thất rất lớn tài sản nhà nước. Mặt khác, nước ta còn ở giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, mới bước sang nền kinh tế thị trường, vừa thoát khỏi nhóm nước có thu nhập thấp và bước vào nhóm nước phát triển có mức thu nhập trung bình, để có thể phát triển nhanh, phải biết khơi dậy các động lực của nền kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân. Kinh tế tư nhân nếu phát triển đúng định hướng sẽ là một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế, vì kinh tế tư nhân có chủ cụ thể với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận sẽ kích thích, phát huy sức sáng tạo của chủ doanh nghiệp, kích thích đổi mới kỹ thuật - công nghệ, tối ưu hóa sản xuất, tiết kiệm chi phí, tăng năng suất, giảm giá thành. Phát triển kinh tế tư nhân không chỉ tăng của cải xã hội, giải quyết công ăn việc làm, mà còn tăng cường sức cạnh tranh, tăng hiệu quả của nền kinh tế, góp phần khắc phục những yếu tố bất cập của nền kinh tế nước ta hiện nay. Đồng thời, cần coi trọng phát triển loại hình kinh tế sở hữu hỗn hợp, các doanh nghiệp cổ phần đa sở hữu để khơi dậy mọi động lực của nền kinh tế. Mỗi thành phần kinh tế, mỗi hình thức sở hữu, mỗi loại hình doanh nghiệp đều có những thế mạnh và những khuyết tật, vấn đề là biết kết hợp những ưu thế của chúng để hỗ trợ cho nhau tạo nên sức mạnh tổng hợp trong quá trình vận hành của nền kinh tế thị trường; vừa tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại hình thị trường, vừa tạo ra nhân tố bảo đảm sự vận động của nền kinh tế theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Đó chính là hoàn thiện thể chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Để nền kinh tế thị trường vận động theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa, cần xác lập và hoàn thiện các nhân tố của kiến trúc thượng tầng chính trị bảo đảm định hướng cho sự phát triển kinh tế:
- Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhà nước giữ vai trò quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế để nền kinh tế hoạt động có hiệu quả vì lợi ích của nhân dân.
- Củng cố và hoàn thiện vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản để bảo đảm kiên định thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tính chất xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường.
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chính là thực hiện chủ nghĩa nhân đạo trong kinh tế thị trường, đó là xu hướng tiến bộ của kinh tế thị trường và là mô hình phát triển ở nước ta hiện nay./.
Tính nhất quán và sự sáng tạo trong quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phương thức “phát triển rút ngắn” PGS.TS Đặng Hữu Toàn
Viện triết học, Viện KHXHVN
Chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định rằng, tiến trình phát triển lịch sử của cách mạng Việt Nam kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đến nay là tiến trình phát triển theo con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội với phương thức “phát triển rút ngắn”- “bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”.
Nhìn lại tiến trình phát triển đó, chúng ta thấy, ngay tại Đại hội thành lập Đảng (ngày 3 tháng 2 năm 1930), trong Chánh cương vắn tắt của Đảng, khi xác định đường lối của cách mạng Việt Nam, Đảng đã khẳng định chủ trương “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”1.
Trên cơ sở lý luận nền tảng là chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh - người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhiều lần khẳng định rằng, với Việt Nam, con đường cứu nước, giải phóng dân tộc không thể là con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản, cách mạng xã hội chủ nghĩa; rằng để sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người đi đến thành công, để công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta đi đến thắng lợi cuối cùng, “trước hết phải có đảng cách mệnh”; rằng mục đích của đảng là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”; rằng “Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức ra để lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp đấu tranh để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản”2.
Cụ thể hoá đường lối cách mạng mà Chánh cương vắn tắt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, tại Đại hội II (tháng 2 năm 1951), trong Chính cương của Đảng đã chỉ rõ nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam và khẳng định: “Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam nhất định sẽ đưa Việt Nam tiến tới chủ nghĩa xã hội”3 (chúng tôi nhấn mạnh - Đ.H.T.).
Tại Đại hội III (tháng 9 năm 1960), Đảng đã xác định đường lối chung của miền Bắc trong thời kỳ quá độ là “đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”, củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà, góp phần tăng cường hệ thống xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hoà bình trong phạm vi khu vực và trên thế giới.
Sau đại thắng mùa Xuân 1975, Tổ quốc Việt Nam đã thống nhất, cả dân tộc Việt Nam cùng bước vào một giai đoạn cách mạng mới - tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Thế nhưng, khi bước vào giai đoạn cách mạng này, thực trạng kinh tế - xã hội ở hai miền Nam - Bắc còn có sự khác nhau đã đặt Đảng trước sự lựa chọn bước phát triển tiếp theo cho cách mạng Việt Nam nói chung, ở mỗi miền nói riêng. Trong đường lối chung của cách mạng Việt Nam là thực hiện con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thì ở miền Nam, chúng ta còn phải tiếp tục hoàn thành về cơ bản công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa; ở miền Bắc có nhiệm vụ cụ thể là tiếp tục củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, cải tiến công tác thương nghiệp, giá cả, tài chính,... Mặc dù ở hai miền đất nước còn có những nhiệm vụ cụ thể riêng, song trên cơ sở phân tích nội dung cơ bản của thời đại, tại Đại hội IV (tháng 12 năm l976), Đảng đã xác định: Trong thời đại ngày nay, khi độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không thể tách rời nhau và ở Việt Nam,“khi giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo cách mạng thì thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng là sự bắt đầu của cách mạng hội chủ nghĩa, sự bắt đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”4.
Với tư tưởng quán xuyến này, Đảng đã quyết định lựa chọn con đường cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Sự lựa chọn đó là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn phát triển của cách mạng Việt Nam, phù hợp với xu thế chung của thời đại. Song, do Việt Nam bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cơ sở của một nền kinh tế còn rất lạc hậu, cơ sở vật chất - kỹ thuật còn non yếu, phần lớn lao động vẫn là thủ công, sản xuất xã hội chưa bảo đảm được nhu cầu, Đảng đã khẳng định: Dẫu Việt Nam “vẫn đang ở trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ”, song con đường cách mạng của Việt Nam vẫn là “tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”5. Với nền kinh tế đó, để nâng cao đời sống nhân dân, Đảng đã đưa ra chủ trương tập trung phát triển sản xuất để xây dựng cơ sở kinh tế- xã hội cho bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ xuất phát điểm thấp, lại bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa là con đường hoàn toàn mới mẻ, chưa từng có tiền lệ trong lịch sử nhân loại. Do vậy, việc thực hiện con đường phát triển này đã đòi hỏi rất nhiều nỗ lực của nhân tố chủ quan. Trên cơ sở của đường lối chung chúng ta cần phải cụ thể hoá cho phù hợp để từ đó, xác định bước đi, cách thức thực hiện trong thực tiễn. Song, trong quá trình thực hiện con đường phát triển đó, trên thực tế, chúng ta đã mắc không ít sai lầm, khuyết điểm, như “chủ quan, nóng vội, bảo thủ, trì trệ”, chưa thực sự nắm chắc quy luật của quá trình tiến từ nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, chưa có những hiểu biết đầy đủ về thực tế và còn thiếu, thậm chí rất thiếu kiến thức kinh tế,… Những sai lầm chủ quan đó cùng với hoàn cảnh khách quan của một nền sản xuất nhỏ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lại bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa đã đưa Việt Nam bước vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Trước bối cảnh hiện thực đó, tại Đại hội V (tháng 3 năm 1982), trên cơ sở tiếp tục khẳng định đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng đã chỉ rõ hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn này là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong chỉ đạo thực tiễn, do chưa quán triệt những điều đã được khẳng định trong chiến lược phát triển và kế hoạch thực hiện, do vẫn chưa kiên quyết khắc phục tưởng nóng vội, chủ quan, duy ý chí và cùng với đó là bảo thủ, trì trệ, chúng ta lại tiếp tục vấp phải sai lầm trong việc xác định cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và cơ chế quản lý. Những sai lầm đó đã đẩy nền kinh tế Việt Nam lâm vào khủng hoảng sâu sắc.
Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế - xã hội đó, niềm tin vào chủ nghĩa xã hội đã giảm sút ở không ít người, thậm chí có người còn quy kết sai lầm đó là ở việc lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa. Bác bỏ sự quy kết đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: Không phải sai lầm dẫn đến khủng hoảng kinh tế -xã hội là ở việc lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa, mà là ở việc chúng ta đã thiết kế một mô hình phát triển kinh tế không phù hợp với thực tiễn đất nước và cách thức tiến hành không thích hợp. Thực tiễn khủng hoảng kinh tế - xã hội đó đã đặt ra trước chúng ta nhiệm vụ nhận thức lại con đường phát triển, đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội, về mô hình phát triển kinh tế, về cách thức tiến hành. Nhiệm vụ bức thiết này đã được chúng ta giải quyết tại Đại hội VI của Đảng.
Tại Đại hội VI (tháng 12 năm 1986) - Đại hội đổi mới, con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo phương thức “phát triển rút ngắn” của cách mạng Việt Nam đã được Đảng chính thức khẳng định với việc sử dụng cụm từ “bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Khi đó, với nhận định rằng, ngày nay, chúng ta đã có những điều kiện để hiểu biết đầy đủ hơn về con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng đã khẳng định: Từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua thời kỳ quá độ là một tất yếu khách quan, và độ dài của thời kỳ đó phụ thuộc vào điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của mỗi nước. Thời kỳ quá độ ở Việt Nam, “do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải lâu dài và rất khó khăn” (chúng tôi nhấn mạnh - Đ.H.T.).
Đó là cả một thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện và triệt để nhằm xây dựng từ đầu một chế độ xã hội mới cả về lực lượng sản xuất lẫn quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Nội dung cơ bản của đường lối cách mạng đó đã được Đảng xác định là: “Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng (cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá - Đ.H.T), thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa”6.
Nội dung cơ bản của đường lối cách mạng đó đã được Đảng cụ thể hoá hơn tại Đại hội VII (tháng 6 năm 1991). Và, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII, khi nhận định Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh quốc tế đang có những biến đổi to lớn và sâu sắc, đặc biệt là với sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã khiến cho phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi toàn thế giới lâm vào thoái trào tạm thời, chủ nghĩa xã hội đứng trước nhiều khó khăn, thử thách; lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co, song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hoá của lịch sử, Đảng đã tiếp tục khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo phương thức “phát triển rút ngắn”. Rằng, “nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”- đó là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc.
Với khẳng định đó, Đảng đã chỉ rõ, quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo phương thức “phát triển rút ngắn” đòi hỏi chúng ta “phải tiếp tục nâng cao ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng vật chất và trí tuệ của dân tộc đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tìm tòi bước đi, hình thức và biện pháp thích hợp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội” nhằm mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hoá phù hợp, làm cho Việt Nam trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là “quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường. Mục tiêu của chặng đường đầu là: thông qua đổi mới toàn diện, xã hội đạt tới trạng thái ổn định vững chắc, tạo thế phát triển nhanh chặng sau”7.
Đường lối cách mạng Việt Nam trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thể hiện trong Cương lĩnh đó là giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong quá trình đổi mới, nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp tục thực hiện con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo phương thức “phát triển rút ngắn” đã một lần nữa được Đảng nhấn mạnh tại Đại hội VIII (tháng 7 năm 1996).
Tại Đại hội này, Đảng đã đưa ra đánh giá tổng quát với nhận định rằng công cuộc đổi mới trong 10 năm đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, mặc dù vẫn còn một số mặt chưa vững chắc. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hoá đã cơ bản hoàn thành. Thành công bước đầu đó đã cho phép Việt Nam chuyển sang thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Và hơn nữa, Đảng còn nhấn mạnh, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng được xác định rõ hơn. Rằng, đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa, mà là quan niệm đúng đắn hơn về chủ nghĩa xã hội và thực hiện mục tiêu ấy bằng những hình thức, bước đi và biện pháp phù hợp. Đổi mới là kết hợp sự kiên định về nguyên tắc và chiến lược cách mạng với sinh hoạt, sáng tạo trong sách lược, nhạy cảm nắm bắt cái mới.
Tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới theo con đường xã hội chủ nghĩa, tại Đại hội IX (tháng 4 năm 2001) và Đại hội X (tháng 4 năm 2006), Đảng khẳng định thực tiễn phong phú và những thành tựu thu được qua những năm đổi mới đất nước đã chứng minh tính đúng đắn của Cương lĩnh được thông qua tại Đại hội VII của Đảng, đồng thời giúp chúng ta nhận thức ngày càng rõ hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội Việt Nam; Cương lĩnh là ngọn cờ chiến đấu vì thắng lợi của sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, định hướng cho mọi hoạt động của Đảng hiện nay và trong những thập kỷ tới. Rằng, con đường cách mạng Việt Nam vẫn là con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo phương thức “phát triển rút ngắn”, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Mới đây, khi đưa ra đánh giá tổng quát 25 năm đổi mới, 20 năm thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tại Đại hội XI (tháng 1 năm 2011), Đảng đã khẳng định: Sau 25 năm đổi mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, “chúng ta đã giành được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Đất nước thực hiện thành công bước đầu công cuộc đổi mới, ra khỏi tình trạng kém phát triển; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố, tăng cường. Độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của đất nước đã tăng lên rất nhiều, tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn theo con đường xã hội chủ nghĩa”8.
Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản. Những thành tựu đó cho chúng ta càng thấy rõ giá trị định hướng và chỉ đạo của Cương lĩnh mà ở đó, con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo phương thức “phát triển rút ngắn” đã được Đảng xác định là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam.
Như vậy, có thể khẳng định, con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo phương thức “phát triển rút ngắn” (bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa) là đường lối cách mạng nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam; là sự vận dụng đúng đắn và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng xã hội chủ nghĩa; là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng.
Chúng ta khẳng định đó là đường lối cách mạng nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam, bởi như trên chúng tôi đã trình bày, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa ngay từ đầu đã được Đảng và người sáng lập, rèn luyện Đảng là Chủ tịch Hồ Chí Minh thừa nhận là con đường phát triển của cách mạng Việt Nam. Từ Chánh cương vắn tắt được thông qua tại Đại hội thành lập Đảng và trong suốt tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam từ đó đến nay, chưa bao giờ Đảng ta xa rời đường lối cách mạng này.
Chúng ta khẳng định đó là sự vận dụng đúng đắn và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng xã hội chủ nghĩa, bởi quan điểm đó trong tư tưởng Hồ Chí Minh chúng ta đều đã rõ. Tư tưởng về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam là một trong những tư tưởng then chốt hợp thành tư tưởng của Người về chủ nghĩa xã hội và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cũng như toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung.
Ngay từ khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định con đường phát triển của cách mạng Việt Nam là quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Và, khi xác định đặc điểm lớn nhất của Việt Nam trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, Người đã lựa chọn con đường phát triển cho cách mạng Việt Nam là con đường “quá độ gián tiếp” lến chủ nghĩa xã hội theo phương thức “phát triển rút ngắn”. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo phương thức đó theo Người, là một tất yếu, phù hợp với xu thế khách quan của lịch sử với xu thế của thời đại ngày nay. Người cho rằng, chúng ta bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa bởi chủ nghĩa tư bản là chế độ áp bức, bóc lột và nô dịch con người, song bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa không có nghĩa là vứt bỏ mọi thành tựu văn hoá, văn minh mà nhân loại đã đạt được trong chủ nghĩa tư bản; những thành tựu đó cần phải tiếp thu, khai thác vì sự thành công của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Với Người, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là “không trải qua” giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa và với trình độ phát triển của Việt Nam thì đó là “tiến dần”, “từ từ”, “từng bước một”, tiến dần từ dân chủ nhân dân lên chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ quan trọng nhất là “xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội..., cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt lâu dài”9.
Theo đó, có thể nói, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, lâu dài và gian khổ, song là con đường tất yếu, khách quan, hợp quy luật của cách mạng Việt Nam.
Quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề này đã được các ông trình bày rõ khi luận giải về khả năng thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa và về tính tất yếu lịch sử của chủ nghĩa xã hội. Khi tiến hành phân tích vận mệnh lịch sử của chủ nghĩa tư bản ở giai đoạn phát triển cạnh tranh tự do của nó và trong bối cảnh sục sôi đấu tranh giai cấp và bão táp cách mạng ngay trên mảnh đất đã sản sinh ra chủ nghĩa tư bản - ở châu Âu thế kỷ XIX, C.Mác và Ph.Ăngghen đã dự báo về khả năng thắng lợi đồng thời của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở tất cả các nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Song, vốn là những nhà triết học duy vật biện chứng, các ông không bao giờ coi học thuyết, lý luận của mình là hoàn chỉnh và đã xong xuôi hẳn, càng không bao giờ các ông coi đó là những giáo điều, tín niệm. Các ông chỉ coi học thuyết của mình như một sự gợi ý về phương pháp, như một kim chỉ nam cho hành động sáng tạo cách mạng và trong nó tuyệt nhiên không có sẵn và đầy đủ mọi câu trả lời cho tất cả những sự biến đổi sinh động của thực tiễn cuộc sống. Và do vậy, một khi thực tiễn cách mạng vượt qua những kiến giải khoa học đã có và làm cho một số luận điểm nào đó trong học thuyết của các ông trở nên không còn thích hợp, các ông đã kịp thời tự phê phán và đưa ra những giải thích, những luận chứng bổ sung mới.
Nó rõ hơn về điều này, chúng tôi xin lưu ý rằng, sau Công xã Pari, từ 1872 đến 1893, C.Mác và Ph.Ăngghen đã 7 lần viết lời tựa mới khi Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản được tái bản với mục đích giải thích thêm, bổ sung thêm những luận điểm mới cho lý luận của các ông về chủ nghĩa xã hội và cách mạng xã hội chủ nghĩa để tác phẩm mang tính cương lĩnh này của giai cấp vô sản toàn thế giới không mất đi sức sống và giá trị cách mạng của nó. Và, quan niệm về khả năng thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở các ông cũng có sự thay đổi. Chẳng hạn, khi tổng kết thực tiễn đấu tranh giai cấp ở Pháp trong những năm 1848 - 1850, bản thân C.Mác đã đưa ra dự báo về khả năng thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa không phải ở những nước tư bản phát triển, mà ở những nước tư bản chủ nghĩa kém phát triển hơn. Khi chứng kiến sự thất bại của Công xã Pari và tiến hành tổng kết cuộc thực nghiệm vĩ đại này trong lịch sử cách mạng nhân loại, C.Mác đã nói đến khả năng chưa chín muồi cho một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Với quan niệm duy vật về lịch sử, với học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội, khi tiến hành phân tích hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, C.Mác đã khẳng định sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên, song không phải quốc gia dân tộc nào cũng nhất thiết phải trải qua tất cả các hình thái kinh tế - xã hội đã có trong lịch sử, và do những điều kiện khách quan, chủ quan nhất định, một quốc gia dân tộc nào đó có thể bỏ qua một hình thái nhất định nào đó. C.Mác còn lưu ý rằng, một xã hội, ngay cả khi đã phát hiện được quy luật tự nhiên trong sự vận động của nó, cũng không thể nào nhảy qua các giai đoạn phát triển tự nhiên ấy hay dùng sắc lệnh để xoá bỏ, nhưng nó có thể rút ngắn và làm dịu bớt những cơn “đau đẻ”. Trong Thư gửi ban biên tập tờ “Ký sự nước nhà”, khi nói về nước Nga, về khả năng nước Nga có thể “không cần phải trải qua những đau khổ của chế độ tư bản”, C.Mác đã nói đến cơ hội tiến lên chủ nghĩa xã hội như một khả năng lựa chọn mà lịch sử đã mở ra, đã dành cho nước Nga. Sau này, C.Mác và Ph.Ăngghen, trong Lời tựa viết cho lần xuất bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản bằng tiếng Nga (năm 1882), đã khẳng định nước Nga mới là nước “đang đi tiên phong trong phong trào cách mạng châu Âu”, cách mạng Nga mới là cuộc cách mạng “báo hiệu một cuộc cách mạng vô sản ở phương Tây”; với cuộc cách mạng này và khi được sự ủng hộ, “bổ sung” bởi cuộc cách mạng vô sản ở châu Âu thì nước Nga có thể tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Lời khẳng định này còn được Ph.Ăngghen nhắc lại một lần nữa 8 năm sau đó, khi ông viết Lời tựa cho lần xuất bản bằng tiếng Đức (năm 1890) tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Và 4 năm sau, trong Lời bạt viết cho tác phẩm Về vấn đề xã hội ở Nga, Ph.Ăngghen lại thêm một lần nữa khẳng định khả năng nước Nga có thể “rút ngắn một cách đáng kể quá trình phát triển của mình lên xã hội xã hội chủ nghĩa và có thể tránh được phần lớn những đau khổ và những cuộc đấu tranh mà ở Tây Âu... phải trải qua”. Hơn nữa, ông còn khẳng định rằng, “con đường phát triển rút ngắn như vậy… không chỉ đúng với nước Nga, mà với tất cả các nước đang trong giai đoạn phát triển tiền tư bản chủ nghĩa”10 (chúng tôi nhấn mạnh - Đ.H.T.).
Theo đó, có thể nói, khi vẫn giữ quan niệm về khả năng thắng lợi đồng thời của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra những dự báo về khả năng thắng lợi của cuộc cách mạng đó không phải các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, mà ở các nước kém phát triển, thậm chí các nước đang trong giai đoạn phát triển tiền tư bản chủ nghĩa và về con đường “phát triển rút ngắn” không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa của các nước này.
V.I.Lênin, vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, khi phân tích chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa - giai đoạn phát triển độc quyền của nó, và với việc phát hiện ra quy luật phát triển không đồng đều về kinh tế và chính trị của chủ nghĩa tư bản, đã đi đến kết luận về khả năng thắng lợi của cách mạng hội chủ nghĩa ở một số nước tư bản chủ nghĩa, thậm chí một nước, và hơn nữa, đó có thể là nước tư bản chủ nghĩa kém phát triển nhất.
Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga, vào năm 1920, V.I.Lênin đã nói đến con đường phát triển không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa và khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội “không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” của các nước lạc hậu, tiểu nông, chậm phát triển 11. Và, với kinh nghiệm của những năm thực hiện “chính sách kinh tế mới” (NEP), ông đã đi đến kết luận khẳng định rằng, con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội có thể có những hình thức khác nhau tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Ông cho rằng, hình thức “quá độ trực tiếp” và con đường “phát triển tuần tự” từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, còn hình thức “quá độ gián tiếp” là con đường “phát triển rút ngắn”, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, con đường từ tiền tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội.
Ở đây, cần lưu ý rằng, với tư cách là những loại hình khác nhau của sự phát triển xã hội, “phát triển tuần tự” hay “phát triển rút ngắn” cũng đều phải tuân theo quy luật khách quan và đều là con đường phát triển lịch sử - tự nhiên. Và, trong sự “phát triển tuần tự” cũng có thể có khả năng “rút ngắn” nào đó, nghĩa là con đường phát triển này không nhất thiết phải trải qua toàn bộ sự phát triển đầy đủ của chủ nghĩa tư bản rồi mới tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nước Nga với “chính sách kinh tế mới” chính là một trường hợp như vậy và V.I.Lênin coi đó là con đường phát triển rút ngắn trong tuần tự”. Con đường “quá độ gián tiếp” theo phương thức “phát triển rút ngắn” lại khác. Ở con đường này không diễn ra sự “phát triển tuần tự”, mà diễn ra theo kiểu bỏ qua, “không kinh qua” chế độ tư bản chủ nghĩa, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội từ các quan hệ phong kiến hay tiền tư bản chủ nghĩa.
Theo đó, chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định rằng, với Việt Nam, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa là con đường “phát triển rút ngắn” và do vậy, việc áp dụng các biện pháp “quá độ gián tiếp” là một tất yếu khách quan, hợp quy luật theo tiến trình phát triển lịch sử - tự nhiên, phù hợp với nguyện vọng, khát vọng về một cuộc sống hạnh phúc của đông đảo quần chúng nhân dân lao động, với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”12, mà tại Đại hội XI, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam, về thực chất, là con đường “phát triển rút ngắn” với các biện pháp “quá độ gián tiếp” nhằm tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực. Song, khi nói quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa là con đường “phát triển rút ngắn”, trước hết cần phải xác định rõ “rút ngắn” là thế nào và có thể “rút ngắn” giai đoạn nào trong quá trình phát triển ấy.
Chúng ta đều biết, trong quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin, tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại được quy định bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tương ứng với mỗi giai đoạn phát triển nhất định của lực lượng sản xuất là một quan hệ sản xuất phù hợp. Sự ra đời quan hệ sản xuất mới trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất là tất yếu, khách quan và toàn bộ các quan hệ sản xuất này hợp thành cơ sở kinh tế của xã hội mà trên đó dựng lên một thượng tầng kiến trúc pháp lý và chính trị với những hình thái thức xã hội tương ứng. Hay nói cách khác, ứng với mỗi giai đoạn phát triển nhất định trong lịch sử nhân loại là một hình thái kinh tế - xã hội cụ thể. Sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội trong tiến trình phát triển lịch sử nhân loại là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Sự vận động đi lên của xã hội loài người được quy định bởi các quy luật khách quan, trong đó quy luật nền tảng là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất xã hội ngày một phát triển khiến cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành xiềng xích cản trở sự phát triển tiếp theo của lực lượng sản xuất và khi đó, bắt đầu thời đại của một cuộc cách mạng xã hội.
Trên phạm vi toàn thế giới, sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử- tự nhiên, song phạm vi một quốc gia dân tộc do quy luật phát triển không đồng đều về kinh tế, chính trị, do cách mạng xã hội có thể có những bước phát triển đột biến, nhảy vọt, có thể diễn ra sự “bỏ qua” hay “rút ngắn” một hình thái kinh tế- xã hội nào đó, kể cả việc “bỏ qua” hay “rút ngắn” một giai đoạn phát triển nào đó trong một hình thái kinh tế - xã hội. Song, dù là “phát triển tuần tự” hay “phát triển rút ngắn” cũng đều là sự phát triển liên tục của lực lượng sản xuất, nghĩa là không thể “bỏ qua” được sự phát triển của lực lượng sản xuất. Mọi sự “phát triển rút ngắn” đều phải nhằm mục đích cuối cùng là tạo ra sự phát triển vượt bậc, thậm chí là nhảy vọt của lực lượng sản xuất. Và do vậy, về thực chất, “phát triển rút ngắn” chỉ có thể là “rút ngắn” các giai đoạn này bước đi trong tiến trình phát triển liên tục của lực lượng sản xuất.
Trong thời đại của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, với sự phát triển mạnh mẽ, phát triển với tốc độ vũ bão của khoa học và công nghệ sản xuất trình độ sản xuất, kỹ năng lao động, trình độ tổ chức và quản lý sự xuất của con người được tăng lên rất đáng kể và đến lượt mình, nó cho phép con người có thể “rút ngắn” các giai đoạn phát triển hay hình thức công nghệ của sự phát triển lực lượng sản xuất. Song, theo quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì sự phát triển của lực lượng sản xuất tất dẫn đến sự thay đổi các quan hệ sản xuất. Và do vậy một khi đã không thể bỏ qua được sự phát triển của lực lượng sản xuất trong tiến trình “phát triển rút ngắn”, thì về nguyên tắc, cũng không thể bỏ qua độ các quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển ấy của lực lượng sản xuất. Thế nhưng, trong tiến trình “phát triển rút ngắn”, nhờ có sự phát triển vượt bão nhờ tạo ra được sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất mà người ta có thể làm biến đổi các quan hệ sản xuất, thậm chí còn có khả năng xuất hiện những hình thức quan hệ sản xuất mới, tiên tiến trong mỗi bước nhảy vọt của lực lượng sản xuất.
Như vậy, có thể nói, trong tiến trình của sự “phát triển rút ngắn”, sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất là cái quy định sự ra đời của một hệ thống các quan hệ sản xuất mới, phù hợp với trình độ phát triển ấy của lực lượng sản xuất. Hệ thống các quan hệ sản xuất này, ngoài những quan hệ sản xuất của hình thái kinh tế - xã hội đang hướng tới - những quan hệ sản xuất đóng vai trò nền tảng, quy định xu hướng vận động và phát triển của xã hội, còn có cả những quan hệ sản xuất thuộc hình thái kinh tế - xã hội đã qua nhưng vẫn còn tác dụng phối hợp điều tiết các mối quan hệ của con người qua đó, còn có khả năng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Tương ứng với một cơ sở kinh tế như vậy là một kiến trúc thượng tầng đảm bảo cho sự vi hành và phát triển của xã hội theo hướng hiện thực hoá hình thái kinh tế - xã hội đang hướng tới.
Theo đó, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa theo phương thức “phát triển rút ngắn” nhằm mục tiêu cuối cùng là tạo ra sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất trên cơ sở một hệ thống các quan hệ sản xuất mà trong đó, các quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa dần chiếm vị trí chi phối trong nền kinh tế quốc dân, phủ có nghĩa là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản đất tư bản chủ nghĩa; mà bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa lại có nghĩa là ở đó, không còn tồn tại cơ sở kinh tế cho việc xác lập kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa và do vậy, cũng là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa. Tương tự như vậy, do không thể bỏ qua sự phát triển liên tục của lực lượng sản xuất, thì đương nhiên, cũng không thể bỏ qua được những thành tựu văn hoá, văn minh mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, nhất là những thành tựu khoa học và công nghệ.
Điều đó cho thấy, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hoàn toàn đúng khi khẳng định con đường đi lên, con đường phát triển của cách mạng Việt Nam là “sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền tảng kinh tế hiện đại”13 (chúng tôi nhấn mạnh - Đ.H.T.).
Chúng ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa với phương thức “phát triển rút ngắn” nhằm mục tiêu “phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại” trong bối cảnh đất nước vẫn còn trong tình trạng của một nước kém phát triển, mặc dù 25 năm đổi mới đã đem lại cho chúng ta một sự phát triển đáng khích lệ; trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế đã trở thành xu thế khách quan, khoa học và công nghệ có bước tiến nhảy vọt, kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Do vậy, để đạt được mục tiêu chiến lược “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội” với “mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ” là “xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để... trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”, mà “từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”14, chúng ta không thể không đẩy nhanh tiến trình “công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức”15.
Theo đó, có thể nói, với Việt Nam hiện nay, quá độ lên chủ nghĩa hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa theo phương thức phát triển rút ngắn”, về phương diện kinh tế, chính là quá trình thực hiện con đường “đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức” theo cách "rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt”.
Cuối cùng, do quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa nhằm tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, nên chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam đã đúng khi thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) tại Đại hội XI, đã xác định rõ: “Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen”16.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua hay “không trải qua”, “không kinh qua” giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản đầy đủ - đó là quan điểm nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam về con đường phát triển của cách mạng Việt Nam. Quan điểm đó được hình thành trên cơ sở vận dụng và phát triển sáng tạo quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng xã hội chủ nghĩa và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam là con đường “quá độ gián tiếp” theo phương thức “phát triển rút ngắn”, là bước phát triển tất yếu, khách quan, hợp quy luật theo tiến trình phát triển lịch sử- tự nhiên, là con đường phát triển phù hợp với nguyện vọng, khát vọng của đông đảo quần chúng nhân dân lao động Việt Nam, con đường phát triển nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”.
Phương thức phát triển của con đường quá độ đó là “phát triển rút ngắn”. Nội dung cơ bản của con đường quá độ đó là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại và do vậy con đường quá độ không bỏ qua sự phát triển liên tục của lực lượng sản xuất và trong tiến trình phát triển của nó, có bao hàm cả sự tiếp thu, kế thừa những thành tựu văn hoá và văn minh mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là những thành tựu khoa học và công nghệ.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa nhằm tạo ra sự phát triển nhảy vọt về lực lượng sản xuất và nhanh chóng dựng nền kinh tế hiện đại trong bối cảnh của thời đại ngày nay chính là con đường đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức theo cách rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt trong suốt tiến trình phát triển.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa nhằm tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội lên tất cả các lĩnh vực không bao giờ là con đường bằng phẳng, dễ dàng và do vậy, việc phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen, có tính chất quá độ là một tất yếu khách quan.
Bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa theo phương thức “phát triển rút ngắn” trong 25 năm lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa chính là ở đó.
__________
Giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội XI của Đảng Vũ Văn Phúc
Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định rõ mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là: “xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”1. Để thực hiện thành công mục tiêu này, Cương lĩnh nêu 8 phương hướng cơ bản đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, ý chí tự lực tự cường, phát huy tiềm năng và trí tuệ, tận dụng thời cơ vượt qua thách thức, quán triệt và thực hiện tốt. Trong quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản trên, phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Như vậy, quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một trong những mối quan hệ cơ bản, cốt lõi trong tiến trình thực thi xây dựng xã hội mới. Đó chính là quan hệ giữa hai lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội (kinh tế và chính trị); là mối quan hệ khách quan tồn tại trong mọi xã hội có phân chia giai cấp, là sự thể hiện cô đọng quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội.
1. Thực chất đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
Để giải quyết tốt quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị vấn đề trước hết cần nắm rõ thực chất của đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam là gì? Về vấn đề này xin được nêu khái quát, ngắn gọn như sau:
1.1. Đổi mới kinh tế
Thực chất của đổi mới kinh tế ở Việt Nam là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vừa vận động theo những qui luật của kinh tế thị trường, vừa được dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội; trong đó cơ chế thị trường được vận dụng đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh mẽ, có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế.
Sau 25 năm đổi mới, chúng ta có được bước tiến mới trong tư duy phát triển (thể hiện trong 5 quan điểm phát triển của chiến lược kinh tế xã hội 2011-2020), nền kinh tế có được sự tăng trưởng khá nhanh so với các nước trong khu vực. Chúng ta đã có sự đổi mới căn bản về hình thức sở hữu, về cơ cấu và vai trò của các thành phần kinh tế, đã hình thành các loại thị trường, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế... Tuy nhiên, cũng còn nhiều vấn đề cần tiếp tục đẩy mạnh đổi mới, trong đó, thể chế kinh tế, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng vẫn là những “điểm nghẽn” cản trở sự phát triển.
Hiện nay, nội dung chủ yếu của đổi mới kinh tế là tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là đổi mới cơ chế, chính sách, tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính. Để thực hiện điều này cần phát triển mạnh các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp. Thực hiện phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế. Đồng thời tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu; gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường. Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nhanh, bền vững.
1.2. Đổi mới chính trị
Đổi mới chính trị ở Việt Nam không phải là thay đổi chế độ chính trị hiện nay bằng chế độ chính trị khác, mà là quá trình đổi mới tư duy chính trị về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; đó cũng là quá trình hoàn thiện tổ chức bộ máy, nội dung và phương thức hoạt động của cả hệ thống chính trị theo hướng tạo lập nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Trong đổi mới chính trị, “trọng tâm là hoàn thiện nội dung và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, gắn quyền hạn với trách nhiệm trong thực hiện chức năng lãnh đạo của các cấp ủy Đảng; mở rộng dân chủ trong Đảng và trong toàn xã hội nhằm phát huy vai trò chủ động của các cơ quan nhà nước, khả năng sáng tạo to lớn của nhân dân, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ đất nước”2.
Thực tiễn của đổi mới kinh tế đang tiếp tục đặt ra yêu cầu đổi mới chính trị. Hai mươi lăm năm đổi mới vừa qua, chúng ta đã có bước tiến trong xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, trong xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền, trong đổi mới hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể, cũng như trong công tác xây dựng và đổi mới phương thức hoạt động và lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, cũng còn tồn tại không ít việc cần tiếp tục đẩy mạnh đổi mới. Nghị quyết Trung ương 5, khóa X chỉ rõ: “Hệ thống thể chế, pháp luật, nhất là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn nhiều bất cập, vướng mắc. Chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước chưa đủ rõ, còn trùng lặp và chưa bao quát hết các lĩnh vực quản lý nhà nước; cơ cấu tổ chức bộ máy còn cồng kềnh, chưa phù hợp. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng kịp yêu cầu; tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng. Thể chế, luật pháp về quản lý tài chính công tuy có nhiều đổi mới, nhưng còn bất cập. Thủ tục hành chính còn nhiều vướng mắc, gây phiền hà cho tổ chức và công dân; kỷ luật, kỷ cương cán bộ, công chức chưa nghiêm, hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém”3.
Để khắc phục tồn tại nêu trên cần tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới nói chung và tập trung giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.
2. Yêu cầu tất yếu phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị và sự sáng tạo của Đảng ta trong quá trình giải quyết mối quan hệ này
Cơ sở khách quan qui định giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị chính là quan hệ biện chứng giữa yếu tố kinh tế và yếu tố chính trị. Theo quan điểm của các nhà kinh điển Mác - Lênin, trong quan hệ giữa kinh tế và chính trị, kinh tế có vai trò quyết định, nó qui định nội dung và kết cấu chính trị. Đến lượt mình chính trị có tác động mạnh mẽ tới kinh tế, định hướng cho quá trình phát triển kinh tế. Lê-nin khẳng định: “Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. Chính trị không thể không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế”4. Nắm vững và giải quyết tốt mối quan hệ biện chứng này là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, song có ý nghĩa quyết định đối với sự thành bại của tiến trình cách mạng.
Cách đây hơn 20 năm, quá trình cải tổ ở Liên xô và Đông Âu, do xử lý mối quan hệ giữa cải cách kinh tế và chính trị không tốt đã dẫn đến sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các quốc gia này. Với mục đích đẩy nhanh cải tổ, thực hiện các liệu pháp sốc về kinh tế và ưu tiên cải tổ chính trị đi trước đã đẩy xã hội lâm vào rối lọan, làm cho Đảng Cộng sản mất quyền lãnh đạo đất nước.
Trong khi đó, Trung Quốc ngay từ đầu đã tiến hành đồng bộ cải cách thể chế chính trị với cải cách kinh tế, chính vì vậy đã tạo sự phát triển ấn tượng. Tuy nhiên, sau sự kiện năm 1989, tốc độ cải cách chính trị có phần chững lại, không theo kịp đà cải cách và phát triển trong lĩnh vực kinh tế. Bất cập này đã tác động bất lợi đến sự phát triển kinh tế, làm nảy sinh các tiêu cực và nhiều vấn đề khác như phân hóa xã hội, gia tăng bất bình đẳng về thu nhập5.
Ở Việt Nam, Đảng ta trên cơ sở tổng kết thực tiễn đã khởi xướng đường lối đổi mới tại Đại hội VI. Về chủ trương, ngay từ đầu Đảng đã khẳng định, thực hiện đổi mới toàn diện đất nước, đổi mới phải có bước đi và cách làm thích hợp.
Đại hội VII của Đảng khẳng định: Đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để, nhưng phải có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế. Đồng thời với đổi mới kinh tế, phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị;
Tổng kết 10 năm đổi mới, Đại hội VIII của Đảng đã rút ra một số bài học kinh nghiệm, trong đó nổi lên bài học: “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị”6. Đại hội IX tiếp tục khẳng định những kinh nghiệm và nhấn mạnh: “Tiếp tục đổi mới sâu rộng, đồng bộ về kinh tế, xã hội và bộ máy nhà nước”7.
Tổng kết 20 năm đổi mới (1986-2006), Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Đổi mới tất cả các mặt của đời sống xã hội nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm, có những bước đi thích hợp; bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ và đồng bộ giữa ba nhiệm vụ: phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần xã hội”8. Và đến Đại hội XI, sự nghiệp đổi mới tiếp tục được khẳng định, Đảng ta chỉ rõ: “Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương để thúc đẩy đổi mới toàn diện và phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.”9.
Như vậy có thể thấy, trong tiến trình 25 năm đổi mới vừa qua, Đảng ta đã bắt đầu từ đổi mới kinh tế, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, nhằm giải phóng các nguồn lực của đất nước. Trong đổi mới kinh tế, bắt đầu trước hết là đổi mới tư duy kinh tế, đổi mới quan điểm, đường lối phát triển kinh tế. Khi đổi mới kinh tế đã đạt được những thành tựu to lớn, các quan hệ kinh tế đã có sự thay đổi cơ bản, cần thiết phải tiến hành đồng thời đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị để thúc đẩy đổi mới toàn diện. Điều này khẳng định sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta về bước đi và biện chứng của giải quyết quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Và những kết quả của 25 năm đổi mới cũng minh chứng cho điều đó.
3. Nắm vững và giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
Nhằm tiếp tục thúc đẩy đổi mới, giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, trên cơ sở đó phát huy tối đa các nguồn lực bảo đảm phát triển nhanh và bền vững đòi hỏi có sự đầu tư nghiên cứu thảo luận, tổng kết thực tiễn đề ra các giải pháp, hướng thực hiện trong thực tiễn. Trong khuôn khổ Tọa đàm này, tôi xin nêu một số nội dung cơ bản cần quan tâm triển khai:
Một là, cần làm rõ nội dung cơ bản của mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Để giải quyết tốt mối quan hệ này đương nhiên trước tiên phải hiểu rõ, nắm vững nội hàm của mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Kinh tế và chính trị là hai lĩnh vực cơ bản, rộng lớn của đời sống xã hội. Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị được biểu hiện ra thông qua những mối quan hệ cụ thể đòi hỏi phải kết hợp giải quyết tốt. Đó là những mối quan hệ như: quan hệ giữa đổi mới thể chế kinh tế với đổi mới thể chế chính trị; quan hệ giữa phát triển sức sản xuất với bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của quá trình đổi mới, phát triển; quan hệ giữa tăng trưởng nhanh với tăng trưởng bền vững, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội; quan hệ giữa quyền chủ động, tự do sản xuất kinh doanh của các chủ thể trên thị trường với bảo đảm xây dựng và thực thi nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; quan hệ giữa chủ động và tích cực hội nhập quốc tế với bảo đảm chủ quyền quốc gia… Việc quan tâm giải quyết các mối quan hệ này sẽ góp phần thực hiện tốt quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.
Hai là, công tác tuyên truyền đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện phối kết hợp hài hòa giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Cùng với nghiên cứu nắm vững, rõ nội hàm như trên cần thông tin tuyên truyền, làm cho cán bộ, đảng viên hiểu rõ tầm quan trọng, vai trò quyết định của đổi mới kinh tế trong tiến trình cách mạng, cũng như nhận rõ tác động, thậm chí là mở đường của đổi mới chính trị đối với đổi mới kinh tế. Tuyên truyền làm rõ cơ sở lý luận, cũng như cơ sở thực tiễn của việc gắn kết đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị; làm rõ thực chất của đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, những khó khăn và thuận lợi, bất cập trong đổi mới. Có như vậy mới tạo được sự đồng tâm nhất trí, phát huy được sức mạnh cả cộng đồng trong thực hiện đổi mới.
Ba là, lực lượng thực hiện và tham gia thúc đẩy, giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị chính là cả hệ thống chính trị và người dân. Đổi mới là sự nghiệp của quần chúng, do đó để giải quyết tốt mối quan hệ này cần có sự tham gia tích cực của cả hệ thống chính trị, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đổi mới kinh tế và chính trị là đổi mới toàn diện, liên quan đến tổng thể các quan hệ lợi ích, các cá nhân, các tổ chức và hệ thống chính quyền. Do vậy, cần có sự vào cuộc của cả người dân và hệ thống chính trị. Muốn vậy cùng với đòi hỏi nâng cao ý thức trách nhiệm của các tổ chức, các cá nhân, rất cần bảo đảm thực hiện tốt qui chế dân chủ cơ sở, tạo điều kiện cho mọi người phát huy sáng kiến và đóng góp của bản thân vào sự nghiệp đổi mới.
Bốn là, về nguyên tắc, đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, nhưng cần xác định trọng tâm, khâu đột phá. Các thành tố của hệ thống chính trị cũng như kinh tế có mối quan hệ gắn bó với nhau, thúc đẩy, qui định lẫn nhau. Do vậy, nếu không có sự đồng bộ trong đổi mới tạo sự nhịp nhàng, ăn khớp trong tiến trình vận động thì đôi khi chúng lại cản trở, hạn chế nhau. Chính tính hệ thống của kinh tế và chính trị qui định tính toàn diện và đồng bộ của đổi mới. Tuy nhiên, cũng như trong một guồng máy vận động liên hoàn, cần xác định khâu then chốt, chọn điểm đột phá để thúc đẩy đổi mới. Kiên trì và quyết liệt thực hiện đổi mới nhưng phải theo lộ trình và có bước đi phù hợp, bảo đảm sự đổi mới đồng bộ ở các khâu, các mắt xích của hệ thống. Thực hiện sự đổi mới kết hợp cả từ dưới lên và trên xuống. Trong cuộc sống thực tiễn, cái mới luôn nảy sinh và cần được tổng kết, định hướng để thúc đẩy.
Năm là, về cơ chế giải quyết phải tôn trọng tính biện chứng của mối quan hệ kinh tế và chính trị. Thực hiện kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị. Trong quá trình đổi mới chú trọng bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ và đồng bộ giữa ba nhiệm vụ: phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội. Đổi mới kinh tế được thực hiện từ đổi mới tư duy đến đổi mới cơ chế chính sách và chỉ đạo hoạt động thực tiễn sẽ tạo nền tảng vật chất bảo đảm và đặt ra yêu cầu cho đổi mới chính trị. Và những bước đổi mới chính trị mở đường và tạo điều kiện chính trị - xã hội thuận lợi cho thực hiện giải pháp đổi mới và phát triển kinh tế.
Sáu là, hiệu quả giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị là ở sự tăng trưởng, phát triển bền vững và tiến bộ, công bằng xã hội, cuộc sống người dân được cải thiện và giàu có hơn, đất nước mạnh hơn. Nói cách khác lấy mục tiêu hướng đến xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm tiêu chí đánh giá hiệu quả của quá trình phối kết hợp đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Đổi mới phải gắn với yêu cầu thực tiễn, giải quyết những “tắc nghẽn” trong quá trình vận hành của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiệu quả của đổi mới kinh tế thể hiện cụ thể nhất ở mức độ và chất lượng tăng trưởng, tạo cơ sở cho đổi mới chính trị. Và hiệu quả đổi mới chính trị thể hiện cụ thể nhất ở các chính sách và cơ chế được xây dựng, đề xuất bảo đảm giải quyết đúng đắn và kịp thời các vấn đề kinh tế.
___________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, H 2011, tr 71
2. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, “Nội dung chủ yếu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 và nhiệm vụ trọng tâm của năm 2011”, Tuổi trẻ online, ngày 4-1-2011
3. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ Năm Ban Chấp hành Trung ương Khóa X, Nxb CTQG, H.2007, tr.156 V.I. Lê-nin, Toàn tập, t 42, tr 349
4. “Việc đi sâu cải cách thể chế kinh tế riêng rẽ sau sự kiện 89, sự nhảy vọt của lĩnh vực kinh tế không chỉ chưa tạo điều kiện cho cải cách thể chế chính trị, trái lại đã kìm hãm cải cách thể chế chính trị… và đã xuất hiện hàng loạt vấn đề như tiêu cực, phân hóa xã hội, gia tăng khoảng cách giàu nghèo”. Theo Trương Hiểu Phong và Trương Phóng: Suy nghĩ về cải cách thể chế chính trị ở Trung Quốc, bài phát biểu trong Hội thảo tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền ngày 10-10-2009
5. Báo cáo tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991-2011), Nxb Chính trị quốc gia, H 2010, tr 29
6. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, H 2001, tr 165
7. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, H 2006, tr 70-71
8. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị quốc gia, H 2011, tr 99
9,10. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, H 2011, tr 27
Mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong quá trình đổi mới ở Việt Nam PGS.TS Trần Văn Phòng
Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh
Giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một nội dung cốt lõi quan trọng trong các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng ta từ khi đổi mới đến nay. Sự nhận thức và giải quyết đúng đắn vấn đề này của Đảng cũng là khâu đột phá trong tư duy và thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới của Đảng.
Thời kỳ trước đổi mới, về nhận thức, chúng ta đã nhấn mạnh quá mức vai trò kiến trúc thượng tầng, coi chính trị là thống soái, quyết định kinh tế và tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; chưa đánh giá đúng vai trò của kinh tế trong quan hệ với chính trị. Về cơ chế, chúng ta cũng nhận thức một cách đơn giản về tác động của kiến trúc thượng tầng chính trị đối với cơ sở kinh tế. Chính trị can thiệp quá sâu vào các quá trình kinh tế - xã hội bằng hệ thống những mệnh lệnh chủ quan của các cơ quan quản lý các cấp. Và thiết chế, bộ máy hành chính còn quan liêu, cửa quyền, cồng kềnh, kém hiệu quả.
Từ khi đổi mới đến nay, về quan điểm Đảng ta chủ trương “Kết hợp ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị”1. Đây là nhận thức đúng cả về mặt lý luận cả về mặt thực tiễn.
Khái niệm “đổi mới kinh tế” qua các văn kiện của Đảng được hiểu là quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung, bao cấp chủ yếu dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và tập thể sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam theo định hướng XHCN. Đó là bước chuyển từ nền kinh tế cơ bản là “khép kín” sang nền kinh tế “mở” đối với khu vực và thế giới, kết hợp tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái và từng bước đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Khái niệm “đổi mới chính trị” qua các văn kiện của Đảng được hiểu là đổi mới tư duy chính trị về CNXH; đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của hệ thống chính trị, trước hết là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước XHCN nhằm giữ vững ổn đinh chính trị để xây dựng chế độ XHCN ngày càng vững mạnh; thực hiện tốt nền dân chủ XHCN nhằm phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN và phát triển kinh tế-xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong quá trình đổi mới, Đảng ta cho rằng ổn định chính trị không có nghĩa là bảo thủ, trì trệ, ngược lại nó có vai trò quan trọng đảm bảo điều kiện cho các lĩnh vực khác phát triển, làm cho quá trình đổi mới trở nên toàn diện hơn. Ổn định chính trị cũng đồng thời góp phần tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình đổi mới đất nước.
Để giữ vững ổn định chính trị, tư tưởng trong Đảng và trong nhân dân, Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khoá VI (3-1989) quyết định các nguyên tắc cơ bản để chỉ đạo toàn bộ quá trình đổi mới theo đúng định hướng XHCN: “Đổi mới tư duy là nhằm khắc phục những quan niệm không đúng, làm phong phú những quan niệm đúng về thời đại, về chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo vào phát triển chứ không phải xa rời những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin”.
Về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, Hội nghị lần 6 Ban Chấp hành Trung ương khoá VI đã chỉ rõ: “Chúng ta tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đồng thời từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị. Không thể tiến hành cải cách hệ thống chính trị một cách vội vã khi chưa đủ căn cứ, mở rộng dân chủ không có giới hạn, không có mục tiêu cụ thể và không đi đôi với tập trung thì dẫn đến sự mất ổn định về chính trị, gây thiệt hại cho sự nghiệp đổi mới” 2. Một bước đi cực kỳ đứng đắn và thể hiện được bản lĩnh chính trị của Đảng ta biểu hiện bằng nghị quyết hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khoá VI (8-l989) về công tác tư tưởng trong bối cảnh quốc tế vô cùng phức tạp khi đó: "Chế độ chính trị của chúng ta là chế độ làm chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng... Chúng ta không chấp nhận chủ nghĩa đa nguyên chính trị, không để cho các tổ chức chống đối chủ nghĩa xã hội ra đời và hoạt động, không coi việc thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần là thực hiện chủ trương đa nguyên về kinh tế” 3.
Chủ trương giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị được tiếp tục nhấn mạnh trong văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VII: “Phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời với đổi mới kinh tế, phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội” 4. Kinh nghiệm thành công của sự kết hợp đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng khẳng định: “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị”5.
Đó là những quan điểm đúng đắn của Đảng ta phù hợp với nhu cầu và nguyện vọng của nhân dân lao động, những quan điểm này tiếp tục được khẳng định trong các kỳ Đại hội IX, X với mục tiêu: “đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến hoạt động thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, văn hóa, đối ngoại đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước đến hoạt động cụ thể trong từng bộ phận của hệ thống chính trị”6. Đại hội XI của Đảng đã đưa ra quan điểm về đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị: “Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương..”7. Như vậy, về đổi mới kinh tế, Đại hội XI của Đảng tập trung vào đổi mới để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN. Để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN, Đại hội XI của Đảng chủ trương:
Thứ nhất, Đảng ta coi hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ và hiện đại là tiền đề quan trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô.
Thứ hai, đổi mới việc xây dựng và thực thi luật pháp cho cạnh tranh bình đẳng, minh bạch, giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Thứ ba, đổi mới công tác quy hoạch, kế hoạch, điều hành phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường.
Thứ tư, chú ý đặc biệt trong việc thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ bảo đảm phát triển lành mạnh nền kinh tế.
Thứ năm, tạo lập đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường: Thực hiện tốt năm giải pháp này sẽ góp phần trực tiếp hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN. Đây là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới kinh tế giai đoạn này.
Về đổi mới chính trị, Đại hội XI của Đảng tập trung 3 yếu tố cơ bản, trọng yếu là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN; mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương. Đây là balĩnh vực cơ bản, trọng yếu mang tính đột phá trong đổi mới chính trị. Trong đó, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là cấp thiết và hàng đầu.
Về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, Đại hội XI chủ trương:
Thứ nhất, rà soát, bổ sung, điều chỉnh, ban hành mới, xây dựng đồng bộ hệ thống các quy chế, quy định, quy trình công tác để đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị.
Thứ hai, khắc phục tình trạng Đảng bao biện làm thay, hoặc buông lỏng lãnh đạo các cơ quan quản lý nhà nước.
Thứ ba, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Thứ tư, đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ trung ương đến địa phương cơ sở; cải cách thủ tục hành chính trong Đảng.
Thứ năm, đổi mới cách ra nghị quyết, tổ chức thực hiện nghị quyết, kiểm tra, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết.
Đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, Đại hội XI của Đảng chủ trương:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
Thứ hai, tiếp tục đối mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước.
Thứ ba, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.
Thứ tư, tích cực thực hành tiết kiệm, phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí.
Đối với việc mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương. Đại hội XI chủ trương:
Thứ nhất, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN, trước hết là thực hiện dân chủ trong Đảng.
Thứ hai, có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp của mình; chống tập trung, quan liêu, khắc phục dân chủ hình thức.
Thứ ba, phát huy dân chủ đi đôi với đề cao trách nhiệm công dân, kỷ luật, kỷ cương; phê phán, nghiêm trị hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, những hành vi lợi dụng dân chủ vì mục đích xấu.
Điều quan trọng là Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh phải lấy mục tiêu xây dựng nước Việt Nam XHCN dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh “làm tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá hiệu quả của quá trình đổi mới và phát triển”8 nói chung, đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta nói riêng. Tiêu chí này chỉ rõ mục đích của đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị của Đảng ta.
Trong những năm đổi mới, sự kết hợp hài hòa giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị đã đem lại bước chuyền biến tích cực đối với đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước, với những thành tựu nổi bật là:
Thứ nhất, thành công lớn nhất và quan trọng nhất có ý nghĩa sống còn đối với dân tộc Việt Nam là chúng ta tiến hành quá trình đổi mới không phải bắt đầu từ việc “đổi mới” trong lĩnh vực chính trị như ở Liên Xô và các nước XHCN khác ở Đông Âu, cũng không đồng thời “đổi mới” ngay lập tức cả hai lĩnh vực chính trị lẫn kinh tế. Chúng ta rất tỉnh táo và đủ bản lĩnh giữ vững ổn định chính trị, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản để làm trục đỡ chính trị cho việc điều chỉnh và đổi mới kinh tế.
Thứ hai, nhờ có định hướng chính trị rõ ràng, bằng các chính sách chuyển đổi cơ chế và cơ cấu phù hợp với yêu cầu khách quan của thực tiễn, kinh tế của nước ta tăng trưởng vượt bậc, đời sống của nhân dân được cải thiện rỡ rệt. Người dân tin tưởng vào đường lối đổi mới khi nhận thấy lợi ích của mình được đảm bảo. Nhờ có tư duy mới và dựa vào lợi ích của nhân dân nên đường lối đổi mới đã gắn chặt với thực tiễn đất nước, mang “hơi thở” cuộc sống. Bằng các chủ trương, chính sách vừa có tính định hướng, vừa cụ thể thiết thực, đường lối đổi mới của Đảng đã đi vào cuộc sống, tạo tiền đề để giải phóng sức sản xuất xã hội, phát huy tinh thần sáng tạo, tính tích cực chính trị của nhân dân. Nhân dân chủ động tham gia vào đời sống kinh tế, đời sống chính trị để xây dựng, phát triển kinh tế, bảo vệ chế độ đã, đang đảm bảo lợi ích cho họ. Nhờ vậy, “Sau 20 năm hiện Cương lĩnh, chúng ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước thực hiện thành công bước đầu công cuộc đổi mới, ra khỏi tình trạng kém phát triển; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, tăng cường”9.
Bên cạnh những thành công vừa nêu trên, việc vận dụng và xử lý mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị của chúng ta còn có nhiều đem cần phải cố gắng hoàn thiện hơn nữa. Đổi mới là cả một quá trình lâu dài và phức tạp do thực tiễn luôn vận động và thay đổi. Đường lối đổi mới và định hướng đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị của Đảng cần phải khẳng định là đúng đắn, tuy nhiên vấn đề lại là hiệu quả của việc thực thi đường lối đó trên từng giai đoạn cụ thể, trong từng cách làm cụ thể, của từng mối quan hệ cụ thể. Đại hội XI của Đảng thắng thắn nhìn nhận về hạn chế trong đổi mới chính trị so với đổi mới kinh tế: “Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân chuyển biến chậm”10; “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước”11; “công tác xây dựng Đảng còn nhiều hạn chế, yếu kém, chậm được khắc phục”12 . Những hạn chế của đổi mới chính trị trong mọi quan hệ với đổi mới kinh tế này đã cản trở quá trình đổi mới kinh tế, thậm chí kìm hãm kinh tế phát triển. Vấn đề đổi mới chính trị chưa thực sự có hiệu quả một phần do chúng ta chưa làm rõ và phân định dứt khoát chức năng lãnh đạo của Đảng với chức năng quản lý của Nhà nước. Mặt khác, trong đổi mới chính trị chúng ta mới chỉ tập trung nhấn mạnh ý nghĩa của đổi mới tư duy về chính trị chứ chưa thực sự tiến hành đổi mới ở con người chính trị-chủ thể hoạt động chính trị và cơ chế hoạt động có hiệu quả của hệ thống chính trị.
Do vậy, để đất nước phát triển hơn nữa cần tiếp tục nhận thức và giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đây cũng là thực chất, yêu cầu, nội dung của một trong tám mối quan hệ lớn trong thời kỳ quá độ lên CNXH nước ta mà Đảng ta đã đề ra cần giải quyết đúng đắn.
__________
Một vài suy nghĩ về quan hệ đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta hiện nay PGS. TSKH Lương Đình Hải
Viện Nghiên cứu con người, Viện KHXHVN
Quan hệ đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một trong số những quan hệ lớn cần được nghiên cứu, tổng kết và có cách thức giải quyết tốt để thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng và bền vững của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), được Đại hội Đảng lần thứ XI thông qua, khẳng định: Trong quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản đó, phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ;... Không phiến diện, cực đoan, duy ý chí.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng nhấn mạnh: Đặc biệt chú trọng xử lý và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị;…
Thực tiễn hai nhăm năm đổi mới vừa qua cũng như kinh nghiệm của nhiều nước trong quá trình chuyển đổi và phát triển trong nhiều thập kỷ vừa qua cho thấy giải quyết tốt các vấn đề về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển của quốc gia dân tộc. Từ thực tiễn giải quyết quan hệ đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ấy có thể sơ bộ rút ra một số vấn đề, có thể gọi là cơ bản của quan hệ đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta hiện nay như sau:
1. Hoàn toàn có thể lấy năm 1986 làm điểm mốc bắt đầu sự nghiệp đổi mới nước ta. Nhưng, trong thực tế không thể nói Việt Nam bắt đầu bằng đổi mới kinh tế hay đổi mới chính trị. Nói đổi mới kinh tế trước hay đổi mới chính trị trước chỉ mang tính chất tương đối và tùy thuộc vào quan hệ hoặc bối cảnh cụ thể, còn trong thực tế không thể có việc thuần túy đổi mới kinh tế trước hay thuần túy đổi mới chính trị trước. Kể từ năm 1986 đến nay chúng ta lấy đổi mới kinh tế làm trung tâm, then chốt, đổi mới chính trị tiến hành từng bước, “chậm hơn”, “đi sau” so với đổi mới kinh tế. Thực tiễn chứng tỏ điều đó hoàn toàn đúng đắn. Nhưng trong giai đoạn tiếp theo thực tiễn đang đòi hỏi phải đổi mới chính trị với tốc độ nhanh hơn, toàn diện hơn, đồng bộ hơn, hài hòa hơn, “cởi trói” để giải phóng các tiềm năng xã hội làm cho kinh tế phát triển mạnh hơn, đời sống xã hội vận động nhanh hơn. Cần nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và và đổi mới chính trị. Đổi mới tiếp theo về chính trị là phải đổi mới cả ý thức chính trị và tư duy chính trị. Việc đổi mới đường lối cần phải được tiến hành đồng thời vừa trên cơ sở nghiên cứu lí luận, vừa trên cơ sở nghiên cứu và tổng kết thực tiễn. Điều đó, một mặt, giúp chúng ta tránh được chủ quan, giáo điều sách vở, mặt khác, tránh được chủ nghĩa kinh nghiệm, thiếu nhìn xa trông rộng, chỉ thấy cây mà không thấy rừng, chỉ thấy trạng thái tĩnh mà không thấy trạng thái động. Điều này cũng là hợp lôgíc với nguyên tắc đổi mới kinh tế đi trước một bước so với đổi mới chính trị. Những đổi mới về kinh tế của chúng ta sẽ không thể tiến triển thêm được nữa nếu chúng ta không tiếp tục đổi mới về chính trị. Đổi mới về chính trị, trước hết là đổi mới về đường hướng phát triển, đổi mới về chính sách, đổi mới về luật pháp và sau đó chúng ta phải tính đến việc đổi mới cả hệ thống chính trị.
2. Cần có sự đổi mới có tính cách mạng trong lĩnh vực lý luận chính trị và đường lối đổi mới chính trị để cho “đổi mới” phát triển một cách toàn diện, đúng hướng, và bền vững. Có thể nói rằng thể chế kinh tế mới hình thành là không thể đảo ngược và nó đang chờ sự mở đường tiếp theo của cải cách chính trị trước ngả ba đường. Một ngả là chính trị tiếp tục bảo thủ, trì trệ, thì kinh tế rơi vào tình trạng tiếp tục ách tắc, lạc hậu. Một ngả là đổi mới chính trị chệch hướng thì kinh tế sẽ phát triển theo hướng TBCN. Một ngả là đổi mới chính trị đúng hướng, thích hợp và có hiệu quả, thì kinh tế sẽ phát triển theo “định hướng XHCN”. Tuy nhiên muốn có đường lối chủ trương đổi mới chính trị một cách đúng đắn, trước hết cần có sự soi sáng của lý luận. Nhưng vấn đề cụ thể về lý luận chính trị của thời đại chúng ta, ở đất nước chúng ta, Mác, Lênin và Hồ Chí Minh chưa thể giải quyết được một cách toàn vẹn, thế hệ hôm nay phải nghiên cứu, sáng tạo để giải quyết. Trên cơ sở vận dụng phương pháp luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta cần tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, sáng tạo con đường phát triển của Việt Nam phù hợp với trào lưu lịch sử thế giới. Chỉ có như vậy, đường lối, chủ trương, chính sách đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị mới thực sự có cơ sở khoa học, đất nước mới có thể phát triển một cách toàn diện đúng hướng và bền vững. Nền kinh của chúng ta phát triển nhanh nhưng còn què quặt.
Nền kinh tế và sự phát triển kinh tế của nước ta hiện nay vẫn lệ thuộc một chiều và quá mức vào thế giới bên ngoài. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập các nền kinh tế lệ thuộc nhau là tất yếu. Nhưng, vấn đề là không lệ thuộc một chiều và thụ động như hiện nay mà lệ thuộc hai chiều và chủ động. Năng lực cạnh tranh thấp, hệ thống công nghệ sản xuất nói chung vẫn rất lạc hậu, v.v... Chính vì vậy cần có những đột phá tiếp tục trong tư duy luận về đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Nếu không có những đột phá tính cách mạng kiểu như đổi mới tư duy 1986, chúng ta khó có thể đi nhanh, đi tắt đón đầu, phát triển rút ngắn. Điều đó có nghĩa rằng những năm tới chúng ta không thể chỉ đẩy mạnh đổi mới chính trị mà phải đồng thời tiếp tục đổi mới kinh tế. Nhưng để đổi mới kinh tế mạnh hơn, đồng bộ và toàn diện hơn, có hiệu quả và để kinh tế phát triển với tốc độ nhanh hơn, cần đổi mới chính trị bằng những đột phá trong quan điểm lý luận chính trị. Chủ trương đảng viên được phép làm kinh tế tư nhân trong Đại hội X là một đột phá. Nhưng chúng ta cần nhiều đột phá trong tư duy lý luận chính trị hơn nữa.
Thực tiễn phát triển của các nước trên thế giới cũng như lịch sử nước ta, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới vừa qua, đều cho thấy rằng, trước mỗi nước phát triển xã hội, dù lớn hay bé, dài hay ngắn, dù ở bất kỳ thời đoạn lịch sử nào, dưới bất cứ chế độ xã hội nào, đều xuất hiện tư duy phát triển mới. Sự nghiệp đổi mới của chúng ta được bắt đầu bằng việc đổi mới tư duy, cụ thể là tư duy kinh tế. Thực chất của đổi mới tư duy lúc đó chính là đổi mới các quan niệm về phát triển kinh tế đã từng tồn tại trước đó, nhưng đã thể hiện những bất cập và bất lực trước những đòi hỏi phát triển mới của đất nước. Đồng thời, nó tạo lập cho xã hội những tư tưởng mới về phát triển kinh tế phù hợp hơn với tình hình mới, có thể đáp ứng được những đòi hỏi mới của sự phát triển. Đổi mới tư duy lúc đó đã tạo ra được tư duy phát triển mới với những quan niệm mới về sự phát triển của kinh tế và xã hội Việt Nam như kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội,... Tư duy đó đã tạo nên những thành tựu lớn cho sự phát triển trong hơn hai mươi năm qua.
Tư duy mới đã tạo đà cho đổi mới, có thể nói, hiện nay vẫn tiếp tục là cơ sở, nền tảng cho sự phát triển đất nước trong những năm tiếp theo. Nhưng, trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, thực tiễn đã chúng tỏ rằng hàng loạt vấn đề do cuộc sống đặt ra không thể giải quyết được nếu tiếp tục căn cứ vào tư duy hiện có. Chúng ta không thể cải cách hành chính có hiệu quả, càng không thể cải cách giáo dục để có chất lượng tốt hơn, dù đã qua nhiều đời bộ trưởng, qua một, hai thế hệ những người đứng đầu các cấp bậc trong các hệ thống đó. Cũng tương tự, trong hệ thống y tế, hệ thống lương bổng, hệ thống chính trị và các hệ thống khác cũng đều đang tồn tại những bất cập mà dù đã rất cố gắng trong cả thời kỳ dài nước ta vẫn chưa khắc phục có hiệu quả được. Trước những đòi hỏi cấp thiết của sự phát triển tình hình dường như càng trở nên căng thẳng hơn, phức tạp hơn trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và cho thấy rõ thêm tình thế bức xúc: nếu không phát triển đột phá, đất nước ta không thể thoát khỏi tình thế tụt hậu ngày càng xa. Nhưng không thể có phát triển đột phá, nếu chúng ta không có triết lý, lý luận, hay tư duy phát triển mới.
Tư duy phát triển mới không thể chỉ bó hẹp hay chủ yếu là mang nội dung kinh tế như trước đây. Bối cảnh mới đòi hỏi tư duy mới ít nhất phải bao quát toàn bộ hệ thống kinh tế, xã hội trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt còn phải thể hiện được cả những thay đổi của tình hình quốc tế. Những quan niệm mới, cách nhìn mới, lối tiếp cận mới, phương pháp tư duy mới và trên cơ sở đó cách giải quyết mới với các vấn đề đang được đặt ra, sẽ là nội dung của triết lý phát triển mới hay tư duy mới về phát triển. Thậm chí, ở mức độ cao hơn, những tư tưởng mới về sự phát triển cũng sẽ được bao chứa và là tiền đề nền tảng cho tư duy mới về phát triển. Để đổi mới cả kinh tế và chính trị trong những năm tới chúng ta cần có những tư duy mới, cả tư duy mới về chính trị lẫn tư duy mới về kinh tế.
3. Trong đổi mới ở những năm sắp tới cần tránh tình trạng lũng đoạn nhà nước của các nhóm lợi ích. Trong kinh tế thị trường và đời sống xã hội, nói chung, nhóm lợi ích hình thành và có tác động xã hội, có lobby chính sách là tất yếu. Nhưng cần có cơ chế lobby pháp định, công khai, minh bạch, tuân thủ pháp luật. Điều quan trọng nhất trong vấn đề này là khi kết hợp thực hiện đổi mới cả chính trị lẫn kinh tế không được để lợi ích các nhóm, tập đoàn lên cao hơn lợi ích quốc gia, dân tộc. Lợi ích của các nhóm, các tập đoàn, cá nhân là động lực quan trọng nhưng không thể để các nhóm lợi ích lũng đoạn các chính sách, bởi nếu điều đó xảy ra thì đổi mới sẽ chệch hướng và sự đồng thuận xã hội sẽ bị phá vỡ, quốc gia sẽ hứng chịu những bi kịch. Lũng đoạn trong kinh tế sớm muộn cũng sẽ dẫn đến lũng đoạn trong chính trị, còn lũng đoạn trong chính trị sẽ nhanh chóng lũng đoạn trong kinh tế. Nhiệm vụ quan trọng nhất về phương diện này của nhà nước là biết điều hòa các lợi ích trên cơ sở đặt lợi ích quốc gia lên trên hết. Bằng cách đó nhà nước mới có thể huy động được sức mạnh cộng đồng dân tộc phấn đấu cho mục tiêu chung là đến 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Cần phải sử dụng sức mạnh của các nhóm lợi ích với tính cách là một lực của sự phát triển, nhưng lại phải thực hiện công bằng xã hội trong mỗi lĩnh vực, mỗi chính sách, cả trong đổi mới kinh tế lẫn đổi mới chính trị. Làm chủ trong đổi mới bao hàm trong đó nội dung làm chủ việc sử dụng các nhóm lợi ích mà không để các nhóm lợi ích lũng đoạn đổi mới.
4. Có thể ví đổi mới trong hai mươi năm qua đã thành công theo bề rộng, đổi mới trong giai đoạn tới đây sẽ diễn ra theo chiều sâu, do vậy sẽ động chạm nhiều đến lợi ích, đặc quyền, đặc lợi và thậm chí là đặc ân của một số nhóm xã hội nhất định. Bởi thế đổi mới trong giai đoạn sắp tới chắc chắn sẽ khó khăn hơn, phức tạp hơn, quyết liệt hơn, đòi hỏi quyết tâm và ý chí mạnh mẽ hơn, nhưng lại phải tỉnh táo và sáng suốt. Trong bối cảnh thế giới đang phát triển và đi vào tương lai với tốc độ hết sức nhanh chóng, thì chúng ta đang tụt hậu. Nếu chúng ta sơ suất, dù chỉ là những sơ suất nhỏ, chúng ta sẽ bị chậm chân, sự tụt hậu càng xa hơn, càng khó khắc phục hơn, nguy cơ tụt hậu càng dài lâu càng hiển hiện. Tiến hành đổi mới kinh tế, đặc biệt là đổi mới chính trị tuyệt đối không được chủ quan, nóng vội, bất chấp quy luật. Chính trị không thể đi trước quá xa kinh tế và kinh tế không thể thoát ra khỏi chính trị quá xa, tương tự như quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong nhận thức hiện nay.
Đổi mới chính trị là đổi mới toàn diện, đổi mới toàn bộ các nội dung yếu tố của chính trị, do vậy sẽ động chạm đến toàn bộ hệ thống chính quyền và lợi ích của các cá nhân trong hệ thống đó. Việc đó sẽ làm rung chuyển toàn bộ hệ thống, do vậy cần hết sức thận trọng, tỉnh táo, sáng suốt, phải chuẩn bị kỹ về lý luận và những điều kiện cần thiết, có bước đi thích hợp và phải là chủ được quá trình đổi mới trong lĩnh vực này, tránh lặp lại sai lầm trong đổi mới chính trị của Liên Xô trước đây.
5. Đổi mới chính trị và đổi mới kinh tế không phải chỉ để tăng trưởng hoặc phát triển kinh tế, mặc dù mục tiêu kinh tế là một trong những mục tiêu cơ bản, quan trọng hàng đầu. Những năm qua chúng ta nhấn mạnh nhiều đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Điều đó hoàn toàn đúng và phù hợp với bối cảnh đất nước chưa thoát khỏi cảnh nghèo đói, khủng hoảng trầm trọng. Đến lúc này đời sống vật chất các tầng lớp dân cư đã được cải thiện. Những năm tới sẽ là giai đoạn “cất cánh” của đất nước. Vì vậy trong đổi mới cần phải tập trung nhiều hơn cho những vấn đề xã hội như công bằng, bình đẳng, dân chủ,... Đổi mới cả kinh tế và chính trị phải thúc đẩy phát triển và tiến bộ xã hội chứ không chỉ cho tăng trưởng kinh tế. Đây chính là điều mà trong thời gian sắp tới phải quán triệt sâu sắc hơn nữa khi tiến hành đổi mới. Đổi mới là để thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ xã hội nhanh hơn, nhân dân giàu có hơn và hạnh phúc hơn, đất nước giàu mạnh hơn, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh hơn. Điều đó cũng có nghĩa rằng phải tiến hành đổi mới đồng bộ hơn, toàn diện hơn cả trong kinh tế lẫn chính trị.
Một là phải đổi mới mạnh mẽ hơn đồng bộ hơn, hài hòa hơn, toàn diện hơn trước hết trong kinh tế, phát triển kinh tế tốc độ nhanh hơn để làm cơ sở cho đổi mới chính trị và đổi mới chính trị để đổi mới kinh tế tiếp tục phát triển. Một trong những yếu tố hàng đầu trong đổi mới chính trị là xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đây là yếu tố then chốt trong cải cách, đổi mới chính trị hiện nay. Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đang là một đòi hỏi tất yếu, nội tại của sự phát triển và hiện đại hóa đất nước. Nó gắn liền với hàng loạt quá trình kinh tế, xã hội khác của đất nước.
Hai là, đổi mới chính trị hiện nay cũng phải tuân thủ nguyên tắc là đổi mới chính trị. Phải làm sao để kinh tế tiếp tục phát triển. Đổi mới chính trị mà kinh tế không phát triển, cuộc sống của người ta không được nâng lên thì đổi mới chính trị ấy cũng là không hiệu quả. Cho nên đổi mới chính trị phải hướng đến và đảm bảo làm cho kinh tế phát triển tốt.
Ba là, về nguyên tắc, phải đổi mới toàn diện nhưng lại đổi mới phải có trọng tâm. Bởi vì các yếu tố của hệ thống chính trị không ăn khớp, không phù hợp, không hài hòa với nhau thì sự đổi mới của yếu tố này có khi lại phủ định sự phát triển của yếu tố khác. Tính toàn diện, theo chúng tôi là phải đảm bảo, tuy nhiên cũng phải có hướng ưu tiên. Ưu tiên hiện nay là nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN và xã hội dân sự.
6. Để giải quyết hài hòa quan hệ đổi mới kinh tế và chính trị trong đổi mới chính trị khâu then chốt là xây dựng, đổi mới và chỉnh đốn Đảng, trước hết là dân chủ nội bộ Đảng và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đáng ta đã độc tôn lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ thành công và cũng đang độc tôn lãnh đạo công cuộc xây dựng đất nước thu được những thành tựu to lớn. Đây là một lợi thế, nhưng cũng là một thử thách lớn của Đảng trong bối cảnh hiện nay. Thực tiễn lịch sử Trung Quốc, Liên xô và Việt Nam cũng cho chúng ta thấy: Một đảng lâu năm có thành tích lớn, dày dạn kinh nghiệm, nhưng cũng có thể bị thoái hoá, tan rã nếu không giữ vững được bản chất cách mạng và không ngừng đổi mới, phát triển năng lực lãnh đạo của mình. Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thảm kịch “cách mạng văn hóa” ở Trung Quốc chính là sự độc đoán, mất dân chủ trong nội bộ Đảng và những thành tựu cải cách phát triển hơn trong hai mươi năm qua ở Trung Quốc thu được trước hết là nhờ dân chủ hoá trong xã hội, trước hết là dân chủ hóa nội bộ Đảng. Một chính đảng lớn bậc nhất thế giới và cũng là lớn nhất trong lịch sử như Đảng Cộng sản Liên xô vẫn bị sụp đổ nhanh chóng nếu quan liêu, mất dân chủ, xa rời nhân dân, đánh mất lòng tin của dân và sự đồng thuận của xã hội. Xét từ góc độ dân chủ hóa, đổi mới chính là thực hành dân chủ trong rộng rãi trong Đảng, trong kinh tế, trong chính trị, trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, để thực hành dân chủ tốt thì Đảng phải đủ năng lực để đáp ứng những đòi hỏi của sự phát triển đất nước trong bối cảnh mới. Bởi thế, Đảng phải luôn tự đổi mới, hoàn thiện mình và thực hành dân chủ một cách đầy đủ, nhất quán, rộng rãi trước hết trong Đảng. Đồng thời phải tạo cho cho xã hội Việt Nam thói quen sinh hoạt dân chủ. Các quyền tự do kinh doanh, tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do nghiên cứu... cần được thực hành rộng hơn nữa trong thực tế.
Nhưng, đổi mới - thực hành dân chủ trong cả kinh tế lẫn chính trị, phải đảm bảo giữ vững sự ổn định và phát triển bền vững cả về kinh tế, chính trị và xã hội nói chung. Kết hợp đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị phải sao cho vừa đổi mới và phát triển nhanh, toàn diện, triệt để, đúng với khả năng và điều kiện khách quan, chủ quan, chứ không cải lương, cải tiến, điều chỉnh nhóm lẻ, bộ phận, vụn vặt, nhưng lại phải giữ vững ổn định kinh tế, ổn định chính trị xã hội, không để gây rối loạn, vô chính phủ. Do vậy, thực hành dân chủ nhưng không dân chủ quá trớn; tự do, nhưng không tự do vô chính phủ; ổn định nhưng không trì trệ; phát triển nhanh nhưng không rối loạn. Đó là đòi hỏi của đổi mới trong những năm trước mắt và của cả sự nghiệp đổi mới với mục tiêu phát triển rút ngắn, thu hẹp khoảng cách tụt hậu của nước ta 1. Chính vì thế để tiếp tục đổi mới kinh tế và chính trị thì đổi mới và chỉnh đốn Đảng, trước hết là thực hành thực sự dân chủ trong nội bộ, đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng là khâu đầu tiên cần tiến hành sau đó mới có thể mở rộng ra phạm vi toàn xã hội.
7. Đổi mới trong những năm tiếp theo cả trong lĩnh vực kinh tế lẫn chính trị không thể lảng tránh vấn đề quan hệ giữa đảng - nhà nước - các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội. Đổi mới Đảng là một đòi hỏi tất yếu. Nếu không đổi mới Đảng sẽ bị tụt hậu và không thể ngang tầm với những đòi hỏi của sự phát triển. Đổi mới nhà nước là một đòi hỏi bức xúc của công tác quản lý phát triển kinh tế, xã hội hiện thời. Đổi mới Mặt trận là một nhiệm vụ quan trọng để có thể thực thi dân chủ một cách rộng rãi và hiệu quả trong xã hội. Đổi mới hệ thống chính trị phải tuân thủ nguyên tắc “chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế”, phục vụ đổi mới kinh tế. Trong bối cảnh kinh tế thị trường ngày càng phát triển, đa thành phần sở hữu, đa hình thức kinh doanh, nhiều nhóm lợi ích xuất hiện, việc dân chủ hóa trong đời sống kinh tế và đời sống xã hội ngày càng gia tăng và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng thì việc tìm kiếm một cơ chế thích hợp và hiệu quả hơn với điều kiện Việt Nam về dân chủ, về kiểm soát quyền lực kinh tế và chính trị nói riêng quyền lực xã hội nói chung là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng và cấp thiết. Nếu không có sự kiểm soát quyền lực tốt thì tiêu cực xã hội không thể giảm thiểu. Quyền lực tuyệt đối thì tham nhũng càng có điều kiện ăn sâu, lan rộng 2. Phải thừa nhận một thực tế là chúng ta chưa có một cơ chế tốt về kiểm soát, cân bằng quyền lực. Đây cũng chính là nguyên nhân sâu xa của tình trạng lạm quyền nghiêm trọng hiện nay, gây nên nhiều tiêu cực nghiêm trọng, đe dọa chính uy tín và sự tồn tại của Đảng và chế độ.
Nhân loại đã tìm ra hai cơ chế có liên quan chặt chẽ với nhau, được sử dụng trong hàng loạt các nước khá thành công. Trải qua mấy trăm năm sử dụng và được hoàn thiện dần, chúng trở thành sản phẩm của văn minh nhân loại. Các cơ chế đó hình thành và phát triển trong điều kiện kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và mang tính chất tư bản chủ nghĩa. Chúng ta cần xem xét kỹ để tận dụng những mặt tích cực như đã, đang và sẽ còn sử dụng kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Hai cơ chế đó là: đối trọng quyền lực và tam quyền phân lập. Chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền của Đảng từ Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1 - 1994) là một chủ trương đúng, nhưng trong thực thi còn nhiều vấn đề vướng mắc. Một trong những lý do quan trọng của tình trạng đó chính là chúng ta chưa thực sự đổi mới tư duy trong việc nghiên cứu và vận dụng những mặt tích cực của hai cơ chế đối trọng quyền lực và tam quyền phân lập. Nói đến nhà nước pháp quyền mà không nói đến hai cơ chế đó thì giống như một chiếc máy tính không có phần mềm. Trong giai đoạn đổi mới tiếp theo việc nghiên cứu và vận dụng hai cơ chế ấy theo định hướng xã hội chủ nghĩa cần được đặt ra một cách mạnh mẽ và quyết liệt hơn. Có thể chúng ta không sử dụng chúng như trong chủ nghĩa tư bản. Nhưng từ việc nghiêm cứu chúng một cách nghiêm túc và cẩn trọng chúng ta có thể Việt Nam hóa chúng và tìm ra cơ chế riêng thích hợp với chúng ta.
8. Đổi mới không thể chỉ từ “trên xuống”, cũng không thể chỉ từ “dưới lên”. Bài học của Liên Xô, Trung Quốc và cả thực tiễn nước ta đều khẳng định điều đó. Đổi mới kinh tế lẫn đổi mới chính trị đều là sự nghiệp chung của toàn Đảng, toàn dân. Trong giai đoạn tiếp theo có thể khởi xướng đổi mới là từ trên. Cũng có thể đó là sáng tạo, là sự “phá rào” từ bên dưới. Khởi đầu có thể ở các địa điểm khác nhau. Nhưng khi chưa trở thành công việc của nhân dân thì đổi mới không thể thực hiện được. Để nó đi vào đời sống thực của nhân dân để có thể kết hợp đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị thì không thể không có sự chuẩn bị kỹ càng cho cả “dưới” lẫn “trên”. Sự chuẩn bị ở đây bao gồm nhiều bước, nhiều công đoạn, từ việc nắm bắt lĩnh vực, phạm vi, nhiệm vụ, mục tiêu, kế hoạch, lực lượng đến việc thống nhất nhận thức tư tưởng, triển khai cụ thể và quản lý tiến trình hàng ngày,... Không có sự chuẩn bị tốt, thiếu vắng sự đồng thuận xã hội là một nguy cơ tiềm ẩn cho đổi mới, đặc biệt là đối với đổi mới chính trị.3 Đổi mới chính trị là công việc nhạy cảm, động chạm trực tiếp đến lợi ích của tầng lớp cầm quyền, của bộ máy quản lý. Do vậy công tác chuẩn bị càng trở nên quan trọng. Sự thống nhất tư tưởng và hành động là một đòi hỏi có tính tiên quyết của đổi mới trong giai đoạn tiếp theo. Làm tốt điều này chúng ta mới có thể đổi mới trong ổn định. Đổi mới là công việc của cả dân tộc, vì lợi ích dân tộc, do vậy không thể chủ quan, nóng vội, nhưng cũng không thể trì hoãn, bỏ lỡ cơ hội gia nhập vào đoàn tàu tốc hành chung của nhân loại.
Nói tóm lại, muốn tiến lên, muốn phát triển nhanh, mạnh, bền vững, muốn rút ngắn khoảng cách tụt hậu, chúng ta lại phải tiếp tục đổi mới một cách đồng bộ hơn, quyết liệt hơn, căn bản hơn, cách mạng hơn cả kinh tế lẫn chính trị trên cơ sở đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết.
____________
1.Xem 6 nguyên tắc đổi mới trong Nghị quyết Trung ương 6 khóa VI tháng 3 – 1989 và Nghị quyết 09 ngày 18-12-1995 của Bộ Chính trị khóa VII về công tác tư tưởng.
2.Tình trạng này tương tự như trong giai đoạn bao cấp với sự tồn tại của cơ chế phân phối hàng tiêu dùng theo chế độ tem phiếu với những tiêu cực trong hệ thống thương nghiệp như bán cửa trước, cửa sau, cửa quyền, hách dịch,… Tình trạng tiêu cực nghiêm trọng gây bức xúc trong cán bộ và nhân dân. Cố tổng bí thư Lê Duẩn khi đó có ý định đề nghị thử đưa các chiến sĩ quân đội vào phục vụ trong các cửa hàng thương nghiệp để xóa bỏ tiêu cực. Bấy giờ đó có ý kiến phản biện cho rằng: nếu đưa họ vào, sau vài ba tháng cơ chế cũng sẽ biến họ thành những người như hiện có trong hệ thống. Nên thay đổi cơ chế mà không cần thay thế con người. Thực tế đó chứng minh ý kiến đó đúng. Khi xóa bỏ chế độ tem phiếu những hiện tượng tiêu cực trong hệ thống thương nghiệp cũng biến mất.
3.Tất nhiên, trong đổi mới sự đồng thuận không có nghĩa là không đòi hỏi sự quyết liệt, quyết tâm, dũng cảm, quyết đoán và sáng suốt. Sự đồng thuận phải song hành với những cái đó mới có thể đảm bảo cho đổi mới dự trong một phạm vi hẹp hay trong một ngành, lĩnh vực có thể thành công với những hao phí xã hội thấp nhất.
Đổi mới chính trị để phát triển kinh tế ở nước ta Từ Thanh
Tạp chí Cộng sản
Khi đất nước bắt đầu sự nghiệp đổi mới (năm 1986) Đảng ta chủ trương: ''Đổi mới mạnh mẽ về kinh tế và giữ vững sự ổn định về chính trị''. Từ đó đến nay chúng ta đã giành được rất nhiều thành tựu về kinh tế - xã hội đưa đất nước tiến những bước hết sức ngoạn mục. Điều đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta khởi xướng là đúng đắn và sáng tạo và rất phù hợp với thực tiễn.
Qua hơn hai mười năm đổi mới mặc dù có nhiều thành tựu ở nước ta nhưng vẫn có một số ý kiến khá kỳ quặc là chúng ta không đổi mới về chính trị. Theo họ về kinh tế chúng ta đổi mới theo hướng chấp nhận cơ chế thị trường, nhưng về chính trị chúng ta vẫn giữ sự bảo thủ trì trệ... Rằng muốn tiến lên chúng ta phải đổi mới mạnh mẽ, quyết liệt hơn nữa về chính trị mới phù hợp, kinh tế thị trường phải gắn với nhà nước pháp quyền và thực hiện đa nguyên chính trị...
Cần khẳng định rằng chúng ta thực hiện đổi mới nhưng kiên trì mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội đích thực. Đổi mới để có chủ nghĩa xã hội nhiều hơn chứ không phải quay lại chủ nghĩa tư bản. Kinh tế thị trường (tự do mù quáng), nhà nước pháp quyền (tư sản) và đa nguyên chính trị đó là đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Do đó chúng ta không đi theo hướng đó; nó không phù hợp và không đáp ứng nguyện vọng của cả dân tộc ta. Chúng ta thực hiện kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (tất cả vì dân, do dân...) và không thực hiện đa nguyên chính trị mà cơ chế dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Rõ ràng lập luận như trên rằng chúng ta bảo thủ trì trệ... là phiến diện, là không đúng với thực tế ở nước ta. Bởi lẽ chúng ta thấy khi đổi mới cơ chế kinh tế theo hướng thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chúng ta đã tiến hành đồng thời đổi mới về chính trị, chính sự phù hợp về chính trị mới mở đường cho kinh tế phát triển; và kinh tế phát triển chứng tỏ chính trị đã góp phần tác động quan trọng đồng thời góp phần củng cố chính trị ổn định và bền vững. Điều mà nhiều người chưa hiểu thật rõ ràng là khi chúng ta mới đổi mới về kinh tế vẫn chủ trương giữ ổn định về chính trị có nghĩa là chúng ta một mặt phát triển kinh tế nhưng vẫn giữ nguyên tính chất chính trị của chế độ xã hội - xã hội chủ nghĩa. Hay nói cách khác đó là nội dung của việc giữ vững và ổn định chính trị (không thay đổi chế độ chính trị theo hướng tư bản chủ nghĩa). Nhưng việc giữ vững và ổn định chính trị (chế độ xã hội - xã hội chủ nghĩa) chúng ta vẫn thực hiện đổi mới về chính trị cho phù hợp với một tiến trình theo nguyên tắc ''Dĩ bất biến ứng vạn biến” theo tư tưởng của Bác Hồ kính yêu. Điều này có thể giải thích rõ như sau. Khi tiến hành đổi mới, Đảng ta phát triển mạnh về kinh tế đồng thời từng bước đổi mới về hoạt động của hệ thống chính trị cho phù hợp. Có thể nói nội dung cơ bản của đổi mới chính trị trong sự ổn định như sau:
Trước hết chúng ta khẳng định đi lên chủ nghĩa xã hội là không thể đảo ngược ở nước ta mặc dù tình hình khu vực và thế giới có nhiều thay đổi và diễn biến hết sức phức tạp. Cơ chế hoạt động chính trị của chúng ta luôn được củng cố giữ vững đó là: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. Có chăng sự đổi mới thể hiện ở chỗ: đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, đổi mới sự quản lý nhà nước để phù hợp với cơ chế kinh tế mới và tình hình mới của đất nước; đổi mới cơ chế làm chủ của nhân dân để có dân chủ xã hội chủ nghĩa hơn đưa đất nước tiến những bước nhanh hơn, mạnh hơn bền vững lên chủ nghĩa xã hội. Đến đây có lẽ chúng ta đã thấy rõ phần nào của vấn đề và sẽ đi sâu một cách cụ thể hơn.
1- Trước hết là đổi mới sự lãnh đạo của Đảng:
Khi thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng ta đã nhận ra rằng phải tự đổi mới mình trước hết là đổi mới tư duy sau đó là phong cách lãnh đạo. Đảng ta đã giáo dục, nâng cao trình độ và sức chiến đấu của Đảng củng cố sức mạnh của Đảng về mọi mặt đổi mới mạnh mẽ từ tư tưởng, tổ chức và về chính trị. Trước hết, tăng cường giáo dục tư tưởng trong Đảng, làm trong sạch đội ngũ, củng cố tổ chức từ Trung ương đến địa phương. Đặc biệt là xác định nội dung thế nào là lãnh đạo? Đó là lãnh đạo thông qua đường lối nghị quyết; cử cán bộ tham gia công tác thực tiễn, và đặc biệt là qua kiểm tra đôn đốc hoạt động của đất nước... Đây chính là việc tách bạch giữa công tác lãnh đạo của Đảng khỏi sự quản lý nhà nước. Điều mà từ trước đó (trong cơ chế kinh tế cũ: tập trung quan liêu bao cấp) luôn có hiện tượng chồng chéo làm thay, bao biện giữa Đảng và Nhà nước... Từ đó Đảng ta cũng từng bước đổi mới công tác đề ra nghị quyết, đường lối theo hướng khoa học hiệu quả. Cũng như đổi mới công tác cán bộ từ đào tạo, sử dụng, đãi ngộ cho phù hợp với tình hình. Cũng như vậy công tác kiểm tra uốn nắn của Đảng với hệ thống chính trị cũng được tiến hành đổi mới một cách cân đối hài hòa... Ở đây cần phải thấy một sự đổi mới rất mạnh mẽ về sự lãnh đạo của Đảng là, Đảng ta xác định Đảng ta có vai trò lãnh đạo hệ thống chính trị nhưng là một thành viên trong hệ thống chính trị này. Đặc biệt Đảng lãnh đạo đất nước trong khuôn khổ của pháp luật (không đứng trên hay đứng ngoài pháp luật) chính sự đổi mới sâu sắc và toàn diện của Đảng đã tăng sức chiến đấu của Đảng, và Đảng đã hoàn thành xuất sắc vai trò của mình trong sự nghiệp đổi mới.
2- Đổi mới sự quản lý của nhà nước
Khi thực hiện kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì nhu cầu đổi mới hoạt động của nhà nước đã trở nên cấp thiết. Đảng ta nhanh nhạy thực hiện công cuộc đổi mới hoạt động của nhà nước theo hướng chấp nhận xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà quyền lực của dân do dân và vì dân. Nên nhớ khái niệm ''nhà nước pháp quyền” luôn gắn với chủ nghĩa tư bản nên đó là điều kiêng kỵ khi đất nước có chiến tranh và thực hiện cơ chế kinh tế cũ trong xã hội ta. Việc thiết lập nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vì dân do dân phải theo nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý xã hội theo luật pháp và chính nhà nước cũng bị luật pháp quản lý. Quyền lực nhà nước là thống nhất không phân chia; có sự phân công trách nhiệm rõ ràng về lập pháp, hành pháp và tư pháp. Cũng nên nhắc tới khi thực hiện cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, một đổi mới hết sức quan trọng của hoạt động nhà nước là nhà nước đã tách khỏi hoạt động kinh tế. Nhà nước không trực tiếp tham gia làm kinh tế như cơ chế cũ. Chúng ta thực hiện quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp nhà nước chỉ đóng vai trò phục vụ và can thiệp khi cần thiết và bằng các biện pháp gián tiếp thích hợp giúp kinh tế phát triển đúng hướng. Đây là điều rất quan trọng đổi mới về chính trị nước ta. Rõ ràng là việc đổi mới về chính trị diễn ra hết sức quyết liệt và rất rõ ràng nhưng vẫn trong nội dung của chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhưng quả thật là chưa đủ; điểm đổi mới mạnh mẽ về chính trị vẫn nằm ở việc nâng cao hiệu quả nhà nước xã hội chủ nghĩa mà khâu quyết liệt là thực hiện cải cách hành chính để hoạt động của nhà nước phù hợp và có hiệu quả trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đặc biệt là trong xu thế mở cửa hội nhập tham gia toàn cầu hóa một cách sâu rộng. Việc cải cách hành chính mạnh mẽ và toàn diện trong thời kỳ đổi mới ở nước ta đã giúp cho các doanh nghiệp và nhân dân lao động hết sức thông thoáng, dễ dàng phát triển sản xuất nâng cao hiệu quả kinh tế và dần dần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân một cách rõ rệt. Đây là kết quả hết sức quan trọng để đưa đất nước tiến lên. Tất cả các mặt từ lập pháp đến hành pháp cũng như tư pháp từ Trung ương đến địa phương việc thực hiện đồng bộ quyết liệt toàn diện hệ thống hành chính đã thúc đẩy mạnh mẽ cho kinh tế - xã hội phát triển vượt bậc đặc biệt là góp phần vào công cuộc đổi mới mở cửa hội nhập tham gia toàn cầu hóa một cách thành công; đưa nước ta vào dòng chảy chung của văn minh nhân loại. Có thể khẳng định việc đổi mới hoạt động của nhà nước ta theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tất cả vì dân, do dân và thực hiện quyết liệt công cuộc cải cách hành chính là làm cho kinh tế - xã hội nước ta phát triển mà còn tạo dựng được nhà nước gọn nhẹ, mạnh mẽ hiệu quả có khả năng hoàn thành nhiệm vụ nặng nề đưa đất nước vượt lên. Đó cũng là một thành công lớn trong đổi mới chính trị ở nước ta cùng với đổi mới về kinh tế cũng như đổi mới sâu sắc toàn diện đất nước hơn hai mươi năm qua.
3- Đổi mới cơ chế nhân dân làm chủ:
Đảng, Nhà nước ta đánh giá rất cao việc thực hiện nhân dân làm chủ hay chính là thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa; coi đây là thành quả tất yếu là mục tiêu và là động lực cho sự phát triển của xã hội. Khi thực hiện đổi mới về chính trị ở nước ta thì mục tiêu là dân chủ hơn, chủ nghĩa xã hội nhiều hơn là yêu cầu cao nhất. Mọi đổi mới về kinh tế - xã hội phải đem lại cho nhân dân thụ hưởng nhiều hơn, cho nên thực hiện dân chủ trong Đảng và trong hoạt động của Nhà nước và trong đời sống xã hội phải diễn ra đồng thời một cách mạnh mẽ.
Trước hết các tổ chức chính trị xã hội được hoạt động mạnh mẽ hơn, sôi động hơn nhằm đem lại lợi ích cho nhân dân nhiều hơn, tự do dân chủ là yêu cầu bức thiết của xã hội và ngày một được thỏa mãn tốt hơn. Trước hết, Đảng, Nhà nước ta đã khẳng định vai trò quan trọng của mặt trận Tổ quốc coi đây là trung tâm tập hợp các ngành, các giới để đem lại dân chủ thông qua đoàn kết phấn đấu cho nền dân chủ được thực hiện tốt hơn, nhất là xác định vai trò phản biện xã hội của nó nhằm đoàn kết nhân dân và đem lại quyền lợi cho đông đảo nhân dân trong cả nước. Sau đó phải nói đến việc chúng ta thực hiện tự do ngôn luận trong khuôn khổ luật pháp của đất nước chưa bao giờ báo chí lại phát triển mạnh mẽ đến thế. Cả về quy mô, cường độ và nội dung hoạt động của báo chí là hết sức sôi động. Trong tự do tín ngưỡng, tôn giáo cũng có sự đổii mới và phát triển đáng kể. Tất cả được thể hiện: luật pháp của chúng ta khẳng định công dân có quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo. Có quyền theo hoặc không theo đạo nào (không có sự ép buộc) mọi hoạt động tôn giáo hết sức sôi động trong cả nước theo luật pháp xã hội chủ nghĩa tiến bộ và nhân đạo trong pháp lệnh về tôn giáo tín ngưỡng. Hay người dân được tự do làm việc, phát triển kinh tế theo Luật Lao động và Luật Doanh nghiệp, tự do làm mọi việc mà pháp luật không ngăn cấm. Tóm lại tự do dân chủ cho mọi người dân, các ngành, các giới được luật pháp bảo vệ nên các tổ chức chính trị xã hội, các hội nghề nghiệp, các tổ chức phi chính phủ được hoạt động sôi nổi và rộng khắp dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nước và sự tham gia tích cực và giám sát của nhân dân. Chưa bao giờ không khí dân chủ lại sôi động và mạnh mẽ trong cơ chế kinh tế mới như hiện nay. Nhân dân có vai trò rất lớn trong tham gia công tác và giám sát công tác xã hội. Đặc biệt với việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở do Đảng ta ban hành đã được toàn thể nhân dân đón nhận một cách rất phấn khởi và hồ hởi cũng như tích cực tham gia tạo nên một chất mới trong dân chủ xã hội xã hội chủ nghĩa giàu tính nhân đạo và tiến bộ. Từ miền bắc đến miền nam, từ đồng bằng cho đến miền núi, từ nông thôn đến thành phố, từ cơ quan trung ương đến địa phương, từ trường học đến bệnh viện, xã, phường, thôn, bản… Quy chế dân chủ ở cơ sở được thiết lập và được thực hiện, với tinh thần dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và đã được thực hiện rộng khắp và sôi nổi... Đó là minh chứng rất rõ ràng cho sự đổi mới sâu sắc, toàn diện về đời sống, về chính trị nước ta bên cạnh việc đổi mới mạnh mẽ về kinh tế. Như vậy những ý kiến cho rằng chúng ta không có tự do, không có dân chủ hay không có tự do báo chí, tự do ngôn luận còn tình trạng đàn áp tôn giáo hay kỳ thị dân tộc ở nước ta... là không có căn cứ, không thiện chí; thậm chí là xuyên tạc sự thật, hoặc cố tình không nhìn thấy những tiến bộ về tự do dân chủ ở nước ta trong thời gian qua và hiện nay. Rõ ràng công cuộc đổi mới ở nước ta là toàn diện, sâu sắc và đạt nhiều thành quả. Tuy ở đất nước ta phải thừa nhận là vẫn nhiều việc chúng ta chưa thật yên tâm như hiện tượng cán bộ, đảng viên tha hóa biến chất, suy đồi đạo đức, tác phong, lối sống; hay các tệ nạn như tham nhũng, quan liêu cửa quyền vẫn còn tồn tại trong cơ quan nhà nước, hay nhiều thủ tục hành chính còn gây phiền hà cho số ít nhân dân; hoặc đây đó có lúc, có nơi dân chủ còn bị vi phạm, vẫn có người dân bị oan ức, gây bức xúc... Nhưng tất cả những khiếm khuyết đó không thể so sánh với mặt tích cực mặt tốt đẹp mà Đảng, Nhà nước nhân dân ta đã đạt được về kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng và văn hóa xã hội. Những tiến bộ những, tích cực, những thành tựu đạt được là hết sức lớn lao, nó chứng tỏ Đảng ta, Nhà nước ta chế độ xã hội chủ nghhĩa mà chúng ta là rất tốt đẹp là tiến bộ. Việc tiến hành đổi mới toàn diện về kinh tế, chính trị vẫn giữ vững định hướng xã hội là đúng đắn.
Con đường chúng ta đi có tương lai rộng mở mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, văn minh nhất định sẽ thành công mặc dù để đạt được điều đó chúng ta còn phải trải qua nhiều khó khăn gian khổ.
Về quan hệ giữa ổn định và phát triển trong thời kỳ đổi mới PGS. TS Bùi Tất Thắng
Viện Chiến lượng phát triển
1. Những đặc điểm cơ bản của thới kỳ đổi mới
Ở góc độ chung nhất, có thể khái quát một số nét đặc trưng của của thời kỳ đổi mới kinh tế ở Việt Nam như sau:
Thứ nhất, bản chất của quá trình đổi mới là đổi mới thể chế kinh tế, là chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nội dung và tính chất của đổi mới kinh tế gắn liền với những nhận thức mới về việc xây dựng kinh tế XHCN. Nó vượt xa khuôn khổ của những “cải tiến” “hoàn thiện” đã làm trước đây. Vì vậy, có thể xem giai đoạn đổi mới kinh tế hiện nay là giai đoạn đặc biệt, phản ánh một hiện tượng đặc biệt trong đời sống kinh tế của CNXH và thế giới.
Thứ hai, giai đoạn đổi mới hiện nay mang tính chất toàn diện và rất phức tạp, không những chỉ bao gồm những vấn đề kinh tế mà còn cả những vấn đề ổn định chính trị và xã hội. Những vấn đề liên quan đến các hình thức sở hữu đến vai trò và cách thức can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế, chế độ quản lý, chế độ phân phối.
Thứ ba, quá trình đổi mới thể chế kinh tế ở bên trong gắn liền với việc mở cửa, hội nhập quốc tế, tạo thành một quá trình chung, thống nhất.
Thứ tư, các nước XHCN ở Liên Xô - Đông Âu đã tiến hành cải cách chuyển sang nền kinh tế thị trường kiểu phương Tây, Trung Quốc cải cách mở cửa chuyển sang “kinh tế thị trường XHCN mang đặc sắc Trung Quốc” khiến cho “đổi mới” ở Việt Nam vừa chưa có tiền lệ, vừa không còn “hệ thống” các nước cùng chung cách “đổi mới”.
Như vậy, bước chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường là sự đổi mới mang tính toàn diện và triệt để, rằng “toàn bộ quan điểm của chúng ta về chủ nghĩa xã hội đã thay đổi về cơ bản” (V.I.Lênin, Toàn tập, Tập 45. Nxb Tiến bộ, Maxcơva 1980. Bản tiếng Việt; tr.428).
Với những đặc điểm nêu trên, vấn đề xử lý mối quan hệ giữa ổn định phát triển trở nên hết sức quan yếu trong suốt quá trình đổi mới.
2. Quan hệ giữa ổn định và phát triển trong thời kỳ đổi mới
Có thể coi thời kỳ đổi mới được bắt đầu một cách toàn diện từ Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) và kết thúc khi cơ bản hoàn thành nhiệm vụ đổi thể chế kinh tế, chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tuy chưa biết cụ thể sẽ là bao nhiêu năm, nhưng sẽ là một khoảng thời gian có điểm khởi đấu và kết thúc. Trong khoảng thời gian ấy có một số nhiệm vụ trọng tâm phải giải quyết – chuyển nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Theo quan điểm của Đảng ta, “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vừa vận động theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội; trong đó, cơ chế thị trường được vận dụng đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh mẽ, có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, đồng thời giữ vững, tăng cường tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế; phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa bằng pháp luật, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các nguồn lực kinh tế”. (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2011, tr. 34-35).
Quá trình “đổi mới”, theo nguyên nghĩa của từ, sẽ bao hàm sự thay đổi, chuyển đổi, vận động không ngừng. Vậy nên, theo nguyên lý về sự phát triển trong triết học Mác-xít, quan hệ giữa ổn định và phát triển là mối quan hệ biện chứng, trong đó ổn định là tương đối, ổn định trong phát triển. Tuy nhiên, ở mỗi thời điểm nhất định, việc nhấn mạnh hơn nội dung ổn định hay phát triển lại tùy thuộc vào tình hình thực tế. Chẳng hạn, trong quá trình thực hiện đổi mới nước ta, đến nay nền kinh tế đang chuyển đổi đã hai lần chịu tác động mạnh bởi những cuộc khủng hoảng từ bên ngoài: lần thứ nhất là cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính châu Á năm 1997-98, khởi đầu từ thị trường chứng khoán Thái Lan, sau đó lan ra nhiều nước và khu vực trên thế giới. Lần thứ hai là cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, khởi phát từ thị trường chứng khoán New York (Hoa Kỳ) năm 2008-2009. Đứng trước những vấn đề nảy sinh mang tính thời điểm như vậy, rõ ràng cần ưu tiên cho mục tiêu “ổn định”. Sự ổn định trong quan hệ với phát triển được xem xét ở đây là sự ổn định được hiểu theo nghĩa rộng, toàn diện, bao gồm cả ổn định chính trị, ổn định kinh tế vĩ mô và ổn định xã hội. Còn trong suốt cả thời kỳ đổi mới, trong trạng thái bình thường của nền kinh tế, khía cạnh phát triển sẽ giữ vị trí chủ đạo trong quan hệ với ổn định.
Có một thực tế là, lâu nay, khi bàn về quan hệ giữa ổn định và phát triển, xu hướng chung là nhấn mạnh sự ổn định, coi ổn định là tiền đề cần thiết để phát triển. Điều đó hoàn toàn đúng. Đặc biệt là xét trong bối cảnh khởi động tiến trình đổi mới. Tuy nhiên, hơn 20 năm đổi mới đã qua, những bối cảnh quốc tế và trong nước đã có nhiều đổi khác. Ổn định vẫn là tiền đề cần thiết cho sự phát triển. Nhưng mức độ bắt buộc phải ưu tiên như một lẽ sống còn duy nhất thì không giống như thời kỳ khởi động tiến trình đổi mới của những năm 1980 - 1990 nữa. Bởi vì:
- Qua những biến cố thăng trầm của đổi mới và mở cửa, mọi người đã hiểu hơn bản chất của cơ chế kế hoạch hóa tập trung và cơ chế thị trường (trong sự so sánh với nhau bằng trải nghiệm thực tiễn). Người dân và các doanh nghiệp cũng có kinh nghiệm hơn trước những biến động của thị trường. Do sự phát triển của mạng lưới thông tin và mở cửa, hội nhập, mọi người cũng hiểu hơn thế giới bên ngoài. Vì vậy, sự tôi luyện trong cơ chế mới giúp con người có bản lĩnh hơn, trưởng thành hơn, ít bị hoang mang dao động hơn nhiều so với thời kỳ đầu đổi mới. Trong bối cảnh ấy, nhu cầu phát triển, vươn lên “sánh vai các cường quốc năm châu”, khẳng định đẳng cấp trong thế giới vừa hợp tác vừa cạnh tranh đã trở thành tâm lý phát triển chung của đại đa số nhân dân.
- Không xem nhẹ ổn định, nhưng ổn định chỉ được giữ vững và làm được tiền đề cần thiết trong quan hệ biện chứng với phát triển: ổn định nhờ phát triển, thông qua phát triển và trong sự phát triển. Những nhân tố đòi hỏi phải phát triển nhanh mới giữ được ổn định đang ngày càng tăng lên. Đổi mới mà người dân không thấy cuộc sống của họ được cải thiện thì sức hấp dẫn của đổi mới sẽ suy giảm. Trong giai đoạn đầu đổi mới, từ thiếu đói sang có ăn mặc, mọi người cảm nhận được ngay tác động tích cực của đổi mới. Một thế hệ người (20 năm) sinh ra trong đổi mới, không từng nếm trải đói ăn, nhưng không cảm thấy cuộc sống thay đổi theo hướng đi lên, họ không cảm thấy tính thiết thân của đổi mới. Hơn nữa, do quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa, một bộ phận dân cư trước đây làm nông nghiệp, đã cải thiện được cuộc sống và ổn định nhờ công việc làm trong nông nghiệp, nay không còn đất (do chuyển đổi đất nông nghiệp sang lĩnh vực khác), nhưng lại không có việc làm, không cải thiện được cuộc sống, tâm lý bất ổn phát sinh. Vì vậy, phải phát triển nhanh mới tạo ra được nhiều cơ hội việc làm cho nhiều người và vì thế mới ổn định được.
Vậy nên trước yêu cầu mới của tình hình phát triển kinh tế - xã hội đất nước thời kỳ 2011- 2020 với những dự báo kinh tế thế giới bước vào thời kỳ toàn cầu hóa rất sâu, rộng; nền kinh tế tri thức sẽ hình thành và phát triển, tương quan lực lượng kinh tế và chính trị thế giới có khả năng có nhiều thay đổi, những diễn biến kinh tế và chính trị có nhiều khả năng xảy ra những tình huống phức tạp, khó lường; trong khi nền kinh tế Việt Nam sau hơn 20 năm đổi mới thành công, đã vượt qua ngưỡng nghèo (nước có mức thu nhập thấp) đang bước vào thời kỳ của nước có mức thu nhập trung bình - thời kỳ mà kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới đã cho thấy, vừa có cơ hội để trở thành nước công nghiệp phát triển, lại vừa có nguy cơ rủi ro rơi và “bẫy của nước có mức thu nhập trung bình”, luẩn quẩn ở trình độ “nước có mức thu nhập trung bình”, không vượt lên thành nước công nghiệp phát triển được. Cả tình huống bên trong lẫn bên ngoài đều đặt ra yêu cầu rất đặc biệt, rất hệ trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội của đất nước thời kỳ 2011-2020. Tính chất “phát triển” của thời kỳ chiến lược này trở nên rất rõ ràng; khác hẳn với chiến lược “vượt qua khủng hoảng”, dù sao cũng cũng đậm nét tình thế “giữ ổn định” của thời kỳ chiến lược 1991-2000; và cũng rất khác với chiến lược “tạo tiền đề” để cho sự phát triển của thời kỳ sau của thời kỳ chiến lược 2001-2010. Thời kỳ chiến lược 2011-2020 mang đậm nét “phát triển” hàm ý rằng, tính “được - thua” trong cuộc tranh đua phát triển cùng thời đại, cùng các “cường quốc 5 châu” sẽ quyết định Việt Nam có rút ngắn được khoảng cách phát triển với các nước đi trước không, có “hóa rồng” được không, đã trở thành nhiệm vụ khách quan, mang tính lịch sử.
Tóm lại, trong giai đoạn mới, vẫn phải khẳng định nguyên lý ổn định để phát triển, nhưng cách nhìn về ổn định phải có sự thay đổi. Đó là ổn định nhờ phát triển, thông qua phát triển và trong sự phát triển. Tính bền vững của phát triển nằm trong nguyên lý quan trọng này.
3. Phương hướng cơ bản đảm bảo phát triển để ổn định và ổn định để phát triển
Việc nhấn mạnh khía cạnh phát triển là nhìn ở góc độ toàn cục suốt cả thời kỳ chiến lược 10 năm và xa hơn. Song, trong ngắn hạn, có những tình huống đòi hỏi phải tập trung hơn cho việc tạo sự ổn định. Cách xử lý linh hoạt các mối quan hệ này vừa là khoa học, lại vừa là nghệ thuật quản trị sự phát triển. Trước mắt chúng ta, ở thời điểm của năm 2011 này, những nguy cơ bất ổn đang đe dọa sự phát triển và không thể không quan tâm giải quyết một cách thỏa đáng. Kết luận số 02-KL/TW ngày 16/3/2011 của Bộ Chính trị về tình hình kinh tế- xã hội năm 2011 có đoạn viết: “kinh tế - xã hội của nước ta tiếp tục phải đối mặt với những khó khăn thách thức thậm chí lớn hơn so với dự báo cuối năm trước về lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và an sinh xã hội. Tăng trưởng GDP có xu hướng chậm lại, thấp hơn so với cùng kỳ năm 2010; giá cả, lạm phát, mặt bằng lãi suất tăng cao so với chỉ số lạm phát và tỉ suất lợi nhuận của doanh nghiệp; tình trạng đô la hóa và sử dụng vàng để kinh doanh, làm công cụ thanh toán trở nên phổ biến và nghiêm trọng hơn; tỉ giá biến động mạnh, giá vàng tăng cao; dự trữ ngoại hối giảm; việc cung cấp điện còn nhiều căng thẳng…”.
Vì vậy, để đảm bảo giải quyết tốt phương châm phát triển để ổn định và ổn định để phát triển, cần xác định rõ những nhiệm vụ trước mắt khi phải đối mặt với những tình huống đặc biệt, đồng thời khi giải quyết những nhiệm vụ ngắn hạn, phải đặt chúng trong tổng thể, dài hạn, nhằm hướng tới mục tiêu tổng quát của sự phát triển. Với cách đặt vấn đề như vậy, các phương hướng cơ bản đảm bảo phát triển để ổn định và ổn định để phát triển trong giai đoạn tới gồm:
Một là, cần tập trung ổn định kinh tế vĩ mô
Trước mắt, cần “Kiềm chế lạm phát, ổn đinh kinh tế vĩ mô; đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; bảo đảm an sinh xã hội. Đây là những nhiệm vụ có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau; cần được quán triệt, triển khai đồng bộ trong suốt quá trình phát triển. Tập trung ưu tiên hàng đầu cho việc kiềm chế lạm phát; ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an sinh xã hội; coi đây vừa là nhiệm vụ cấp bách ngắn hạn của năm 2011, vừa là nhiệm vụ quan trọng của một vài năm tiếp theo. Trong năm 2011 và một vài năm đầu của kế hoạch 5 năm 2011 - 2015, không quá câu thúc bởi mục tiêu đạt tốc độ tăng trưởng GDP năm 2011 cao hơn năm 2010 để tránh tạo ra lạm phát cao, tạo tiền đề vững chắc cho tăng trưởng cao hơn ở những năm cuối của kế hoạch 5 năm”. (Kết luận số 02-KL/TW ngày 16/3/2011 của Bộ Chính trị về tình hình kinh tế- xã hội năm 2011).
Hai là, phát triển cùng thời đại, theo kịp bước tiến của thời đại
Trong lịch sử phát triển kinh tế thế giới, người ta đã từng chứng kiến rất nhiều mô hình kinh tế. Các nhà lịch sử kinh tế đã đưa ra những số liệu cho thấy, trong suốt 2000 năm kể từ năm Công lịch đầu tiên (năm 0) đến nay, kinh tế thế giới về cơ bản qua 3 dấu mốc quan trọng xét về tốc độ tăng trưởng. Đó là:
- Giai đoạn I: kéo dài 1000 năm (0-1000), kinh tế thế giới chỉ tăng trưởng bình quân 0,01%/năm, một mức tăng gần như không đáng kể.
- Giai đoạn II: từ năm 1000 đến năm 1820 (820 năm), kinh tế thế giới tăng trưởng bình quân 0,22%/năm, cao hơn mức bình quân của 1000 năm trước tới 22 lần, song cũng vẫn còn rất thấp.
- Giai đoạn III: từ năm 1820 đến năm 1998 (178 năm - do số liệu có đến năm 1998), kinh tế thế giới tăng trưởng bình quân 2,21%/năm, cao hơn mức bình quân của 820 năm trước 10 lần, và cao hơn thời kỳ 1000 năm (0-1000) tới 221 lần.
Trong 2 thế kỷ qua, đặc biệt là gần 60 năm kể từ giữa thế kỷ XX đến nay, kinh tế thế giới vừa phát triển nhanh, vừa kiểm chứng nhiều loại mô hình kinh tế khác nhau. Sự sàng lọc của thực tế cho thấy nổi lên tính hợp lý, hiệu quả của kinh tế thị trường, trong đó có một số mô hình (biến thể), nhưng về cơ bản thuộc hai loại điển hình: kinh tế thị trường tự do và kinh tế thị trường xã hội. Mặc dù có sự khác nhau ở khía cạnh này hay khía cạnh khác, những nền kinh tế thị trường phát triển nhất ngày nay (xếp chung thành một nhóm gồm 30 nước là thành viên của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế - Organisation for Economic Co-operation and Development - OECD), đều có chung một đặc điểm cơ bản là, sự vận hành của những nền kinh tế này đều dựa trên cơ sở tuân theo nguyên tắc thị trường.
Một nhóm các nước chậm phát triển nhờ tăng tốc phát triển mà trải qua thời gian, 3-4 thập kỷ đã trở thành NIES, trong đó có nước đã gia nhập OECD (Hàn Quốc), tuy không hoàn toàn dập theo khuôn mẫu của các nước đi trước, nhưng đều là những nền kinh tế thị trường. Nguyên tắc ấy đã làm ra các nước công nghiệp phát triển và đang dẫn dắt kinh tế thế giới bước vào kỷ nguyên tri thức.
Nhưng vấn đề đặt ra là, tại sao rất nhiều nước đi theo mô hình kinh tế thị trường, nhưng chỉ có một số ít nước thành công? Câu trả lời là tính hiệu quả của mỗi mô hình kinh tế thị trường được chọn lựa và theo đuổi.
Tổng kết bài học kinh nghiệm phát triển kinh tế của các nước OECD và các nền kinh tế mới CNH, các mô hình kinh tế thị trường cụ thể dù có khác nhau ở điểm này điểm khác, nhưng đều có hiệu quả, các nền kinh tế này đều có các đặc điểm chung, cơ bản như sau:
- Có tính cạnh tranh cao;
- Bình đẳng trong tiếp cận gia nhập thị trường;
- Sự can thiệp của chính phủ hợp lý, có hiệu lực cao.
Mỗi đặc điểm chung nêu trên lại hàm chứa trong đó nhiều nội dung, đã được nhiều tài liệu phân tích sâu sắc cả về khía cạnh học thuật lẫn thực tiễn.
Các nền kinh tế chậm phát triển ngày nay có thể lựa chọn và/hoặc sáng tạo ra các mô hình phát triển kinh tế. Với họ, nếu có “lợi thế của người đi sau” thì lợi thế ấy là có khả năng học hỏi và bắt chước (có sáng tạo) cái hay của người đi trước, cũng đồng thời có cơ hội tránh được cái sai của người đi trước. Thực tế phát triển kinh tế thế giới nói chung, các nền kinh tế OECD và NIES nói riêng, cho thấy các nước kinh tế thị trường phát triển nhất thế gíới ngày nay không phải không có thất bại (không hiệu quả hoặc suy thoái), thậm chí là rất nặng nề, nhưng việc họ trở thành OECD và NIES chứng minh rằng không phải mô hình tổng quát mà họ theo đuổi bị thất bại, mà chỉ bị thất bại mỗi khi trong các nền kinh tế ấy không đảm bảo được 3 đặc điểm chung nêu trên.
Mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN mà Việt Nam xây dựng tuy còn có những mặt cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện, nhưng nguyên tắc thị trường của hoạt động kinh tế thì cần được khẳng định như một trong những kết luận lý luận đã được thực tiễn kiểm định. Phát triển theo kịp bước tiến của thời đại về tư duy, về tri thức, là tiếp thu tinh hoa văn hóa tri thức của nhân loại, đồng thời đóng góp tri thức, văn hóa Việt Nam vào sự phát triển văn minh nhân loại.
Ba là, phát triển có hiệu suất
Muốn phát triển phải có nguồn lực. Nguồn lực có thể của ta tự có (đất đai, tài nguyên, con người, vốn liếng), có thể vay mượn từ bên ngoài, có thể do người nước ngoài mang đến làm ăn ở nước ta (kết hợp nguồn lực bên trong với nguồn lực bên ngoài). Trong kinh tế học, nguồn lực bao giờ cũng khá hiếm, hữu hạn. Vì vậy, sử dụng nguồn lực để phát triển phải đảm bảo sao cho có hiệu suất cao nhất: mỗi đơn vị giá trị sử dụng ở đầu ra của sản phẩm tiêu tốn ít nhất các nguồn lực ở đầu vào để tạo ra nó.
Thực tế cho thấy rằng, có những nền kinh tế đã có được sự khởi đầu khá ấn tượng (tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, sự gia tăng của sản xuất công nghiệp cao, đời sống của dân cư được cải thiện rõ rệt, xã hội và chính trị ổn định ...), nhưng thời gian duy trì lại không được bao lâu. Sau một thời gian ngắn ngủi nền kinh tế tỏ ra “hụt hơi”, “mất đà”, tốc độ tăng trưởng chậm dần, thậm chí chuyển sang suy thoái và rơi và trạng thái thiểu năng. Đó là tình trạng phát triển không hiệu quả và không bền vững. Một trong những điểm cốt lõi của trạng huống này là nền kinh tế đã tăng trưởng không phải dựa trên tăng năng suất.
Vấn đề có hiệu suất không chỉ là yêu cầu mang tính kinh tế của sự phát triển. Nó còn là vấn đề thuộc về bản chất của phát triển bền vững, tức mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và con người với các nguồn tài nguyên và môi trường thiên nhiên.
Bốn là, phát triển vì con người
“Phát triển con người là mục tiêu cuối cùng của phát triển kinh tế... Với tư cách là mục tiêu chứ không phải là một phương tiện, bản thân phát triển con người nhằm làm giàu cho cuộc sống con người”. (Phát triển con người-Từ quan niệm đến chiến lược và hành động. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1999, tr. 48). Trong điều kiện nạn đói nghèo còn tồn tại, tình trạng đói nghèo được giảm thiểu và những người vì bất kỳ lý do gì mà tạm thời bị cảnh ngộ đói nghèo sẽ không bị xã hội bỏ rơi còn là biểu hiện sự công bằng xã hội hay sự phát triển bền vững về mặt xã hội. Nhà kinh tế học cổ điển vĩ đại Adam Smith đã từng nói: “Không có xã hội nào có thể chắc chắn hưng thịnh và có hạnh phúc khi phần lớn người dân phải sống trong cảnh nghèo đói và khổ cực” (Adam Smith, 1776) (Trích lại từ: Michael P.Todaro: Kinh tế học cho thế giới thứ ba, Nxb Giáo dục, Hà Nội 1998, tr.187.) Còn tổ chức Oxfarm thì cho rằng: “Nói thẳng ra, tình trạng nghèo khổ tràn lan không chỉ nói lên một nền kinh tế vô cùng kém hiệu lực mà còn là một sự vi phạm các quyền cơ bản”. (Báo cáo của Oxfarm International: Tăng trưởng với công bằng: Chương trình thảo luận về chủ đề xoá đói giảm nghèo tháng 9/1997, tr. 16.). Một cách khái quát, “Chiến lược phát triển bền vững... là sự hội tụ và thăng hoa của mọi tư tưởng tốt đẹp được lưu truyền hết đời nọ sang đời kia trong nhân thế. Chiến lược này, ngoài nguyên tắc chủ đạo về tính bền vững (sustainability), còn bao gồm 3 nguyên tắc về tính công bằng (faimess), nó vừa đòi hỏi sự công bằng cho người thế hệ này, vừa đòi hỏi sự công bằng cho các thế hệ sau; tính hài hoà (hamlony), một mặt là sự hài hoà giữa con người và giới tự nhiên, mặt khác là sự hài hoà (hoà mục) giữa người và người; tính cộng đồng (common), nó nhấn mạnh tính chỉnh thể của địa cầu và tính phụ thuộc lẫn nhau của loài người, muốn thực hiện mục tiêu chung của sự phát triển bền vững, cần áp dụng hành động liên hợp chung toàn cầu”. (Shu Yongqing: Xã hội loài người đi về đâu? Hồi cố và bình luận về thế kỷ XX. Viện Thông tin khoa học xã hội, (Tài liệu phục vụ nghiên cứu), Số TN 2002 – 76 & 77. Hà nội 2002; tr. 6).
Tóm lại, phát triến bền vững là sự phát triển mang tính tổng hợp với mục tiêu rõ ràng là vì con người, không chỉ là sự mở rộng cơ hội lựa chọn cho thế hệ hôm nay mà còn không được làm tổn hại đến những cơ hội lựa chọn của các thế hệ mai sau. Sự bền vững của phát triển được thể hiện cả ở khía cạnh kinh tế, xã hội và môi trường. Đó là quá trình gia tăng phúc lợi cho các thế hệ con người bằng cách gia tăng tài sản, bao gồm tài sản vật chất, tài sản tài chính, tài sản con người, tài sản môi trường (nước sạch, không khí sạch, bãi cá, rừng cây, đất đai...) và tài sản xã hội (sự tin cậy lẫn nhau, khả năng liên kết, sự đảm bảo an ninh cho người và tài sản...).
Năm là, mở cửa, hội nhập để phát triển
Thực tiễn lịch sử cho đến nay chưa từng có ví dụ nào về phát triển bằng con đường biệt lập với phần còn lại của thế giới. Trước đây, những quốc gia đi tiên phong trên con đường CNH thì đi ra thế giới bằng bộ mặt của chủ nghĩa thực dân (xâm chiếm thuộc địa, vơ vét tài nguyên, mở rộng thị trường, cương vực...). Ngày nay, những nước đi sau không thể (và cũng không còn cơ hội) lặp lại con đường lịch sử đầy máu lửa ấy nữa. Nhưng họ có con đường học hỏi kinh nghiệm và du nhập các nguồn lực phát triển (vốn, công nghệ - kỹ thuật, tri thức quản lý nhân lực) để rút ngắn khoảng cách với các nước đi trước với khoảng thời gian ngắn hơn con đường CNH cổ điển trước đây-“lợi thế của người đi sau”.
Sở dĩ những nước đi sau ngày nay có thể có được chút ít “lợi thế” là do những đặc điểm mang tính thời đại mang lại. Đó là xu thế tăng nhanh tiến trình toàn cầu hoá với những biểu hiện mới về chất.
Bất chấp những khó khăn, với tư cách là một xu thế tất yếu khách quan, tiến trình toàn cầu hoá vẫn tiếp tục gia tăng trên khắp mọi phương diện và đang có xu hướng chi phối quá trình vận động chung của kinh tế thế giới ngày nay được sự hỗ trợ của cách mạng khoa học - công nghệ, đặc biệt là sự phát triển vượt bậc trong lĩnh vực điện tử thông tin - cùng với sự thắng thế của cơ chế thị trường mang tính toàn cầu - tạo ra sự thống nhất trong cơ chế xử lý các mối quan hệ kinh tế, trong đó có hai đặc điểm đáng lưu ý:
Một là, sự liên kết chức năng sản xuất đã gắn kết nền kinh tế toàn cầu lại và khiến cho biên giới kinh tế quốc gia ngày càng mờ nhạt. Điều này làm cho các chính sách kinh tế quốc gia ngày càng phải tính tới sự phối hợp với các yếu tố bên ngoài chứ không thể mang sắc thái độc lập (biệt lập) như trước. Chẳng những thế, các doanh nghiệp quốc gia giờ đây thường xuyên phải chịu sức ép cạnh tranh mang tính quốc tế, tức là cuộc cạnh tranh về thể chế đã bắt đầu. Thể chế quốc gia phải thích ứng nhiều hơn với toàn cầu hoá.
Hai là, trong điều kiện toàn cầu hoá tài chính, các quan hệ quốc tế chịu sự chi phối của chính sách tài chính - tiền tệ, mà chính sách này lại chịu sự chi phối của chính trị nên toàn cầu hoá không tách rời khỏi yếu tố chính trị. Trên thực tế, toàn cầu hoá ngày nay diễn ra cả dưới hình thức đấu tranh giữa nước với các thế lực tài chính khác nhau. Chính vì vậy, toàn cầu hoá tác động đến các nước khác nhau một cách không giống nhau. Việc đưa ra phương thức hợp tác trong đấu tranh để sao cho toàn cầu hoá đạt hiệu quả cao nhất với một quốc gia trở thành vấn đề chính sách chủ chốt.
Đặc điểm nổi trội của khía cạnh toàn cầu hoá tài chính đã mở ra cơ hội thu hút vốn đầu tư để đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH ở các nước đang phát triển. Mức độ thu hút FDI của Trung Quốc và thành công trong tăng trưởng kinh tế của họ 20 năm qua là một bằng chứng rất thuyết phục về điều này. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính châu Á hồi cuối thập kỷ của thế kỷ trước và đặc biệt là cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính thế giới hiện nay đang cảnh báo về những rủi ro có thể xảy ra do toàn cầu hoá tài chính mang lại. Vì vậy, một mặt, không vì rủi ro mà đứng ngoài dòng chảy toàn cầu hoá tài chính, vì đó là cơ hội đặc biệt của sự phát triển. Song mặt khác, cần tăng cường các biện pháp phòng ngừa rủi ro với hai nội dung chủ chốt cũng được rút ra từ chính kinh nghiệm khắc phục hậu quả của khủng hoảng kinh tế - tài chính châu Á là minh bạch hoá các hoạt động tài chính và tăng cường hành động tập thể ở khu vực và thế giới trong việc phối hợp chính sách phát triển kinh tế. Điều này ngụ ý rằng, sự an toàn nằm ở chính ngay sự hợp tác. Khi biến nền kinh tế quốc gia thành một phận của kinh tế thế giới thì nếu xảy ra "sự cố", một hành động tập thể chống sự bất ổn trở thành bắt buộc.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá tài chính hiện nay, các chiến lược công nghiệp hoá phải tính tới sự hoạt động của mạng lưới sản xuất đa quốc gia được hỗ trợ bởi mạng lưới thông tin Internet toàn cầu (chuỗi giá trị toàn cầu). Nghĩa là giờ đây phải thông qua việc gia nhập vào các chuỗi giá trị toàn cầu để thực hiện sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia khi tiến hành công nghiệp hoá. Đó chính là cái mới, có sự khác biệt đáng kể với các quá trình công nghiệp hoá trước đây, khi mà sự phân công lao động quốc tế diễn ra chủ yếu qua việc cung cấp sản phẩm chứ chưa hoàn toàn là sự phân công lao động thông qua chuyên môn hoá chức năng (tổ chức) sản xuất theo hệ thống liên kết mạng.
Tóm lại, yếu tố quốc tế của quá trình phát triển không phải đến nay mới được nêu ra như một trong những nguyên tắc cơ bản. Kinh nghiệm lịch sử của bất kỳ một nước CNH muộn nào cũng đều gắn liền với yếu tố quốc tế với tư cách là một nguồn lực phát triển, một cái đích (ít ra là về mặt công nghệ, kỹ thuật) cần hướng tới và là một điều kiện quan trọng của CNH rút ngắn. Quá trình CNH của Việt Nam trong thời kỳ của cơ chế KHH tập trung cũng đã từng nhấn rất mạnh yếu tố trợ giúp từ bên ngoài. Nhưng có lẽ, trong những điều kiện mới của toàn cầu hoá, tính chất khẩn thiết, sống còn của sự hội nhập quốc tế nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng thích nghi với sự biến đổi mau lẹ của tình hình kinh tế quốc tế đặt ra gay gắt hơn bao giờ hết. Cho dù biết trước rằng, những thách thức sẽ không nhỏ và có thể còn gia tăng, nhưng cơ hội cho sự phát triển càng nhiều và vấn đề là mở cửa, hội nhập để cùng phát triển.
Kết luận
Thời kỳ đổi mới với tính chất đặc trưng nhất là sự thay đổi, biến động không ngừng về thể chế trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế KHH tập trung sang nền kinh tế thị trường (định hướng XHCN), chứa chất nguy cơ mất ổn định và tác động tiêu cực tới sự phát triển. Trong khi sự ổn định là tiền đề của phát triển, thì sự ổn định xét trên khía cạnh biện chứng của lịch sử lại chỉ thực sự đóng vai trò là tiền đề của phát triển lại chỉ có được khi nó là sự ổn định trong chính ngay sự phát triển. Điều đó có nghĩa là, nếu duy trì trạng thái ổn định theo kiểu "bất động”, giữ nguyên như cũ, thì sự ổn định đó chính là nguyên nhân dẫn đến mất ổn định, bởi nó mâu thuẫn với tính chất của thời kỳ đổi mới. Nhìn toàn cục, phát triển là nhân tố chủ đạo và sự ổn định cần được hiểu là phát triển ổn định, cho dù trong những thời điểm nhất định, do tình thế bắt buộc, các giải pháp ổn định cấp thời phải được quan tâm thỏa đáng, nhưng tính "thỏa đáng" của các giải pháp cấp thời chính là do biết dựa trên quan điểm phát triển dài hạn mà xử lý những hình huống ngắn hạn. Những phương hướng lớn để xử lý hài hòa quan hệ giữa ổn định và phát triển là phát triển cùng thời đại và theo kịp bước tiến của thời đại, là phát triển phải có hiệu suất, là phát triển phải vì con người và phải mở cửa, hội nhập để phát triển.
Tiếp tục đổi mới công tác nghiên cứu lý luận theo tinh thần Nghị quyết XI của Đảng ThS. Vũ Văn Hòa
Tạp chí Cộng sản
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (2001-2010) và 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ X, thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011); Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020; Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X; đề ra Phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2015. Một nội dung quan trọng được Đại hội XI đề cập là đánh giá công tác nghiên cứu lý luận trong thời kỳ đổi mới. Đại hội khái quát những thành tựu và những hạn chế chủ yếu của công tác nghiên cứu lý luận trong 25 năm đổi mới, đặc biệt là quá trình tổng kết thực tiễn đổi mới chuẩn bị các văn kiện trình Đại hội XI, từ đó xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác nghiên cứu lý luận trong tình hình mới. Quán triệt tinh thần Nghị quyết của Đại hội XI, bài viết sẽ tập trung vào chủ đề tiếp tục đổi mới công tác nghiên cứu lý luận trong tình hình hiện nay.
I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐỔI MỚI CÔNG TÁC NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN
Xuất phát từ quy luật vận động, phát triển của lý luận
Với tư cách là sự phản ánh hiện thực khách quan, lý luận không ngừng vận động, phát triển, không ngừng hoàn thiện, bổ sung. Đây là quy luật nội tại của lý luận với tư cách hình thức khái quát nhất của ý thức xã hội. Cùng với sự vận động, chuyển biến không ngừng của thực tiễn phát triển đất nước, đổi mới công tác lý luận nói chung, nghiên cứu lý luận nói riêng tất yếu phải được tiến hành thường xuyên, liên tục. Chỉ có vậy, lý luận mới đảm đương được chức năng định hướng, dẫn đường cho hoạt động thực tiễn: Đổi mới, nâng cao chất lượng nghiên cứu lý luận trở thành nhu cầu bên trong đối với sự tồn tại của bản thân lý luận.
Trong quá trình vận động, phát triển, lý luận luôn có sự kế thừa, lọc bỏ kết quả, thành tựu của thời kỳ trước. Lý luận có thể bị lạc hậu hoặc vượt trước so với sự vận động phát triển của thực tiễn. Vì lạc hậu nên lẽ hiển nhiên là lý luận phải được bổ sung, điều chỉnh. Vì vượt trước, mà trong sự vượt trước ấy lý luận bao hàm cả những dự báo chính xác, đúng với thực tiễn, cả những dự báo sai, không chuẩn xác so với thực tiễn. Do vậy, lý luận luôn phải nhìn lại bản thân, phải soi mình vào thực tiễn để tự điều chỉnh, tự bổ sung, tự hoàn thiện.
Như vậy, xét từ những quy luật vận động, phát triển của bản thân lý luận, sự đổi mới, bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý luận là một tất yếu khách quan, là một nhiệm vụ thường xuyên, không thể xem nhẹ. Điều đó có nghĩa, đổi mới, nâng cao chất lượng nghiên cứu lý luận phải trở thành một công việc thường trực, liên tục của giới lý luận.
Xuất phát từ sự vận động, biến đổi của thực tiễn
Giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng. Trong quan hệ ấy, thực tiễn đóng vai trò cơ sở, mục đích, động lực của lý luận, tiêu chí để kiểm nghiệm tính chân lý, tính đúng đắn của lý luận.
Song, lý luận không phản ánh thực tiễn một cách thụ động, mà đóng vai trò kim chỉ nam, định hướng, vạch đường đi cho thực tiễn, xác định phương pháp hành động hiệu quả nhất để đạt mục đích của thực tiễn. Đồng thời, cần ý thức rõ rằng ''Lý luận rất cần thiết, nhưng nếu cách học tập lý luận không đúng thì sẽ không có kết quả. Do đó, trong lúc học tập lý luận, chúng ta cần nhấn mạnh: lý luận phải liên hệ với thực tiễn. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông. Vì vậy cho nên trong khi nhấn mạnh sự quan trọng của lý luận, đã nhiều lần đồng chí Lênin nhắc đi nhắc lại rằng, lý luận cách mạng không phải là giáo điều, nó là kim chỉ nam cho hành động cách mạng; và lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính sáng tạo; lý luận luôn luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra trong thực tiễn sinh động. Những người cộng sản các nước phải cụ thể hoá chủ nghĩa Mác - Lênin cho thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh từng lúc và từng nơi''1.
Những thập niên vừa qua tình hình thế giới và khu vực thay đổi nhanh chóng, vô cùng phức tạp. Xu thế vận động khách quan này của thế giới sẽ tiếp tục duy trì trong những năm sắp tới. Về vấn đề này, Đại hội XI của Đảng nhận định, ''bối cảnh thế giới đang thay đổi rất nhanh, phức tạp, khó lường. Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng xung đột sắc tộc, tôn giáo, chiến tranh cục bộ, can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn diễn ra gay gắt, các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao tiếp tục gia tăng. Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh... sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp. Toàn cầu hoá và cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức. Kinh tế thế giới mặc dù có dấu hiệu phục hồi sau khủng hoảng nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, bất ổn; quá trình cấu trúc lại nền kinh tế và điều chỉnh các thể chế tài chính diễn ra mạnh mẽ ở các nước. Cạnh tranh kinh tế thương mại, giành giật các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường, công nghệ, nguồn vốn, nguồn nhân lực chất lượng cao... giữa các nước ngày càng gay gắt. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước trên thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội tiếp tục phát triển. Cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc vẫn diễn biến phức tạp. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương trong đó có khu vực Đông Nam Á, là khu vực phát triển năng động nhưng vẫn tồn tại nhiều nhân tố gây mất ổn định; tranh chấp lãnh thổ, biển đảo ngày càng gay gắt...''. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) cũng xác định: ''Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc”2. Những chuyển biến nhanh chóng đó của thế giới và khu vực đặt ra nhiều vấn đề, đòi hỏi giới nghiên cứu lý luận phải luận giải, phải đưa ra câu trả lời thuyết phục. Và như vậy, nếu không đổi mới, không nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu, thì lý luận sẽ trở nên lạc hậu, sẽ bị cuộc sống đào thải.
Sự phát triển nhanh chóng của thực tiễn đổi mới đất nước cũng đặt ra hàng loạt vấn đề mới đòi hỏi lý luận phải đưa ra câu trả lời làm định hướng, kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn. Trong đó, nổi lên những vấn đề như: “...làm sáng tỏ một số vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội nước ta''3.
Rõ ràng là những biến chuyển nhanh chóng, phức tạp của thực tiễn trong nước và thế giới đều đặt ra những vấn đề, câu hỏi mới, cấp bách đòi hỏi lý luận phải giải quyết, phải trả lời. Để hoàn thành sứ mệnh cao cả ấy, không còn cách nào khác, là phải đổi mới và không ngừng nâng cao chất lượng công tác lý luận nói chung, nghiên cứu lý luận nói riêng.
Xuất phát từ đánh giá của Đảng về công tác nghiên cứu lý luận thời kỳ đổi mới
Thành tựu nghiên cứu lý luận thời kỳ đổi mới
Sau 25 năm tiến hành đổi mới, đất nước ta đã đạt được ''những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử''. Công tác nghiên cứu lý luận cũng đạt nhiều thành tựu to lớn, góp phần làm nên những thành công chung của đổi mới, Nghị quyết Hội nghị Trung ương năm khóa IX của Đảng đánh giá, từ khi tiến hành đổi mới “... trình độ lý luận của Đảng ta đã có bước phát triển rõ rệt. Đảng đã không ngừng đổi mới phương pháp tư duy lý luận, kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, khắc phục bệnh giáo điều chủ quan, duy ý chí, mở ra bước chuyển biến quan trọng trong tư duy lý luận từng bước xây dựng và hoàn chỉnh đường lối đối mới toàn diện, làm cho nước ta có bước phát triển ngày càng mạnh mẽ; giải đáp có căn cứ khoa học một vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn; nhận thức đầy đủ hơn nội dung, giá trị và tầm vóc của tư tưởng Hồ Chí Minh, khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng''4.
Tiếp tục tinh thần đó, Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng đánh giá khái quát về thành tựu nghiên cứu lý luận như sau: ''Nhiều vấn đề mới nảy sinh từng bước được Đảng ta nhận thức và giải quyết có hiệu quả; nhiều vấn đề liên quan đến Cương lĩnh (năm 1991) đã có nhận thức mới sâu sắc hơn; quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội nước ta ngày càng rõ hơn''5.
Những đánh giá trên đây của Đảng cho thấy, từ khi tiến hành đổi mới công tác nghiên cứu lý luận ở nước ta đã có chuyển biến tích cực. Những chuyển biến đó thể hiện trên một số phương diện chủ yếu sau:
Thứ nhất, Đảng ta ngày càng nhận thức rõ hơn tầm quan trọng đặc biệt, vai trò dẫn đường, định hướng của lý luận đối với sự nghiệp đổi mới bởi lẽ, như V.I Lênin đã dạy ''Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng''6. Như vậy, vị trí của công tác tư tưởng, lý luận trong đời sống xã hội nước ta ngày càng được coi trọng lý luận nói chung, nghiên cứu lý luận nói riêng được nhìn nhận như yếu tố hợp thành động lực và nội dung của đổi mới. Khách quan mà nói, chính thực tiễn đổi mới là nhân tố xác lập, quyết định vị trí và vai trò của lý luận. Tầm vóc lịch sử và ý nghĩa chiến lược của đổi mới cũng như quy mô của những nhiệm vụ lịch sử mà đổi mới phải giải quyết đã khách quan hoá tầm quan trọng của lý luận trong đời sống xã hội, đã nâng cao đáng kể những ảnh hưởng của nó đối với mọi lĩnh vực đời sống xã hội, trước hết là đối với hoạt động chính trị, công tác lãnh đạo, quản lý, giáo dục tư tưởng chính trị cho cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân.
Thứ hai, hai mươi lăm năm vừa qua, dưới ánh sáng của tư duy đổi mới, được cổ vũ và khích lệ bởi các quyết định, nghị quyết của Đảng, được thúc đẩy bởi bầu không khí cởi mở về tư tưởng, giới nghiên cứu lý luận nước ta đã chủ động, mạnh dạn thâm nhập thực tiễn, đã thể hiện sự nhiệt thành và tâm huyết với sự nghiệp đổi mới. Thông qua các công trình nghiên cứu và những cống hiến thực tế, đội ngũ nghiên cứu lý luận đã góp phần tích cực để đưa tư tưởng và đường lối đổi mới của Đảng vào cuộc sống. Nhiều công trình nghiên cứu đã góp phần quan trọng làm sáng tỏ phương diện lý luận và thực tiễn của đổi mới. Đó là kết quả của phương châm giải phóng tinh thần, thực hiện tự do tư tưởng do Đảng khởi xướng, cổ vũ và nó đã có tác động to lớn đối với việc phát huy mọi tiềm năng sáng tạo, huy động được sức mạnh tư duy và trí tuệ vào việc tìm tòi, phát hiện những tính quy luật của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong những thành tựu của đổi mới có phần đóng góp đáng kể của công tác nghiên cứu lý luận. Những thành tựu đó thổi luồng gió mới vào đời sống lý luận, làm sâu sắc thêm mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn trong thời kỳ đổi mới.
Thứ ba, không khí dân chủ trong hoạt động lý luận đã được phát huy một cách đáng kể. Điều đó tạo thêm động lực, nguồn cảm hứng mới cho đội ngũ những người nghiên cứu lý luận. Sự giải phóng tinh thần và tự do tư tưởng, tuy mới là bước đầu, nhưng có ý nghĩa sâu xa về nhiều mặt đối với công tác lý luận. Xã hội dần quen với không khí đối thoại, tranh luận, phát triển các nhu cầu về thông tin, chấp nhận sự đa dạng, khác biệt trong ý kiến và đánh giá xã hội, từng bước khắc phục tính đơn điệu, cứng nhắc, hình thức và sáo mòn trong các cuộc hội thảo và sinh hoạt khoa học. Tại các diễn đàn và trong các ấn phẩm đã xuất hiện không ít ý kiến, luận điểm mang tính tìm tòi, khám phá, những phương pháp tiếp cận mới.
Trên nền chung của đổi mới xã hội và sự bùng nổ thông tin đa chiều, cùng với sự nâng cao trình độ dân trí của xã hội, tư duy lý luận và công tác nghiên cứu lý luận đã dần vượt ra khỏi tình trạng chính trị hoá trong nội dung và giáo huấn đạo đức trong hình thức thể hiện. Nghiên cứu và giảng dạy lý luận từng bước vượt qua trình độ mô tả, bình giảng, nâng lên tầm phân tích, luận chứng, tổng kết, đề xuất các luận điểm và được khảo sát, minh chứng trong thực tiễn, đề xuất các kiến giải, đưa ra những dự báo.
Thứ tư, một đóng góp rất có ý nghĩa của công tác nghiên cứu lý luận ở nước ta trong thời kỳ đổi mới là đã thu hút sự tham gia ngày càng đông đảo giới nghiên cứu lý luận vào quá trình chuẩn bị, xây dựng Cương lĩnh, đường lối của Đảng, quá trình soạn thảo các văn kiện chính trị cho các Đại hội, các Hội nghị Trung ương của Đảng. Tiến trình soạn thảo cũng như thảo luận, đóng góp ý kiến để hoàn thiện các văn kiện đã thu hút được nhiều tinh hoa trí tuệ của cán bộ, đảng viên và nhân dân cả nước, trong đó giới nghiên cứu lý luận đóng vai trò lực lượng nòng cốt. Thông qua đó, Đảng đã chắt lọc, tiếp thu để hình thành nên hệ quan điểm và phương pháp đổi mới. Với quá trình đổi mới toàn diện, công tác nghiên cứu lý luận qua thể nghiệm thực tiễn đã tìm thấy phương thức thích hợp để nâng cao năng lực lãnh đạo và tăng cường khả năng tư duy, tiềm năng trí tuệ của Đảng, nâng cao trình độ nhận thức, niềm tin khoa học, ý thức chính trị của giới nghiên cứu lý luận, nghiên cứu khoa học nói riêng và của cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân nói chung.
Phải thừa nhận rằng, từ trong thực tiễn đổi mới đang dần hình thành một lực lượng cán bộ nghiên cứu lý luận trẻ được đào tạo bài bản, được rèn luyện và trưởng thành trong thời kỳ đổi mới, trong môi trường chính trị, xã hội với không khí dân chủ và tinh thần sáng tạo. Đó là nguồn lực tinh thần vô cùng quý giá của Đảng và xã hội, nó tạo đà cho những chặng đường phát triển tiếp theo của đổi mới.
Hạn chế trong công tác nghiên cứu lý luận
Bên cạnh những thành tựu chủ yếu trên đây, hoạt động nghiên cứu lý luận vẫn còn không ít hạn chế, bất cập so với yêu cầu của đổi mới, cần được khắc phục. Những hạn chế, bất cập của công tác lý luận cho thấy, khoảng cách của nhiều vấn đề lý luận với cuộc sống hiện thực không những chưa được thu hẹp mà có xu hướng mở rộng thêm. Hiện đang tồn tại hai thực tế trái ngược nhau: một mặt, lý luận vẫn bị lạc hậu, vẫn đi sau cuộc sống, hàng loạt câu hỏi cơ bản và cấp bách do thực tiễn đổi mới đặt ra đòi hỏi lý luận trả lời.
Nhưng hoặc là lý luận chưa trả lời được, hoặc là trả lời nhưng chưa thuyết phục, chưa luận giải thấu đáo. Mặt khác, do thiếu sự dẫn dắt, chỉ đường, định hướng của lý luận đúng đắn, nên nhiều quá trình xã hội diễn ra một cách tự phát. Hậu quả là trong chỉ đạo thực tiễn chúng ta bị lúng túng, thụ động đối phó, không có đối sách rõ ràng, kịp thời và hiệu quả.
Nghiên cứu lý luận và đội ngũ nghiên cứu lý luận chưa ngang tầm nhiệm vụ, còn xa mới đáp ứng được yêu cầu của đổi mới. Những kết quả đạt được trong nghiên cứu và giảng dạy lý luận chưa đủ sức cung cấp cơ sở khoa học và thực tiễn để Đảng tham khảo trong quá trình hoạch định và thông qua chiến lược phát triển đất nước từng giai đoạn.
Các cơ quan và tổ chức làm công tác quản lý nghiên cứu và giảng dạy lý luận chưa được kiện toàn, chậm đổi mới, thiếu liên kết, phối hợp, nên vẫn kéo dài tình trạng hoạt động phân tán, biệt lập.
Tầm tư duy, tính khoa học của những sản phẩm nghiên cứu các vấn đề lý luận do thực tiễn đặt ra chưa đủ sức thuyết phục đối với yêu cầu của xã hội. Vẫn còn tình trạng một số công trình nghiên cứu lý luận mang nặng tính chất giáo điều, kinh viện, chủ yếu thuyết minh, giảng giải những nguyên lý có sẵn một cách giản đơn, theo công thức lôgic hình thức. Điều đó cho thấy sự tách biệt giữa lý luận và thực tiễn, lý luận chưa xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn.
Lý luận thiếu sự sắc sảo và nhạy bén dễ dự báo, phát hiện những mâu thuẫn và tình huống có vấn đề trong quá trình đổi mới, từ đó dùng thực tiễn kiểm nghiệm lý luận, nhận thức lại những vấn đề lý luận trước đây đã được khẳng định, nhưng nay đã bị cuộc sống vượt qua.
Sự thiếu hụt về năng lực sáng tạo cũng như trình độ nhận thức và vận dụng tư duy lý luận ở một số người làm công tác lý luận đã dẫn tới tình trạng giản đơn, một chiều, nặng về mô tả các hiện tượng sự kiện, hoặc suy luận chủ quan mà không nâng lên tầm phân tích, tổng kết thực tiễn và khái quát lý luận. Đây là một trong những hạn chế không nhỏ của công tác nghiên cứu lý luận ở nước ta, và cũng là bằng chứng rõ rệt của thực trạng bất cập, lạc hậu về lý luận trước yêu cầu bức xúc của sự nghiệp đổi mới. Sự bất cập, chậm trễ này được biểu hiện rõ nét trước hết ở nội dung nghiên cứu: hàm lượng khoa học trong các công trình và ấn phẩm đã được xã hội hoá chưa cao. Tính chất giáo huấn nặng nề thay cho luận chứng khoa học, thiếu sự trình bày nêu vấn đề, kích thích tư duy độc lập, sự bồi dưỡng tư duy khoa học, sức lôi cuốn và sự hấp dẫn hướng tới những tìm tòi, những quan điểm khoa học, sáng tạo.
Những kết luận, kiến nghị của các công trình nghiên cứu chưa đi sâu vào các giải pháp cụ thể có tính khả thi, tính thuyết phục chưa cao nên ít được ứng dụng ngay vào thực tiễn. Nhiều vấn đề bức xúc do thực tiễn đổi mới đặt ra chưa được giải quyết một cách thoả đáng. Bên cạnh đó, phương pháp nghiên cứu, hình thức diễn đạt, lối tư duy còn giản đơn, một chiều, phương pháp tiếp cận vẫn cũ kỹ, sáo mòn, đơn điệu, thiếu hấp dẫn và kém sức thuyết phục.
Thêm vào đó, xét trên phương diện quản lý, số lượng đề tài các cấp, số đề tài nhánh thuộc các chương trình, đề tài nghiên cứu cấp nhà nước quá nhiều, đến vậy dẫn đến tình trạng trùng lặp về nội dung và chủ đề, gây lãng phí nguồn lực đầu tư, chất lượng và giá trị khoa học trong kết quả các đề tài bị hạn chế.
Khiếm khuyết trên đây do nhiều nguyên nhân. Trong đó phải kể đến sự thiếu hụt về vốn học vấn, trình độ lý luận, phương pháp luận, sự hiểu biết hạn chế về văn hoá nói chung của một bộ phận cán bộ nghiên cứu lý luận. Mặt khác, cũng do thiếu kinh nghiệm và vốn sống, đặc biệt ở lớp cán bộ nghiên cứu trẻ. Thêm vào đó, còn có tâm lý thụ động, ngại né tránh các vấn đề lý luận và thực tiễn gai góc, hoặc cảm nhận thấy vấn đề nhưng không đủ năng lực, bản lĩnh theo đuổi vấn đề đến cùng và giải quyết triệt để.
Sự phát huy không đầy đủ tinh thần dân chủ trong đời sống lý luận, những biểu hiện lệch lạc trong thái độ và quan hệ giữa lãnh đạo, quản lý với đội ngũ nghiên cứu lý luận cũng góp phần làm trầm trọng thêm các hạn chế nêu trên, thậm chí còn gây nên những cản trở, kìm hãm đối với phát triển tinh thần sáng tạo, tự do tư tưởng và giải phóng tinh thần trong nghiên cứu lý luận.
II. MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG CHỦ YẾU ĐỂ TIẾP TỤC ĐỔI MỚI CÔNG TÁC NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN
Đổi mới công tác nghiên cứu lý luận trong thời gian tới cần triển khai theo một số định hướng chủ yếu sau:
1. Bám sát thực tiễn đổi mới, đi vào thực tiễn để phát hiện yêu cầu của thực tiễn, tìm xem thực tiễn đặt ra vấn đề gì mới đòi hỏi lý luận phải giải quyết
Để làm được việc này, phải thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung phát triển lý luận. Nghiên cứu lý luận phải luôn nhằm mục đích cao nhất là phục vụ đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của thực tiễn. Phải không ngừng nâng cao trình độ tư duy, năng lực chuyên môn của đội ngũ làm công tác lý luận. Nhiệm vụ hàng đầu của công tác lý luận trong những năm tới là tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, làm rõ cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn đường lối, chính sách có Đảng trong thời kỳ mới.
Khắc phục tình trạng thiếu hợp tác giữa giới nghiên cứu lý luận và giờ chỉ đạt thực tiễn. Hiện có một thực trạng không bình thường trong quan hệ giữa giới nghiên cứu lý luận và giới chỉ đạo thực tiễn ở nước ta. Đó là giới nghiên cứu lý luận dường như né tránh các vấn đề gai góc của thực tiễn. Hoặc giới lý luận chưa nhìn ra, chưa nắm bắt được nhu cầu của các nhà chỉ đạo thực tiễn. Hoặc giới lý luận vẫn đi theo ''lối mòn'', tìm mọi cách chứng minh cho sự phù hợp, cho giá trị của các lý luận, các nguyên lý cũ. Nhưng các nhà chỉ đạo thực tiễn thấy rằng sự luận giải, minh chứng của giới lý luận thiếu sức thuyết phục, chưa thoả mãn, chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác chỉ đạo thực tiễn. Có thể các nhà lý luận quá xa rời thực tiễn nên không tìm được luận cứ hoặc đưa ra những luận cứ quá cũ, quá lạc hậu đề chứng minh cho các luận điểm của mình. Điều đó làm cho các nhà chỉ đạo thực tiễn không những không thấy hết giá trị của lý luận, thậm chí ''dị ứng'' với lý luận. Họ coi lý luận không chỉ như thứ đồ trang sức thừa, mà còn như yếu tố cản đường đối với chỉ đạo thực tiễn.
Về phần mình, do bị các nhà chỉ đạo thực tiễn xa rời, coi thường, không nghe theo những khuyến cáo, đề xuất, kiến nghị, nên các nhà lý luận có ý nghĩ là giới chỉ đạo thực tiễn xem thường vai trò, tác dụng của lý luận, bỏ qua lý luận, nhắm mắt hành động theo kinh nghiệm, thói quen kiểu ''thử nghiệm – sai lầm – thử nghiệm”.
Tình trạng này làm cho giới nghiên cứu lý luận và giới chỉ đạo thực tiễn quay lưng lại với nhau, không tin tưởng, khó hợp tác với nhau, việc ai nấy làm. Lý luận sa vào kinh viện hoặc đi nghiên cứu những chủ đề quá xa, quá cách biệt với đời sống. Trong khi đó, giới chỉ đạo thực tiễn lại bị lúng túng, mất phương hướng, không biết lấy gì làm chuẩn, làm định hướng cho hành động của mình. Cần nhanh chóng khắc phục thực trạng bất bình thường này. Trách nhiệm của giới nghiên cứu lý luận trong quá trình khắc phục tình trạng này là phải chủ động đến với những người chỉ đạo thực tiễn, phải thâm nhập, hoà mình vào cuộc sống. Xây dựng hệ đề tài nghiên cứu, phải đưa vào nhu cầu của thực tiễn, phải phối hợp, tham khảo ý kiến của những người chỉ đạo thực tiễn. Chỉ như vậy mới phát hiện được nhu cầu thực sự, mới thấy được vướng mắc của giới chỉ đạo thực tiễn. Trên cơ sở các dữ kiện thu được từ thực tiễn, với tiềm năng lý luận, bằng tư duy của mình, giới nghiên cứu tổng kết khái quát thành những quy luật, dự báo xu hướng vận động, phát triển của thực tiễn, đề xuất những kiến giải cho giới chỉ đạo thực tiễn.
2. Rà soát lại kết quả nghiên cứu lý luận từ trước đến nay
Tiến hành hệ thống hóa những đề tài đã triển khai, những kết quả nghiên cứu lý luận đã đạt được. Từ đó xác định những vấn đề nào đã có câu trả lời xác đáng, những vấn đề nào cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu để tìm lời giải, mặc dù đã có lời giải nhưng lời giải đó chưa thoả đáng, hoặc lời giải đó có lúc đã từng phù hợp, nhưng nay có thể không còn phù hợp nữa vì thực tiễn đã chuyển biến, đã vượt qua rồi.
3. Củng cố, bồi dưỡng đội ngũ làm công tác lý luận. Bố trí, sắp xếp lại hệ thống các cơ quan nghiên cứu lý luận. Xây dựng ban hành quy chế dân chủ trong nghiên cứu lý luận.
Một hướng cơ bản để tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng nghiên cứu lý luận là quan tâm xây dựng đội ngũ, tổ chức, sắp xếp lại các cơ quan nghiên cứu lý luận trên cơ sở xác định rõ chức năng, nhiệm vụ. Tăng số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ nghiên cứu lý luận, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt. Tiến hành đồng bộ công tác tư tưởng, công tác lý luận, gắn với công tác tổ chức cán bộ, chống sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống.
Chú trọng nâng cao tính khoa học, tính thực tiễn và sự mạnh dạn khám phá, sáng tạo trong công tác nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lý luận. Sớm xây dựng và ban hành quy chế dân chủ trong nghiên cứu lý luận. Một mặt quy chế này phải tạo môi trường, không khí cởi mở để nhà nghiên cứu tự do sáng tạo, tự do nghiên cứu, mạnh dạn trình bày, phát biểu quan điểm, ý kiến của mình. Tạo điều kiện cần thiết để nhà nghiên cứu thâm nhập thực tế, có thể nhanh chóng tiếp cận dễ dàng các nguồn thông tin, tư liệu phục vụ cho nghiên cứu. Quy chế phải làm thế nào để cơ quan quản lý, những người có trách nhiệm lắng nghe cả những ý kiến trái chiều, thậm chí chưa chín muồi. Tức là quy chế đó phải khuyến khích, cổ vũ người nghiên cứu tích cực tìm tòi, phát hiện cái mới, dám nói về cái mới. Mặt khác, quy chế dân chủ trong nghiên cứu lý luận cũng cần xác định rõ trách nhiệm xã hội của nhà nghiên cứu, trách nhiệm trước Đảng (nếu nhà nghiên cứu là đảng viên), trước nhân dân, trước sự nghiệp chung của dân tộc. Trong lãnh đạo, quản lý lĩnh vực nghiên cứu lý luận phải chú ý đến những nét đặc thù chủ yếu sau: Thứ nhất, công tác nghiên cứu lý luận ở Việt Nam là một bộ phận hữu cơ, là yêu cầu sống còn của Đảng, là yếu tố tạo cơ sở để Đảng nâng cao tầm tư duy lý luận. Công tác ấy phải được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng không chỉ đặt hàng mà còn trực tiếp chỉ đạo và sử dụng kết quả nghiên cứu. Mục đích của nghiên cứu lý luận trong giai đoạn hiện nay là phục vụ cho công cuộc đổi mới, cho lợi ích của Đảng, của nhân dân và của dân tộc. Chức năng chủ yếu của nghiên cứu lý luận là thông qua khám phá các quy luật, tính quy luật vận động của xã hội mà luận chứng cơ sở khoa học, phản biện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, chứ không chỉ thuyết minh, bình giảng về đường lối, chính sách. Thứ hai, mỗi bước phát triển của lý luận được đánh dấu bằng sự hình thành những luận điểm mới và được cuộc sống thẩm định. Trong nghiên cứu khoa học nói chung, nghiên cứu lý luận nói riêng, ý tưởng, luận điểm mới thường là sản phẩm sáng tạo của cá nhân, và không dễ gì được đa số chấp nhận ngay. Do vậy, ở đây không thể áp dụng nguyên tắc “chân lý thuộc về đa số”, mà phải biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến, đề xuất của cá nhân nhà nghiên cứu. Thực tiễn sẽ xác nhận hoặc bác bỏ ý kiến, đề xuất đó.
4. Nghiên cứu, học tập kinh nghiệm của các nước
Tìm hiểu xem các nước khác đối mặt với những vấn đề tương tự, họ giải quyết chúng ra sao. Việt Nam chúng ta có thể học hỏi được kinh nghiệm gì của nước ngoài trong giải quyết các vấn đề đó. Giải pháp này giúp tiết kiệm thời gian, công sức, trí tuệ, chất xám trong nghiên cứu lý luận. Ở đây, mà điều cần lưu ý là khi nghiên cứu, tham khảo kết quả nghiên cứu của nước ngoài cần tính đến hoàn cảnh cụ thể, đặc thù của chúng ta, tránh sao chép, áp dụng kinh nghiệm của nước khác một cách máy móc.
Tóm lại, trong 25 năm đổi mới vừa qua công tác nghiên cứu lý luận ở nước ta đã đạt những thành tựu quan trọng. Những kết quả nghiên cứu lý luận đã củng cố nền tảng tư tưởng, cơ sở khoa học cho quá trình hoạch định đường lối, chiến lược của Đảng, chính sách của Nhà nước. Đội ngũ cán bộ nghiên cứu lý luận trưởng thành cả về lượng lẫn về chất, bước đầu chủ động, tích cực nghiên cứu lý luận trưởng thành cả về lượng lẫn về chất, bước đầu chủ động tích cực đối với sự nghiệp đổi mới đất nước. Bên cạnh đó, công tác nghiên cứu lý luận còn không ít hạn chế, bất cập. Hạn chế bao trùm nhất là công tác nghiên cứu lý luận còn yếu, chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới.
Để phát huy những thành tựu đã đạt được, khắc phục những hạn chế, yếu kém, trong thời gian tới cần tiếp tục đổi mới, không ngừng nâng cao chất lượng nghiên cứu lý luận theo hướng: đổi mới mạnh mẽ tư duy, tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận phải xuất phát từ yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn, lấy thực tiễn đổi mới làm cơ sở, mục tiêu; Tăng cường dân chủ, tự do sáng tạo, khuyến khích các nhà lý luận mạnh dạn đi vào nghiên cứu các vấn đề mới, áp dụng các phương pháp nghiên cứu hiện đại. Xây dựng và ban hành quy chế dân chủ trong nghiên cứu lý luận; Kiện toàn tổ chức hệ thống các cơ quan nghiên cứu lý luận, nâng cao phẩm chất và năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ nghiên cứu lý luận./.
__________
Nâng cao nhận thức – cơ sở cho việc hình thành niềm tin vững chắc vào con đường do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn TS. Đỗ Thị Ngọc Lan
Học viện Hành chính, cơ sở TP HCM
''Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” được Đại hội Đảng lần thứ XI bổ sung, phát triển một lần nữa khẳng định: ''đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”1. Xây dựng niềm tin vững chắc vào con đường này là nhiệm vụ quan trọng của công tác tuyên truyền của Đảng, cũng như của cả hệ thống giáo dục Việt Nam.
Vấn đề đặt ra là tại sao chúng ta tin và đi theo sự lựa chọn đó, khi mà mô hình về nó chưa rõ ràng và trên thực tế hệ thống xã hội chủ nghĩa (XHCN) đã không còn, trong khi chủ nghĩa tư bản (CNTB) vẫn đang phát triển và lại có những thành tựu không nhỏ? Để trả lời thuyết phục và có cơ sở khoa học nhằm xây dựng niềm tin này trước hết và nhất thiết phải dựa vào những tri thức khoa học để vạch ra bản chất và quy luật của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH).
Chúng ta đều biết, niềm tin là sự hòa quyện một cách hữu cơ giữa ba yếu tố tri thức, tình cảm và ý chí. Mỗi yếu tố có một chức năng và vai trò nhất định trong cấu trúc niềm tin, trong đó, tri thức là yếu tố quan trọng nhất. Bởi vì, trước hết để tin vào điều gì đó thì chủ thể phải có nhận thức về nó. Do vậy, tri thức của mỗi người sẽ là những viên gạch đầu tiên xây dựng nên lâu đài niềm tin. Sự nhận thức càng sâu sắc thì càng có cơ sở để xây dựng niềm tin vững chắc. Tri thức là kết quả của nhận thức. Nhận thức là một quá trình; là hoạt động phản ánh hiện thực khách quan, phản ánh thực tiễn. Nếu căn cứ vào tính chất thì sự phản ánh này bao gồm hai giai đoạn lớn: nhận thức cảm tính (cảm giác, tri giác) và nhận thức lý tính (tư duy, tưởng tượng). Toàn bộ những tri thức mà chủ thể tiếp thu được ở giai đoạn nhận thức cảm tính cũng được sử dụng để xây dựng niềm tin. Nhưng nếu niềm tin chỉ xây dựng trên cơ sở nhận thức cảm tính thì thiếu vững chắc, dễ thay đổi. Bởi vì, đây là giai đoạn đầu trong toàn bộ hoạt động nhận thức của con người. Do vậy, dù rằng nhận thức cảm tính đã cho chúng ta hiểu biết tương đối trọn vẹn về đối tượng, nhưng những tri thức cảm tính chỉ phản ánh được những thuộc tính bên ngoài, cụ thể của các sự vật, hiện tượng đang tác động trực tiếp vào các giác quan của con người. Hạn chế lớn nhất của những tri thức cảm tính là chưa cho chủ thể hiểu biết sâu sắc được cái bên trong, cái bản chất, cái quy luật của các sự vật, hiện tượng.
Trong thực tế, nếu chỉ nhìn bên ngoài, chúng ta thấy CNTB đang phát triển rất mạnh, đang thắng thế trên toàn toàn cầu. Trong khi đó, CNXH với tư cách là hệ thống đã tan rã, mô hình thì vẫn đang tìm kiếm. Hiện thực này thật sự đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới niềm tin và gây ra sự hoài nghi của không ít người về con đường đi lên của cách mạng Việt Nam. Nhưng bình tâm lại, với những tri thức của giai đoạn nhận thức lý tính, chúng ta sẽ có cơ sở khoa học để củng cố niềm tin vào con đường mà Bác Hồ và Đảng ta đã lựa chọn.
Đặc điểm quan trọng của nhận thức lý tính là phản ánh được cái bên trong, cái bản chất, các mối liên hệ có tính qui luật của một lớp các sự vật, hiện tượng. Quy luật phủ định của phủ định đã chỉ ra sự phủ định của các phương thức xã hội mà loài người đã trải qua và sẽ đi tới cao hơn. Khuynh hướng vận động ấy không theo đường thẳng mà quanh co, xoáy trôn ốc đi lên. Thậm chí, có những khúc thụt lùi trong khuynh hướng phát triển - đấy là những lúc cách mạng gặp khó khăn. Với trình độ nhận thức lý tính, chúng ta còn biết được nguồn gốc của sự vận động của xã hội tư bản. Đó là những mâu thuẫn vốn có đang tồn tại và vận động ngay trong bản thân xã hội đó; và tất yếu sẽ có ngày - một xã hội mới cao hơn thay thế nó. Tri thức lý tính cho ta niềm tin như vậy. CNTB đang trong giai đoạn phát triển, nhưng không phải sẽ tồn tại mãi mãi, nhất định sẽ có ngày bị diệt vong. Vì rằng, bất cứ sự vật nào cũng có quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong. Đó là quy luật. Hơn nữa, đó cũng chưa phải là xã hội tốt nhất trong toàn bộ nấc thang phát triển của loài người.
Ở Việt Nam, sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, đất nước ta đứng ở ngã ba đường. Mục tiêu của Bác Hồ và những người cộng sản, những người yêu tự do không phải là lại lên ngôi vua, nghĩa là không thể quay lại chế độ phong kiến; càng không phải để trở thành giai cấp tư sản để rồi lại phản bội những người dân đã đi theo mình làm cách mạng, thống trị, bóc lột họ đến “vô sản'' như giai cấp tư sản đã làm trong lịch sử, nghĩa là không thể xây dựng chế độ tư bản. Do vậy, đi lên CNXH là sự lựa chọn tất yếu, phù hợp quy luật tiến hoá của lịch sử loài người. Nhận thức lý tính cho ta tri thức như vậy. Và đó không phải là ngẫu nhiên mà là ''sự lựa chọn có chủ đích'' của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh. ''Người có tầm nhìn cao rộng và sâu xa, xuyên qua lịch sử, bao quát không gian, thấy sáng tương lai, mở ra những bước ngoặt vĩ đại, đưa dân tộc Việt Nam từ cảnh nô lệ lầm than ra ánh sáng độc lập tự do, từ một đất nước ít ai biết đến trở thành người chiến sĩ tiêu biểu cho cả loài người tiến bộ yêu mến và khâm phục. Đó là tầm nhìn mang ý nghĩ chiến lược, nhìn thấy con đường cứu nước là con đường cách mạng vô sản, độc lập dân tộc, gặp gỡ và hòa nhập với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước gắn với chủ nghĩa quốc tế vô sản, cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa quyện vào nhau trong một không gian và thời gian, ở một nước và trên toàn thế giới”2.
Chúng ta đau khổ vì không lên CNTB, chúng ta cũng quằn quại không kém vì không qua nó. Nhưng chúng ta chọn con đường đi lên CNXH vì tính dân chủ nhân dân trong chế độ đó như Bác Hồ vẫn từng khẳng định: ''Chế độ ta là chế độ dân chủ. Tức là nhân dân làm chủ''. Tổng thống Mỹ Abraham Lincohn, trong thông điệp nổi tiếng Getyburg nói rằng nền dân trị (dân chủ) là ''chính quyền của dân, do dân và vì dân”. Tuy nhiên, trên thực tế thì phụ nữ Mỹ những năm 20 của thế kỷ XX chưa được đi bầu cử; đến giữa thập niên 60 tại miền Nam nước Mỹ người da đen vẫn không có quyền bầu cử. Thậm chí, cho đến thế kỷ này, ngay trước khi nước Mỹ bỏ phiếu lựa chọn tổng thống mới, thì vẫn tồn tại sự nghi ngại của cử tri đối với ông Obama, người đã là vị tổng thống đa đen đầu tiên của Mỹ. Sự nghi ngại có căn nguyên từ lịch sử của đất nước, nơi hàng triệu người châu Phi đã từng bị bắt làm nô lệ và hiện chiếm khoảng 13% dân số nhưng vẫn phải chịu các thiệt thòi về kinh tế và xã hội. Giáo sư Mark King, Khoa Xã hội học tại Morehouse College, nói: ''Vì chủng tộc của ông ta, người dân có thể hoài nghi về sự chân thành tôn giáo và tình cảm yêu nước cũng như những cáo buộc rằng ông ta thì có vẻ thời thượng hơn là thực chất''. Khi được tin ông Obama giành chiến thắng trước bà Hillaly Cliton, đương kim Tổng thống Mỹ George W. Bush đã tuyên bố: ''Việc Thượng nghị sĩ Barack Obama trở thành ứng cử viên trong cuộc chạy đua vào Nhà Trắng của một chính đảng lớn cho thấy nước Mỹ đã có một bước tiến xa''. Thế nhưng thực tế có thể khác xa tuyên bố của ông Bush, một người Cộng hoà. Khi bà Hillary đánh bại ông Obama tại cuộc bầu cử sơ bộ ở Kentucky ngày 20/5, có đến 20% cử tri nói rằng chủng tộc là một nguyên nhân cho chọn lựa của họ. Các cuộc thăm dò ngoài phòng bỏ phiếu đã cho thấy 40% những người ủng hộ bà Hillary nói rằng họ sẽ quay sang bỏ phiếu cho ứng cử viên của Đảng Cộng hoà John McCain vào tháng 11 tới sau khi cựu đệ nhất phu nhân bị đánh bại. Cử tri Hannah Woodard, một người đã bỏ phiếu cho ông Obama tại Covington, Bắc Kentucky nói: ''Thật đáng buồn là nhiều người không thể nào bỏ phiếu cho một ứng cử viên da đen - giờ đã là năm 2008 rồi”3.
Giống như Abraham Lincohn, Hồ Chí Minh cũng quan niệm nhà nước là “Nhà nước của dân, do dân và vì dân''. Đây là tư tưởng về một nhà nước ''dân chủ'' mà ở đó quyền của người dân được thực thi. Nhưng bản chất trong quan niệm về nhà nước của dân, do dân, vì dân của Hồ Chí Minh và Abaham Lincohn không hoàn toàn giống nhau, dẫn đến việc tổ chức, xây dựng quyền làm chủ của dân ở Việt Nam không giống Mỹ. Trước hết, để thực hiện quyền làm chủ thực sự của người dân, ngay sau khi giành được độc lập, Người đã tổ chức Tổng tuyển cử (6-1-1946) để lần đầu tiên toàn thể người dân Việt Nam không phân biệt gái, trai, trẻ, già, tôn giáo, thành phần xuất thân, đẳng cấp, nô nức đi bầu cử - thực hiện quyền làm chủ cao nhất của mình. Vì rằng, ''dân chủ đòi hỏi quyền bình đẳng của tất cả các công dân”; và sự bình đẳng phải được hiểu theo nghĩa rộng: bình đẳng về cơ hội, bình đẳng trước pháp luật và bình đẳng trong việc chọn người đại diện (nhưng không có nghĩa là mọi người phải sống như nhau, phải có thu nhập như nhau ...). Bởi vì, Hồ Chí Minh hiểu sâu sắc rằng điều quan trọng đối với mỗi người không chỉ là sự tham gia mà là quyền được tham gia vào đời sống của đất nước, của tập thể, của xã hội. Do đó, bản chất của dân chủ là quyền tự do cá nhân, là sự tôn trọng của cá nhân con người như Lời nói đầu của Tuyên ngôn quốc tế về Nhân quyền đã viết: ''Công nhận nhân phẩm và những quyền bình đẳng không thể tước đoạt của tất cả mọi người trong đại gia đình nhân loại là nền tảng của tự do, công bằng và hòa bình trên toàn thế giới”4.
Nhà nước dân chủ thực sự thì trước hết đó là quyền của con người trong việc tham gia việc quản lý nhà nước thông qua cơ chế khác nhau, quyền làm thành viên bình đẳng trong một tập thể nào đó, quyền được thể hiện quan điểm của mình và được lắng nghe. Như thế, cơ sở lựa chọn dân chủ sẽ là niềm tin vào sự bình đẳng của mọi công dân. Một mặt, đó là niềm tin vào quyền tự do của mỗi người; mặt khác, tin rằng tự do của người này không cản trở đối với tự do của người khác. Nhà nước ấy sẽ là nhà nước XHCN mà chúng ta đã lựa chọn và kiên trì đi theo.
Khi ''nghiên cứu hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh ta thấy rất rõ quan điểm của Người về ba giai đoạn trên con đường phát triển của cách mạng Việt Nam: giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong đó, chế độ dân chủ nhân dân là bước phủ định triệt để những tàn tích của chế độ cũ - chế độ thực dân, phong kiến, đồng thời đó cũng là bước khẳng định - xác lập những cơ sở, nền tảng cho chế độ xã hội mới ở trình độ phát triển cao hơn là chủ nghĩa xã hội. Chế độ dân chủ nhân dân là một giai đoạn tất yếu trên con đường phát triển của xã hội Việt Nam. Những đặc điểm của chế độ xã hội mới được xác lập trong tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết thông qua phương pháp tư duy chuyển hóa những đặc điểm của chế độ xã hội cũ thành mặt đối lập của nó. Đây chính là phương pháp tư duy biện chứng. Với phương pháp tư duy như thế, quá trình xây dựng (quy định) chế độ dân chủ nhân dân trong hiện thực được tư duy trước hết là quá trình vượt bỏ (phủ định) một cách triệt để và toàn diện những đặc trưng bản chất của chế độ thực dân, phong kiến... Song, đó chưa phải là một hiện thực hoàn toàn, đầy đủ”5. Rõ ràng là, chế độ xã hội chủ nghĩa là giai đoạn phát triển cao hơn chỉ có thể ra đời từ cái khác nó - từ chế độ dân chủ nhân dân. Hay nói cách khác, ''chế độ dân chủ nhân dân là giai đoạn phát triển thấp hơn nhất định sẽ chuyển hóa thành cái khác nó – chế độ xã hội chủ nghĩa trong quá trình vận động khách quan của mình”6.
Sự ra đời của chế độ xã hội chủ nghĩa từ cái khác của nó chính là một bước chuyển về chất trong quá trình vận động và phát triển của xã hội Việt Nam. Quá trình hiện thực hóa tư tưởng của Bác về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, có thể khẳng định chắc chắn đó là sự lựa chọn có chủ đích, hợp quy luật rằng, ''Việt Nam tiến dần lên chủ nghĩa xã hội từ trong chế độ dân chủ nhân dân, chế độ dân chủ nhân dân ở trình độ phát triển cao. Trình độ phát triển cao của chế độ dân chủ nhân dân thể hiện trước hết ở sự tiến bộ trong năng lực làm chủ của người dân, ở việc hoàn thiện bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật với tư cách là những công cụ quyền lực của nhân dân và cùng với những bước phát triển về phương diện chính trị, sự phát triển của chế độ dân chủ nhân dân còn thể hiện trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, kinh tế”7. Đồng thời, cần xác định xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa là bước chuyển về chất, vì thế là một quá trình với nhiều bước đi, do vậy, phải có lộ trình xây dựng trong cơ sở vật chất, trong tất cả các quan hệ và các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, đưa đất nước đi vào quỹ đạo XHCN với quyết tâm và sự đồng lòng của toàn dân tộc, dù rằng, trên con đường đi tới còn phải đối mặt với không ít thách thức và khó khăn. CNXH chưa tới không có nghĩa là không có. Nhưng chúng ta cũng không thụ động chờ cho CNTB tự tiêu vong; mà với tinh thần cách mạng, với mong ước của con người được sống trong bình đẳng và tự do, chúng ta nên phải chủ động hành động để CNXH mau đến hơn. Toàn Đảng và toàn dân ta đang cố gắng để thực hiện lý tưởng đó. Chúng ta đang thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa để có cơ sở vật chất, kỹ thuật và con người cho CNXH.
Việc đất nước còn kém phát triển đã bị một số người lầm tưởng đổ cho CNXH. Đó là sự ngộ nhận; bởi vì, con đường này - con đường lên CNXH chưa từng có trong lịch sử phát triển. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém cũng như sự đổ vỡ của hệ thống XHCN, nhưng suy đến cùng lỗi là do con người chứ bản thân CNXH không có lỗi, càng không phải là bản chất của nó. Chúng ta vừa đi, vừa khai phá, vừa xây dựng nên có mắc khuyết điểm là điều khó tránh khỏi. Đi vào con đường cũ của lịch sử - CNTB - chúng ta cũng đau khổ vì lợi ích sẽ rơi vào tay một thiểu số người. Đi vào con đường mà còn mò mẫm thì đau khổ cũng không kém vì gian khổ, vất vả vô cùng; nhưng đó là sự vất vả tự nguyện, tự giác đồng lòng cùng nhau của toàn dân tộc, có những người lao động dưới sự lãnh đạo của một chính Đảng tiên phong. Giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác trong xã hội Việt Nam cùng chung con thuyền đi lên CNXH với giai cấp công nhân - giai cấp lãnh đạo vì cùng chung nhu cầu, lợi ích và động cơ nên hành động thống nhất. Sự nghiệp cách mạng này là của toàn dân.
Từ sự phân tích trên, một lần nữa có thể khẳng định rằng, nhận thức của chúng ta phải đạt tới trình độ nhận thức lý tính thì niềm tin của chúng ta vào lý tưởng mà chúng ta theo đuổi mới có cơ sở khoa học, và như thế thì niềm tin mới vững chắc. Do vậy, việc nâng cao nhận thức là góp phần cho việc hình thành niềm tin vững chắc vào con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Đó cũng là nhiệm vụ của mỗi người mà trước hết là các đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Là những người theo chủ nghĩa Mác- Lênin, chúng ta hiểu rằng, nâng cao nhận thức không chỉ để có cơ sở khoa học cho niềm tin vững chắc vào sự lựa chọn của Bác Hồ và của Đảng mà phải biến niềm tin thành hành động thiết thực để CNXH mau thành hiện thực. Vẫn biết rằng con đường đó còn gai góc. Và nếu mỗi chúng ta không tự giác hành động thì con đường đi lên CNXH sẽ dài thêm ra và niềm tin khó tránh khỏi bị ảnh hưởng.
Thật vậy, chúng ta đã kết thúc chương trình cải cách tổng thể nền hành chính nhà nước với những thành tựu nhất định, nhưng xét về mục tiêu và trách nhiệm thì còn rất nặng nề. Chẳng hạn, vấn đề tham nhũng đang nổi lên như một nguyên nhân gây cản trở tiến trình đi vào CNXH của đất nước. Theo kết quả điều tra chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh, thành phố ở Việt Nam (papi) do UBTƯMTTQ Việt Nam và UNDP phối hợp khảo sát ở 30 tỉnh, thành phố (công bố ngày 31-3-2011), người dân đánh giá chất lượng phục vụ và hiệu quả phục vụ nhân dân của chính quyền thì ''hành chính công không tỉnh nào hoàn hảo''. Cũng theo điều tra này, tham nhũng đang len lỏi trong nhiều lĩnh vực hành chính công và thực sự trở thành vấn nạn lớn của xã hội. Phải có tiền ''lót tay'' công việc mới trôi chảy. Nạn tham nhũng đang lan tràn từ quan chức các cấp cho đến ''tham nhũng vặt'' ở cơ sở. Đồng thời, một xu hướng mới đang xuất hiện rất đáng lo ngại đó là một bộ phận dân cư đang có xu thế thỏa hiệp với tham nhũng. Tham nhũng tràn lan trong các lĩnh vực hành chính công, diễn ra hàng ngày xói mòn lòng tin của dân về hiệu lực hành chính của chính quyền 8. Bài viết ''Kinh doanh bằng ''quan hệ'' hay pháp luật''9 nêu kết quả khảo sát gần đây của Ernst & Young cho thấy có tới 96% doanh nghiệp Việt Nam được hỏi đã xác nhận có liên quan đến hối lộ hay tham nhũng. Điều đáng ngại là chỉ có 3% trong số 6.700 doanh nghiệp cho biết tham nhũng gây khó khăn lớn cho họ. Và theo một điều tra khác của VCCI và năm 2009, có 59% doanh nghiệp phải mất phí bôi trơn, gần 62% số doanh nghiệp được hỏi thừa nhận phải có ''mối quan hệ'' với cán bộ tỉnh thì mới tiếp cận được các tài liệu liên quan tới hoạt động kinh doanh như quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch phát triển hạ tầng; 41% doanh nghiệp thừa nhận phải thương lượng với cán bộ thuế địa phương mới làm ăn suôn sẻ. Ông Cao Sĩ Kiêm cho rằng, hiện tượng trên là thể hiện sự xuống cấp về đạo đức của cả doanh nghiệp lẫn CBCC trong các cơ quan nhà nước.
Luật gia Trương Trọng Nghĩa, đại biểu Hội đồng nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, cho rằng, ''quan hệ'' ở đây thực chất là một dạng tham nhũng giữa một bên là doanh nghiệp có nhu cầu xin xỏ và đưa lợi ích, còn bên kia là cán bộ, công chức có quyền giải quyết và nhận lợi ích. Luật gia so sánh, 20 năm trước tham nhũng kiểu như trên hầu như không có hoặc rất hiếm. Lúc ấy, quan chức chưa biết trả giá, họ chỉ nhận quà cáp lặt vặt và không gắn với quyền lực. Hậu quả nghiêm trọng của cách làm ăn bằng ''quan hệ” không theo luật là tham nhũng không còn là rào cản, không còn bị bắt buộc mà đã trở thành công cụ cạnh tranh lợi hại. Nhiều doanh nghiệp cho rằng việc “quan hệ'' không trở ngại lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. (Chỉ có 3%/6.700 cho rằng tham nhũng gây khó khăn lớn cho họ). Doanh nghiệp chủ động ''bắt tay'' với người có chức quyền để cùng đạt mục tiêu là chia nhau lợi nhuận. Cách làm ăn dựa vào "quan hệ" là chính đã và sẽ là trở ngại chủ yếu khi làm ăn với thế giới. ông Lương Văn Tự, nguyên Thứ trưởng Bộ Thương mại, trưởng đoàn đàm phán Việt Nam - WTO, nhận định “các doanh nghiệp thế giới sử dụng pháp luật để hợp tác kinh doanh trong khi doanh nghiệp Việt Nam nặng về quan hệ để làm ăn. Điều này có thể dễ dàng trong việc làm ăn nhưng rõ ràng để chơi được với thế giới là điều không dễ ''10. Cũng tại kỳ họp này, theo báo cáo của Ủy ban Thanh tra Trung ương thì hiện vẫn tồn tại hai chữ ''sẵn sàng” và trong thủ tục có thêm quy trình ''đưa và nhận''. Đó là người dân và doanh dân sẵn sàng đưa hối lộ; cán bộ công chức sẵn sàng nhận hối lộ như một quy trình thủ tục hành chính. Do vậy, phải quyết liệt thực hiện sự minh bạch và qui trách nhiệm, chuyển tư duy quản dân sang hầu dân; đồng thời, yêu cầu cán bộ công chức phải thêm nụ cười. Tham nhũng đã trở nên như một nhu cầu phổ biến của nhiều doanh nghiệp và người dân, khi cần phải giao tiếp với cán bộ công chức. Đồng thời, cán bộ công chức khi giao tiếp với người dân và doanh nghiệp cũng coi tham nhũng như là một tất yếu. Kiểu giao tiếp có điều kiện được chấp nhận từ cả hai phía một cách tự nguyện như vậy chứng tỏ tham nhũng đã là một giá trị được công nhận. Nếu đúng như vậy thì tham nhũng đang có nguy cơ trở thành văn hóa trong quan hệ của người dân và doanh nghiệp với cơ quan nhà nước mà cụ thể là đội ngũ cán bộ công chức. Nguy cơ hình thành văn hóa phong bì, văn hóa tham nhũng là tác hại tồi tệ nhất của tham nhũng. Ở một khía cạnh khác, bà Phạm Phương Thảo - đại biểu của TP. HCM - phát biểu trước Quốc hội khóa XII rằng, hiện tại người dân đến với cơ quan công quyền vẫn còn gặp ba cái khó là: cửa khó vào, người khó gặp, mặt khó coi; (cán bộ công chức) sợ trách nhiệm, vô cảm...Dư luận đang đặt câu hỏi về sự thất thoát tiền đóng thuê của dân tại Công ty Cho thuê tài chính II (ALCII) doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn rằng ''thông đồng hay hệ thống giám sát tê liệt”. Theo Kiểm toán Nhà nước, năm 2009 ALCII, thua lỗ 3.000 tỷ đồng và còn có khả năng thua lỗ tiềm ẩn với khoản đầu tư 4.600 tỷ đồng. Lãnh đạo công ty này đã vi phạm các quy định về quản lý vốn nhà nước, làm thất thoát vốn nhà nước quá dễ dàng và kéo dài (từ cuối năm 2006 đến khi bị kiểm toán phát hiện). Dư luận cho rằng, hoặc hệ thống giám sát của doanh nghiệp này bị tê liệt, bị vô hiệu hóa hoặc đã có sự thông đồng giữa lãnh đạo công ty này với những người chịu trách nhiệm giám sát để ăn chia, bỏ túi. Dù thế nào thì tài sản nhà nước đã bị thất thoát và đạo đức công vụ của nhưng con người này đang xuống cấp trầm trọng. Theo Báo cáo Tổng kết thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 thì ''một bộ phận cán bộ, công chức, thiếu ý thức trách nhiệm và tinh thần phục vụ, vô cảm trước yêu cầu của nhân dân, của xã hội, suy thoái phẩm chất, đạo đức, tham nhũng, cửa quyền''. ''Tệ cửa quyền, quan liêu, tham nhũng vẫn còn là vấn nạn, tính công khai minh bạch của nền hành chính còn nhiều thách thức, một bộ phận cán bộ, công chức suy giảm lý tưởng, lối sống và vi phạm đạo đức công vụ, gây bất bình trong nhân dân''.
Rõ ràng, để có niềm tin vững chắc vào sự lựa chọn của lịch sử thì chúng ta phải không chỉ nâng cao nhận thức, mà còn phải chuyển từ nhận thức sang hành động cách mạng. Bởi, đối với Hồ Chí Minh chỉ có Nhà nước thực sự của dân, do dân tổ chức, dân xây dựng và kiểm soát trên thực tế, thì mới có thể là nhà nước vì dân được. Đó là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, không có đặc quyền đặc lợi, phải thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính. Nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh phải là một Nhà nước có Đức, dưới sự lãnh đạo của một ''Đảng là đạo đức, là văn minh''. Một Nhà nước có Đức là một Nhà nước hướng tới bảo vệ và phục vụ lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, đồng thời với việc trừng trị một cách nghiêm khắc những hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của dân tộc, của nhân dân.
Như vậy, nhận thức lý tính cho ta cơ sở khoa học của niềm tin vào con đường mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn; bản chất cách mạng thúc giục ta hành động để biến niềm tin thành hiện thực làm cho mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh và hạnh phúc mau tới gần hơn. Đó là cách thiết thực nhất để kỷ niệm 100 năm ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước cho cả dân tộc Việt Nam.
__________
Về mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay GS, TS. Nguyễn Hữu Khiển
Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh
Khi đã đề cập mối quan hệ của bất kì yếu tố nào trong xã hội (con người với con người, con người với tự nhiên, con người với tổ chức, các tổ chức với nhau...) trước hết cần nhận rõ những yếu tố có tính độc lập của từng yếu tố khách quan về: chức năng, nguồn gốc, xuất xứ, cơ chế tác động, mục đích tổ chức (chỉ có trong các yếu tố chủ quan), cơ sở hình thành mối quan hệ...
Quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và nhà nước ở Việt Nam thuộc loại quan hệ giữa đảng chính trị với bộ máy công quyền. Đảng là tổ chức của một lực lượng trong một quốc gia (với một số người trong dân cư). Hiện chưa có đảng chính trị nào mà toàn bộ dân cư nước đó đều là đảng viên của đảng đó cả. Và cũng chưa có công trình nào nghiên cứu, tác giả nào dự báo rằng có thể xảy ra tình trạng là có bao nhiêu dân cư trong một nước thì bấy nhiêu người đều là đảng viên của một đảng chính trị. Theo chỗ tôi biết, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng không có tham vọng như thế trong khi rất có nhu cầu và mở rộng điều kiện, sao cho có ngày càng nhiều người muốn tham gia trong hàng ngũ của Đảng. Tôi muốn nhấn mạnh chỗ này đã thấy sự khác biệt của hai ''cá thể'': chính trị thuần túy (đảng) và công quyền đích thực (nhà nước).
Trong quá trình ra đời, hình thành và phát triển, quan điểm của Đảng cũng đã nhấn mạnh sự khác biệt này ở nhiều giác độ khác nhau. Trong văn kiện của Đại hội Đảng lần thứ XI vừa qua không thiếu những chỗ, những đoạn nêu ra và quán triệt trong Đảng bằng biểu quyết và nhất trí cao: Đảng cầm quyền, còn nhà nước quản lý (trực tiếp); Đảng không làm thay nhà nước...
Hơn nữa nếu còn có sự chưa phân định rõ, minh bạch trong mối quan hệ đương nhiên là vẫn còn. Mà đã còn thì sẽ chưa khoa học về thể chế, chưa minh định được chức năng của mỗi chủ thể. Hậu quả xã hội (kinh tế, chính trị, xã hội, quốc tế ...) đương nhiên sẽ xuất hiện và cần phải nhận thức và khắc phục. Ví dụ như văn kiện Đảng đã chỉ rõ được là ''...Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề về Đảng cầm quyền”1.
Vậy ai nghiên cứu và ai sử dụng các công trình nghiên cứu? Theo tôi người sử dụng và người nghiên cứu đều rõ cả. Người sử dụng chủ yếu Đảng và nhà nước (cũng là những tinh hoa trong Đảng). Người nghiên cứu thì đương nhiên là các trí thức. Mà tri thức nước ta hiện nay đa số đều là đảng viên cả. Có điều họ là trí thức thì chức năng là tạo ra các sản phẩm khoa học. Nhưng tình trạng cần phải khắc phục là sự ''bao biện làm thay” của Đảng trong công việc điều hành của nhà nước (cá nhân và tổ chức trong Đảng) thì rõ ràng người khắc phục là Đảng và đảng viên. Người phát hiện ra nó là đảng viên, nhân viên nhà nước. Đây là tình trạng không tốt, đã biết từ nhiều năm nay (thậm chí mấy thập kỷ). Lần này Văn kiện vẫn dành chỗ để chỉ rõ ''yếu điểm'' này (chữ của tác giả NHK). Nghĩa là nó vẫn chưa bị loại bỏ.
Từ nhận thức trên xin trình bày mấy ý kiến xung quanh quan hệ giữa hai chủ thể quan trọng trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay.
Cơ sở nhận thức mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước.
Đảng Cộng sản Việt Nam là một đảng chính trị. Đảng chính trị là một khái niệm của khoa học chính trị. Cụ thể là của Chính trị học. Nó nói về việc tập hợp của những người cùng chí hướng (nhất là chí hướng lợi ích) lấy trung tâm là lực lượng của một giai tầng xã hội cụ thể mà khoa học mácxit xác định là một giai cấp nhất định. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời không phải những người Việt Nam tự nghĩ ra mà nó gắn liền với hoạt động của Hồ Chí Minh, Người đi tìm đường để cứu nước đã tiếp thu và tổ chức ra. Cách thức của Người là đến thẳng các nước đế quốc mà trực tiếp là đế quốc Pháp đang xâm lược nước ta để xem họ tuyên truyền khai hóa ở Việt Nam thì chính xã hội Pháp sống như thế nào. Chỉ có ở phương Tây, Hồ Chủ tịch mới, và đã nhận thức được thế nào là chế độ dân chủ: người dân có quyền gì, đấu tranh đòi những quyền đó như thế nào, các đảng thành lập ra và hoạt động ra sao. Hồ Chủ tịch đã thấy một số đảng khác nhau họ tranh luận một vấn đề nào đó với những thái độ, lập trường quan điểm khác nhau và Người đã chọn một đảng trong số đó để tham gia. Theo tôi đảng Xã hội Pháp kết nạp Hồ Chủ tịch do Đảng này chấp nhận Cụ là người cùng chí hướng chứ không phải cùng giai cấp (vì họ cũng không điều tra nguồn gốc, lai lịch lí lịch mà chủ yếu là thái độ chính trị của Người).
Đã là đảng chính trị thì đảng nào cũng thể hiện mấy điểm sau đây, mà Đảng Cộng sản Việt Nam cũng không phải ngoại lệ:
Tổ chức ra một đảng và xây dựng mục tiêu tổ chức hành động để trở thành đảng cầm quyền (nắm lấy bộ máy công quyền, qua đó điều hành chính sách quốc gia). Những hoạt động khác của đảng suy cho cùng cũng chỉ xoay quanh mục đích chiến lược đó. Đảng không làm kinh tế (không lập doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh). Nhưng đảng phải có chủ kiến về phát triển kinh tế đất nước. Chủ kiến đó người dân ủng hộ thì tín nhiệm chính trị được bảo đảm và phát huy. Đảng không làm văn hóa với nghĩa biểu diễn, sáng tạo tác phẩm nghệ thuật và kinh doanh văn hóa. Nhưng chủ kiến về phát triển văn hóa xã hội là trách nhiệm của đảng cầm quyền. Nếu không phản ánh đúng xu thế, nguyện vọng của người dân thì tín nhiệm chính trị sẽ ảnh hưởng. Ở những nước nhiều đảng, đảng cầm quyền đi chệch định hướng phát triển của xã hội thì sẽ mất vai trò và nhường lại vị trí cầm quyền cho chủ thể chính trị khác. Đảng Cộng sản Việt Nam ở một nước theo thể chế nhất nguyên nhưng không có nghĩa là mọi chủ trương đều đúng cả. Khi chưa đúng thì việc thừa nhận thiếu sót mà tự điều chỉnh không những là cần thiết, mà còn là vận mệnh chính trị của Đảng. Hồ Chủ tịch đã không ít lần nhấn mạnh yêu cầu một đảng tự phê bình quan trọng như thế nào. Thậm chí Người còn nói không biết sai, sai không sửa ''là một đảng hỏng''.
Vị trí của đảng thay đổi trước và sau cách mạng đối với xã hội:
Đảng đã được trên tám mươi năm. Nhưng vai trò, vị thế của Đảng trong xã hội hoàn toàn không giống nhau qua các giai đoạn.
Khi chưa có nhà nước, xã hội sống trong ách thống trị của thực dân, Đảng chỉ như một lực lượng chính trị với mục tiêu thu hút sự tín nhiệm, lòng tin của người dân, của xã hội. Khi đó đảng chỉ đóng vai trò người định hướng.
Ngoài vị trí của Đảng như một lực lượng chính trị, xã hội còn có những lực lượng xã hội khác. Với cương lĩnh chính trị rành mạch về con đường phát triển của xã hội, về vai trò sứ mệnh của mỗi công dân, xã hội đã chọn con đường theo chỉ dẫn của Đảng mà từ bỏ các lực lượng chính trị khác. Khi đó Đảng chỉ là một lực lượng chính trị chưa có sự bảo đảm bằng một thiết chế công quyền. Xã hội tin đảng, đã đi theo đảng, hành động theo sách lược, chỉ huy chỉ đạo của đảng. Nhiều hoạt động, chỉ đạo của đảng viên trực tiếp từng việc, từng ngày, từng địa điểm... Về hình thức nó như sự điều hành của nhà nước.
Khi Cách mạng thành công người điều hành trực tiếp xã hội là nhà nước cơ quan công quyền và là công cụ của nhân dân. Đảng trở thành đảng cầm quyền và xã hội Việt Nam trở thành nhà nước dân chủ mang định hướng của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng mácxít về chủ nghĩa xã hội cho đến nay vẫn chỉ là những phỏng đoán khoa học. Mà phỏng đoán cần có thực tiễn chứng minh. Một việc cần nhiều thời gian, thậm chí rất nhiều thời gian thì một đời người chưa làm được gì nhiều nếu không nói là chưa được bao nhiêu. Mác đã để lại những tiên đoán khoa học quan trọng. Nhưng nó phải được chứng minh qua thực tiễn. Trong học thuyết của mình Mác, Ăngghen cũng chưa khi nào trình bày khoa học về đảng cầm quyền nói chung và đảng cộng sản cầm quyền nói riêng ở giai đoạn của chủ nghĩa. Lênin thì quá bận bịu những công việc của nhà nước Xôviết non trẻ cũng không có “quĩ” thời gian cho bộ óc vĩ đạt giành toàn tâm cho lý luận về đảng cầm quyền.
Chính vì chưa có tiền lệ, học thuyết cần được chứng minh nên khi chính quyền, nhất là những năm sau này, đã bộc lộ những sự lẫn lộn chức năng giữa cơ quan công quyền và tổ chức chính trị là quan hệ giữa Đảng và Nhà nước. Điều đó thể hiện trong sự đánh giá hoạt động của Đảng trong những nhiệm kì Đại hội gần đây (cho đến tận Văn kiện Đại hội XI vừa rồi) về tình trạng ''đảng làm thay nhà nước”.
Nhà nước là tổ chức công quyền duy nhất trong hệ thống chính trị. Công quyền là quyền lực công. Quyền lực công trong nền dân chủ là quyền lực của nhân dân, khác căn bản với xã hội phong kiến khi quyền lực công trong tay một người. Vì vậy quyền lực công ở nước ta chính là quyền của nhân dân trao cho nhà nước với những con người cụ thể, với những vị trí khác nhau trong bộ máy. Chính do nguồn gốc này mà Hồ Chủ tịch đã nói với người dân rằng khi chính phủ của những con người cụ thể điều hành mà không tốt thì có thể thay bằng một chính phủ khác. Ngụ ý rằng những người yếu kém thì phải bị thay thế (thậm chí Người còn dùng chữ ''phế bỏ nó đi''). Đây chính là bản chất dân chủ cơ bản, khác về bản chất, về văn hóa và sự tiến bộ của lịch sử xã hội.
Bộ máy công quyền của các nền dân chủ hiện luôn luôn có sự can thiệp chính trị thể hiện qua một đảng được xã hội tín nhiệm, trở thành đảng cầm quyền. Khi trở thành đảng cầm quyền, tất cả những vị trí quan trọng, chủ chốt đều do đảng cầm quyền nắm giữ. Đó chính là trật tự của nền chính trị của các thiết chế dân chủ. (Thực ra những nền dân chủ còn thấp thì tranh chấp quyền lực là triền miên, có bầu cử nhưng không tôn trọng kết quả, lập ra các lực lượng phá hoại lẫn nhau...Tình trạng đó hiện nay rải rác vẫn còn, nhưng không nhiều). Đảng cầm quyền thực chất là đảng đã hoạt động bằng nhà nước để lãnh đạo xã hội. Những hoạt động cụ thể của đảng (sinh hoạt, đại hội, hội nghị...) chỉ là việc của nội bộ trong đảng. Đảng lãnh đạo xã hội bằng nhà nước khi đã trở thành đảng cầm quyền. Chính vì các nước tổ chức hệ thống chính trị như vậy nên họ không bao giờ mắc phải tình trạng ''đảng làm thay nhà nước'' như nước ta.
Vậy bộ máy công quyền làm gì? Ai cũng biết, là bộ máy công quyền nhà nước làm những việc căn bản sau đây: phân chia lãnh thổ thành các cấp hành chính, đặt ra pháp luật, xây dựng bộ máy, điều hành xã hội trực tiếp, hàng ngày những lĩnh vực pháp luật đặt ra. Nhà nước đặt ra các luật thuế, tổ chức thanh tra kiểm tra bằng quyền lực công. Nhà nước tổ chức cưỡng chế những hành vi của cá nhân và tổ chức vi phạm pháp luật, vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của xã hội và công dân. Nhà nước phán xét bằng tòa án, theo luật công những hành vi nguy hiểm của các cá nhân...
Những việc làm đó đều trên tinh thần của đảng cầm quyền. Nếu đảng nào mất vị trí cầm quyền thì những việc làm đó vẫn diễn ra nhưng do một lực lượng chính trị khác chi phối. Đây là khía cạnh rất căn bản, sớm muộn cũng phải nhận thức một cách chính xác và đúng đắn. Như thế là rất rõ sự khác nhau về chức năng.
Mối quan hệ giữa đảng và nhà nước là thế nào. Quan hệ là sự liên đới tác động giữa hai chủ thể (trở lên). Mà hai chủ thể thì chức năng, đặc điểm, tính chất của tồn tại là khác biệt. (Đến gan nằm liền với mật nhưng không lẫn lộn chức năng). Nó chỉ có thể tác động theo cách khác nhau nhưng không lẫn lộn chức năng bằng những vận hành cụ thể. Đảng và nhà nước là hai thực thể chính trị và công quyền khác biệt. Vậy tồn tại những biểu hiện nào của quan hệ. Theo tôi đó là những biểu hiện sau:
Thứ nhất đó là quan hệ giữa lực lượng chính trị và bộ máy công quyền. Lực lượng chính trị là một nhóm người trong dân cư và nó đại diện cho những người đó. Đảng Cộng sản Việt Nam đại diện cho hơn ba triệu đảng viên của Đảng. Nhà nước là cơ quan công quyền đại diện cho toàn dân. Nói cách khác nó là công bộc của dân (làm những gì vì lợi ích cho dân). Giữa đảng và nhà nước là quan hệ mục đích nắm quyền (mục đích của Đảng) và hoạt động quản lý xã hội (của nhà nước). Nếu một đảng cầm quyền, họ sẽ ''thâu tóm” mọi thực quyền của nhà nước bằng chính những người của Đảng nắm các vị trí trong bộ máy công quyền. Nhà nước là công cụ quản lý đại diện cho công dân nhưng chịu sự chi phối của đảng cầm quyền. Chi phối bằng chủ trương, quyết sách, định hướng, hành động đưa chúng vào đời sống qua luật pháp, điều hành hoặc phán quyết của tòa án.
Như thế trong điều kiện một đảng nào đó cầm quyền, họ không có lý do gì phải ''làm thay nhà nước'' cả, vì họ nắm hết các vị trí quan trọng rồi. Nếu Đảng Cộng sản Việt Nam có biểu hiện làm thay thì phải tìm cho được. Quyết khắc phục thì có thể khắc phục được.
Như vậy có quan hệ mật thiết nhưng không có lý do dẫn đến việc lẫn lộn chức năng.
Thứ hai, có sự đan xen chức năng trong một cá nhân giữ vị trí trong bộ máy nhà nước một khi họ là đảng viên của đảng cầm quyền. Đó là sự chuyển tải tinh thần chính trị qua điều hành xã hội. Họ làm việc của công quyền nhưng phải quán triệt tinh thần chính trị của đảng cầm quyền. Thông qua những người này đảng cầm quyền nhà nước và định hướng đối với xã hội.
Nếu họ làm kém, tùy từng mức độ mà họ bị trừng phạt ở những mức khác nhau như khiển trách, cách chức... (ở những nước đa đảng chính trị, bộ máy của đảng cầm quyền yếu kém, làm mất lòng tin của xã hội thì khả năng mất vị trí cầm quyền là rất lớn như chúng ta đã biết). Như thế cũng không có quan hệ nào để dẫn đến lẫn lộn chức năng. Liệu Tổng thống Mỹ đương nhiệm mà yếu kém thì liệu nay mai Đảng dân chủ còn tín nhiệm ông ta nữa hay không. Đây cũng chính là điều đã được nói lên trong văn kiện Đại hội XI rằng ''Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề về Đảng cầm quyền. Vì vậy các nhà khoa học cần làm rõ qua phân tích, đánh giá, ''mổ xẻ'' căn nguyên và lý giải một cách thoả đáng và trách nhiệm để cùng tìm ra giải pháp hiệu quả và khoa học, khả thi nhất.
Chất lượng của công quyền phản ánh năng lực chính trị của đảng cầm quyền. Một bộ máy công quyền yếu kém, năng lực không hoàn thành được nhiệm vụ, tham nhũng, mắc lỗi tác phong trong điều hành (hách dịch, chây lười, cẩu thả) thì đảng cầm quyền không thể ''vô can” được. Tất nhiên đó là trách nhiệm chính trị của đảng (uy tín với xã hội, cơ hội và niềm tin trong nhân dân...). Bộ máy công quyền đưa xã hội phát triển, tình hình ổn định thì vị thế chính trị của đảng được củng cố.
Phân tích hiện trạng và một số đề xuất. Trong văn kiện của Đảng có quan điểm cần ''Tổng kết việc thực hiện ''nhất thể hóa'' một số chức vụ lãnh đạo Đảng, Nhà nước''. Vậy thực chất việc nhất thể hóa là gì? Như chúng ta biết khi chưa nhất thể hóa, sự lẫn lộn chức năng, chồng chéo công việc, cồng kềnh thủ tục thường xuyên xảy ra trong quản lý nhà nước. Như thế hiệu quả xã hội là có vấn đề. Nếu ta có nhất thể hóa cũng không phải là sáng tạo gì với vị trí của đảng cầm quyền. Vì các nước họ không xảy ra sự song trùng quyền lực. Hơn nữa, khi chưa nhất thể hóa chắc chắn là không tốt mới đặt ra việc nghiên cứu này. (Nếu tốt thì đã không thí điểm làm gì cả). Ta thường đưa ra nhận định có tính chủ quan, đại loại là: dân trí chưa cao, trình độ cán bộ còn hạn chế, điều kiện Việt Nam chưa cho phép (không hiểu là điều kiện gì?); rồi không khéo thì ''để tuột vai trò của đảng''...Toàn bộ lý do như thế là đồng hành với tư duy níu kéo mô hình song trùng. Thực chất mô hình này là sản phẩm của thời kỳ chiến tranh lạnh, của hệ thống cũ, mô phỏng từ Liên Xô cũ, ai cũng đã biết. Theo tôi, không nên nhận định dân Việt Nam ta là yếu kém về học thức, cán bộ của ta còn yếu về trình độ. Người Việt thông minh ai cũng đã rõ và tự hào. Vậy cán bộ yếu chắc chắn là không lấy được người ''khỏe'' trong xã hội mà thôi (học hành nghiêm chỉnh, tuyển dụng khách quan, giao việc đúng chuyên môn và năng lực...).
Vậy tại sao các nước họ không xuất hiện tình trạng này (đảng làm thay). Là vì, một là những vị trí chủ chốt của nhà nước đều do các đảng viên của đảng cần quyền nắm giữ. Thứ hai họ không có những bộ phận của đảng cầm quyền làm những việc ''giống với công việc của nhà nước'', trong khi ở nước ta hiện tượng này là có. Đã có lúc thiết kế bộ máy trong hệ thống chính trị nước ta theo mô hình ''ban bố song hành'' giữa đảng và nhà nước, như kiểu bộ nông nghiệp và ban nông nghiệp. Việc này đã được xử lý qua nhiều lần. Đến nay còn lại một số ban và sự trùng lắp công việc do nhận thức chưa có giải pháp xử lý tốt. Theo tôi đây là sự thiết kế có hướng cồng kềnh trong tổ chức đảng. Nghĩa là có cần hay không việc tổ chức ra những việc để thanh tra, kiểm tra, xử lý lỗi, tuyên truyền, vận động trong Đảng, trong khi những chức năng này có đầy đủ trong các cơ quan của bộ máy nhà nước. Các cơ quan này đều do các đảng viên thuộc lớp tinh hoa của đảng đảm nhiệm? Về nguyên tắc và tâm lý chủ quan của người ta, không người nào, khi được giao một việc nào đó mà họ tự thấy rằng là không nên, không cần thiết. Trái lại họ còn cho rằng là ''rất cần thiết và rất quan trọng''!
Từ thực kinh nghiệm thực tiễn của xã hội nước ta trong mấy chục năm. Từ kinh nghiệm của các thể chế đã ổn định trong các nền dân chủ, theo tôi nếu muốn giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Đảng và nhà nước, chúng ta cần có đổi mới mạnh dạn. Xin đề xuất mấy điểm sau đây:
Một là về khoa học, phải nghiên cứu và có câu trả lời rằng tại sao các nước lại không có lẫn lộn chức năng, chồng chéo công việc như ở nước ta. Theo tôi nguyên nhân cơ bản là do nhận thức về thiết kế tổ chức trong hệ thống chính trị. Theo đó đặt những thể chế tách rời trong khi vị thế của nó có thể thống nhất như kiểu ''hai trong một'' vậy.
Hai là nên tổ chức sớm việc nhất thể hóa, tiến tới cả hệ thống. Nhưng trước mắt những vị trí chi phối vận hành của hệ thống chính trị nói chung và hệ thống quản lý xã hội nói riêng, bảo đảm thống nhất hệ thống trong điều kiện chỉ có một đảng cầm quyền. Quyền đó của Đảng cơ bản phải (và chỉ được) thông qua cơ quan nhà nước do những nhân vật do Đảng cử ra và dân đã lựa chọn. Nếu không hậu quả sẽ là: không khắc phục được tình trạng (mà đã gọi là tình trạng có nghĩa là sai, là chưa khoa học, là cần phải thay đổi). Tôi mạnh dạn đề nghị nên sớm hợp nhất các chức vụ giao cho một đảng viên đủ năng lực giữ vị trí chủ tịch và bí thư các cấp tỉnh, huyện, xã. Tình hình này cũng giống như thống nhất cơ bản trong các cơ quan sự nghiệp vốn vận hành thuận lợi. Theo đó chức vụ cao nhất của Đảng (ở các quốc gia là chủ tịch đảng ở nước ta là Tổng bí thư) đồng thời đảm nhiệm chức vụ nguyên thủ quốc gia. Đây là qui định xử lý đáp ứng cả thông lệ quốc tế, cả khía cạnh hiến pháp (liên quan đến vai trò thống lĩnh vũ trang của người đứng đầu quốc gia). Thật khó để khắc phục sai sót ''đảng làm thay nhà nước'' mà lại cùng tồn tại quá lâu sự song hành thể chế như hiện nay. Nếu thấy còn chưa chín muồi cũng cần có định hướng cụ thể ngay từ bây giờ: có làm không và nếu làm thì khi nào có thể. Để tránh tình trạng mỗi văn kiện lại phải nhắc lại sự khắc phục căn bệnh trên.
Kết luận ngắn
Một đảng cầm quyền, ở bất cứ đâu cũng phải thâu tóm quyền lực công. Đó là mục đích cơ bản mà sinh ra đảng chính trị. Vì thế những lực này mới là lực lượng chính trị. Nếu không sẽ chỉ dừng lại như một tổ chức phi nhà nước bình thường khác mà thôi. Mối quan hệ giữa đảng và nhà nước thực chất là quan hệ đảng cầm quyền và bộ máy công quyền./.
____________
1. Những chữ trong “” trong bài này là lấy ra từ Văn kiện Đại hội XI của Đảng
Một số vấn đề về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền trong điều kiện mới |
| GS.TS. Mạch Quang Thắng Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh |
Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam nhận định rằng, trong nhiệm kỳ Đại hội X, đối với công tác xây dựng Đảng, ''công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề về đảng cầm quyền...''1 , do đó, trong thời gian tới phải “tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ một số vấn đề về đảng cầm quyền”2.
Tôi cho rằng, chưa bao giờ như trong giai đoạn hiện nay, những vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền lại gắn bó chặt chẽ với nhau đến như vậy. Đối với Đảng ta, vấn đề đảng cộng sản cầm quyền luôn luôn cũ và cũng luôn luôn mới. Cũ là bởi vì vẫn còn đó những nguyên lý cơ bản, đúng đắn của học thuyết Mác - Lê nin, của tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng cộng sản. Mới là bởi vì học thuyết Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là lý luận mở, nghĩa là luôn luôn được nạp thêm năng lượng mới từ cuộc sống, nhất là trong giai đoạn Đảng cầm quyền ở nước ta hiện nay, có nhiều điểm rất mới được chế định từ giai đoạn đất nước vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế… Chẳng hạn, quan niệm chung nhất trên thế giới về ''đảng cầm quyền'' là một đảng chính trị đã giành được chính quyền (có thể bằng tuyển cử nói chung để chiếm một số lượng phiếu bầu của cử tri cần thiết theo luật định hoặc bằng nhiều con đường khác), dùng chính quyền để thực thi về chủ yếu chính sách của giai cấp hoặc cộng đồng (nhóm) chính trị của mình. Thế nhưng, ở nước ta không đơn thuần như vậy. Sự cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ thể hiện ở việc đây là một đảng chính trị duy nhất trong xã hội Việt Nam và Đảng đó là Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng không những đang lãnh đạo chính quyền mà còn lãnh đạo cả hệ thống chính trị, hơn nữa, rộng hơn, lãnh đạo toàn xã hội. Đối với đặc điểm này thì quan niệm “đảng cầm quyền” như ở nhiều nước trên thế giới không thể bao chứa được. Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền theo nghĩa như thế, với phạm vi rộng như thế được khẳng định trong thực tế và được chế định ngay cả trong bản Hiến pháp, thể hiện thành quả của cách mạng nước ta trong suốt bao nhiêu năm qua, thể hiện sự phấn đấu kiên cường, không mệt mỏi của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng được các tổ chức trong hệ thống chính trị và nhân dân giao cho trọng trách đó chứ không phải tự nhiên mà có và cứ tự nhận mà được. Chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh phản ánh từ thực tế Việt Nam, do đó, luôn luôn thể hiện bản chất khoa học và cách mạng. Chính Đại hội XI của Đảng ta vừa qua đã vận dụng sáng tạo và phát triển thêm một bước những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng cầm quyền.
Giai đoạn mới đặt ra nhưng điểm gì trên vấn đề quan trọng này sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam? Có nhiều điểm, nhưng theo tôi, nổi lên một số điểm sau đây:
Một là: quyền mà Đảng Cộng sản Việt Nam ''cầm'' là được chế định bởi sự ủy thác của nhân dân.
Vai trò cầm quyền của Đảng ta là kết quả tất yếu của cả quá trình phấn đấu kiên cường, bền bỉ của Đảng cho nền độc lập của Tổ quốc, tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Trải qua bao nhiêu cam go, thử thách, nhân dân đã tin yêu Đảng, trao cho Đảng vai trò dẫn đường sự phát triển của dân tộc. Và điều này cũng đúng như sự khẳng định ngay từ đầu thời dựng Đảng, khi Đảng nêu mục đích sự ra đời, tồn tại và phát triển của Đảng là vì quyền lợi của Tổ quốc, của nhân dân, ngoài ra Đảng không có mục đích gì khác. Chính vì vậy Đảng ta không những là Đảng của giai cấp công nhân mà đồng thời còn là Đảng nhân dân lao động và toàn dân tộc, đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc. Những đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng ta gần đây, trong đó có Đại hội XI, đã trở lại khẳng định quan điểm này theo đúng tư tưởng Hồ Chí Minh nêu trong Đại hội II của Đảng (2 -1951). Nguồn gốc ''cầm quyền” của Đảng ta là như vậy. Đây là điểm đầu tiên, quan trọng nhất, trong cả lý luận và thực tiễn, về Đảng cầm quyền mà hiện nay cần chú ý. Tôi nhớ lại rằng, trước Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, khi thảo luận các dự thảo văn kiện trình Đại hội, đối với vấn đề ''Đảng của ai?'', một số người vẫn bảo vệ ý kiến cho rằng, chỉ có thể gọi Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân mà thôi, bởi lẽ Đảng là Đảng của chỉ duy nhất một giai cấp nhất định, mang bản chất giai cấp công nhân. Một số ý kiến khác thì cho rằng, đối với Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam tuy vẫn luôn luôn mang bản chất giai cấp công nhân nhân nhưng Đảng không chỉ là Đảng của giai cấp công nhân mà đồng thời còn là của nhân dân lao động và của toàn dân tộc Việt Nam. Lập luận của một số ý kiến này dựa trên ba điểm (i) theo đúng quan điểm của Hồ Chí Minh; (ii) Đúng thực tế của Việt Nam giai đoạn Đảng cầm quyền và (iii). Đây mới là niềm tự hào của những người cộng sản Việt Nam khi Đảng còn là đại diện cho lợi ích của nhân dân lao động và của toàn dân tộc, và như thế Đảng đã vươn lên trở thành dân tộc. Nhìn ra nhiều đảng cộng sản và đảng công nhân, đảng cánh tả khác trong xã hội đương đại thì tình hình cũng tương tự, khi xưng danh ''đảng của ai?'' nêu trong cương lĩnh chính trị của mình, nhiều đảng cũng không bó hẹp tự nhận chỉ là đảng của giai cấp công nhân, mà mở rộng ra là của nhân dân nữa.
Tôi cho rằng, tình hình thế giới và trong nước đang biến chuyển không ngừng, trong đó có nhiều yếu tố khó lường. Vẫn phải giữ nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhưng sự thúc ép của cuộc sống là phải bổ sung và phát triển trên những nguyên tắc đó. Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác về đảng cộng sản, những nguyên tắc xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp công nhân của V.I.Lênin (tức là đảng cộng sản – để phân biệt với đảng vô sản kiểu cũ của Quốc tế II), cần phải được nạp thêm năng lượng mới từ thực tiễn của Việt Nam trong thế kỷ XXI này. Thành quả mới nhất của một chương trình nghiên cứu khoa học xã hội trọng điểm cấp nhà nước giai đoạn 2001-2005 (KX.03) cho chúng ta một tổ hợp các nguyên tắc xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền như sau:
a) Đảng Cộng sản Việt Nam phải luôn luôn lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chi nam cho hành động.
b) Đảng tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ.
c) Đảng thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
d) Đảng thực hiện thường xuyên tự phê bình và phê bình.
đ) Đảng tuân thủ kỷ luật tự giác.
e) Đảng luôn luôn chăm lo đến sự thống nhất, đoàn kết trong Đảng.
f) Đảng luôn luôn kết nạp những người tích cực và thải loại những người không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng.
g) Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
h) Đảng phải luôn luôn gắn bó chặt chẽ với nhân dân.
i) Đảng có mối liên hệ quốc tế trong sáng.
Các nguyên tắc xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trên đây làm thành một thể thống nhất và đã gọi là nguyên tắc thì không thể có nguyên tắc nào kém quan trọng hơn nguyên tắc nào, nhưng trong thời kỳ đảng cầm quyền nếu Đảng xa dân, dân xa Đảng thì Đảng sẽ bị mất hết sức sống nội tại. Chính vì thế một vấn đề cơ bản nhất trở thành tâm điểm sống còn của Đảng ta là Đảng phải gắn chặt với dân, quyền của Đảng được cầm luôn luôn phải dựa trên sự ủy thác của chính nhân dân.
Hai là: Đảng phải luôn luôn nâng cao tầm trí tuệ của mình; kiên định, kiên định hơn nữa, sáng tạo, sáng tạo hơn nữa chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Không ở đâu như trong lĩnh vực xây dựng chủ nghĩa xã hội lại có sự đòi hỏi rất cấp thiết của cả hai yếu tố đó. Hồ Chí Minh, trong Tài liệu tuyệt đối bí mật (sau này được gọi là Di chúc), gọi đó là cuộc ''chiến đấu khổng lồ'' ''chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi''. Đảng cầm quyền không được phép chệch hướng, nghĩa là không được phép sai lầm về đường lối chính trị. Mà muốn thế, như Nghị quyết Đại hội XI đã chỉ rõ: phải ''kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết của cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; không dao động trong bất cứ tình huống nào''3. Đảng luôn luôn phải có tư tuởng đổi mới, kiên định đường lối đổi mới, luôn luôn tìm tòi, sáng tạo vì cuộc sống vô cùng phong phú, phát triển rất mau lẹ; điều đó không cho phép Đảng giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội, đổi mới vô nguyên tắc. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Đảng phải sống trong lòng thực tiễn, tổng kết thực tiễn cả ở trong nước và ngoài nước, đảng trên tầm cao của nhận thức lý luận-thực tiễn để tìm ra và vận dụng quy luật nhằm đưa dân tộc Việt Nam chấn hưng trên con đường xã hội chủ nghĩa. Phải tránh bảo thủ, trì trệ, đồng thời phải tránh hấp tấp, vội vàng trong xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng. Trong đổi mới, vừa phải chú ý đến những vấn đề mới nảy sinh, kịp thời nghiên cứu, tổng kết để mạnh dạn bổ sung, phát triển kịp thời cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng; vừa phải cẩn trọng. Bảo thủ, trì trệ, không chịu bổ sung, phát triển cương lĩnh, đường lối, chủ trương khi tình hình trong nước và quốc tế có sự biến chuyển, thay đổi là không xứng đáng với một đảng tiên phong, một đảng năng động, sáng tạo, một chủ thể khởi xướng đổi mới toàn diện đất nước. Nhưng, hấp tấp, vội vàng, không chịu nghiên cứu, tổng kết mà đã sửa đổi đường lối, chủ trương, chính sách thì nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa sẽ trở thành hiện thực. Ở đây, việc ''thiết kế'' nội dung đường lối có tầm quan trọng đặc biệt, vì ''sai một ly đi một dặm”. Phải tính toán cẩn trọng trên cơ sở nghiên cứu khoa học lý luận chính trị, quy tụ và phát huy được trí tuệ của tập thể, phải có bản lĩnh chính trị vững vàng kết hợp tính khoa học với tình hình thực tế nhạy cảm của đất nước và của thế giới để đề ra đường lối, chủ trương, quyết sách đúng đắn, phù hợp. Có thể có những vấn đề được coi là đúng, nhưng đối với giai đoạn này, thời kỳ này, lúc này chưa thể hoặc không thể thực hiện, vì hoàn cảnh chưa cho phép; do vậy, đây thuộc về bản lĩnh chính trị, thuộc về nghệ thuật cầm quyền, lãnh đạo.
Ba là: Đảng cầm quyền phải trong sạch, vững mạnh để giữ vững và phát huy vai trò của mình.
Vai trò cầm quyền của Đảng sẽ bị suy yếu và thậm chí bị mất đi nếu Đảng bị thoái hóa, biến chất. Hồ Chí Minh đã cảnh báo rằng: ''Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa và chủ nghĩa cá nhân''. Do đó Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn bản thân mình. Sự cầm quyền của Đảng và việc Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn để bảo đảm sự trong sạch, vững mạnh của bản thân mình đều là hai vế tất yếu như nhau trong lôgíc phát triển nội tại của một đảng chính trị như Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Hơn 81 năm đã qua, Đảng ta đã trưởng thành qua bao thử thách, đã đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng có ý nghĩa lịch sử, nhưng vẫn còn một số hạn chế như Đại hội XI đã chỉ ra. Tôi thấy đáng chú ý nhất là, Đại hội XI có nêu lên mức độ trầm trọng hơn và có nêu nhiều biểu hiện mới hơn về những tiêu cực trong Đảng so với Đại hội X và các Đại hội trước đó đã nêu. Chẳng hạn, đó là Đại hội XI nêu: ''Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng với sự phân hóa giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều hành của nhiều cấp, nhiều ngành làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước''4. Rồi nữa, Đại hội X mới chỉ nêu có 4 kiểu ''chạy'', đến Đại hội XI đề cập thêm 1 kiêu ''chạy” nữa, đó là chạy huân chương (cuộc sống thực tế còn nhiều kiểu chạy nữa). Với những mức độ ngày càng nghiêm trọng hơn và ngày càng có thêm những biểu hiện tiêu cực mới trong một Đảng cầm quyền thì theo tôi đó là sự báo động lớn cho sự tồn vong của chính bản thân sự cầm quyền của Đảng ta. Mà một khi Đảng Cộng sản Việt Nam mất vai trò cầm quyền thì điều gì sẽ xảy ra thì chắc chắn ai cũng biết.
Để đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ trong giai đoạn mới, có rất nhiều giải pháp, biện pháp, nhưng tôi nhấn mạnh mấy điểm sau đây:
- Đề phòng và khắc phục những biểu hiện tiêu cực: đặc quyền, đặc lợi, xa rời nhân dân, quan liêu, tham nhũng (ngay trong cả cơ chế, chính sách, chế độ đãi ngộ về vật chất cho cán bộ cấp cao của Đảng và Nhà nước); khắc phục tình trạng một số cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống... không để đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng lại có nhận định tiêu cực trên đây nghiêm trọng hơn. Tiêu cực ở trong Đảng cầm quyền, mỗi khi cứ được nhắc đi nhắc lại ở những giai đoạn sau, mà ở những giai đoạn sau lại trầm trọng hơn so với những giai đoạn trước thì càng thể hiện Đảng đang lún sâu vào một qúa trình suy thoái và do vậy, sự cầm quyền đó của Đảng là không vững chắc; cái điều cầm quyền của Đảng dù có được ghi trong Hiến pháp đi chăng nữa cũng chỉ là hình thức mà thôi.
- Bảo đảm và phát huy dân chủ trong điều kiện một Đảng. Dân chủ trong Đảng là điều kiện tiên quyết bảo đảm dân chủ ngoài xã hội. Vấn đề dân chủ của một xã hội không phụ thuộc vào số lượng của các chính đảng, mà phụ thuộc vào nhiều yếu tố, chủ yếu là phụ thuộc vào bản thân chất lượng của đảng cầm quyền. Phải thực hiện tốt nguyên tắc cơ bản là tập trung dân chủ. Dân chủ một mặt được bảo đảm bằng thể chế đồng thời rất quan trọng là phải được bảo đảm và phát huy trong thực tế. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh việc thực hành dân chủ một cách thực sự ở trong Đảng chứ không phải nói suông. Muốn thực hiện tốt điều này, trên thực tế Đảng cầm quyền cần nghiêm khắc kiểm điểm và thực hiện thật tốt nguyên tắc ''Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật'' điều mà trong bản Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 đã ghi. Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo nhưng trong điều kiện xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Đảng phải tự khép mình vào khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, không đưa ra bất kỳ quyết định nào trái luật, đứng trên luật.
Bốn là: tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Khắc phục tình trạng Đảng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo các cơ quan quản lý nhà nước. Trong điều kiện mới, sự lãnh đạo của Đảng quan trọng nhất là thông qua nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ trung ương đến địa phương, cơ sở. Thực hiện tốt chế độ lãnh đạo tập thể đi đôi với phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo và trách nhiệm cá nhân nhất là trách nhiệm của người đứng đầu. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, tôn trọng nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong tổ chức và hoạt động của mặt trận. Phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng, đảng viên, cấp ủy viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Đổi mới cách ra nghị quyết, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết của Đảng. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong Đảng, khắc phục tình trạng rườm rà, bất hợp lý về thủ tục, giảm bớt giấy tờ, hội họp; sâu sát thực tế cơ sở; nói đi đôi với làm.
Mọi sự tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đều dựa trên nguyên tắc: Đảng lãnh đạo bằng đường lối, chủ trương, bằng thể chế hóa; bằng hệ thống tổ chức; bằng sự hoạt động tích cực của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị-xã hội; bằng quản lý công tác cán bộ; bằng sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên, bằng sự kiểm tra thường xuyên trong các tổ chức đó…
Quan niệm về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền như trên được Đảng nêu ra từ lâu, đến Đại hội XI khẳng định lại, xem ra không có gì mới. Tôi thì cho rằng, có mấy điểm nhấn trong giai đoạn hiện nay:
- Quy định thật cụ thể trách nhiệm, quyền hạn của người đứng đầu trong cơ quan, bộ máy Đảng, không để tình trạng vừa không thể hiện rõ vai trò của mình, vừa thể hiện độc đoán, chuyên quyền. Có nhiều nơi, nhiều tình huống cần có sự quyết đoán của người đứng đầu thì lại bị ''trói'' bởi cơ chế người đứng đầu cũng chỉ một phiếu biểu quyết như những người khác. Ngược lại bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, có nơi người đứng đầu tìm cách áp đặt ý kiến của mình trong sinh hoạt đảng, điều này chỉ lộ rõ sự nguy hiểm khi ý kiến đó là sai lầm gây tác hại lớn cho tổ chức Đảng, làm mất thanh danh của Đảng, làm giảm lòng tin của dân đối với Đảng.
- Phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền có tính chất ''động'', rất linh hoạt, ngay cả ở mỗi cấp đều có sự linh hoạt khác nhau. Ở cấp cơ sở mà cực đoan, máy móc khi có tình huống xảy ra mà cứ ngồi bàn với nhau việc đó thuộc về ''sân'' của Đảng, việc kia thuộc về ''sân'' của chính quyền thì có khi công việc không được giải quyết đúng đắn, kịp thời. Nhiều khi, một việc nào đó, vẫn thường có tâm lý cần ''đóng dấu'' của bên Đảng thì mới ''oai'', do đó mới dẫn đến tình trạng có không ít việc chỉ cần chính quyền ký ban hành để thực thi mới đúng thì người ta lại đưa sang cho bên Đảng, thành thử công việc của Đảng có nhiều khi rất vụn vặt, vừa không đúng tầm của một đảng cầm quyền vừa không đúng nguyên tắc vận hành của một nhà nước pháp quyền. Về điểm này, cần có sự nghiên cứu, khảo sát thực tế, tổng kết thực tiễn nhiều hơn./.
______________
Tiếp tục đổi mới duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam TS. Trần Ngọc Liêu
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay thực chất là quá trình xây dựng và hoàn thiện hình thức tổ chức và phương thức thực thi quyền lực của nhân dân vì quyền lợi của nhân dân. Nhiệm vụ đó được cụ thể hoá thành ba vấn đề cơ bản: Thứ nhất, tiếp tục đổi mới tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước pháp quyền. Thứ hai, tiếp tục thể chế hoá quyền lực của nhân dân thành pháp luật. Thứ ba, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước và các thiết chế chính trị xã hội khác nhằm đảm bảo thực thi quyền lực của nhân dân. Trong khuôn khổ báo cáo tham luận này, chúng tôi chỉ tập trung luận giải vấn đề thứ nhất.
1. Quá thành hình thành và phát triển nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước pháp quyền
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc cũng như xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm lãnh đạo việc xây dựng, củng cố hoàn thiện bộ máy nhà nước và tăng cường pháp chế: Cùng với quá trình phát triển nhận thức lý luận, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn xây dựng nhà nước quan điểm của Đảng ta về nhà nước pháp quyền và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam dần dần được hình thành và phát triển.
Ngay từ những năm 30 - đầu những năm 40 của thế kỷ XX, Đảng ta đề ra mục tiêu xây dựng và từng bước hoàn thiện một nhà nước kiểu mới, nhà nước công nông, một nhà nước được xây dựng dựa trên hiến pháp dân chủ, tính nhân văn sâu sắc. Nghị quyết hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 6 (tháng 11/1939) đã nhấn mạnh:
''Đảng Cộng sản đấu tranh cho sự nghiệp thống nhất dân tộc Việt Nam không phải bằng cách quỵ lụy mặc cả với đế quốc, xin đế quốc ban cho ''Hiến pháp''. Trái lại, bằng cách liên hiệp tất cả các dân tộc, các giai cấp, đảng phái phản đế để đánh đổ đế quốc, làm cách mạng giải phóng dân tộc. Đảng Cộng sản luôn luôn chú ý bênh vực quyền lợi của vô sản và quần chúng lao động và Đảng sẽ lãnh đạo cuộc cách mạng tới triệt để giải phóng giai cấp vô sản và dân chúng lao động''1.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 7 (tháng 1/1940) đã đề ra nhiệm vụ: ''Ban bố hiến pháp dân chủ, ban bố những quyền tự do dân chủ cho nhân dân, tự do ngôn luận, tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng, tự do hội họp''.
Như vậy, ngay từ trước khi giành được chính quyền về tay nhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rất rõ và rất đúng chủ thể quyền lực, nội dung quyền và công cụ thực thi quyền lực của nhân dân nhân hướng tới mục tiêu giải phóng triệt để giai cấp vô sản và toàn thể nhân dân lao động. Đây là những nội dung căn bản, phản ánh bản chất của nhà nước pháp quyền Việt Nam, dù rằng trong giai đoạn này, Đảng Cộng sản Việt Nam chưa sử dụng khái niệm ''nhà nước pháp quyền''.
Sau khi giành được chính quyền với thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng và nhân dân ta đã bắt tay xây dựng nhà nước Việt Nam mới, trong đó có nhiều yếu tố pháp quyền thể theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, quá trình thực hiện những ý tưởng này đã bị hạn chế do thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta và cả dân tộc ta phải bước vào cuộc kháng chiến thần thánh để bảo vệ đất nước. Nhiệm vụ bảo vệ chính quyền được đặt lên hàng đầu và giữ vị trí ưu tiên so với nhiệm vụ xây dựng bộ máy quyền lực nhà nước.
Tại Đại hội Đảng lần thứ II (tháng 2/1951), khi bàn về vấn đề ''chính quyền nhân dân'', Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam đã nêu lên ba quan điểm cơ bản, đó là:
1- Chính quyền của nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà là chính quyền dân chủ của nhân dân nghĩa là của công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức, tư sản dân tộc và các thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Những tầng lớp nhân dân ấy chuyên chính đối với đế quốc xâm lược và bọn phản quốc. Cho nên nội dung chính quyền đó là nhân dân dân chủ chuyên chính.
2- Chính quyền đó dựa vào Mặt trận dân tộc thống nhất, lấy liên minh công nhân, nông dân và lao động trí thức làm nền tảng và do giai cấp công nhân lãnh đạo.
3- Nguyên tắc tổ chức của chính quyền đó là dân chủ tập trung. Cơ quan chính quyền ở địa phương là Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính (hiện nay là Ủy ban kháng chiến hành chính). Cơ quan chính quyền tối cao toàn quốc là Quốc hội và Hội đồng Chính phủ.
Như vậy, tiếp nối mạch tư duy về dân chủ được xác lập ngay từ tác phẩm Đường Kách Mệnh (1927), Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt (1930) và các văn kiện của Hội nghị Trung ương 7 (1940), v.v., tư tưởng về xây dựng một chính quyền thật sự dân chủ, dựa trên nền tảng khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã được phát triển cụ thể hơn.
Tuy nhiên, cũng cần thừa nhận một thực tế khách quan là trong giai đoạn này, do phải dành mọi ưu tiên cho sự nghiệp kháng chiến, việc Đảng ta không bàn nhiều đến vấn đề nhà nước và pháp luật là điều có thể hiểu được.
Mặt khác, trong nhận thức của đảng ta về vấn đề nhà nước đã bắt đầu chịu ít nhiều sự chi phối từ các quan điểm của phe xã hội chủ nghĩa, trong đó, rõ nét nhất là quan niệm cho rằng hình thức nhà nước xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam là nhà nước ''chuyên chính vô sản''. Điều đó thể hiện tầm nhìn có phần hạn chế về mặt lý luận trước vấn đề nhà nước so với tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề này. Những hạn chế trên tiếp tục chi phối tư duy của Đảng ta về vấn đề nhà nước cho đến tận giai đoạn đầu của thời kỳ Đổi mới.
Đại hội VI (tháng 12/1986) đã mở đầu cho quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta, trong đó có tư duy về nhà nước. Quan điểm của Đảng tại Đại hội VI rõ ràng đã hướng đến việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Báo cáo chính trị tại Đại hội khẳng định:
''Nhà nước ta là công cụ của chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa. Trong thời kỳ quá độ đó là nhà nước chuyên chính vô sản thực hiện chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chức năng của nhà nước là thể chế hoá bằng pháp luật quyền hạn, lợi ích, nghĩa vụ của nhân dân lao động và quản lý kinh tế, xã hội theo pháp luật''2.
Đại hội VI của Đảng đánh dấu bước chuyển sang nền kinh tế thị trường, đồng thời cũng đánh dấu bước chuyển biến có ý nghĩa trong nhận thức và thực tiễn về vai trò của pháp luật, của việc quản lý xã hội bằng pháp luật. Trong nhiệm kỳ Đại hội Đảng VI, nhận thức của Đảng về nhà nước pháp quyền tuy còn ở mức độ sơ khai, các vấn đề lý luận và thực tiễn về nhà nước pháp quyền cần một quá trình nghiên cứu tiếp theo, nhưng quan điểm đề cao các yếu tố pháp quyền được định hình.
Quan điểm của Đảng về xây dựng nhà nước pháp quyền được hình thành và phát triển nhanh chóng khi công cuộc đổi mới được triển khai ngày càng toàn diện và đi vào chiều sâu từ những năm 1990. Đại hội VII (tháng 6/1991) của Đảng tuy chưa nêu ra khái niệm nhà nước pháp quyền, nhưng lại có những thay đổi bước ngoặt trong nhận thức về nhà nước. ''Chuyên chính vô sản” vốn được coi là hình thức nhà nước xã hội chủ nghĩa đã không được nhắc đến trong văn kiện của Đảng. Thay vào đó, Đảng ta đã đặt vấn đề ''xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân''3, và ''nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mục tiêu của toàn tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới. Quan tâm của Đảng ta đến tính pháp quyền của nhà nước được thể hiện trong quan điểm:
''Là tổ chức thể hiện và thực hiện ý chí quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, nhà nước ta phải có đủ quyền lực và khả năng định ra luật pháp và tổ chức quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật. Sửa đổi hệ thống tổ chức nhà nước, cải cách bộ máy hành chính, kiện toàn các cơ quan luật pháp để thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý nhà nước''4.
Đảng khẳng định quan điểm nhất quán là ''nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với sự phân công rành mạch ba quyền đó'', song cũng chỉ rõ, trên thực tế ''sự phân công, phân nhiệm và các mối quan hệ giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp có những điểm chưa rõ''5. Với những quan điểm trên, những yếu tố và dấu hiệu cơ bản của nhà nước pháp quyền đã xuất hiện rõ nét, được hình thái lý luận, trong quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, tuy rằng một mô hình nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vẫn chưa định dạng một cách thật rõ ràng.
Quan điểm của Đảng về nhà nước pháp quyền có bước tiến đáng kể tại Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (1994). Lần đầu tiên văn kiện của Đảng chính thức sử dụng thuật ngữ ''Nhà nước pháp quyền''. Nghị quyết khẳng định:
''Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là nhà nước của nhân dân do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa”6.
Hội nghị Trung ương Tám khoá VII (1995) đã ra nghị quyết riêng về vấn đề xây dựng và củng cố nhà nước đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ trong giai đoạn mới - giai đoạn có tính bản lề trong quá trình thực hiện nghị quyết đại hội VII của Đảng. Nghị quyết Tám khoá VII xác định 5 quan điểm cơ bản trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trên cơ sở tiếp tục khẳng định quyền lực nhà nước là thống nhất, điểm mốc của nghị quyết này là xác định sự cần thiết phải phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong phạm vi thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, xác định tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng nâng cao giáo dục đạo đức xã hội-chủ nghĩa. Những Nghị quyết trong nhiệm kỳ đại hội VII đã xác định những quan điểm và phương hướng cơ bản định hướng chính trị cho quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nước ta.
Nghị quyết Đại hội VIII (1996) và các nghị quyết hội nghị Trung ương Ba và Bốn (khoá VIII), tiếp tục bổ sung và phát triển các quan điểm về việc củng cố và hoàn thiện nhà nước theo tình huống xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Năm quan điểm về xây dựng nhà nước pháp quyền được tiếp tục khẳng định ba gồm:
1. Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân; lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hoạt động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.
2. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
3. Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của nhà nước.
4. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam. Quản lý và điều hành xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục nâng cao đạo đức.
5. Tăng cường vai trò lãnh đạo của đảng đối với nhà nước7.
Để xây dựng, kiện toàn bộ máy nhà nước vững mạnh, trong sạch có hiệu lực, hiệu quả, Đảng đã chỉ rõ các nhiệm vụ cụ thể của nhiệm kỳ năm năm 1996 - 2001 bao gồm: 1) Đổi mới nâng cao chất lượng công tác lập pháp và giám sát tối cao của Quốc hội đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước; 2) Cải cách nền hành chính nhà nước; 3) Cải cách tổ chức và hoạt động tư pháp; 4) Đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng.
Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII (1997) đã ra nghị quyết về phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch vững mạnh, và nghị quyết về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại đất nước. Hội nghị này đã đưa ra nhận định: mấy năm qua chúng ta đã tổ bước phát triển hệ thống các quan điểm, nguyên tắc cơ bản về, xây dựng nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, cho dân, vì dân; nhiều nội dung quan trọng của việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã được triển khai và thu được những kết quả ban đầu quan trọng. Đồng thời Đảng ta cũng chỉ ra rằng: việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội nghĩa trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường là một nhiệm vụ mới mẻ và phức tạp, nhận thức của chúng ta về vấn đề này còn ít ỏi, nhiều việc vừa làm vừa phải rút kinh nghiệm.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương Ba (khoá VIII) nhấn mạnh ba yêu cầu về xây dựng nhà nước pháp quyền trong tình hình mới: 1) Tiếp tục phát huy tốt hơn và nhiều hơn quyền làm chủ của nhân dân qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp; 2) Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, cán bộ, công chức nhà nước thật sự là công bộc tận tụy phục vụ nhân dân; 3) Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước; xây dựng và hoàn thiện nội dung phương thức lãnh đạo của Đảng phù hợp với đặc điểm, tính chất của các cơ quan nhà nước từng cấp.
Tháng 2 năm 1998, Bộ Chính trị (khoá VIII) đã ra chỉ thị về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Đây là nội dung quan trọng của việc củng cố và hoàn thiện chính quyền, thực hiện dân chủ ở cơ sở theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Như vậy trong suốt nhiệm kỳ của Đại hội VIII, vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam đã trở thành một nhiệm vụ lý luận và chính trị trọng điểm. Các quan điểm về nhà nước pháp quyền Việt Nam được Đảng ta nêu ra trong thời kỳ này cho thấy, bộ khung lý luận về nhà nước pháp quyền Việt Nam đã được xác lập và được luận giải ở tầm lý luận.
Đến Đại hội IX (tháng 4/2001) tư duy của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước pháp quyền được nâng lên một trình độ mới khi xác định sự cần thiết phải thực hiện chiến lược: ''Đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế”. Chiến lược đó được cụ thể hoá những nhiệm vụ trọng tâm: 1. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng; 2. Cải cách thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước; 3. Phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế; 4. Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức trong sạch, có năng lực; 5. Đấu tranh chống tham nhũng.
Để xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng, vấn đề được đặc biệt quan tâm là tiếp tục làm rõ mô hình lý luận về nhà nước pháp quyền. Đảng ta khẳng định:
''Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật''8.
Đại hội IX đã làm rõ các nội dung ''cải cách thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước'' bao gồm: 1. Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội; 2. Xây dựng một nền hành chính Nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hoá; 3. Phân công, phân cấp, nâng cao tính chủ động của chính quyền địa phương; 4. Cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp, 5. Thực hiện tinh giảm biên chế trong các cơ quan nhà nước; Có thể thấy rằng, mặc dù đã có những bước phát triển nhất định trong tư duy về nhà nước pháp quyền, song nhìn chung, Đảng ta vẫn chỉ tập trung xây dựng nhà nước pháp quyền về phương diện xây dựng bộ máy nhà nước.
Đại hội X (2006) của Đảng tiếp tục khẳng định và phát triển hơn chủ trương và các quan điểm đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đại hội xác định những nhiệm vụ cụ thể cho quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam:
''Xây dựng cơ chế vận hành của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan trọng việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật.
Xây dựng hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quy định của các cơ quan công quyền''9.
Đồng thời, Đại hội cũng nhấn mạnh tới việc tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội; Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ; Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người; Nâng cao chất lượng hoạt động của hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương.
Thực hiện kế hoạch công tác mà Đại hội X đã vạch ra, Đảng ta đã ra các Nghị quyết về vấn đề tiếp tục thực hiện chiến lược cán bộ, về xây dựng giai cấp công nhân, giai cấp nông dân vì đội ngũ trí thức, về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Tất cả các Nghị quyết trên đã góp phần làm rõ thêm từ nhiều phương diện khác nhau những nội dung của việc đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đại hội XI (1.2011) đã chỉ rõ những thành tựu đạt được trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội trong 5 năm qua, trong đó ''dân chủ xã hội chủ nghĩa có tiến bộ, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc được củng cố''10, ''việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh, hiệu lực và hiệu quả hoạt động được nâng cao''11, (công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng được tăng cường, đạt một số kết quả tích cực''12.
Cùng với những thành tựu đó, Đại hội đã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế liên quan tới việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, đó là ''dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ''13, “xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước''14, “công tác xây dựng đảng còn nhiều hạn chế, yếu kém, chậm được khắc phục''15.
Đại hội đã xây dựng phương hướng, nhiệm vụ trong 5 năm tới nhằm ''phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc''16, đặc biệt tiếp tục khẳng định nhiệm vụ ''đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam''17 với những nội dung quan trọng: 1. Nâng cao nhận thức về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, 2. Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước, 3. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới và 4. Tích cực thực hành tiết kiệm, phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí. Để thực thi được những nội dung đó một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định là ''xây dựng đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng''18.
2. Thành tựu và những vấn đề đặt ra đối với việc tiếp tục đổi mới tư duy lý luận của đảng về nhà nước pháp quyền
Quá trình hình thành và phát triển tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề nhà nước pháp quyền và xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta là một quá trình khó khăn, phức tạp và không phải không có những do dự; những cân nhắc nhất định. Song có thể khẳng định, cho đến nay, trong nhận thức và quan điểm của Đảng về vấn đề nhà nước pháp quyền và xây dựng nhà nước pháp quyền nước ta đã đạt được những kết quả quan trọng:
Thứ nhất, từ chỗ còn mơ hồ trong nhận thức về mô hình “nhà nước pháp quyền'', thậm chí xem nhà nước pháp quyền là sản phẩm của chính trị hội tư sản, gắn với nền chính trị và dân chủ tư sản, coi nó là một kiểu nhà nước, một chế độ nhà nước của giai cấp tư sản, chỉ tồn tại trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản, thì Đảng ta đã đi đến thừa nhận nhà nước pháp quyền là một phương thức tổ chức và hoạt động của nhà nước hàm chứa những giá trị có tính phổ biến, có thể và cần phải được vận dụng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Từ chỗ nhận thức rõ hơn vị trí, vai trò của pháp luật, Đảng ta đã đi đến chính thức thừa nhận và sử dụng khái niệm ''nhà nước pháp quyền” và từng bước xác định rõ ràng hơn, cụ thể hơn những yêu cầu, đặc trưng phù hợp với các đặc điểm về chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội của nước ta, nhất là những đặc điểm đó được đặt trong bối cảnh của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nuớc. Từ chỗ sử dụng nhiều thuật ngữ khác nhau như: ''Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam''; ''Nhà nước của dân do dân, vì dân”, ''Nhà nước pháp quyền, Việt Nam”, ''Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”; ''Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân” v.v. đến nay, trong các văn kiện chính thức của Đảng đã thống nhất sử dụng khái niệm ''Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Trong nhận thức của Đảng, những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xác định ở những nội dung chủ yếu sau.
Một là, nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trong đó nền tảng là khối đại đoàn kết toàn dân tộc với nòng cốt là liên minh giữa giai cấp công nhận với nông dân và tầng lớp trí thức.
Hai là, nhà nước hợp hiến, quản lý và điều hành xã hội bằng pháp luật đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Ba là, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Bốn là, nhà nước được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Năm là, nhà nước do đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Thứ hai, quá trình hình thành quan niệm của Đảng ta về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng chính là quá trình nhận thức và suy tư, trăn trở, tìm cách vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung, học thuyết Mác-Lênin về nhà nước nói riêng cho phù hợp vời đặc điểm cụ thể và định hướng phát triển của xã hội Việt Nam.
Trong bối cảnh phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ kháng chiến và kiến quốc, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, và sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và đưa cả nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, những kết quả đã được trong tư duy về nhà nước pháp quyền Việt Nam là rất đáng ghi nhận. Tuy nhiên, bên cạnh nhĩmg kết quả ấy, vẫn còn tồn tại những hạn chế trong nhận thức và vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước vào xây dựng nhà nước Việt Nam mới. Với biết bao suy tư, trăn trở, tìm tòi, suy ngẫm, để từng bước vượt qua những ấu trĩ khó tránh khỏi trong quá trình nhận thức, giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền đã được khẳng định. Có tác giả đã mô tả hành trình nhận thức của Đảng ta về vấn đề nhà nước qua ba giai đoạn: chuyên chính vô sản, làm chủ tập thể và nhà nước pháp quyền. Đạt đến giai đoạn tư duy về nhà nước pháp quyền, Đảng ta thực sự đã trở lại và tạo nên bước phát triển mới trên nền tảng các quan điểm khoa học của các nhà kinh điển về nhà nước, đặc biệt là tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân vốn đã được xác lập từ rất sớm.
Nhìn chung, có thể khẳng định rằng, những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về nhà nước đã được Đảng ta nhận thức và vận dụng ngày càng nhuần nhuyễn và hiệu quả trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
Thứ ba, Đảng ta ngày càng nhận thức rõ hơn những vấn đề có tính đặc thù trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta. Tính đặc thù này do những đặc điểm về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội trong lịch sử và quá trình phát triển hiện nay quy định.
Một là, chúng ta xây dựng nhà nước pháp quyền trước hết là đáp ứng yêu cầu của phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng nền kinh tế này mới hình thành và đang trong quá trình xây dựng, nó chưa có sẵn.
Hai là, chúng ta xây dựng nhà nước pháp quyền trong điều kiện xã hội công dân còn đang hình thành, như vậy là xây dựng nhà nước pháp quyền đồng thời với xây dựng xã hội công dân, thậm chí có lúc, dường như nhà nước pháp quyền đang quy định, đang định hướng cho sự hình thành xã hội công dân, trong khi đúng ra theo quan điểm của Mác thì ''xã hội công dân là cái quyết định nhà nước pháp quyền''.
Ba là, chúng ta xây dựng nhà nước pháp quyền, xã hội công dân trong điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội, với chế độ nhất nguyên chính trị (Đảng Cộng sản cầm quyền, lãnh đạo). Cho đến nay, nhân loại mới chỉ biết đến những nhà nước mang tính pháp quyền được xây dựng ở các nước tư bản chủ nghĩa, còn những thành quả mà chúng ta đã thu được qua kinh nghiệm xây dựng nhà nước pháp quyền dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Lênin nước Nga và Hồ Chí Minh ở Việt Nam tuy rất quý giá, song cũng còn ở giai đoạn mở đầu, vì thế có rất nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đang đặt ra, cần phải giải quyết để có thể xây dựng được nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo đúng nghĩa của nó.
Bốn là, cùng một lúc Đảng ta phải lãnh đạo cả việc xây dựng nền kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền và xã hội công dân, trong đó xây dựng pháp luật và thực hiện dân chủ hoá, công khai hoá, chống quan liêu, tham nhũng được đặt ở vị trí hàng đầu. Điều đó cho thấy tầm vóc lớn lao, tính chất khó khăn và phức tạp của toàn bộ các vấn đề mà Đảng, nhà nước, nhân dân ta cần phải giải quyết.
Năm là, phát triển nền kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước pháp quyền và xã hội công dân theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện toàn cầu hoá. Vì vậy việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, tính tự giác trong nhận thức và hành động của các chủ thể chính trị, nhất là Đảng Cộng sản là một vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với quá trình xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Những thành quả to lớn mà Việt Nam đã đạt được trong thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền những năm qua đã chứng tỏ quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về vấn đề đặc biệt quan trọng này. Một mặt, quan điểm của Đảng ta về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là cơ sở, định hướng chính trị quan trọng để giới khoa học tiếp tục đi sâu nghiên cứu, phát triển lý luận về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Mặt khác, giới khoa học, từ những nghiên cứu của mình, cũng cần tiếp tục tư vấn tham mưu cho Đảng để quán triệt đổi mới tư duy lý luận của đảng về nhà nước pháp quyền tiếp tục có được những bước tiến mới.
Trên cơ sở những thành quả đã đạt được, quá trình tiếp tục đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về nhà nước pháp quyền trong thời gian tới trước hết cần theo hướng như sau:
Thứ nhất, cần luôn quán triệt sâu sắc trong nhận thức lý luận học thuyết Mác-Lênin về hình thái kinh tế - xã hội, về quy luật vận động và phát triển của xã hội loài người, về tính tất yếu đi lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, để từ đó khẳng định rằng, tuy Việt Nam bắt tay vào việc xây dựng nhà nước pháp quyền chậm hơn so với nhiều nước tư bản trên thế giới, song nhà nước pháp quyền mà chúng ta xây dựng là hình thức nhà nước pháp quyền của một chế độ xã hội ở trình độ phát triển cao hơn chế độ tư bản chủ nghĩa. Chúng ta xây dựng sau, ít kinh nghiệm hơn, song lại phải xây dựng nhà nước pháp quyền cao hơn mọi nhà nước có tính pháp quyền, chưa đầy đủ, đang tồn tại trong hiện thực ở các nước tư bản chủ nghĩa.
Thứ hai, xét về bản chất, nhà nước pháp quyền theo nghĩa đầy đủ nhất đồng nghĩa với nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhà nước pháp quyền trong chủ nghĩa xã hội. Chỉ có trong chế độ xã hội chủ nghĩa, nhân dân mới là chủ thể đích thực, duy nhất và tối cao của mọi quyền lực và quyền lợi trong xã hội, mới có thể tự mình tổ chức xã hội và bộ máy nhà nước xoay quanh quyền lực và quyền lợi của mình. Vì thế, lý luận và kinh nghiệm thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền trên thế giới (mà thực chất là của các nước tư bản) là quan trọng, song chỉ có ý nghĩa tham khảo. Việc tiếp thu và vận dụng lý luận kinh nghiệm thực tiễn này cần được đặt trên nền tảng tư duy phê phán.
Thứ ba, bấy lâu nay, trong quan điểm của giới khoa học và của cả Đảng Cộng sản Việt Nam, vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền chủ yếu được tập trung ở vấn đề xây dựng bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật, tức là tập trung ở lĩnh vực nhà nước. Đứng trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về nhà nước mà xem xét, thì việc xây dựng nhà nước pháp quyền thực chất là việc kiến tạo một cách thức tổ chức xã hội mới, trong đó, xây dựng nhà nước, xây dựng pháp luật chỉ là một vòng khâu, dù rằng, đây là vòng khâu quan trọng bậc nhất. Nếu ta tạm quy ước khái niệm ''nhà nước'' được dừng để chỉ ''bộ máy nhà nước'' và khái niệm ''xã hội'' để chỉ chỉnh thể các quan hệ giữa con người với con người đóng vai trò cơ sở của nhà nước, thì xây dựng ''nhà nước pháp quyền'' cần được tư duy là xây dựng một cách chỉnh thể cả ''nhà nước pháp quyền'' và xã hội pháp quyền. Nói cách khác là xây dựng chỉnh thể đời sống xã hội bao gồm toàn thể các quan hệ xã hội, hoạt động xã hội và thiết chế xã hội mà trong đó, tinh thần pháp quyền là cái chi phối tất cả. Hay nói theo cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh là ''trăm đều phải có thần linh pháp quyền”.
Thứ tư, xây dựng nhà nước pháp quyền thực ra là xây dựng một nhà nước dân chủ hoàn thiện. Nhà nước dân chủ - hiểu theo quan niệm của Mác - là nhà nước -xã hội mà trong đó nhân dân là chủ thể tối cao, duy nhất đang tự tổ chức, tự quản lý, tự điều hành; là một nhà nước - xã hội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Chính vì trong nhà nước pháp quyền, nhân dân là chủ thể tối cao, duy nhất, và nhân dân tự tổ chức, tự quản lý, tự điều hành như thế, nên không tồn tại các quan hệ đối lập, đối kháng, hạn chế lẫn nhau giữa các loại quyền lực. Chỉ có một chủ thể quyền lực và các loại quyền lực đều quy về chủ thể ấy, cho nên quan hệ đích thực trong nhà nước pháp quyền là quan hệ phân công lao động đạt đến trình độ tối ưu giữa các cơ quan được nhân dân ủy quyền. Sự hạn chế quyền lực - nếu muốn dùng từ ngữ này - thực chất là sự hạn chế, tính chất, phạm vi, của quyền lực mà nhân dân ủy thác cho một thiết chế quyền lực của nó. Vì thế, trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, tất cả những vấn đề như xây dựng Đảng, củng cố và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và xã hội, xây dựng một bộ máy nhà nước trên cơ sở xác định rõ phạm vi quyền lực của nó, xây dựng hệ thống pháp luật đủ sức mạnh quản lý và điều hành xã hội một cách hiệu quả, xây dựng ''xã hội công dân'' như là lĩnh vực mà tính tự quản của nhân dân là đặc trưng nổi bật, v.v, đều cần phải được tư duy là xây dựng các thiết chế, thể chế quyền lực của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tính thống nhất, chứ không phải là tính mâu thuẫn, hay đối lập, đối kháng, phải luôn được tư duy là đặc điểm nổi bật trong cách thức tổ chức và vận hành quyền lực của nhân dân trong nhà nước pháp quyền Việt Nam.
Thứ năm, xây dựng Đảng, củng cố và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với nhà nước và xã hội là một nội dung trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, đồng thời cũng là Đảng của dân tộc Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức của nhân dân, tập hợp những thành viên ưu tú (elite) trong nhân dân, đại diện và đấu tranh cho quyền lợi của nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam chính là nhân dân, là một bộ phận của nhân dân, là một thiết chế quyền lực của nhân dân, do chính nhân dân lập nên, bảo vệ, xây dựng. Sức mạnh của Đảng bắt nguồn và thể hiện sức mạnh của nhân dân. Quyền lực của Đảng chính là sự thể hiện quyền lực của nhân dân. Đảng chính là công cụ để nhân dân thực thi quyền lực của mình. Chính vì thế, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với bản chất là cách thức tổ chức nhà nước và xã hội thể hiện và bảo đảm được mọi quyền lực và quyền lợi của nhân dân, thì lại càng phải xây dựng, củng cố, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vị trí, vai trò, tác động của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với nhà nước và toàn thể xã hội chính là một bộ phận trong chỉnh thể tổ chức và vận hành quyền lực của nhân dân, trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nói cách khác, Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ lãnh đạo quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà bản thân tổ chức Đảng, vị trí, vai trò của Đảng đối với nhà nước và xã hội còn là một bộ phận của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo nghĩa là hình thức tổ chức và phương thức thực thi quyền lực của nhân dân. Chính vì vậy, xây dựng Đảng phải luôn được coi là một nội dung của xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
----
Dân chủ xã hội chủ nghĩa và thực hiện dân chủ theo tinh thần Đại hội XI của Đảng TS. Trương Minh Tuấn
Vụ trưởng – Giám đốc Trung tâm thông tin
công tác Tuyên giáo, Ban Tuyên giáo Trung ương
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) nêu rõ: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm”. 1
Dân chủ - mà nội dung thực chất là quyền lực thuộc về nhân dân, từ chỗ là một khát vọng, ngày nay nó đã trở thành một nguyên tắc cơ bản của thể chế dân chủ nói chung và dân chủ XHCN nói riêng. Từ khát vọng đến việc xác lập thành một nguyên tắc pháp lý cho đến khi trở thành một chế độ dân chủ hiện thực - theo tư tưởng của C.Mác quả là một quá trình đầy khó khăn, phức tạp, lâu dài.
1. Một trong những nội dung cơ bản trong học thuyết chính trị mácxit- lêninnit là sự luận giải về tương quan giữa nền dân chủ tư sản và nền dân chủ vô sản (dân chủ XHCN); là xác định cách thức, con đường đảm bảo cho nhân loại có thể tiến tới một xã hội dân chủ, văn minh, nhân đạo và đấu tranh cho một xã hội dân chủ hiện thực theo tư tưởng cách mạng và khoa học đã, đang và sẽ là thực tiễn sinh động của phong trào công nhân và các lực lượng tiến bộ trong thời đại ngày nay.
Trên cơ sở luận chứng rằng, quyền bình đẳng xã hội hoàn toàn không thể thực hiện được trong một chế độ xã hội dựa trên nền của sự bất bình đẳng về kinh tế. Những người mácxít cho rằng: Chỉ có con đường cách mạng triệt để - xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xoá bỏ mọi hình thức áp bức nô dịch giai cấp, dân tộc mới thật sự đạt tới bình đẳng hiện thực. Và điều đó khách quan nằm trong bản chất sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, nằm trong nội dung hợp thành của cuộc cách mạng XHCN.
Trên thực tế, trong các giai đoạn tiến triển của nó, những cuộc cách mạng xã hội do Đảng Cộng sản ở các nước lãnh đạo từ giữa cuối thế kỷ XIX đến nay đều diễn ra theo trục cơ bản đó. Xét ở một phương diện nhất định, đó là một quá trình tiến hoá chính trị - xã hội gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người ở một quốc gia dân tộc và trên phạm vi toàn thế giới. Logic của tiến trình lịch sử ấy, ở Việt Nam đã, đang và sẽ gắn liền với sự nghiệp cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xướng, lãnh đạo thực hiện. Chính vì lẽ đó, hoàn toàn có đủ cơ sở để khẳng định dân chủ XHCN là một giá trị hợp thành trong mục tiêu của toàn bộ sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước ngày nay. Nếu nói rằng: “Sau 20 năm thực hiện Cương lĩnh, chúng ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước thực hiện thành công bước đầu công cuộc đổi mới, ra khỏi tình trạng kém phát triển; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, tăng cường. Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của đất nước đã tăng lên rất nhiều, tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn theo con đường xã hội chủ nghĩa”2, thì cũng hết sức khiêm tốn để khẳng định rằng: Một trong những nguyên nhân có ý nghĩa quyết định cho những thành quả đó là sự ra đời, sự xác lập vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Đảng Cộng sản Việt Nam trong đời sống chính trị - xã hội của đất nước.
Sản sinh ra từ hiện thực phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, phong trào yêu nước và phong trào công nhân Việt Nam những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX; từ bản chất và khả năng thực tế, được sự thẩm định trong suốt tiến trình đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác lập vai trò lực lượng chính trị duy nhất đảm đương được sứ mệnh lãnh đạo các tầng lớp nhân dân lao động Việt Nam cùng thực hiện mục tiêu: Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH - Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
2. Với tư cách là lực lượng chính trị duy nhất cầm quyền - cho dù là kết quả tất yếu của lịch sử, điều đó không có nghĩa là Đảng Cộng sản Việt Nam tự yên tâm, bằng lòng với những gì đã có, đã làm được. Cần lưu ý rằng, trong điều kiện chưa có chính quyền, thì sự tồn vong của một đảng chính trị luôn phụ thuộc vào sự che chở, đùm bọc, ủng hộ của quần chúng nhân dân. Vì vậy, Đảng không thể không vì dân, không thể xa dân. Nhưng khi Đảng đã trở thành đảng cầm quyền, thì nguy cơ đó là rất lớn - Bệnh kiêu ngạo cộng sản, bệnh quan liêu, xa dân là thứ bệnh mà Lênin, Bác Hồ đã từng cảnh báo. Trên thực tế, những cảnh báo đó đã có lúc, có nơi không được các đảng Cộng sản cầm quyền trên thế giới có những giải pháp tích cực đề phòng, ngăn chặn… Và đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, ở một mức độ nhất định, căn bệnh này vẫn là nguy cơ tiềm ẩn: “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp,… làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước”3. Mặc dù từ ngày đổi mới đến nay, Đảng ta đã nói nhiều, làm nhiều để chạy chữa căn bệnh đó, song xét một cách tổng thể: “Quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi, trên một vài lĩnh vực còn bị vi phạm. Việc thực hành dân chủ còn mang tính hình thức; có tình trạng lợi dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội”4 và “Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt được yêu cầu đề ra. Quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc xã hội”5.
Nguyên nhân của thực trạng trên có thể là khách quan hoặc chủ quan, nhưng nếu từ góc độ dân chủ để xem xét, có thể nói:
Thứ nhất, cả về lý luận cũng như trong thực tiễn cho thấy: để đảm đương vai trò lãnh đạo xã hội, vai trò cầm quyền trong chế độ dân chủ, trước hết Đảng ta nói chung và mỗi đảng viên cộng sản nói riêng phải là “lực lượng đại diện cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc, thời đại” (Lênin); hay là “đội tiền phong dũng cảm và bộ tham mưu sáng suốt của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và của cả dân tộc” (Hồ Chí Minh).
Cũng vì lẽ đó, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), khi diễn đạt về Đảng nêu rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”6. Xác định như vậy, không hề làm giảm đi tính giai cấp của Đảng, vả lại khi nói “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.”7, thì đó là tiêu chí căn cốt nhất để khẳng định bản chất của Đảng rồi.
Tất nhiên, triển khai nội dung này trong thực tế cần phải tập trung quán triệt những vấn đề cơ bản sau:
- Cần nhận thức và xử lý biện chứng mối quan hệ giữa giai cấp, dân tộc và thời đại trong mọi chủ trương, chính sách và mọi hoạt động của Đảng. Nói cách khác, vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay là phải vừa làm cho Đảng thấm nhuần lý luận tiên phong để làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong, nhưng đồng thời Đảng phải sống trong sự đùm bọc, chở che của nhân dân, của dân tộc thì mới trường tồn. Xa rời lợi ích của nhân dân, của dân tộc, sớm muộn, Đảng sẽ không còn nguồn sống.
- Cụ thể hoá những nội dung có tính thể chế và cơ chế để thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Trên thực tế, khi thực hiện nguyên tắc này vẫn còn tồn tại những cách hiểu, cách làm rất khác nhau, trong đó có không ít nơi biến dân chủ thành hình thức để thâu tóm quyền lực cá nhân, tạo ra sự chuyên quyền, lộng quyền. Chỉ có thể dựa vào những quy định có tính thể chế và thông qua một cơ chế rõ ràng, minh bạch mới kịp thời phát hiện những cách làm của những cá nhân nhân danh tập thể, dùng quyền để “lái”, để “áp đặt” nhiều quyết định đi ngược nguyện vọng, lợi ích chính đáng của số đông vì sự phát triển chung.
- Thực hiện một cách thực tế hơn nữa nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong Đảng. Bởi trên thực tế, cách thức đang làm nặng về hình thức. Rất nhiều sai trái, khuyết điểm của cán bộ, đảng viên thường đến khi gây hậu quả nghiêm trọng cho Đảng, cho dân, cho đất nước thì tổ chức Đảng mới vỡ nhẽ… Ở đây không chỉ đơn thuần là sự hô hào về tư tưởng, rèn luyện về nhân cách, đạo đức, mà vấn đề là phải được giải quyết từ cơ chế thẩm định, giám sát, đánh giá giữa lời nói và kết quả việc làm của mỗi cán bộ, đảng viên. Có thể mở rộng nhiều hình thức để thu thập thông tin đánh giá, góp ý của quần chúng đối với cán bộ, đảng viên. Muốn thẩm định, đánh giá đúng thì phải cụ thể hoá, chi tiết hoá, công khai hoá những yêu cầu, tiêu chuẩn và kết quả hoạt động của mỗi cán bộ, đảng viên.
Thứ hai, Đảng lãnh đạo xã hội, Đảng cầm quyền trong thể chế dân chủ, một mặt Đảng phải định hướng sự phát triển của đất nước, của xã hội bằng những quyết sách chính trị đúng đắn, có tính khả thi; mặt khác phải thông qua công tác tổ chức, công tác cán bộ để xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị nói chung và bộ máy Nhà nước nói riêng.
- Trên cơ sở phương pháp phân tích hệ thống, có thể thấy sức mạnh - chất lượng và hiệu quả của hệ thống chính trị ở nước ta không chỉ phụ thuộc vào chất lượng và hiệu quả của từng nhân tố cấu thành (Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội), mà còn phụ thuộc rất nhiều vào việc giải quyết mối quan hệ giữa các nhân tố đó, tức là sự phân định chức năng, thẩm quyền giữa các nhân tố nói trên; phải thực hiện đúng cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, tức là thực hiện sao cho hệ thống chính trị của chúng ta vận hành nhằm đạt tới mục đích bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân (trước hết là quyền lực Nhà nước), trong đó Đảng Cộng sản là hạt nhân lãnh đạo của cả hệ thống và Nhà nước là trụ cột của hệ thống đó.
- Với tư cách là trụ cột của hệ thống chính trị, Nhà nước mạnh, hoạt động có hiệu quả là tiêu chí phản ánh tập trung sức mạnh và hiệu quả của hệ thống chính trị, trong điều kiện hiện nay đó là Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Nhà nước đó tương thích với đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, vừa đảm đương tốt vai trò điều tiết, định hướng, nhưng lại vừa là cộng sự tin cậy để kích thích kinh tế thị trường phát triển rộng khắp mọi lúc, mọi nơi, đủ sức hội nhập quốc tế.
Ở đây, việc đảm bảo cho Nhà nước thực sự của dân, tức là do dân tự do lựa chọn thông qua bầu cử bằng phiếu bầu là điều có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về phương diện dân chủ. Đành rằng, Đảng cầm quyền phải lo công tác nhân sự trong bộ máy Nhà nước, nhưng “ý Đảng và lòng dân” phải có sự đồng thuận. Đừng để xẩy ra hiện tượng chưa bầu cử mà đã đoán biết được chắc chắn ai đã “đắc cử” rồi; hoặc lá phiếu của dân không thực hiện theo “ý Đảng”.
Muốn vậy, Đảng nên đưa ra nhiều phương án, nhiều ứng cử viên của Đảng vào một chức vụ Nhà nước, còn kết quả là ai trúng cử, cũng đều là người của Đảng. Nên chăng, cần từng bước thử nghiệm để đi đến cách bầu cử trực tiếp của nhân dân đối với những người đứng đầu các cấp chính quyền địa phương hiện nay.
Phải hoàn thiện và đổi mới một bước mạnh mẽ hơn nữa cơ quan lập pháp - cơ quan có chức năng đặc biệt quan trọng - “sản xuất” thể chế. Có thể mở rộng hơn nữa thành viên Quốc hội hoạt động chuyên nghiệp theo đúng nghĩa là những người làm luật: đề xuất, soạn thảo và biểu quyết thông qua luật.
Thứ ba, khi đã xem dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu, động lực của CNXH ở nước ta hiện nay, thì việc bảo đảm và phát huy dân chủ trong hệ thống chính trị, trong xã hội là một trong những yêu cầu cấp thiết. Đương nhiên, đây là một quá trình không ngừng hoàn thiện về nhận thức lẫn tổ chức thực hiện, quá trình đó đòi hỏi sự nỗ lực từ phía nhân tố lãnh đạo, quản lý (hệ thống chính trị) lẫn từ phía quần chúng nhân dân.
- Về nhận thức, cần nhấn mạnh rằng trong tiến trình hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay, thực tế cho thấy tầm quan trọng của yếu tố nội lực, nội sinh. Nếu không có những giải pháp tích cực, hiệu quả để nâng cao khả năng, trình độ, sức mạnh, trí tuệ, tài năng, bản lĩnh, phẩm hạnh của con người Việt Nam - sức mạnh của cả dân tộc thì hoặc sẽ bị đánh bật ra khỏi dòng chảy của thời đại hoặc sẽ bị nhấn chìm trong dòng chảy đó.
Chúng ta coi giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, thì phải có sự đầu tư, đổi mới rất mạnh mẽ, rất cơ bản lĩnh vực này.
Mở rộng dân chủ trong Đảng là điều kiện quyết định bảo đảm và phát huy dân chủ trong xã hội. Đây là nguyên tắc hoạt động của Đảng và được Đảng ta thường xuyên thực hiện. Mỗi đảng viên, cán bộ có quyền làm chủ cơ quan, tổ chức và phải được bảo vệ trong việc đấu tranh thực hiện dân chủ. Nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước trên mọi mặt đời sống xã hội là điều kiện bảo đảm và phát huy dân chủ, hạn chế những kẽ hở và sai lầm dẫn đến tiêu cực. Vấn đề đáng quan tâm trước hết là bầu cử trong Đảng, vì Đảng ta là Đảng cầm quyền, nên việc bầu cử trong Đảng như thế nào, thì xã hội sẽ như thế.
Sức mạnh của đất nước, dân tộc là sức mạnh của toàn dân, của chế độ, nền tảng của sức mạnh đó, phương thức con đường để tạo dựng và phát huy sức mạnh đó chính là sự đồng thuận giữa “ý Đảng, lòng dân” - Để làm được điều này, có thể xem việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở là một khâu có tính đột phá, là vấn đề cực kỳ quan trọng, là giải pháp hữu hiệu đối với việc phát huy dân chủ trong tình hình hiện nay.
Không ai có thể phủ nhận giá trị hiện thực của quá trình triển khai, tổ chức thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong những năm qua, nhưng cũng chính trong quá trình đó, đã bộc lộ ra không ít vấn đề cần phải bổ sung, điều chỉnh để thúc đẩy và nâng cao tính hiệu quả của nó.
Phải “có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện trên thực tế quyền làm chủ trực tiếp. Thực hiện tốt hơn Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Phát huy dân chủ, đề cao trách nhiệm công dân, kỷ luật, kỷ cương xã hội; phê phán và nghiêm trị những hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, những hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội; chống tập trung quan liêu, khắc phục dân chủ hình thức”8.
Rõ ràng rằng vấn đề dân chủ và thực hiện dân chủ ở cơ sở là vấn đề vừa có tính cấp thiết, vừa có tính lâu dài; đồng thời là mối quan tâm chung của các nhà lãnh đạo, quản lý ở các cấp. Mở rộng dân chủ ở cơ sở là nội dung cơ bản của việc phát triển dân chủ XHCN.
Hiện nay có tình trạng, nhiều cán bộ và người dân chưa thấy hết tầm quan trọng của vấn đề dân chủ: Một số cán bộ lãnh đạo không biết hoặc lãnh đạo không theo nguyên tắc dân chủ, nhiều công dân đã được trao quyền dân chủ rồi, nhưng không biết sử dụng quyền đó, không coi đó là quan trọng để phát huy nó; thậm chí còn có biểu hiện thờ ơ, coi thường, làm tầm thường hoá nó, làm tha hoá cả những nội dung thiêng liêng và cao cả của dân chủ. Nhất là trong bầu cử.
Chúng ta thường nêu: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, đây là phương châm quan trọng để dân có thể làm chủ. Nhưng biết, bàn, làm, kiểm tra cái gì? Bằng cách nào? Ở đâu? Và khi nào? Từng người dân đơn lẻ, lăn lộn mưu sinh hàng ngày làm sao đủ điều kiện để biết, bàn, làm và kiểm tra được?
Bên cạnh đó, tình trạng quan liêu của không ít chính quyền các cấp (xa dân là đặc trưng bản chất của quan liêu), hành chính hoá, đặc biệt là tình trạng nhũng nhiễu chưa giảm đang là vấn đề hết sức nghiêm trọng.
Tất cả những thực trạng trên đều dẫn đến tình trạng xa dân, đứng trên dân (mặc dù tất cả đều nói là vì dân), thậm chí cơ sở cũng xa dân, không nắm được dân.
Để thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, trước mắt cần tập trung giải quyết một số vấn đề sau:
Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức dân chủ cho người dân, thực sự hướng về cơ sở, đến với dân, nói cho dân nghe và nghe dân nói. Công tác tư tưởng phải gắn với vấn đề dân sinh, dân trí, dân quyền để thực hiện được dân chủ.
Hai là, xây dựng Đảng cùng với đổi mới hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, trong sạch, phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, tăng cường giáo dục pháp luật.
Ba là, trong thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay, nên chăng việc ứng cử, tranh cử đặt ra một cách phổ biến hơn. Gần đây chúng ta đã có nhiều tiến bộ là đã có số dư trong bầu cử. Tuy nhiên, bầu cử phải bảo đảm tính chính xác, khoa học, khách quan, trung thực.
Bốn là, để phát huy hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân, cần phải có những quy chế cụ thể, nền nếp, nhanh chóng khắc phục mọi biểu hiện dân chủ hình thức; đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, xử lý nghiêm những hành vi nhũng nhiễu, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân.
Năm là, nâng cao chế độ dân chủ đại diện, mở rộng và có cơ chế thực hiện dân chủ trực tiếp để hỗ trợ cho việc nâng cao chế độ dân chủ đại diện.
Sáu là, hoàn thiện những thiết chế bảo đảm thực hiện dân chủ hoá đời sống xã hội và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Bảy là, phát huy vai trò và tạo điều kiện để các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở tham gia xây dựng các chủ trương, chính sách và thực hiện vai trò phản biên, giám sát xã hội./.
__________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr 84-85.
2. Sđd, tr 20-21.
3. Sđd, tr 173.
4. Sđd, tr 171.
5. Sđd, tr 172.
6. Sđd, tr 88.
7. Sđd, tr 88.
8. Sđd, tr 239.
Xây dựng tổ chức chính trị - xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng - yếu tố bảo đảm thực hiện thành công dân chủ hóa XHCN ở nước ta hiện nay ThS. Nguyễn Hoàng Việt
Tạp chí Cộng sản
Khái niệm “Tổ chức chính trị - xã hội” dùng trong các văn bản của Đảng, Nhà nước ta hiện nay, được hiểu theo nghĩa: là tập hợp những người có chung mục tiêu về chính trị, có cùng đặc điểm xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
1. Quan điểm về tổ chức chính trị của Chủ nghĩa Mác – Lênin:
“Quần chúng” tham gia vào cuộc cách mạng - một khái niệm đòi hỏi có cái nhìn biện chứng. Là người phát triển và bổ sung chủ nghĩa Mác bằng thực tiễn cách mạng vô sản ở nước Nga, V.Lênin hiểu rõ vai trò của các nhóm quần chúng - được thu hút và tham gia vào phong trào cách mạng với tất cả những đặc điểm của đội ngũ mình. Họ rất cần được sự hướng dẫn theo một cương lĩnh chung, trong đó quyền lợi và nghĩa vụ của mình được bảo đảm những gì và phải thực hiện như thế nào. Lênin đã chỉ rõ, phải làm rõ được bản chất của từng nhóm: “Khái niệm “cách mạng toàn dân” đòi hỏi người mác-xít phải phân tích chính xác những lợi ích khác nhau của các giai cấp khác nhau liên hợp lại với nhau trong khuôn khổ những nhiệm vụ chung nhất định”1.
Thực tiễn lịch sử càng phong phú, sôi động càng thu hút đông đảo sự tham gia tự giác của nhiều cá nhân. Người nhấn mạnh: “Phạm vi của những hoạt động lịch sử càng rộng, quy mô của những hành vi đó càng lớn thì những người tham gia vào đó càng nhiều”2. Từ sự tham gia đó, để biến những hành động bột phát, những phong trào mang tính nhất thời thành phong trào tự giác mang tính bền vững, cần phải có sự hướng dẫn, tổ chức của đảng chính trị: “sự cải tạo mà chúng ta muốn tiến hành càng sâu sắc, càng cần phải có hứng thú và thái độ tự giác đối với sự cải tạo đó, càng phải thuyết phục được thêm hàng triệu và hàng chục triệu người tin tưởng vào sự cần thiết đó”3. Do đó, để thống nhất, tập hợp đông đảo nhân dân dưới ngọn cờ của đảng vô sản, cần thiết phải có các tổ chức chính trị - xã hội tương ứng để dẫn dắt những tầng lớp trong xã hội, theo đó không chỉ “giới hạn ở công việc của Công đoàn công nhân nông nghiệp và lâm nghiệp toàn Nga, … Củng cố công tác của các công đoàn có nghĩa là mở rộng nó ra không những tới giai cấp vô sản nông thôn, mà là tới toàn thể nông dân lao động.”4.
Phân tích những bài nói, bài viết chỉ đạo thực tiễn cách mạng Nga, có thể thấy, V.Lê-nin luôn quan tâm phát triển lực lượng sản xuất, với tư cách là những người lao động nông thôn và thành thị, công nhân và các nhóm nông dân (tập thể cũng như các nông dân trong hiệp hội nông dân ở các địa phương) bằng cách từng bước nâng cao tay nghề và thói quen lao động tập thể; đồng thời, xây dựng các tổ chức để tập hợp những nhóm đó theo sự lãnh đạo của đảng vô sản. Có như vậy, chủ trương khôi phục và phát triển kinh tế ở nước Nga xôviết mới có cơ sở thực tiễn để chiến thắng những cản trở bên ngoài và những lực cản bên trong do những thói quen lạc hậu sinh ra.
Vị trí, vai trò quan trọng của tổ chức công đoàn Nga trong việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước Nga cách mạng
Thứ nhất, công đoàn có nhiệm vụ bảo đảm tính chất của giai cấp vô sản trong hệ thống chính trị, thượng tầng kiến trúc...
Do yêu cầu của cách mạng, do xuất phát điểm của nước Nga khi đó, nên trong bộ máy lãnh đạo của chính quyền xô-viết vẫn còn rơi rớt những ảnh hưởng của tư tưởng tiểu nông, tư tưởng tiểu tư sản, mà những đặc trưng của chúng chính là tác phong vô kỷ luật trong lao động, trong sinh hoạt chính trị, là sự buông tuồng trong việc tuân thủ những nguyên tắc tổ chức sinh hoạt của một đảng vô sản. V.I.Lênin đã mạnh mẽ và nghiêm khắc chỉ trích những biểu hiện đó trong đội ngũ chính quyền xô-viết và đảng bôn-sê-vích. Người cũng hiểu rõ rằng, để khắc phục tình trạng đó, đòi hỏi cần có thời gian, và hơn hết, cần phải có điều kiện vật chất cụ thể, đó chính là sự ra đời và thắng thế của nền sản xuất lớn công nghiệp hóa trước nền sản xuất nhỏ tư hữu đang còn cơ sở vững chắc nước Nga khi đó.
Tuy nhiên, nhiệm vụ của người cộng sản là phải vận dụng mọi điều kiện có thể trong hoàn cảnh cho phép đề từng bước xây dựng nền tảng của chính quyền xô-viết. Do đó, công đoàn có nhiệm vụ quan trọng là tăng cường tính chất tổng quan trong chính quyền xô viết cũng như đảng bôn-sê-vích. Đây là nhiệm vụ cơ bản, chỉ có thể hoàn thành cùng việc thực hiện một loạt nhiệm vụ khác, và được đảm bảo bởi hiệu quả việc thực hiện tốt các nhiệm vụ đó. Cụ thể hóa nhiệm vụ vào thực tế lãnh đạo, công đoàn có nhiệm vụ góp phần quản lý sản xuất, giữ nghiêm kỷ luật lao động bằng cách tham gia vào các hội đồng kỷ luật, từ đó góp phần xây dựng kỷ cương xã hội.
Thứ hai, dìu dắt, bồi dưỡng giai cấp công nhân ngày càng trưởng thành. Xác định cách mạng nước Nga phải trải qua bước quá độ, thực hiện chủ nghĩa tư bản nhà nước để từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội, công đoàn còn có nhiệm vụ trực tiếp dìu dắt, bồi dưỡng giai cấp vô sản ngày càng trưởng thành, thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng về cách mạng vô sản: “Một mặt, công đoàn phải biết thích ứng với quần chúng, với trình độ hiện thời của quần chúng; mặt khác, công đoàn tuyệt đối không được nuông chiều những thành kiến và tư tưởng lạc hậu của quần chúng, trái lại phải không ngừng đưa quần chúng lên một trình độ ngày càng cao hơn”5. “những đồng chí này phải sống sâu vào đời sống công nhân, phải biết tường tận đời sống công nhân, biết xác định một cách chắc chắn, bất cứ trong vấn đề nào, trong lúc nào, tâm trạng của quần chúng, những nhu cầu, những nguyện vọng, những ý nghĩ thật sự của họ”6.
Thứ ba, bảo vệ quyền lợi của giai cấp công nhân trước giới chủ.
Đây là chức năng nguyên thủy của công đoàn, nhưng trong một nước như nước Nga, nó còn có nội dung khác so với chức năng của công đoàn ở các nước tư bản chủ nghĩa. Với công đoàn Nga, họ cần phải: “từ nay trở đi phải bảo vệ, trong mọi lĩnh vực và bằng mọi cách, những lợi ích giai cấp của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh của họ chống tư bản. Nhiệm vụ đó phải được công khai đặt lên hàng đầu,...”7. Tại các xí nghiệp tư bản nhà nước, công đoàn có nhiệm vụ “các công đoàn tuyệt đối phải có nghĩa vụ đấu tranh với những người tuyển công nhân vào làm việc để bảo vệ lợi ích giai cấp của giai cấp vô sản và của quần chúng lao động”8.
Thứ tư, tham gia xây dựng đảng bôn-sê-vích, công đoàn phải thực hiện công việc khó khăn, công phu hơn, đó là: “Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của công đoàn là đề bạt và đào tạo những người quản lý trong công nhân và nói chung trong quần chúng lao động”9. Đây chính là những hạt giống tốt cho đội ngũ lãnh đạo giai cấp công nhân và người lao động, đồng thời là đại biểu tiềm tàng ưu tú cho đảng cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân.
Để làm được những điều này, công đoàn thực chất phải chăm lo thiết thực về quyền lợi vật chất của công nhân, bên cạnh đó không được quên mục tiêu lâu dài là hình thành vững chắc thế giới quan, nhân sinh quan cách mạng trong đội ngũ người lao động: “Điều quan trọng nhất là công đoàn phải… bắt tay một cách có ý thức và kiên quyết vào một công tác giáo dục kiên nhẫn, thiết thực và lâu dài, để làm cho công nhân và tất cả mọi người lao động học được một cách thực tiễn cách quản lý nền kinh tế quốc dân trong cả nước”10.
2. Tổ chức chính trị-xã hội và sự nghiệp cách mạng nước ta
Cho đến nay chúng ta có 5 tổ chức chính trị - xã hội, hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đó là: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu Chiến binh Việt Nam. Các tổ chức chính trị - xã hội này là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, là cầu nối giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, là nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân.
2.1. Các tổ chức chính trị - xã hội của Việt Nam đều nhằm góp phần bảo vệ quyền lợi, nâng cao vị thế của quần chúng nhân dân
Từ rất sớm, Hồ Chủ tịch đã nhận rõ vị trí, vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Khi thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam, khi trình bày Chính cương tối đa hạn độ của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, trong phần “Trách nhiệm cốt yếu của về chiến lược chính sách của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên”, Hồ Chủ tịch chỉ rõ: “Bản Hội phải là những phần tử thuần tuý công nông các ngộ mà tổ chức thành, thì mới có thể đại biểu cho lợi ích của đại đa số quần chúng được... trách nhiệm chủ yếu thứ nhất của Hội là thu phục lấy đại bộ phận quần chúng. Hội viên bản Hội phải thâm nhập vào trong nhà máy, mỏ than, và trong thôn quê, và trong tất cả các cơ quan sinh sản mà làm việc, phải đem quần chúng mà tổ chức lại cho thành những đoàn thể tranh đấu (công hội, nông hội, hợp tác xã)”.
Công đoàn Việt Nam tiền thân là tổ chức Công hội đỏ Bắc Kỳ được thành lập ngày 28-7-1929 tại số nhà 15, Phố Hàng Nón, Hà Nội. Từ đó đến nay, dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào, Công đoàn Việt Nam vẫn luôn trung thành với lý tưởng của Đảng, lợi ích dân tộc, lợi ích giai cấp công nhân và lợi ích của người lao động, nắm vững mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH.
Cùng với sự ra đời của các tổ chức Đảng Cộng sản từ cuối năm 1929, trên đất nước ta đã hình thành những cơ sở đầu tiên của Đoàn Thanh niên Cộng sản, đó là các chi bộ Đoàn và các nhóm đoàn viên hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng do các đảng viên trực tiếp phụ trách11.
Trong Án nghị quyết của Trung ương toàn thể hội nghị tháng 10-1930 nêu rõ: “Lực lượng cách mạng của phụ nữ là một cái lực lượng rất trọng yếu. Nếu quảng đại quần chúng phụ nữ không tham gia vào những cuộc tranh đấu cách mạng thì cách mạng thắng lợi được. Bởi vậy nên công tác trong quần chúng phụ nữ không phải là một cái nhiệm vụ phụ thuộc của Đảng; công tác ấy là cái nhiệm vụ lớn và rất trọng yếu”.
Tại kỳ họp lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ ngày 14 đến cuối tháng 10 năm 1930, Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết về củng cố, tăng cường và thống nhất các tổ chức Nông hội trong cả nước, xác định nhiệm vụ chính trị và thông qua Điều lệ của Nông hội. Từ đây giai cấp nông dân Việt Nam chính thức có tổ chức của mình, có mục tiêu đấu tranh cho quyền lợi chính đáng của nông dân và của dân tộc.
Ra đời ngày 6-12-1989, từ đó các thế hệ cựu chiến binh Việt Nam tiếp tục phát huy bản chất truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, xây dựng Hội theo tinh thần tám chữ vàng được Ban Bí thư Trung ương tặng “Trung thành - Đoàn kết - Gương mẫu - Đổi mới”; góp phần vào những thành công trên mọi lĩnh vực của sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
2.2. Các tổ chức chính trị - xã hội đều là nền tảng vững chắc của Đảng trong sự nghiệp cách mạng của đất nước, của dân tộc*
2.2.1. Tập hợp ngày càng đông đảo các tầng lớp quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, vì một nước Việt Nam dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
80 năm qua, Hội Nông dân Việt Nam đã liên tục phấn đấu vượt qua khó khăn, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, tích cực tuyên truyền, vận động, giáo dục, tập hợp nông dân thanh gia các cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc; xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Hiện nay, Hội tổ chức các phong trào nông dân thi đua yêu nước, hướng mọi hoạt động của hội viên, nông dân vào phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng. Hướng phong trào vào việc nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời, các cấp hội tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ, tư vấn, hỗ trợ nông dân về vốn, vật tư, khoa học, công nghệ thông tin, thị trường và chế biền, bảo quản, tiêu thụ sản phẩm, tích cực tham gia dạy nghề, giải quyết việc làm cho nông dân.
Tổng Liên đoàn và các cấp công đoàn đã thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ công tác công đoàn cho đội ngũ cán bộ công đoàn các cấp. Các cấp công đoàn đã thực hiện tốt và có hiệu quả các chức năng nhiệm vụ: đại diện chăm lo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, công nhân, viên chức, người lao động, góp phần xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh. Các tổ chức công đoàn luôn quan tâm đến công tác đào tạo, đao tạo lại, dạy nghề và giới thiệu việc làm cho công nhân lao động. Trong các năm từ 2006 -2010, các trường và trung tâm dạy nghề của tổ chức công đoàn đã đào tạo nghề cho 269.623 người, tư vấn việc làm cho 739.784 lượt người, giới thiệu việc làm cho 153.391 lượt người và 5.533 người được giới thiệu làm việc ở ngoài nước; liên kết với các cơ sở đào tạo khác đào tạo nghề cho 75.788 lượt người.
Tổ chức Đoàn thanh niên không ngừng được củng cố và lớn mạnh, từ 8 đoàn viên đầu tiên do Bác Hồ trực tiếp rèn luyện, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đã được củng cố vững mạnh ở 4 cấp tại 63 tỉnh, thành và 5 Đoàn khối trực thuộc, với 32.003 cơ sở đoàn và 6.660.214 đoàn viên12. Mỗi năm, hàng triệu thanh niên được kết nạp mới vào hàng ngũ của Đoàn. Thông qua các phong trào hành động cách mạng, thanh niên trở thành chủ thể tích cực của công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, ngày càng hiểu rõ hơn, thêm tin tưởng và quyết tâm hành động để thực hiện lý tưởng cách mạng của Đảng.
2.2.2. Góp phần xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam vững mạnh, xứng đáng là “đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc”
Hội Nông dân đã vận động nông dân tích cực thực hiện tốt cuộc vận động “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ chí Minh”; các cấp Hội vận động cán bộ, hội viên, nông dân nêu cao tinh thần trách nhiệm trong thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, kịp thời nắm bắt những bức xúc, vướng mắc phát sinh trong nông nghiệp, nông dân, nông thôn để chủ động tham mưu cho cấp ủy Đảng, chính quyền kịp thời giải quyết, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, tham gia có hiệu quả xây dựng Đảng, chính quyền và khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Công đoàn tích cực tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, tập trung vào việc vận động, tổ chức cho cộng nhân, viên chức, lao động, đoàn viên Công đoàn tham gia đóng góp ý kiến xây dựng văn kiện các kỳ Đại hội Đảng, tham gia cải cách hành chính, đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, gây phiền hà, sách nhiễu nhân dân. Công tác phát triển Đảng trong các doanh nghiệp được đẩy mạnh, đã có hàng vạn công nhân, viên chức, lao động ưu tú do công đoàn giới thiệu được kết nạp vào Đảng. Nhiều cán bộ được tổ chức công đoàn giới thiệu tham gia vào cấp uỷ và bộ máy lãnh đạo chính quyền các cấp.
Thanh niên, trong vòng 10 năm, từ năm 2001 đến năm 2010, số đoàn viên ưu tú giới thiệu cho Đảng là 2.342.897 đoàn viên, trong đó được Đảng xem xét kết nạp 1.065.895 đồng chí, chiếm hơn 65% tổng số đảng viên mới kết nạp.
Phụ nữ, tỷ lệ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý có chuyển biến tích cực: nữ tham gia cấp ủy các cấp và Ban Chấp hành TW Đảng tăng hơn so với nhiệm kỳ trước; nữ đại biểu Quốc hội chiếm 25,76%. Chúng ta có một đồng chí nữ Ủy viên Bộ Chính trị, 2 đồng chí nữ Bí thư TƯ Đảng, có nữ Phó Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch Quốc hội.
Hội Cựu chiến binh, qua 20 năm xây dựng và trưởng thành, Hội Cựu chiến binh (CCB) đã phát triển trên 2,4 triệu hội viên, có cơ cấu tổ chức rộng khắp từ Trung ương tới cơ sở, xã, phường, thôn bản. Hiện nay hầu hết các xã, phường đều có CCB tham gia cấp uỷ Đảng, chính quyền, các đoàn thể, các tổ chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp. Đây là lực lượng nòng cốt, là chỗ dựa tin cậy góp phần tích cực vào thực hiện nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu của Hội là xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền, nhất là ở địa phương, cơ sở.
2.3. Các tổ chức chính trị - xã hội ngày càng có vai trò quan trọng, thành viên các tổ chức đó ngày càng có sự trưởng thành về mọi mặt
Bài học lớn thứ 2 được Đảng nêu bật trong Cương lĩnh xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ (năm 1991) chính là: sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đây là sự đúc kết, là sự khẳng định vai trò quan trọng của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Cũng trong Cương lĩnh năm 1991, vị trí vai trò của các đoàn thể nhân dân một lần nữa được khẳng định: “Các đoàn thể nhân dân tùy theo tính chất, tôn chỉ và mục đích đã xác định, vừa vận động đoàn viên, hội viên giúp nhau chăm lo, bảo vệ các lợi ích thiết thực; vừa giáo dục nâng cao trình độ mọi mặt cho đoàn viên, hội viên; vừa tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội”. Vị trí, vai trò đó của các tổ chức chính trị - xã hội đã thể hiện rõ trong thực tiễn cách mạng nước ta, đồng thời qua đó các tổ chức đó đã có sự trưởng thành không ngừng.
Trong các kỳ đại hội Đảng, bầu cử đại biểu Quốc hội, các tổ chức chính trị - xã hội đã tham gia tích cực, đóng góp vào thành công của các hoạt động chính trị trọng đại nói trên. Trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và hội đồng nhân dân các cấp vừa qua, cả 5 tổ chức chính trị - xã hội (Tổng Liên đoàn Lao động, Hội Nông dân, Hội Liên hiệp phụ nữ, Đoàn Thanh niên và hội Cựu chiến binh) đều có thành viên trong Ủy ban bầu cử.
Hội Nông dân Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với các thành viên trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức kinh tế - xã hội, khai thác, sử dụng hợp lý các nguồn lực, gắn công tác tập hợp, đoàn kết, tuyên truyền, vận động với đẩy mạnh các hoạt động hướng dẫn, tư vấn, hỗ trợ, dịch vụ và dạy nghề cho nông dân, nhất là về vốn, kỹ thuật, thông tin thị trường, dịch vụ đầu vào, xây dựng mô hình sản xuất; hăng hái tham gia chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới. Hội là lực lượng quan trọng trong việc thực hiện cuộc vận động “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, xây dựng gia đình văn hóa, làng, xã văn hóa, tham gia xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, cuộc vận động “người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Đại diện và bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của nông dân.
Phụ nữ chiếm hơn 50% dân số và trên 47% lực lượng lao động xã hội với mong muốn được tiến bộ, phát triển, với sự động viên, chăm lo của Đảng, Nhà nước; sự ủng hộ của gia đình và xã hội, vị thế của phụ nữ Việt Nam dần được nâng lên. Việt Nam là một trong những quốc gia có tỷ lệ phụ nữ tham gia hoạt động kinh tế cao (83%) gần tương đương với nam giới (85%). Lực lượng lao động nữ có mặt ở hầu hết các ngành, nghề, lĩnh vực trong đó có một số ngành nữ chiếm tỷ lệ cao như chế biến nông sản, giáo dục, y tế, dệt may... Tỷ lệ nữ biết đọc, biết viết tăng liên tục, đến nay là 91,4%. Nữ sinh viên đại học hơn 50%. Nữ thạc sĩ gần 40%, nữ tiến sĩ chiếm hơn 10%. Hơn 41% số chủ cơ sở sản xuất - kinh doanh, hơn 20% chủ doanh nghiệp là nữ, một số chị là Tổng Giám đốc, Phó Tổng Giám đốc các tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp lớn.
Với tổ chức 4 cấp, ngoài phong trào thi đua “CCB gương mẫu” được phát động hàng năm, Hội Cựu chiến binh Việt Nam còn phát động các đợt thi đua theo chuyên đề như: CCB thi đua giúp nhau phát triển kinh tế gia đình, xóa đói giảm nghèo, làm giàu hợp pháp, thi đua thực hiện tốt cuộc vận động “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”; thi đua học tập nâng cao dân trí, xây dựng gia đình học tập, xã hội học tập; tích cực tham gia giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Mặt số chỉ tiêu phấn đấu thời gian tới của Hội Cựu chiến binh là: Phát triển 10 vạn hội viên trở lên, phấn đấu có 90% cơ sở đạt TSVM; có 100% cán bộ, hội viên được học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội XI của Đảng; giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 1,5 đến 2%, xóa trên 5.000 nhà dột nát; vay vốn đạt 2.500 tỷ đồng...
3. Để các tố chức chính trị - xã hội thực hiện tốt vị trí vai trò của mình trong tiến trình xây dựng CNXH hiện nay
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ là mối quan hệ khăng khít của đất nước ta trong sự nghiệp xây dựng CNXH. Một trong 5 nhiệm vụ chủ yếu của 5 năm tới được Đảng chỉ rõ: “Tiếp tục phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc ... Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của MTTQ và các đoàn thể nhân dân”13.
Cương lĩnh (sửa đổi, bổ sung năm 2011) xác định rõ: “Các đoàn thể nhân dân tùy theo tính chất, tôn chỉ và mục đích đã được xác định, vận động, giáo dục đoàn viên, hội viên chấp hành luật pháp, chính sách; chăm lo, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên; giúp đoàn viên, hội viên nâng cao trình độ về mọi mặt và xây dựng cuộc sống mới; tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội.”14. Đây là cơ sở để các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện tốt vai trò của mình, góp phần vào sự nghiệp xây dựng CNXH trên đất nước ta, cũng như nền dân chủ XHCN nói riêng.
3.1. Đảng quan tâm hơn nữa, tạo điều kiện để các tố chức chính trị - xã hội thực hiện tốt vị trí, vai trò của mình
Cơ sở để các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện tốt nhiệm vụ này chính là quan điểm được Đại hội XI của Đảng khẳng định: “Nâng cao vai trò của các cơ quan dân cử, tổ chức chính trị- xã hội, các tổ chức xã hội nghề nghiệp và của nhân dân trong phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN”15. Theo đó, các tổ chức cần được quan tâm tạo điều kiện để xây dựng, cả về đội ngũ tổ chức, cơ chế làm việc và những quy định liên quan cần thiết cho việc thực hiện vị trí, vai trò của mỗi tổ chức đó.
Hiện nay, chúng ta đang đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước, với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, việc hoạch định các chủ trương, chính sách lớn về phát triển kinh tế - xã hội của Đảng cần tính đến xu thế phát triển của các nhóm quần chúng cơ bản trong xã hội. Đó chính là điều kiện cơ bản nhất để các tổ chức chính trị - xã hội thể hiện vị trí, vai trò của mình. Bởi, chỉ khi quyền lợi các nhóm quần chúng này được bảo đảm tương đớố hài hòa trong sự phát triển chung của đất nước, lúc đó các tổ chức chính trị - xã hội đại diện quyền lợi của nhóm đó mới có thể phát huy vai trò đại diện và vị trí của chúng trong hệ thống chính trị nước ta. Nói cách khác, nền tảng quần chúng có vững, tổ chức mới ngày càng có điều kiện tồn tại và phát triển.
Cùng với đó, việc lựa chọn, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của các tổ chức chính trị - xã hội cũng rất cần sự quan tâm hơn nữa của Đảng và Nhà nước. Làm tốt việc này chính là đảm bảo sự phát triển vững chắc của phong trào quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
3.2. Các tổ chức bám sát tôn chỉ, mục đích, dựa trên các chủ trương, đường lối để xây dựng tổ chức vững mạnh
Chủ trương, đường lối của Đảng cho việc thực hiện vị trí, vai trò của mỗi tổ chức chính trị - xã hội đã có và sẽ ngày càng được bổ sung, nhiệm vụ của các tổ chức này vì thế là: từ chủ trương, đường lối đó, chủ động, sáng tạo kiên trì xây dựng tổ chức của mình thật sự đủ khả năng để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Yêu cầu đầu tiên và quan trọng nhất với mỗi tổ chức chính trị - xã hội chính là thật sự sâu sát phong trào, nắm bắt được những diễn biến của thực tế, những yêu cầu nảy sinh khi thực hiện nhiệm vụ, những tâm tư, nguyện vọng chính đáng của hội viên ..., từ đó mới có thể làm tốt chức năng đại diện cho hội viên, hiện thực hóa được các chủ trương, đường lối của Đảng.
Bên cạnh đó, điều không thể thiếu chính là xây dựng bộ máy hoạt động có hiệu quả. Mỗi tổ chức phải từ phong trào, xuất phát từ thực tế mà lựa chọn, bồi dưỡng và suy tôn những nhân tố điển hình, những người đại diện xứng đáng của tổ chức mình ở mỗi cấp, mỗi địa bàn.
3.3. Góp phần phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định đất nước, xây dựng xã hội công bằng văn minh
Đảng chỉ rõ: “MTTQ và các đoàn thể nhân dân tiếp tục tăng cường tổ chức, ..., thực hiện dân chủ, giám sát và phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; tổ chức các phong trào thi đua yêu nước, vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại.”.16
Dưới sự lãnh đạo, quản lý của tổ chức Đảng và chính quyền các cấp, các ngành, thành viên các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước và phát triển toàn diện kinh tế -xã hội. Phát huy ưu điểm của tính tổ chức, thành viên tổ chức chính trị - xã hội có thuận lợi lớn trong sản xuất và tổ chức cuộc sống, giúp nhau cùng tiến bộ. Đó là sự trợ giúp về vốn làm ăn, được học tập các kiến thức cần thiết, được bảo vệ, hỗ trợ khi gặp những rủi ro ... Những sự trợ giúp đó có từ nhiều nguồn, được huy động từ nhiều đối tượng, dưới sự lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước, do sự điều động của bản thân mỗi tổ chức, đã có vai trò vô cùng quan trọng giúp cho mỗi thành viên đó không chỉ vươn lên trong cuộc sống, mà còn đóng góp phần công sức của mình vào sự ổn định, sự phồn vinh của đất nước.
Phát huy những thành quả đạt được trong xây dựng kinh tề, mỗi tổ chức có điều kiện hơn, và có nghĩa vụ xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Các tổ chức chính trị - xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cần phát huy hơn nữa vai trò trong việc xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh, thực hiện dân chủ trong mọi mặt của đời sống. Các tổ chức chính trị - xã hội cần bám sát các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước để thực hiện nhiệm vụ này một cách có tổ chức, tránh để xảy ra những rối loạn trong xã hội, ảnh hưởng đến tiến trình xây dựng đất nước trong bối cảnh thế giới đang có nhiều biến động.
Phát triển để đi đến ổn định, ổn định để ngày càng phát triển, đó chính là tiêu chí hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng hiện nay. Điều đó vừa phát triển đất nước toàn diện, vừa đảm bảo nền tảng để sự phát triển đó được bền vững.
_________
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1978, t.15, tr.327.
2, 3. V.I.Lênin: Sđd, t.42, tr.171.
4. V.I.Lênin: Sđd, t.42, tr.205-205.
5. V.I.Lênin: Sđd, t.44, tr.427.
6. V.I.Lênin: Sđd, t.44, tr.426.
7. V.I.Lênin: Sđd, t.44, tr.419.
8. V.I.Lênin: Sđd, t.44, tr.419.
9. V.I.Lênin: Sđd, t.44, tr.424.
10. V.I.Lênin: Sđd, t.44, tr.425.
11. Lịch sử Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và phong trào thanh niên Việt Nam, Nxb Thanh niên, HN, 2007, tr.47.
* Các số liệu, đánh giá về các tổ chức chính trị - xã hội được dẫn theo các trang thông tin chính thức của các tổ chức này.
12. Số liệu tính đến 15-12-1010.
13. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia – ST, HN 2011, tr.189-190.
14. Văn kiện đã dẫn, tr.87.
15. Văn kiện đã dẫn, tr.215.
16. Văn kiện đã dẫn, tr.246.
Về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam GS.TS Dương Phú Hiệp
Viện Khoa học xã hội Việt Nam
Hội đồng Lý luận Trung ương quyết định tổ chức Hội thảo khoa học về “Một số vấn đề có ý kiến khác nhau trong dự thảo các văn kiện trình Đại hội XI của Đảng” để phục vụ cho việc tiếp tục hoàn thiện dự thảo các văn kiện trình Đại hội XI. Tôi mạnh dạn lựa chọn vấn đề về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội để tham giá đóng góp ý kiến với Hội thảo vì vấn đề này cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau.
Trong tác phẩm Phê phán cương lĩnh Gôta, C.Mác đã đưa ra một định nghĩa kinh điển về thời kỳ quá độ: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, trong đó nhà nước không thể là cái gì khác hơn là chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”. Ở đây có ba nội dung được C.Mác nhấn mạnh là thời kỳ quá độ chính trị, chuyên chính vô sản và cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia.
Lênin đã phát triển tư tưởng của C.Mác về thời kỳ quá độ và là người đầu tiên dùng khái niệm “thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội”. Do tính chất lâu dài của nó nên phải phân chia thời kỳ quá độ thành những bước quá độ nhỏ hơn. Nếu C.Mác nói đến thời kỳ quá độ chính trị, thì V.I.Lênin bổ sung nội dung kinh tế, tức là nói đến nền kinh tế nhiều thành phần và đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa để giải quyết vấn đề “ai thắng ai”.
Trên cơ sở vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Hội nghị các Đảng Cộng sản và công nhân các nước xã hội chủ nghĩa họp ở Mátxcơva năm 1957 đã rút ra 9 quy luật của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ. 9 quy luật đó cũng chính là nội dung cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà tất cả các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa phải thực hiện.
Những tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin về thời kỳ quá độ và 9 quy luật do Hội nghị ở Mátxcơva năm 1957 đã rút ra được Đảng ta vận dụng vào Việt Nam và được thể hiện rõ trong văn kiện các Đại hội III, IV và V.(Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin không những nói về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, mà còn dự báo khả năng bỏ qua chủ nghĩa tư bản đối với một số nước trong những điều kiện nhất định. Sách báo mácxít đã khái quát tư tưởng đó thành ba điều kiện là:
(1) Khi trên thế giới phương thức sản xuất bị bỏ qua đã tỏ ra lỗi thời, thối nát.
(2) Khi trên thế giới đã xuất hiện phương thức sản xuất mới, cao hơn, ưu việt hơn.
(3) Khi trong nước đã xuất hiện giai cấp tiên tiến có khả năng lãnh đạo cuộc cách mạng, tiến lên một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn.
Phân tích những điều kiện trên, chúng ta thấy phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mặc dù trên con đường phát triển gặp nhiều khó khăn, nhưng chưa phải là phương thức sản xuất đã lỗi thời, thối nát, thậm chí do lợi dụng được các thành tựu của cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại, nó tỏ ra vẫn còn sức sống. Còn phương thức sản xuất mới xã hội chủ nghĩa thì sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, người ta hầu như không nói đến tính ưu việt của phương thức sản xuất đó so với phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa nữa.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin bàn nhiều về sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, còn sự quá độ bỏ qua chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa xã hội, các ông mới chỉ nói đến khả năng thực hiện chứ chưa nêu ra cách thức thực hiện. Trong một thời gian dài, trên sách báo mácxít hầu như không có sự phân biệt các kiểu quá độ khác nhau lên chủ nghĩa xã hội. Điều đó gây nên lầm tưởng rằng bất kỳ nước nào tiến lên chủ nghĩa xã hội, dù xuất phát từ trình độ như thế nào, cũng đều thuộc về cùng một kiểu quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Cho đến nay, vẫn còn có ý kiến cho rằng sự quá độ của những nước có nền kinh tế kém phát triển bỏ qua chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa xã hội không phải là một kiểu nào khác, mà chỉ là một dạng đặc biệt của kiểu quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Quan niệm như vậy có thể dẫn đến tình trạng dễ thoả mãn với lý luận về thời kỳ quá độ, vận dụng máy móc lý luận về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội vào các nước có nền kinh tế kém phát triển, bất chấp những điều kiện lịch sử cụ thể của các nước đó.
Trong quá trình đổi mới đã xuất hiện xu hướng muốn đi tìm lý thuyết mới nói về sự quá độ gián tiếp, nhưng thực ra chưa tìm được lý thuyết đó. Nếu chúng ta tiếp tục sử dụng lý thuyết về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội vào hoàn cảnh nước ta - một nước bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội – thì chúng ta sẽ tiếp tục mắc sai lầm không thể tránh khỏi. Điều quan trọng để xây dựng lý thuyết về kiểu quá độ gián tiếp là phải hiểu đặc điểm xuất phát vì chính đặc điểm này quy định kiểu quá độ gián tiếp, mà nội dung, nhiệm vụ, hình thức, biện pháp, bước đi và độ dài của nó khác về nguyên tắc với kiểu quá độ trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Do trước đây, Việt Nam đã áp dụng máy móc mô hình chủ nghĩa xã hội Xô viết, cụ thể là đã áp dụng những kinh nghiệm của Liên Xô được khái quát thành 9 quy luật của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ được Hội nghị các Đảng Cộng sản và công nhân các nước xã hội chủ nghĩa họp ở Mátxcơva thông qua năm 1957. Về sau, Việt Nam có bổ sung thêm một quy luật nữa là tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Mặc dù chúng ta cũng đạt được những thành tựu nhất định trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhưng do áp dụng máy móc mô hình chủ nghĩa xã hội Xô viết vào Việt Nam mà nội dung của nó là không thừa nhận sản xuất hàng hoá và cơ chế thị trường, coi kế hoạch là đặc trưng quan trọng nhất của kinh tế xã hội chủ nghĩa, coi thị trường chỉ là một công cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch nên đã không thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần, coi kinh tế quốc doanh và tập thể là chủ yếu, muốn nhanh chóng xoá bỏ sở hữu tư nhân; xây dựng nền kinh tế khép kín, hướng nội, thiên về phát triển công nghiệp nặng, chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên, đất đai và nguồn ngoại viện của các nước xã hội chủ nghĩa đi trước. Thi hành chế độ phân phối theo lao động trên danh nghĩa nhưng thực tế là bình quân, cào bằng, ít quan tâm tới lợi ích cá nhân. Nhà nước thực hiện chế độ bao cấp tràn lan tạo ra tâm lý thụ động, ỷ lại vào Nhà nước, không phát huy được tính năng động và tích cực của người lao động. Gắn liền với sai lầm áp dụng máy móc chủ nghĩa xã hội Xô viết vào Việt Nam là những khuyết điểm, sai lầm về lãnh đạo và quản lý. Đó là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện, đặc biệt là bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động đơn giản, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan.
Hiện nay chúng ta ít nhắc đến 9 quy luật của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ, đặc biệt là không còn dùng khái niệm chuyên chính vô sản, cải tạo xã hội chủ nghĩa… Khi Đại hội VI của Đảng rút ra bài học phải tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan thì không phải là nói về việc tôn trọng và hành động theo 9 quy luật này hay các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội, mà là nói tới những quy luật của sản xuất hàng hoá, như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh… Chúng ta cũng không quá nhấn mạnh giai cấp và đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa hai con đường để giải quyết vấn đề “ai thắng ai” giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, mà nhấn mạnh tới đại đoàn kết dân tộc và coi đó là động lực chủ yếu để phát triển đất nước. Vấn đề làm chủ tập thể mà Đại hội IV của Đảng nêu lên và trở thành một nội dung quan trọng trong đường lối của Đảng ta thì hiện nay cũng ít được nhắc tới. Vì vậy, nội dung của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã nêu ra ở các Đại hội III, IV, V cho đến nay có nhiều điểm không còn thích hợp nữa, chẳng hạn như các khái niệm chuyên chính vô sản, làm chủ tập thể, cải tạo xã hội chủ nghĩa, đấu tranh giữa hai con đường để giải quyết vấn đề “ai thắng ai”… Điều đó đòi hỏi chúng ta phải xem lại nội dung của thời kỳ quá độ và phải tìm nội dung mới thích hợp.
Từ sự phân tích trên đây, có thể rút ra một số nhận xét về sự vận dụng học thuyết Mác – Lêmin về thời kỳ quá độ của Đảng ta như sau:
a. Những ưu điểm thể hiện ở 4 điểm:
Thứ nhất, trong khi vận dụng lý thuyết về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, Đảng ta đã cố gắng vận dụng sáng tạo vào Việt Nam, thậm chí mạnh dạn bổ sung thêm quy luật công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, Đảng ta rất chú ý đến đặc điểm xuất phát của đất nước để từ đó định ra đường lối, chính sách. Điều đó được thể hiện ở các Đại hội II, III, IV và VII.
Thứ ba, khi quyết định lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa Đảng ta đã thể hiện tinh thần cách mạng tiến công. Điều này thể hiện ở các văn kiện: Chánh cương văn tắt, Đại hội III, Đại hội IV.
Thứ tư, Đảng ta đã nhận thấy thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là thời kỳ quá độ lâu dài và do đó, đã nói tới các chặng đường mà nước ta phải trải qua.
b. Những hạn chế cũng thể hiện ở 4 điểm:
Thứ nhất, lẽ ra chúng ta phải xây dựng lý thuyết về kiểu quá độ gián tiếp thì chúng ta lại đem áp dụng máy móc, giáo điều lý thuyết về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, do vận dụng máy móc lý thuyết kinh điển và kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa đi trước nên chúng ta đã tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa ồ ạt và tiến hành đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa hai con đường để giải quyết vấn đề “ai thắng ai”, tuy không gay gắt, nhưng cũng không tìm được động lực phát triển.
Thứ ba, mặc dù Đảng ta đã nhận thấy thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là lâu dài, nhưng do bệnh chủ quan, duy ý chí, nên nhiều chủ trương, chính sách đã tỏ ra nóng vội, muốn “đốt cháy giai đoạn”, nên kết quả nhận được không như mong muốn.
Thứ tư, cả một thời gian dài chúng ta không hiểu đúng khái niệm bỏ qua chủ nghĩa tư bản, nên đã rơi vào chủ nghĩa biệt phái, chủ nghĩa hư vô, phủ định sạch trơn những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, mãi đến Đại hội IX chúng ta mới khắc phục được hạn chế này.
Kết luận và kiến nghị
1. Sự cần thiết phải có cách tiếp cận khác về thời kỳ quá độ
Nếu thực tế đã có nhiều thay đổi về chất thì một khái niệm nào đó cũng cần thay đổi cho phù hợp. Từ mô hình chủ nghĩa xã hội tập trung, quan liêu, bao cấp, áp dụng 9 quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ chúng ta đã chuyển sang một mô hình mới khác về chất so sới mô hình trước. Trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua, Việt Nam đã phát triển theo những quy luật khác phù hợp với đặc điểm của Việt Nam và xu thế chung của thế giới. Trong các văn kiện của Đảng ta không còn nhắc đến 9 quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ mà Hội nghị các Đảng Cộng sản và công nhân họp ở Mátxcơva năm 1957 thông qua vì chúng không còn thích hợp trong điều kiện mới nữa. Ngay cả học thuyết của chủ nghĩa Mác – Lênin về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội khi được áp dụng máy móc vào nước ta trong thời kỳ trước đây đã đưa nước ta lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội, huống hồ hiện nay tình hình nước ta và thế giới đã thay đổi thì chúng ta lại càng không nên áp dụng học thuyết đó, mà phải xây dựng một lý thuyết khác thích hợp hơn. Trung Quốc đã mắc nhiều sai lầm trong việc áp dụng học thuyết về thời kỳ quá độ và 9 quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ như: cải tạo xã hội chủ nghĩa ồ ạt, xây dựng nhanh chóng công xã nhân dân, cường điệu đấu tranh giai cấp…, kết quả là xã hội Trung Quốc rơi vào một thời kỳ hỗn loạn nghiêm trọng. Do đó, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã sớm từ bỏ khái niệm “thời kỳ quá độ” và thay vào đó một khái niệm mới là “giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội”. Từ những bài học kinh nghiệm nói trên, chúng ta cũng nên mạnh dạn đưa ra một cách tiếp cận khác về thời kỳ quá độ.
2. Đổi tên gọi thời kỳ quá độ thành thời kỳ phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Từ năm 1986 đến nay, Việt Nam đã có nhiều đổi mới từ lý luận đến thực tiễn, từ đường lối, chính sách đến đời sống thực tế theo chiều hướng tích cực, tiến bộ và phát triển. Những thay đổi đó không phải do Việt Nam áp dụng lý thuyết về thời kỳ quá độ hay 9 quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội, mà trên phương diện lý luận chúng ta đã dần từ bỏ lý thuyết đó, chẳng hạn chúng ta không còn dùng các khái niệm của học thuyết đó, như “cải tạo xã hội chủ nghĩa”, “chuyên chính vô sản”, “đấu tranh giữa hai con đường để giải quyết vấn đề “ai thắng ai””… Khi chúng ta không dùng các khái niệm nói trên, tức là chúng ta đã không vận dụng những nội dung chủ yếu của thời kỳ quá độ nữa thì tại sao ta vẫn phải sử dụng khái niệm “thời kỳ quá độ”, có thể mạnh dạn thay nó bằng một khái niệm khác được không?
Ở Hội nghị Trung ương 6 khoá VI đã đưa ra khái niệm mới “định hướng xã hội chủ nghĩa”, từ đó về sau trên các văn kiện Đảng và Nhà nước ta, cũng như trên các sách báo, tài liệu của Việt Nam, đều sử dụng khái niệm đó. Vì vậy, chúng ta có thể mạnh dạn thay khái niệm “thời kỳ quá độ” bằng tên gọi mới là “thời kỳ phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Điều đó, một mặt, phù hợp với thực tiễn hiện nay của chúng ta. Mặt khác, khi chúng ta dùng cụm từ “thời kỳ phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa” thì có ưu điểm là vẫn đảm bảo mục tiêu mà trước nay ta vẫn theo đuổi là chủ nghĩa xã hội, đồng thời tránh được tâm lý lo sợ về các nội dung mà ta đã tiến hành trong thời kỳ quá độ, như cải tạo xã hội chủ nghĩa, đấu tranh giữa hai con đường để giải quyết vấn đề “ai thắng ai”… Vì vậy, dùng khái niệm “thời kỳ phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa” là hoàn toàn phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của Việt Nam hiện nay.
3. Về nội dung của thời kỳ phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Nếu trước đây một trong những nội dung quan trọng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân, thiết lập chế độ công hữu dưới hai hình thức nhà nước và tập thể, thì trong thời kỳ phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, một nội dung quan trọng của nó là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài. Nếu thời kỳ trước đây xã hội phát triển theo mô hình xã hội chủ nghĩa Xô viết là tập trung quan liêu, bao cấp, thì trong thời kỳ phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta chủ trương xây dựng và phát triển mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước. Nếu trong thời kỳ quá độ chúng ta thực hiện chế độ phân phối xã hội chủ nghĩa theo lao động mà thực chất là bình quân và cào bằng, thì trong thời kỳ phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. Nếu trong thời kỳ quá độ trước đây xây dựng Nhà nước chuyên chính vô sản thì trong thời kỳ phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa chúng ta xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Nếu trong thời kỳ quá độ trước đây đấu tranh giai cấp và đấu tranh để giải quyết vấn đề “ai thắng ai” giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản đã được cường điệu và được coi là động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội, nên nhiều cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra liên tục, nhiều khi gay go, ác liệt, gây nên bao khó khăn, trở ngại cho sự phát triển, thì trong thời kỳ phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta coi động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân. Nếu trong thời kỳ quá độ trước đây ta coi thực hiện chủ nghĩa quốc tế vô sản và hợp tác, đoàn kết chủ yếu là với các nước xã hội chủ nghĩa anh em, thì trong thời kỳ phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa Đảng ta chủ trương chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực, Việt Nam là bạn là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực.
Như vậy, những nhiệm vụ và nội dung của thời kỳ quá độ trước đây đã được thay đổi rất nhiều, vì thế không nên luyến tiếc giữ lại tên cũ nữa mà nên mạnh dạn đặt ra một tên mới phù hợp hơn. Tên mới đó là: “Thời kỳ phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Lúc đầu tên đó có thể chưa quen, nhưng dùng rồi sẽ quen, song điều quan trọng không chỉ là đổi tên gọi, mà quan trọng là chúng ta đã có nội dung mới cho tên gọi đó. Nếu còn tiếp tục sử dụng khái niệm “thời kỳ quá độ”, chúng ta sẽ gặp lúng túng cả về nhận thức lý luận và về chỉ đạo thực tiễn. Vì vậy, xin kiến nghị với Đảng nên đổi tên Cương lĩnh năm 1991 thành “Cương lĩnh phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Nắm vững đặc điểm, vị trí, vai trò của công tác tư tưởng, lý luận dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội XI của Đảng Phùng Đông
Tạp chí Cộng sản
Có thể khẳng định, nắm vững những đặc điểm cơ bản của tư tưởng, lý luận và công tác tư tưởng, lý luận, người làm công tác tưởng, lý luận có thể vững tin hơn và điều quan trọng là, có thể giải thích và nắm bắt được xu hướng vận động, biến đổi thường xuyên của thực tiễn xã hội. Cũng trên cơ sở đó, thấy được vị trí, vai trò to lớn của công tác tư tưởng, lý luận và có phương thức hoạt động phù hợp để công tác này ngày càng tác động tích cực đến thực tiễn chính trị - xã hội cũng như mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Đi sâu nghiên cứu, phân tích trên cơ sở những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về tư tưởng, lý luận cũng như về ý thức xã hội nói chung, có thể thấy, tư tưởng, lý luận và công tác tư tưởng, lý luận có một số đặc điểm như sau: Thứ nhất, tư tưởng, lý luận và công tác tư tưởng, lý luận thường lạc hậu, chậm phát triển, chậm đổi mới so với sự vận động, phát triển thường xuyên của đời sống vật chất xã hội, thực tiễn xã hội. Thứ hai, ở những thời điểm nhất định và thích hợp, tư tưởng, lý luận và công tác tư tưởng, lý luận có thể vượt trước, vượt xa sự vận động, phát triển của đời sống vật chất xã hội, thực tiễn xã hội và có những bước tiến vượt bậc, chuẩn xác để chủ động định hướng, dẫn dắt sự vận động, phát triển của đời sống vật chất xã hội, thực tiễn xã hội. Thứ ba, trong quá trình tồn tại, phát triển, tư tưởng, lý luận và công tác tư tưởng lý luận thường xuyên duy trì và kế thừa, tiếp thu những yếu tố nào đó của tư tưởng, lý luận hay hệ thống tư tưởng - lý luận trước đó hoặc đương thời, dù đó là sự duy trì và kế thừa, tiếp thu những yếu tố có tính chất bảo thủ, lạc hậu, thậm chí phản động, hay là sự duy trì và kế thừa, tiếp thu những yếu tố có tính chất tiến bộ, tiên tiến và mang giá trị phổ biến (giá trị nhân loại). Thứ tư, tư tưởng, lý luận (nhất là tư tưởng - lý luận chính trị hay hệ tư tưởng chính trị) và công tác tưởng, lý luận của giai cấp thống trị thường chiếm ưu thế và chi phối sự phát triển của các hình thái ý thức xã hội và các lĩnh vực tinh thần khác. Thứ năm, tư tưởng - lý luận và công tác tư tưởng, lý luận luôn luôn có khả năng tác động trở lại tồn tại xã hội, đời sống vật chất - kinh tế, dù có thể đó là sự tác động kìm hãm, tiêu cực, hay là sự tác động thúc đẩy, có ý nghĩa tích cực.
Những đặc điểm nói trên là có tính quy luật và do đó, chúng luôn luôn tồn tại, vận động trong tất cả các hình thái hệ tư tưởng cũng như các hình thái ý thức xã hội nói chung của lịch sử xã hội loài người. Bởi vậy, việc nhận thức đầy đủ những đặc điểm có tính quy luật đó và vận dụng một cách nhuần nhuyễn, sáng tạo vào thực tiễn công tác, hoạt động luôn luôn là nhu cầu đòi hỏi tối thượng, bắt buộc đối với những người làm công tác tư tưởng, lý luận cũng như những người làm công việc sáng tạo tinh thần nói chung.
Ở đây, cũng có thể thấy, mặc dù các nhà tư tưởng của giai cấp tư sản luôn rêu rao rằng, những nguyên lý của chủ nghĩa Mác về tư tưởng, lý luận, ý thức, nhất là về vai trò tiên phong của tư tưởng, lý luận tiên tiến, là sai lầm và lỗi thời, ảo tưởng, nhưng trên thực tế, dù tự giác hay không tự giác, họ cũng đã và đang vận dụng những nguyên lý đó cũng như các đặc điểm nói trên của tư tưởng, lý luận và hoạt động (công tác) tư tưởng, lý luận. Điều dễ nhận thấy là, họ luôn ''tự đổi mới'' hệ tư tưởng cũng như các học thuyết của mình để phục vụ cho sự ''cách tân'', sự thích nghi của chủ nghĩa tư bản với thực tế lịch sử, với sự biến đổi của thế giới đương đại trên mọi phương diện, nhất là trên phương diện kinh tế và chính trị; luôn chủ động, gắng sức chống phá hệ tư tưởng Mác - Lênin cũng như hệ tư tưởng của các đảng cộng sản, mà một trong những biểu hiện rõ nét nhất là các âm mưu, thủ đoạn của chiến lược ''diễn biến hòa bình'' trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa. Chiến lược ''diễn biến hòa bình'' càng có điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh khi quá trình toàn cầu hóa và xu thế hội nhập quốc tế đang trở thành tất yếu đối với tất cả các quốc gia trên thế giới.
Rõ ràng là, các thế lực thù địch đã nắm rất vững những đặc điểm cũng như tính quy luật của tư tưởng, lý luận nói chung, và đã biết vận dụng nó vào hoạt động chống phá chủ nghĩa xã hội cũng chính trên và trước hết là trên mặt trận tư tưởng, lý luận.
Nhận thức sâu sắc đặc điểm của tư tưởng, lý luận cũng như của công tác tư tưởng, lý luận, trong xây dựng, hoạch định chủ trương, đường lối nói chung và nhất là trong xây dựng, hoạch định chủ trương, đường lối phát triển, đổi mới công tác tư tưởng, lý luận, Đảng ta luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải hiểu biết đầy đủ đặc điểm, tính quy luật của tư tưởng, lý luận và của công tác tư tưởng, lý luận, nắm vững mối quan hệ biện chứng giữa tư tưởng, lý luận và công tác tư tưởng, lý luận với đời sống vật chất – kinh tế với các hoạt động có tính chất thực tiễn. Chính vì thế, gần đây, trong nghị quyết chuyên đề ''Về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới'' tại Hội nghị Trung ương 5 khóa X, ngày 1-8-2007, Đảng ta chỉ rõ: ''Công tác tư tưởng của Đảng là công tác đối với con người, một nhiệm vụ khó khăn, phức tạp đòi hỏi phải nắm vững những quy luật riêng của tư tưởng, có thái độ, phương pháp khoa học, kết hợp chặt chẽ giữa yêu cầu định hướng tư tưởng với sự tự nguyện, giữa lý trí và tình cảm, giữa lời nói và việc làm, giữa ''xây'' và ''chống'', lấy ''xây'' làm chính, lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực; phải gắn bó mật thiết và phục vụ có hiệu quả công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao đời sống và phát huy quyền làm chủ của nhân dân 1.
Mặt khác, Đảng ta luôn cho rằng, công tác tư tưởng, lý luận nếu không thường xuyên đổi mới về nội dung và hình thức thì sẽ dễ bị thực tiễn vượt qua, trở nên lạc hậu, ''lẽo đẽo'' đi theo thực tiễn. Bởi vậy, để khắc phục tình trạng này, công tác tư tưởng, lý luận không chỉ bám sát những yêu cầu, nhiệm vụ của hoạt động thực tiễn, những đòi hỏi, nguyện vọng bức thiết của nhân dân, mà điều quan trọng là, trên cơ sở đó, phải biết tiên lượng, ''vượt trước” sự vận động, phát triển của thực tiễn, dự báo được diễn biến tư tưởng, tình cảm, ước vọng của nhân dân, để vạch đường một cách đúng đắn cho những bước phát triển, thậm chí là nhảy vọt, của thực tiễn trong tương lai gần cũng như trong tương lai xa, và định hướng cho tư tưởng, tình cảm, ước vọng của nhân dân có được sự hướng đích lành mạnh, lạc quan, tươi sáng. Vì lẽ đó, trong Văn kiện Đại hội XI, khi bàn về phương hướng, nhiệm vụ đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác lý luận trong tình hình hiện nay, Đảng ta xác định: ''Tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ một số vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình đổi mới, không ngừng phát triển lý luận, đề ra đường lối và chủ trương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước; khắc phục một số mặt lạc hậu, yếu kém của công tác nghiên cứu lý luận2. Và muốn vậy, trong công tác tư tưởng, ''Mỗi cán bộ, đảng viên đều phải học tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị. Xây dựng và thực hiện quy định mọi đảng viên có trách nhiệm trực tiếp thành công tác tư tưởng. Cán bộ chủ chốt cấp uỷ đảng phải thường xuyên tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân, chủ động nắm bắt, đánh giá, dự báo diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên và có biện pháp giải quyết kịp thời''3.
* *
Công tác tư tưởng, lý luận có vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo nên sức mạnh, sự đồng thuận trong xã hội để đạt mục tiêu đã được đặt ra. Cơ sở lý luận của tầm quan trọng này chính là ở sự độc lập tương đối, sự tác động trở lại của nhận thức, của tư tưởng, lý luận đó với thực tiễn. Đặc biệt, xuất phát từ tầm quan trọng của tư tưởng, lý luận cách mạng đối với sự nghiệp giải phóng giai cấp, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, đã rất đề cao công tác lý luận, bởi theo ông, nếu không phát triển được công tác lý luận thì ''sẽ không tiến lên được một bước nào cả trong công tác tuyên truyền, cổ động”.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã có nhiều luận điểm nổi tiếng về vị trí, vai trò của tư tưởng, lý luận cũng như của công tác tư tưởng, lý luận. Chẳng hạn, C. Mác có luận điểm: Lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng. V.I. Lênin đưa ra luận điểm: Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng; chỉ đảng nào được một lý luận tiền phong dẫn đường thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong. Những luận điểm nổi tiếng đó không chỉ những người làm công tác tư tưởng, lý luận của Đảng Cộng sản mới biết đến, mà dường như hầu hết các đảng viên cộng sản làm công tác lãnh đạo.
Tuy nhiên, để hiểu rõ vị trí, vai trò của công tác tư tưởng, lý luận, trước hết, cần tìm hiểu ý nghĩa thực tiễn chính trị của công tác tư tưởng, lý luận, nhất là ý nghĩa thực tiễn chính trị của nó trong hệ thống tổ chức và hoạt động của Đảng Cộng sản cầm quyền.
Như chúng ta đã biết, vị trí của Đảng Cộng sản cầm quyền được hiểu như vị thế, chỗ đứng của họ trong hệ thống chính trị. Theo đó, Đảng là một bộ phận của hệ thống chính trị, nhưng lại là hạt nhân lãnh đạo của toàn bộ hệ thống đó. Ở đây, vai trò lãnh đạo của Đảng thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau: Đảng đề ra cương lĩnh, chiến lược, đường lối, chủ trương phát triển mọi lĩnh vực đời sống xã hội, đồng thời là người lãnh đạo, chỉ đạo việc tổ chức thực hiện cương lĩnh, chiến lược, đường lối, chủ trương đó. Như vậy, bản thân việc đề ra cương lĩnh, chiến lược, đường lối, chủ trương cũng đã bao hàm công tác tư tưởng, lý luận, hay là kết quả tất yếu của công tác tư tưởng, lý luận. Bởi vì, nếu không có công tác tư tưởng, lý luận thì không có sự thâm nhập, vận dụng hệ tư tưởng chính thống mà cốt yếu là chủ nghĩa Mác – Lênin vào cương lĩnh, chiến lược, đường lối, chủ trương của Đảng, cũng như không có sự nghiên cứu, tổng kết lý luận và thực tiễn để phục vụ cho việc hoạch định cương lĩnh, chiến lược, đường lối, chủ trương đó.
Mặt khác, Đảng lãnh đạo xã hội chủ yếu thông qua nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội. Muốn vậy, cương lĩnh, chiến lược, đường lối, chủ trương của Đảng phải được nhà nước tiếp nhận, thể chế hóa bằng pháp luật và những chính sách, kế hoạch cụ thể; và được các tổ chức chính trị - xã hội nắm bắt, vận dụng để có nội dung và phương thức hoạt động thích hợp. Nhưng nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội không phải là những thực thể trừu tượng, mà là do hoạt động của những cán bộ, đảng viên, đoàn viên tạo dựng lên. Bởi vậy, họ phải được trang bị bởi tư tưởng, lý luận của hệ tư tưởng chính thống, cũng như được quán triệt, thấm nhuần những nội dung chính yếu của cương lĩnh, chiến lược, đường lối, chủ trương của Đảng. Và có như thế, họ mới trực tiếp hoặc gián tiếp chế định ra pháp luật, chính sách, kế hoạch của nhà nước cũng như nội dung, phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội. Tuy nhiên, một điều rõ ràng là, họ phải luôn luôn là đối tượng của công tác giáo dục, tuyên truyền tư tưởng, lý luận thì mới thường xuyên được trang bị bởi tư tưởng, lý luận của hệ tư tưởng chính thống, cũng như được quán triệt, thấm nhuần những nội dung chính yếu của cương lĩnh, chiến lược, đường lối, chủ trương của Đảng. Đồng thời, bản thân những chính sách, pháp luật của nhà nước muốn trở thành hiện thực, được triển khai thực hiện có hiệu quả thì cũng cần phải được phổ biến, tuyên truyền, nghĩa là cũng cần có sự trợ giúp của công tác tư tưởng, lý luận, nhất là công tác tuyên truyền, cổ động.
Có thể nói, công tác tư tưởng lý luận có vai trò quan trọng, thiết yếu trong việc tạo dựng, khởi nguồn ''đầu vào'' và ''đầu ra” của những đường lối, chủ trương của Đảng. Mặt khác, xét ở góc độ nào đó, bản thân công tác tư tưởng, lý luận cũng là một mảng, một nội dung trọng yếu của những đường lối, chủ trương đó, nhất là những đường lối, chủ trương về phát triển công tác tư tưởng, lý luận. Nói cách khác, công tác tư tưởng, lý luận là một bộ phận cấu thành trong hệ thống tổ chức và hoạt động của Đảng; có chức năng tham mưu, đề xuất với Đảng những cơ sở, dữ liệu khoa học về lý luận và thực tiễn để hoạch định đường lối, chủ trương, đồng thời có nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến những đường lối, chủ trương đó.
Ở một khía cạnh chung nhất, có thể thấy công tác tư tưởng, lý luận có vai trò vô cùng to lớn đối với hoạt động thực tiễn cũng như sự vận động, phát triển của thực tiễn.
Kinh nghiệm lịch sử đã chứng minh hùng hồn rằng, mọi hoạt động thực tiễn có tính chất cách mạng lớn, mọi quá trình cách mạng hay mọi cuộc cách mạng có tính chất thực tiễn, có tính chất phong trào, muốn tiến triển nhanh chóng và mau giành được thắng lợi trọn vẹn, thì đều phải có tư tưởng, lý luận tiên phong so với thời kỳ đó soi sáng, dẫn dắt. Không có tư tưởng, lý luận đúng đắn định hướng, chúng sẽ tiến triển chậm chạp, mò mẫm, lâu đi đến thắng lợi, hoặc khi đã giành được thắng lợi rồi, cũng không giữ thắng lợi được lâu và trở nên thất bại hay liên tục tái thất bại. Công tác tư tưởng, lý luận của Đảng Cộng sản luôn luôn có vai trò quan trọng đối với việc chỉ đạo thực tiễn, kể từ khi chưa giành được chính quyền cho đến khi đã giành được chính quyền và thiết lập chế độ xã hội mới.
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, thực tiễn luôn luôn vận động, biến đổi, luôn luôn tự vạch đường đi cho chính mình, song nếu không có tư tưởng, lý luận đúng đắn, khoa học soi đường, chướng, thì sự vận động, biến đổi hay con đường tự vạch ra của thực tiễn sẽ dễ bị chệch hướng, tùy tiện, ít tính kế hoạch. Với ý nghĩa đó, có thể khẳng định, thực tiễn không chỉ là căn cứ, điểm xuất phát của tư tưởng, lý luận và công tác tư tưởng, lý luận mà còn là phương tiện thể nghiệm của chúng, là nơi mà chúng sẽ triển khai ý tưởng, mục đích của mình để sao cho thực tiễn ngày càng đổi mới, hàm chứa nhiều nhân tố tích cực. Cũng vì xuất phát từ thực tiễn cách mạng, thực tiễn công tác lao động sản xuất, học tập và chiến đấu của toàn Đảng, toàn dân mà công tác lý luận của Đảng luôn bám sát mục tiêu, nhiệm vụ, yêu cầu mới của cách mạng, của các quá trình hoạt động thực tiễn xã hội trong giai đoạn mới, lý luận nghiên cứu, tổng kết về mặt thực tiễn, trên cơ sở đào sâu nghiên cứu, tổng kết lý luận, và qua đó, góp phần bổ sung, phát triển đường lối của Đảng, đường lối đó sẽ lại tiếp tục soi rọi thực tiễn. Đồng thời, kết quả của công tác lý luận và những chủ trương, đường lối của Đảng sẽ được công tác tuyên truyền trực tiếp tác động vào thực tiễn. Đó là quá trình biện chứng trong sự vận động của lý luận, tư tưởng tới thực tiễn.
Nhận thức rõ vị trí, vai trò của tư tưởng, lý luận cũng như của công tác tư tưởng, lý luận, trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa X ''Về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới'', Đảng ta xác định: ''Công tác tư tưởng, lý luận là một bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hoạt động của Đảng; là lĩnh vực trọng yếu để xây dựng, bồi đắp nền tảng chính trị của chế độ, tuyên truyền, giáo dục, động viên và tổ chức nhân dân thực hiện các nhiệm vụ cách mạng, khẳng định và nâng cao vai trò tiên phong của Đảng về chính trị, lý luận, trí tuệ, văn hoá và đạo đức; thể hiện vai trò đi trước, mở đường trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc''4. Cũng do nhận thức được tầm quan trọng, ý nghĩa to lớn của công tác lý luận trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước hiện nay, nhất là trong xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, tại Đại hội XI, Đảng chỉ rõ: ''Tạo môi trường dân chủ thảo luận, tranh luận khoa học, khuyến khích tìm tòi, sáng tạo, phát huy trí tuệ của cá nhân và tập thể trong nghiên cứu lý luận. Khẩn trương ban hành quy chế dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị. Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan nghiên cứu lý luận, cải tiến tổ chức nghiên cứu lý luận phù hợp hơn với nhu cầu thực tiễn''5. Đồng thời, để phát huy tốt vai trò, tác dụng của công tác tư tưởng trong tình hình mới, nhất là đối với việc đấu tranh chống ''diễn biến hoà bình'' và ''tự diễn biến'', trong Văn kiện Đại hội XI, Đảng ta khẳng định: ''Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động ''diễn biến hoà bình'' của các thế lực thù địch. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện ''tự diễn biến'', ''tự chuyển hoá'' trong nội bộ ta; khắc phục sự suy thoái cán bộ, đảng viên chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên”6.
__________
Yêu cầu xuyên suốt trong thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 PGS. TS Phạm Văn Linh
Phó Trưởng ban Ban Tuyên giáo Trung ương
Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 được trình tại Đại hội XI của Đảng, khi đề cập 5 quan điểm phát triển thì quan điểm đầu tiên được khẳng định là: ''Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược''1. Điều này không chỉ nói lên thái độ dứt khoát trong sự lựa chọn mô hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cho một thập niên sắp tới, mà còn cho thấy tầm quan trọng của vấn đề với tư cách là quan điểm chỉ đạo xuyên suốt, quan trọng và nhất quán trong đường lối kinh tế của Đảng ta. Phát triển nhanh và bền vững vừa bao hàm cả chiều rộng và chiều sâu, vừa thể hiện tốc độ và chất lượng của mô hình tăng trưởng. Về phạm vi, mô hình kinh tế này thể hiện sự gắn kết hài hoà giữa nhanh và bền vững trên nhiều lĩnh vực rộng lớn, đan xen nhau cả về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội và an ninh, quốc phòng. Do đó, theo một cách hiểu đơn giản, trực tiếp nhất: phát triển nhanh và bền vững là phát triển kinh tế ổn định gắn với việc đảm bảo an sinh xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái, hay phát triển bền vững là quá trình thế hệ hôm nay ''phát triển'' không làm phương hại đến thế hệ ngày mai. Ở đây, nội hàm của phát triển được hiểu theo nghĩa rộng, bao quát nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.
Từ một nước kinh tế còn lạc hậu, điểm xuất phát thấp, vừa bước qua thời kỳ nước nghèo và kém phát triển để tham gia vào cộng đồng các quốc gia đang phát triển với mức thu nhập trung bình, quan điểm phát triển nhanh và bền vững có một ý nghĩa to lớn trong hướng phát triển và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay. Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại đã được nêu trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta (bổ sung và phát triển 2011) là: ''Các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc''2, trong bức tranh chung đó có nhiều thực tiễn sinh động, nhiều bài học kinh nghiệm, cả thành công và thất bại trong lựa chọn mô hình tăng trưởng của các quốc gia trên thế giới. Thực tiễn cho thấy là, số đông các nước vẫn đứng ở mức những nước đang phát triển với mức thu nhập thấp, tình trạng nghèo đói, bất bình đẳng xã hội, năng xuất thấp, ô nhiễm môi trường, khai thác cạn kiết nguồn tài nguyên quốc gia, chất lượng tăng trưởng, chất lượng sống của người dân thấp, lạc hậu. Một số quốc gia do điều kiện lịch sử, có điểm xuất phát cao do đã qua thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản, tuy nhiên những mâu thuẫn và bất ổn xã hội vẫn thường xuyên diễn ra. Bên cạnh đó, còn nhiều quốc gia vẫn đang loay hoay lựa chọn mô hình, chỉ có số ít nước phát triển đạt được một số tiêu chí cơ bản về chất lượng cuộc sống, chất lượng tăng trưởng nhưng cũng đã phải trả những học phí không nhỏ để đạt được nhưng thành quả đó trong quá trình phát triển. Bởi vậy, phát triển nhanh và bền vững sẽ là mô hình nhiều quốc gia lựa chọn trong bối cảnh thế giới ngày nay, nhất là những nước đang phát triển.
Đối với Việt Nam, phát triển nhanh và bền vững có nhiều ý nghĩa sâu sắc, thứ nhất, nước ta với điểm xuất phát thấp, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới vẫn rất lớn, vì thế đòi hỏi bức thiết là phải rút ngắn khoảng cách, phải tăng trưởng nhanh. Thứ hai, về mô hình chế độ xã hội, với 8 đặc trưng khi kết thúc thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, trong đó đặc trưng bao trùm là “dân giàu, nước mạnh dân chủ, công bằng, văn minh''3 thì đòi hỏi trong từng chặng, mỗi giai đoạn phát triển phải gắn kết chặt chẽ nội dung phát triển nhanh và bền vững, đặc biệt từ khi đất nước bước vào giai đoạn trở thành quốc gia đang phát triển với mức thu nhập trung bình. Thứ ba, những kinh nghiệm lịch sử của các nước trong quá trình phát triển đòi hỏi Việt Nam phải biết tận dụng lợi thế của thời đại mà lựa chọn cho mình con đường đi đúng đắn.
Trong Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011- 2020, yêu cầu xuyên suốt của Chiến lược chính là phát triển nhanh và bền vững, bài học là kinh nghiệm thứ hai được rút ra ở đây đã chỉ rõ: ''Đặc biệt coi trọng chất lượng, hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa tốc độ và chất lượng tăng trưởng”4. Thực tế này khẳng định, Việt Nam sẽ thực hiện và có đủ điều kiện để đảm bảo phát triền nhanh và bền vững trong giai đoạn tới, để đến năm 2020 đất nước cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, việc xác định mô hình tăng trưởng theo hướng này không phải chỉ thể hiện ý chí quyết tâm của cả dân tộc mà còn cho thấy cơ sở khoa học, tính khả thi trong quá trình thực hiện. Yêu cầu phát triển nhanh và bền vững đòi hỏi phải phát triển bền vững về kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh kinh tế. Từ điểm xuất phát như hiện nay, sau hơn 25 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử, bước phát triển mới đòi hỏi phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyên đổi mô hình tăng trưởng, coi trọng năng suất, chất lượng và hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu tiên hàng đầu, chú trọng phát triển kinh tế theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với phát triển văn hoá, thực hiện an sinh xã hội và bảo vệ tài nguyên, môi trường. Đây vừa là nội dung, vừa là con đường để đảm bảo nền kinh tế nước ta phát triền nhanh và bền vững trong thập niên thứ hai của thiên niên kỷ mới.
Cần phải khẳng định rằng, phát triển nhanh và bền vững vừa là mô hình tăng trưởng xuyên suốt trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nhiều cấp độ khác nhau, giai đoạn trước là tiền đề của giai đoạn sau, tạo thành một chỉnh thể thống nhất có tính kế thừa, có sự nhất quán, có cơ sở khoa học và thực tiễn.
Về yếu tố thời đại, Việt Nam hoàn toàn có thể thực hiện được mô hình này khi biết tận dụng những lợi thế thời đại của những nước đi sau. Cách mạng khoa học - công nghệ đã tạo ra nhũng điều kiện để các nước đi sau nhanh chóng đi ngay vào hiện đại, tiếp cận những văn minh, tiến bộ của nhân loại, lựa chọn những thành tựu tiên tiến, phù hợp với tiềm năng của mỗi quốc gia để thúc đẩy tăng trưởng, nâng cao năng xuất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế, lựa chọn những công nghệ thân thiện với môi trường. Bên cạnh đó, quá trình toàn cầu hoá và kinh tế tri thức không chỉ gắn kết mỗi quốc gia tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế, làm cho nền kinh tế mỗi nước trở thành những mắt khâu bổ trợ cho nhau, tạo thành nền kinh tế thế giới thống nhất, đó là cơ sở khách quan mang tính thời đại, đảm bảo cho Việt Nam phát triển nhanh và bền vững cho chặng đường sắp tới. Về yếu tố bên trong, yếu tố nội sinh, Việt Nam hoàn toàn có thể thực hiện phát triển nhanh và bền vững, trước hết do bản chất chế độ quy định. Suy cho cùng, mục tiêu phấn đấu của Đảng Cộng sản Việt Nam là lãnh đạo đất nước để đi đến xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Điều này đòi hỏi phải phát triển nhanh và bền vững. Thứ hai, trong suốt hơn 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Việt Nam liên tục đạt tốc độ tăng trưởng cao, đã có đủ cơ sở để tiếp tục tăng trưởng cao và bền vững. Thứ ba, tiềm năng và lợi thế của đất nước cũng như những thành quả đã đạt được trên nhiều lĩnh vực đã tạo đà thực hiện mục tiêu này cho những chặng đường tiếp theo.
Trong những năm qua, đã có 2 Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội giai đoạn 1991- 2000 và giai đoạn 2001-2010 được thực hiện, giai đoạn trước bình quân tốc độ tăng trưởng đạt khoảng 7%, giai đoạn sau đạt bình quân tăng trưởng là 7,26% đưa đất nước ta lọt vào nhóm nước có tốc độ tăng trưởng cao trên thế giới trong suốt thời gian qua. Đến 2010 tổng lực kinh tế Việt Nam đã đạt 101,6 tỷ USD, bình quận GDP theo đầu người đạt 1168 USD. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, một số cân đối lớn của nền kinh tế như ngân sách nhà nước, cán cân thanh toán tổng thể, nợ quốc gia và dự trữ ngoại tệ... cơ bản được đảm bảo. Vốn đầu tư toàn xã hội tăng cao, bằng khoảng 40,5 % GDP, năng lực nhiều ngành kinh tế tăng đáng kể. Cơ cấu kinh tế chuyển biến theo hướng tích cực, tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong cơ cấu GDP tăng từ 36,7% năm 2000 lên 41,l% năm 2010; tỉ trọng nông, lâm, ngư nghiệp giảm từ 24,5% xuống còn khoảng 21,6% và tỉ trọng dịch vụ giữ ở mức 38,3%. Tỉ lệ lao động nông nghiệp giảm từ 65,1% năm 2000 xuống 57,1% năm 2005 và còn 48,2% năm 2010. Môi trường pháp lý đã được quan tâm tạo đi33ru kiện cho sản xuất, kinh doanh thông thoáng hơn, từ năm 2001 đến 7/2009, đã ban hành 133 luật, 337 nghị quyết, 46 pháp lệnh, 1141 nghị định và hàng chục nghìn các văn bản quy phạm pháp luật khác, quan hệ sản xuất ngày càng phù hợp hơn, nền kinh tế đa sở hữu, nhiều thành phần kinh tế đan xen có bước phát triển mạnh. Khu vực kinh tế tư nhân, tập thể và các hộ gia đình tạo ra 45% GDP. Đã hoàn thành 719 mục tiêu Thiên niên kỷ trước năm 2015. Môi trường sống được quan tâm và có bước được nâng lên...
Tuy có đạt được những kết quả đáng kể trên nhiều lĩnh vực, thành tựu chung sau 10 năm từ 2001-2010 là to lớn và rất quan trọng, nhưng so với yêu cầu phát triển nhanh và bền vững thì còn tồn tại nhiều hạn chế, yếu kém: Chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, chậm được cải thiện, các cân đối vĩ mô chưa thật sự vững chắc. Công tác quy hoạch, kế hoạch và việc huy động, sử dụng các nguồn lực còn hạn chế, kém hiệu quả. Tăng trưởng kinh tế chủ yếu đưa vào yếu tố phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu, chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên, công nghệ thấp, tiêu hao vật chất cao và sử dụng nhiều lĩnh vực. Năng suất lao động và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế thấp và chậm được cải thiện, năng suất lao động của Trung Quốc cao gấp 2,6 lần, của Thái Lan cao gấp 4,3 lần và của Hàn Quốc cao gấp 26,2 lần của Việt Nam. Tiêu hao năng lượng lớn, để tạo ra 1 USD GDP, Việt Nam đã phải tốn lượng điện năng bằng 4,65 lần so với Hồng Kông, gấp 2,1 lần của Hàn Quốc, 3,12 lần của Singapo, khoảng 1,37 lần của Thái Lan và 1,69 lần của Malaixia. Kết cấu hạ tầng phát triển chậm, chất lượng thấp, thiếu đồng bộ, đang cản trở sự phát triển, mạng lưới giao thông chưa hoàn chỉnh, chất lượng thấp. Kết cấu hạ tầng đô thị, nhất là ở các đô thị lớn vừa thiếu đồng bộ, vừa kém phát triển. Sản lượng điện bình quân đầu người mới ở mức 692,5kwh. Nền tảng để Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa được hình thành đầy đủ, vẫn tiềm ẩn nhiều yếu tố mất ổn định, thiếu bền vững. Thể chế kinh tế thị trường chưa theo kịp yêu cầu phát triển; sức sản xuất chưa được giải phóng triệt để, môi trường kinh doanh chưa thật sự bình đẳng, thông thoáng. Hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập. Hậu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước còn thấp, việc hình thành các loại thị trường còn chậm và chưa đồng bộ. Các lĩnh vực văn hoá, xã hội có một số mặt yếu kém, chậm được khắc phục, nhất là về giáo dục, đào tạo và y tế, đạo đức và lối sống trong một số bộ phận xã hội xuống cấp; lao động thiếu việc làm, an sinh xã hội và phúc lợi xã hội chưa vững chắc, chất lượng nguồn nhân lực thấp. Chênh lệch thu nhập giữa các nhóm dân cư còn lớn 2001-2002 là 8,14 lần, 2006 là 8,4 lần đến 2008 là 8,9 lần. Môi trường tiếp tục bị xuống cấp, ở nhiều nơi đang bị ô nhiễm nặng nề; tài nguyên đất đai, rừng chưa được quản lý, sử dụng có hiệu quả. Hiệu lực, hiệu quả quản lý của nhà nước còn có mặt bất cập, chậm được cái thiện...
Nguyên nhân chính của những hạn chế, yếu kém nêu trên có cả yếu tố chủ quan và khách quan, ảnh hưởng tới phát triển nhanh và bền vững. Trước hết về khách quan, đó là thiên tai, lũ lụt, biến đổi khí hậu làm cho hạ tầng kinh tế, đời sống nhân dân ở những vùng bị tác động của thời tiết đã khó khăn, càng khó khăn hơn; xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, nhiều vấn đề xã hội đặt ra cần sớm được giải quyết như xoá đói, giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội, lao động việc làm ..; Bên cạnh đó, những vấn đề mới nảy sinh chưa có tiền lệ trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao, vấn đề phát triển nhanh và bền vững chưa đáp ứng được yêu cầu còn do nguyên nhân chủ quan là chính, đó là tư duy phát triến kinh tế- xã hội chậm đổi mới, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển của đất nước, để tồn tại quá lâu mô hình tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng, bệnh thành tích còn nặng; phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong điều kiện Đảng cầm quyền chậm đổi mới; hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên nhiều mặt còn hạn chế, nhất là những khâu đột phá, then chốt, những vấn đề xã hội còn bức xúc; sức mạnh toàn dân tộc chưa được phát huy tốt nhất...
Trong chặng đường sắp tới, từ nay đến năm 2020 như Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đã đề cập để đảm bảo phát triển nhanh và bền vững, theo đó phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt toàn bộ quá trình, cần thực hiện tốt một số nhiệm vụ và giải pháp sau:
Thứ nhất, phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước, kiên quyết bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, đảm bảo giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, là đối tác và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, tạo môi trường hoà bình và điều kiện thuận lợi cho phát triển đất nước.
Thứ hai, tiếp tục đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, nhất là các cân đối lớn của nền kinh tế, giữ vững an ninh lương thực, an ninh năng lượng, bảo đảm an toàn và hiệu quả trong hoạt động của nền tài chính quốc gia.
Thứ ba, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên trong và bên ngoài bảo đảm cho tốc độ tăng trưởng cao, chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Thứ tư, thực hiện tốt việc phát triển các lĩnh vực văn hóa – xã hội hài hoà với phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao đời sống, vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và trong chính sách phát triển.
Thứ năm, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hành dân chủ rộng rãi, nhất là dân chủ trực tiếp, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo nền tảng để xây dựng một xã hội đồng thuận, cởi mở.
Thứ sáu, thực hiện nghiêm túc chủ trương tăng trưởng kinh tế gắn với bảo vệ môi trường, đảm bảo khả năng chủ động đối phó với biến đổi khí hậu trong các giai đoạn sau của nền kinh tế./.
________
1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB CTQG-ST 2011 tr 98.
2. Sđd tr 69.
3. Sđd tr 70.
4. Sđd tr 95.
5. Các số liệu trên từ Tham luận tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB CTQG – 2011 tr 29-35
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam theo tinh thần Đại hội lần thứ XI của Đảng GS.TS Chu Văn Cấp
Nguyên Viện trưởng Viện KTCT,
Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh
Văn kiện Đại hội lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 1-2011) đã ghi: Chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu dựa theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả.
Bài viết này tập trung làm rõ những căn cứ lý luận và thực tiễn, những nội dung cơ bản định hướng đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời kỳ 2011-2020, theo tinh thần nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng.
1. Quá trình nhận thức về mặt lý luận và thực tiễn tăng trưởng kinh tế - cơ sở cho sự đổi mới mô hình tăng trưởng.
1.1. Vài nét về lý luận tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế đó là sự gia tăng thu nhập hay sản lượng thực tế được tính cho toàn bộ nền kinh tế (của một quốc gia, một vùng hay một ngành) trong một thời kỳ nhất định, thường là một năm.
Tăng trưởng kinh tế, xét ở đầu vào là do 3 yếu tố: Số lượng vốn đầu tư, số lượng lao động và năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) mà chủ yếu là: Tiến bộ công nghệ, kỹ thuật, hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào là lao động, vốn đầu tư. Tăng trưởng kinh tế dựa vào 2 yếu tố đầu là sự tăng trưởng theo bề rộng (tăng trưởng về số lượng), còn dựa vào yếu tố thứ 3 đó là tăng trưởng về chất lượng (phát triển theo chiều sâu). Do đó, tăng trưởng kinh tế được xem xét dưới 2 góc độ: Số lượng và chất lượng.
Trong nền kinh tế thị trường, tăng trưởng kinh tế về mặt lượng được đánh giá chủ yếu thông qua các chỉ tiêu giá trị phản ánh tăng trưởng theo hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) bao gồm: Tổng giá trị sản xuất (GO), tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân (GNP), tổng thu nhập quốc dân (GNI), trong đó, GDP thường là chỉ tiêu quan trọng nhất và được sử dụng phổ biến nhất.
Tăng trưởng kinh tế về mặt chất lượng, đó là sự biến đổi về quy mô, cơ cấu, chất lượng của nền kinh tế gắn với việc đảm bảo tiến bộ, công bằng xã hội, sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường ... Đây cũng là 3 nhóm chỉ tiêu trụ cột của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Chất lượng tăng trưởng kinh tế được biểu hiện ở sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững của nền kinh tế, thể hiện trên các mặt sau: (1) Tốc độ tăng trưởng cao và được duy trì trong một thời gian dài, (2) Nền kinh tế phát triển có hiệu quả thể hiện ở năng suất lao động cao, hiệu quả sử dụng vốn cao, sức cạnh tranh của nền kinh tế cao, (3) Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ, hiện đại; (4) Tăng trưởng kinh tế gắn liền với việc giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái…
Ngày nay nhiều quốc gia trên thế giới đã lựa chọn mô hình tăng trưởng chú trọng cả lượng và chất của quá trình tăng trưởng.
1.2. Thực tiễn các mô hình tăng trưởng kinh tế trên thế giới và Việt Nam.
1.2.1. Trên thế giới
Trên thực tế, một số quốc gia muốn tăng trưởng kinh tế quá nhanh, chọn cách phát triển thiển cận miễn sao tăng thu nhập hiện tại, mà không chú ý đến hậu quả lâu dài của cách phát triển đó đến môi trường sinh thái, làm cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, đến tình trạng gia tăng khoảng cách giàu nghèo, bất công xã hội, và mất ổn định chính trị - xã hội.
Thực tế cho thấy, loài người đã và đang trả giá cho sự tăng trưởng nhanh, phiến diện, tăng trưởng không đi liền với phát triển bền vững. Nhiều quốc gia tăng trưởng kinh tế nhưng dân chúng vẫn ở trong cảnh tồi tệ, xét ở các góc độ như: trình độ học vấn, sức khỏe, tuổi thọ, việc làm và thu nhập, thất nghiệp, điều kiện sống trước mắt và lâu dài của dân cư. Năm 1996, Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) đã khuyến cáo 5 loại tăng trưởng xấu, bao gồm: (1) Tăng trưởng không việc làm, đó là tăng trưởng không đi liền với mở rộng cơ hội tạo việc làm ...; (2) Tăng trưởng không lương tâm, tức là thành quả của nó đem lại lợi ích chủ yếu cho người giàu, còn người nghèo được hưởng ít, khoảng cách giàu nghèo ngày càng gia tăng; (3) Tăng trưởng không có tiếng nói, tức là tăng trưởng kinh tế không kèm theo việc mở rộng dân chủ hay là việc trao quyền lực cho dân, hạn chế những đòi hỏi được tham dự nhiều hơn vào đời sống xã hội của người dân; (4) Tăng trưởng gốc rễ, là sự tăng trưởng không khiến cho đời sống văn hóa của con người trở nên khô héo; và (5) Tăng trưởng không tương lai, tức tăng trưởng trong đó thế hệ hiện nay phung phí những nguồn lực mà các thế hệ trong tương lai cần đến, trong đó phải đặc biệt kể đến là môi trường và tài nguyên thiên nhiên.
Trên thế giới có thể thấy Hàn Quốc - Braxin là hai quốc gia điển hình trong việc phát triển ngược nhau. Hàn Quốc gắn tăng trưởng, phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội cơ bản, thực hiện công bằng xã hội ... nên là quốc gia có sự bất bình đẳng ít nhất và giữ được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong thời gian dài. Trái lại, Braxin, tập trung phát triển công nghiệp nặng với những doanh nghiệp quy mô lớn, sử dụng nhiều vốn ... ít quan tâm đến nông nghiệp, nông thôn và nông dân, các chính sách xã hội, ít quan tâm đến người nghèo. Chính vì vậy, dù tốc độ tăng trưởng cao trong nhiều năm, nhưng lại không giải quyết được tình trạng bất bình đẳng xã hội, phân hóa giàu nghèo gia tăng và chính điều này lại là nguyên nhân kìm hãm sự tăng trưởng, thậm chí có nguy cơ khủng hoảng chính trị, xã hội.
12.2. Mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong 25 năm qua: những vấn đề bức xúc, bất lợi.
* Tăng trưởng kinh tế ở nước ta có tầm quan trọng hàng đầu không chỉ do nước ta có điểm xuất phát thấp (kinh tế - kỹ thuật, xã hội ...) đi lên CNXH, phải tăng trưởng nhanh để sớm thoát khỏi tình trạng kém phát triển, rút ngắn khoảng cách tụt hậu về kinh tế, khoa học – công nghệ so với các nước trong khu vực và thế giới, mà chỉ có tăng trưởng nhanh mới có thể thực hiện được các mục tiêu phát triển xã hội như, tạo việc làm, tăng thu nhập của dân cư, xóa đói giảm nghèo, phát triển giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa ... thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
* Trong gần 25 năm qua (1986-2011), nền kinh tế Việt Nam đã có số tăng trưởng liên tục, tốc độ cao, khá ấn tượng và rất đáng tự hào. Thể hiện thời kỳ Chiến lược 1991-2000 đạt 7,4%/năm và thời kỳ 10 năm 2001-2010 đạt 7,2%/năm. Tính từ năm 1976 đến nay, thời gian tăng trưởng liên tục của nền kinh tế Việt Nam là gần 30 năm, vượt kỷ lục 23 năm của Hàn Quốc.
Nhờ có sự tăng trưởng liên tục và cao trong nhiều năm:
+ Quy mô của nền kinh tế đã lớn lên đáng kể. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 theo giá so sánh gấp 2 lần so với năm 2000, theo giá thực tế gấp 3,4 lần. Kim ngạch xuất khẩu tăng hơn 4 lần/năm 2000. Năm 2010, GDP/người/năm đạt 1.200 USD (năm 1990 là gần 100 USD).
+ Tăng trưởng kinh tế ngay sau khi đổi mới đã đưa Việt Nam thoát khỏi khủng hoảng kinh tế kéo dài nhiều năm sau ngày đất nước hòa bình, thống nhất đã đưa Việt Nam thoát khỏi tình trạng nước kém phát triển và bước vào nhóm nước đang phát triển có nhu nhập trung bình thấp theo xếp hạng của WB.
+ Tăng trưởng kinh tế đã góp phần giải quyết tốt các vấn đề xã hội bức xúc: Lao động, việc làm, thu nhập, cải thiện chất lượng cuộc sống, xóa đói giảm nghèo, thực hiện an sinh xã hội, tiến bộ và công bằng xã hội từng bước được thực hiện ...
+ Nền kinh tế Việt Nam từng bước hội nhập sâu, đầy đủ vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Diện mạo đất nước có nhiều thay đổi, thế và lực của nước ta vững mạnh thêm nhiều, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao ...
* Tuy nhiên, nhìn nhận một các khách quan có thể thấy rằng tốc độ phát triển kinh tế chưa thật tương xứng với tiềm năng và cơ hội mà đất nước đã có được. Tăng trưởng kinh tế trong những năm qua vẫn chủ yếu theo bề rộng, chưa chú trọng phát triển theo chiều sâu, chất lượng tăng trưởng thấp, hiệu quả của tăng trưởng hạn chế, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và sản phẩm hàng hóa còn thấp kém... Cụ thể:
(1) Tăng trưởng kinh tế của nước ta chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên, tăng vốn đầu tư và lao động rẻ. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các ngành tăng trưởng thuần túy dựa vào khai thác, sử dụng tài nguyên như các ngành nông, lâm, thủy sản, khai thác... luôn luôn chiếm tỷ trọng lớn khoảng 30% GDP trong giai đoạn 1991-2009. Động lực của tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế là các ngành công nghiệp gia công, lắp ráp có tỷ lệ chi phí trung gian cao, phụ thuộc vào nhập khẩu tiêu tốn ngoại tệ, thường gây ô nhiễm môi trường và khu vực dịch vụ chưa có tăng trưởng rõ rệt. Kim ngạch xuất khẩu gia tăng nhanh, nhưng cơ cấu xuất khẩu thay đổi chậm, chủ yếu là xuất hàng thô, sơ chế, khoáng sản, năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu thấp.
(2) Hiệu quả và chất lượng đầu tư thấp (chất lượng tăng trưởng thấp)
+ Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, vùng kinh tế ngày càng dựa nhiều và vốn FDI, nhưng nguồn vốn này phân bổ không đều, chất lượng chưa cao và cũng chưa đóng góp nhiều vào chất lượng tăng trưởng.
+ Đầu tư dàn trải, cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư thấp, nhất là nguồn vốn đầu tư của nhà nước. Hiệu quả đầu tư thể hiện ở chỉ số ICOR (tỷ lệ vốn đầu tư/GDP) có xu hướng tăng cao trong thời kỳ 1991-2009. Theo tính toán từ số liệu của Tổng cục thống kê, giai đoạn (1991-1995), bình quân là 3,5; giai đoạn (1996-2000) là 4,8; giai đoạn (2001- 2005): 5,1; trong hai năm 2008, 2009 là 8,0. Chỉ số ICOR cao đồng nghĩa với hiệu quả đầu tư thấp và sụt giảm, năng lực cạnh tranh giảm. Theo khuyến cáo của WB hệ số ICOR 3,0 là hệ số phản ánh đầu tư có hiệu quả và nền kinh tế phát triển theo hướng bền vững đối với các nước đang phát triển. Điều muốn nói là ở khu vực đầu tư công, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước hệ số ICOR rất cao, năm 2009 có thể lên đến 12,0, trong khi đó ICOR chung của nền kinh tế là 8,0.
(3) Những nền tảng cơ bản của tăng trưởng (ổn định kinh tế vĩ mô, thể chế kinh tế - xã hội, giáo dục và y tế cơ bản, cơ sở hạ tầng) còn nhiều bất cập, năng lực cạnh tranh chậm được cải thiện. Các yếu tố đóng góp vào việc gia tăng chất lượng tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế (chất lượng nguồn nhân lực, hiệu quả các thị trường nhân tố sản xuất: lao động, đất đai, công nghệ; năng lực đổi mới, sáng tạo công nghệ) còn thiếu và yếu.
Theo Báo cáo của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) khi khảo sát 133 vùng lãnh thổ và quốc gia thì Việt Nam có chỉ số rất thấp về chất lượng cơ sở hạ tầng (111/133), chất lượng đường sá (120/133), chất lượng cung cấp điện (103/133), chi phí cho giáo dục cơ sở (103/133), chất lượng các trường đào tạo và quản lý (11/133).
Theo Báo cáo của WEF về năng lực cạnh tranh toàn cầu, năng lực cạnh tranh của Việt Nam từ 2001 đến nay hầu như không được cải thiện, thậm chí Việt Nam còn bị tụt hạng về năng lực cạnh tranh trong năm 2008, 2009. Năm 2009 xếp thứ 75/133 nước tham gia xếp hạng; năm 2008: 70/134 nước. Như vậy năm 2009 năng lực cạnh tranh bị tụt 5 hạng so với năm 2008.
(4) Trên thực tế, việc gắn kết giữa tăng trưởng với tiến bộ, công bằng xã hội còn chưa chặt chẽ. Tăng trưởng kinh tế cao, nhưng chưa bền vững, tăng trưởng chưa gắn chặt với giảm nghèo, tăng trưởng cũng làm phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc: việc làm cho người lao động, phân hóa giàu nghèo gia tăng, sự chênh lệch về trình độ phát triển, về thu nhập... giữa các vùng, miền ngày càng lớn, môi trường bị ô nhiễm và suy thoái nghiêm trọng, tệ nạn xã hội vẫn diễn biến phức tạp và có xu hướng gia tăng, đặc biệt là tệ nạn ma túy, mại dâm ...
Từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội X và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001-2010) Đảng ta đã rút ra bài học kinh nghiệm: ... Phải thực sự coi trọng chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và phát triển bền vững, nâng cao chất lượng, hiệu quả nền kinh tế, đồng thời duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô ...
2. Đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng phát triển bền vững
2.1. Phát triển bền vững
Phát triển bền vững là xu hướng phát triển hiện đại bảo đảm sự hài hòa giữa kinh tế - xã hội- môi trường, giữa các ngành, lĩnh vực, các vùng lãnh thổ, giữa trước mắt và lâu dài và giữa các thế hệ... Tại Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội, họp tại Côphahaghen, Đan Mạch (tháng 3-1995), các nguyên thủ quốc gia đã đưa ra mục tiêu phát triển không chỉ là phát triển kinh tế đơn thuần mà phải phát triển xã hội, phát triển con người trong sự cân đối hài hòa giữa đời sống vật chất và phát triển con người vừa an toàn, vừa bền vững.
Phát triển bền vững ngày càng trở nên cấp thiết mang tính toàn cầu, trở thành xu thế khách quan của thế giới ngày nay, và cũng là thách thức lớn đối với các quốc gia trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Việc lựa chọn con đường, biện pháp và thể chế, chính sách đảm bảo sự phát triển bền vững luôn luôn là mối quan tâm hàng đầu của mọi quốc gia (trong đó có Việt Nam) trên con đưòng phát triển.
Ở nước ta, từ Đại hội lần thứ VIII của Đảng đến Đại hội lần thứ XI đều đã nhất quán đường lối phát triển bền vững. Trong đường lối phát triển của Việt Nam, khái niệm ''định hướng XHCN” chỉ có ý nghĩa thực tiễn khi mang ''nội hàm'' phát triển bền vững, vì sự tiến bộ xã hội, sự phát triển tự do và toàn diện của mỗi cá nhân. Đảng và nhà nước ta đã đưa ra định hướng Chiến lược phát triển bền vững, với mục tiêu cơ bản... đảm bảo sự hài hòa giữa con người và tự nhiên; phát triển phải kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa 3 mặt: Phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Với nguyên tắc: Con người là trung tâm của sự phát triển bền vững và bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn dân. Đại hội lần thứ XI của Đảng đã nêu ra quan điểm phát triển có tính hàng đầu là phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược.
2.2. Đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng phát triển bền vững, tức là thúc đẩy tăng trưởng nhanh để tránh tụt hậu và chú trọng chất lượng tăng trưởng để phát triển bền vững.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế, phát triển kinh tế tri thức và trong điều kiện nước ta đã hội nhập sâu, đầy đủ vào nền kinh tế thế giới thì tư duy phát triển phải có sự thay đổi một cách cơ bản là: Chủ yếu dựa và tri thức, công nghệ mới, lấy tri thức làm cơ sở, dựa vào hội nhập quốc tế để phát triển và kết hợp hài hòa giữa yêu cầu ''theo tiếp thời đại'' với yêu cầu giữ vững định hướng XHCN trong quá trình phát triển.
Đại hội lần thứ XI của Đảng đã chỉ rõ: ''Đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hài hòa giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng chất lượng, hiệu quả''.
Có thể hiểu và cụ thể hóa như sau:
(1) Bảo đảm sự hài hòa giữa tốc độ và chất lượng tăng trưởng.
- Phấn đấu ổn định kinh tế vĩ mô, giữ tốc độ tăng GDP hợp lý, cao và ổn định trong dài hạn.
- Chú trọng đến chất lượng tăng trưởng.
+ Nâng cao hiệu quả các nguồn vốn đầu tư: Giảm chỉ số ICOR, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nâng cao năng suất lao động xã hội, tăng mức đóng góp của yếu tố năng suất nhân tố tổng hợp (TFP)...
+ Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và sản phẩm.
+ Thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Đây là một nội dung của chất lượng tăng trưởng. Phát triển giáo dục - đào tạo và y tế - Hai lĩnh vực thể hiện rõ tiến bộ xã hội. Đồng thời tạo điều kiện cơ hội đảm bảo sự bình đẳng cho mọi người tiếp cận giáo dục - đào tạo và y tế ...
(2) Đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghiệp phụ trợ.
Phát triển mạnh công nghiệp theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh, tạo nền tảng cho một nước công nghiệp theo hướng; Tăng hàm lượng khoa học - công nghệ và tỷ trọng giá trị nội địa trong sản phẩm; ưu tiên, chọn lọc phát triển các ngành công nghiệp dựa trên công nghệ cao để đến năm 2015, tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghệ cao đạt khoảng 35% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp, và các sản phẩm công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, có khả năng tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu.
Chú trọng phát triển công nghiệp phụ trợ, công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn, từng bước phát triển công nghiệp sinh học và công nghiệp môi trường…
(3) Đẩy mạnh công nghiệp hóa nông thôn, và phát triển mạnh các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao và hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế, kỹ thuật.
- Đẩy mạnh CNH nông nghiệp, phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững.
+ Khai thác lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới để phát triển sản xuất hàng hóa lớn với năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao.
+ Đẩy mạnh phát triển chăn nuôi theo phương thức công nghiệp, bán công nghiệp, đảm bảo chất lượng và an toàn dịch bệnh.
+ Phát triển lâm nghiệp bền vững. Khai thác có hiệu quả và bền vững các nguồn lợi hải sản gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường biển.
- Phát triển mạnh các ngành dịch vụ, nhất là các dịch vụ có lợi thế cạnh tranh, có hàm lượng khoa học - công nghệ và giá trị gia tăng như: du lịch, hàng hải, hàng không, tài chính - ngân hàng (kể cả bảo hiểm), các dịch vụ kinh doanh khác (Maketing, dịch vụ pháp lý, tư vấn đào tạo, các dịch vụ phần mềm máy tính ...).
- Phát triển nhanh, hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế, kỹ thuật đồng bộ với một số công trình hiện đại, trước hết là hệ thống giao thông (nhất là giao thông đô thị), cung cấp năng lượng (điện), thủy lợi đảm bảo sử dụng tiết kiệm các nguồn lực và hiệu quả kinh tế, bảo vệ môi trường.
(4) Phát triển và khai thác tối đa thị trường trong nước, đồng thời mở rộng thị trường xuất khẩu.
+ Đẩy mạnh phân công lao động xã hội; phát triển nhu cầu nâng cao thu nhập, đời sống nhân dân; tiếp tục thực hiện chủ trương ''người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Phát triển đồng bộ và quản lý vận hành có hiệu quả các thị trường cơ bản (hàng hóa và dịch vụ, thị trường tài chính, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ, thị trường dịch vụ kinh doanh).
+ Tiếp tục hình thành phát triển các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, mũi nhọn trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam, đồng thời lựa chọn mặt hàng xuất khẩu trọng điểm, phát huy lợi thế so sánh động. Cải thiện chất lượng hàng hóa xuất khẩu... Củng cố thị trường nước ngoài đã được thiết lập, nhất là thị trường lớn, giàu tiềm năng, đồng thời mở các thị trường mới có triển vọng phát triển ...
(5) Gắn kết chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.
Phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng cao là tiền đề, điều kiện vật chất để giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường. Ngược lại, giải quyết tốt các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường là động lực, nhân tố đảm bảo tăng trưởng kinh tế cao, bền vững.
Tăng trưởng kinh tế tự nó không thể giải quyết được tất cả các vấn đề xã hội và không tự nó dẫn đến tiến bộ xã hội, mà phải có sự điều tiết của xã hội thông qua Nhà nước đề phân phối và phân phối lại kết quả sản xuất theo hướng đảm bảo công bằng xã hội. Vì thế, phải gắn phát triển nhanh và bền vững trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế - xã hội, thể hiện như sau:
- Gắn kết, tăng trưởng với xóa đói giảm nghèo bền vững, tức là tiếp tục thực hiện Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo theo hướng bền vững do Đại hội lần thứ IX của Đảng đề ra và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 2002.
- Tăng trưởng kinh tế với giải quyết việc làm, tạo nhiều việc làm cho người lao động, tăng thu nhập, cải thiện chất lượng cuộc sống của dân cư, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khăn, vùng bị thu hồi đất để phát triển đô thị, công nghiệp và dịch vụ ...
- Chiến lược phát triển của Việt Nam luôn luôn xuất phát từ con người, coi con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển; Do đó, tăng trưởng kinh tế phải đưa đến kết quả là nâng cao chỉ số phát triển con người (HDI).
- Tăng trưởng kinh tế phải gắn với mục tiêu phát triển hài hòa, bền vững giữa các vùng trong nước và bảo vệ, cải thiện chất lượng môi trường.
+ Điều chỉnh mô hình đô thị hóa đảm bảo đô thị hóa trải rộng trên phạm vi cả nước, gắn phát triển kinh tế đô thị với xây dựng nông thôn mới.
+ Gắn mục tiêu bảo vệ môi trường với mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội; Thực hiện nghiêm ngặt lộ trình xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường ... Chú trọng phát triển kinh tế xanh, thân thiện với môi trường. Thực hiện sản xuất và tiêu dùng bền vững; Thực hiện có hiệu quả các giải pháp chống thiên tai và Chương trình quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu nhất là nước biển dâng.
* Để thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, cơ cấu lại nền kinh tế thời kỳ 2011-2020, cần có những điều kiện sau đây:
Một là, huy động các nguồn vốn cho tăng trưởng kinh tế, thông qua: thị trường chứng khoán, hoạt động huy động vốn của các trung gian tài chính, phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa, thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI và ODA). Đồng thời nâng cao hiệu quả đầu tư, nhất là vốn đầu tư nhà nước, nguồn vào của các doanh nghiệp nhà nước.
Hai là, phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước, với biện pháp hàng đầu là phát triển giáo dục - đào tạo, nhất là giáo dục, đào tạo đại học và sau đại học và phát triển mạnh khoa học và công nghệ (nhất là công nghệ cao) làm động lực then chốt của phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Ba là, cải cách hành chính và cải thiện môi trường thể chế kinh tế xã hội. Đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng có hiệu quả, ngăn chặn và xoá bỏ sự chi phối của lợi ích nhóm, sự cố kết bất minh giữa nhà kinh doanh với những người có vai trò quyết định chính sách trong việc sử dụng “vận động hành lang” (Loppy) dưới nhiều hình thức khác nhau méo mó, gây trở ngại cho lợi ích của cộng đồng, làm giảm hiệu lực quản lý nhà nước và làm suy giảm lòng tin của dân đối với nhà nước.
Bốn là, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước. Mở rộng và phát huy dân chủ trong xã hội. Tạo sự đồng thuận trong xã hội. Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể nhân dân.
Mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất với xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ GS, TS. Nguyễn Hùng Hậu
Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh
Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI có nhiều chỗ nói về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Chẳng hạn, ở mục Tiếp tục đổi mới toàn diện, mạnh mẽ theo con đường xã hội chủ nghĩa, tr. 187 có nói về cần đặc biệt chú trọng xử lý và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn như giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Ở một chỗ khác có nói: để thực hiện tư tưởng chỉ đạo chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020, phải quán triệt quan điểm, mà quan điểm thứ tư là phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học công nghệ ngày càng cao; đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (tr.30-31). Ở tr.70 có đề cập đến một trong những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội có nền kinh tế phát triển cần dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp. Vậy phải chăng, những cách nói khác nhau này là thực sự khác nhau? Đối với lực lượng sản xuất thì hầu hết tất cả đều nói là cần phải phát triển lực lượng sản xuất, có chỗ cụ thể hơn như phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học công nghệ ngày càng cao, có chỗ nói đến lực lượng sản xuất hiện đại. Thực ra lực lượng sản xuất hiện đại phải là lực lượng sản xuất với trình độ khoa học công nghệ ngày càng cao. Tất cả những cách nói đó không có gì mâu thuẫn, trái lại còn thống nhất, phù hợp với nhau. Còn đối với quan hệ sản xuất thì có chỗ nói xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; có chỗ nói hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; có chỗ lại nói quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp. Ở đây cũng vậy, những cách nói khác nhau này hoàn toàn không mâu thuẫn với nhau mà thống nhất, phù hợp nhau; bởi lẽ, xã hội xã hội chủ nghĩa thực sự trên đất nước ta vẫn chưa có, do đó quan hệ sản xuất nước ta hiện nay là quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đang hướng tới quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, bởi vậy, chúng ta phải từng bước xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất này, và trong quá trình này, theo quy luật, chúng ta phải xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Điểm cần lưu ý ở đây là tiến bộ nhưng phải phù hợp, nếu không sẽ dễ rơi vào chủ quan duy ý chí như trước kia: tiên tiến đi trước mở đường. Ngược lại, nếu không có từ ''tiến bộ'' thì chúng ta lại bỏ rơi tính năng động, tích cực, sáng tạo của con người; rơi vào trạng thái tự nhiên, từ đó tạo ra tính thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, thiếu tính sáng tạo. Vừa qua, trong lúc thảo luận, có người cho rằng ta bỏ cụm từ ''chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu'' như vậy là bỏ mất một trong những đặc trưng quan trọng nhất của chủ nghĩa xã hội? Thực ra không phải như vậy. Như chúng ta đã biết, chế độ công hữu, một trong những đặc trưng cơ bản của phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa, nhưng chế độ công hữu chỉ là sự biểu hiện của quan hệ sở hữu, đến lượt mình quan hệ sở hữu lại chỉ là một yếu tố, mặc dù là yếu tố quan trọng nhất, của quan hệ sản xuất. Bởi vậy, nói như Đại hội XI là bao quát hơn, khái quát hơn, đầy đủ hơn và chính xác hơn.
Vậy, phát triển lực lượng sản xuất là phát triển cái gì? Như chúng ta đã biết lực lượng sản xuất biểu thị mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, bao gồm con người, tư liệu sản xuất; nó thể hiện năng lực của con người trong việc chinh phục giới tự nhiên, là nội dung của phương thức sản xuất, cơ sở của lịch sử.
Trong lực lượng sản xuất, con người là yếu tố quan trọng nhất. Nhưng con người không phải là cái nhất thành bất biến mà trong mỗi thời đại kinh tế, với tư cách là yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất nó cũng có sự thay đổi. Chẳng hạn, trong thời kỳ công trường thủ công, trong các khía cạnh của con người tham gia vào lực lượng sản xuất thì khía cạnh sức lực cơ bắp có vẻ nổi trội; trong thời kỳ cơ khí máy móc thì khía cạnh năng lực, kỹ năng, kinh nghiệm lao động lại nổi trội hơn; trong thời đại kinh tế tri thức hiện nay (hàm lượng tri thức trong sản phẩm chiếm đến 70%) thì khía cạnh tri thức lại nổi trội. Như vậy, cái quan trọng có tính chất quyết định trong lực lượng sản xuất hiện nay không phải là sức lực cơ bắp, không phải là kỹ năng, kinh nghiệm sử dụng, vận hành máy móc, mà là tri thức, là đầu óc của con người. Một yếu tố nữa của lực lượng sản xuất là tư liệu sản xuất hay tư liệu lao động bao gồm công cụ lao động và đối tượng lao động. Trong lực lượng sản xuất, nếu con người là yếu tố quan trọng nhất thì công cụ lao động là yếu tố động nhất. Trình độ phát triển của công cụ lao động thể hiện trình độ hay thước đo việc chinh phục giới tự nhiên của con người. Sự thay đổi một cách căn bản công cụ lao động theo nghĩa nào đó đã góp phần quyết định kéo theo sự thay đổi của các thời đại kinh tế. Theo nghĩa đó, C.Mác nói: ''Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp'' (C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr.187). Trong lịch sử, trình độ của công cụ lao động nhìn chung đã trải qua ba giai đoạn sau chủ yếu: thủ công, cơ khí, máy móc và tự động hóa. Cái cối xay hiện nay không phải quay bằng tay không phải chạy bằng hơi nước mà là tự động hóa.
Ngay đối tượng lao động hiện nay cũng khác trước rất xa. Nếu trong nền văn minh nông nghiệp, đối tượng lao động chủ yếu là ruộng đất; trong văn minh cơ khí, đối tượng lao động lại được mở rộng ra, ngoài ruộng đất đối tượng lao động chủ yếu của thời kỳ này là các nguyên vật liệu như than đá, chất đốt, dầu khí, các nguyên liệu hóa thạch, các hầm mỏ,... nói chung là các nguyên vật liệu cần cho các ngành công nghiệp như sắt, thép, sợi, dệt vải, ô tô, cơ khí chế tạo máy, ..., thì đối tượng lao động trong thời đại ngày nay ngoài những đối tượng trên, chủ yếu lại là thông tin.
Trong tư liệu sản xuất còn bao gồm cả phương tiện sản xuất như đường xá, cầu cống, xe cộ, bến cảng, kho chứa, ...
Hiện nay khoa học kỹ thuật cũng đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp theo nghĩa nó là nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi trong sản xuất; nó ngày càng được áp dụng rộng rãi trong sản xuất và trở thành một nhân tố không thể thiếu được của quá trình sản xuất; nó thâm nhập vào các yếu tố của lực lượng sản xuất và đem lại sự thay đổi về chất của lực lượng sản xuất; nó làm cho quá trình sản xuất chính là quá trình ứng dụng, áp dụng khoa học kỹ thuật; nó có ý nghĩa sống còn đối với nhiều quá trình sản xuất. Nếu con người là yếu tố quan trọng nhất xuyên suốt trong lịch sử của lực lượng sản xuất thì khoa học kỹ thuật, theo Đặng Tiểu Bình, hiện là lực lượng sản xuất số một, còn theo Giang Trạch Dân, là biểu hiện tập trung, tiêu chí chủ yếu của lực lượng sản xuất tiên tiến. Hiện nay, tri thức, thông tin cũng là của cải. Theo đà phát triển của sản xuất, khối lượng và chất lượng của cải xã hội sẽ được quyết định bởi ứng dụng khoa học vào sản xuất. Từ đó một số học thuyết của các nhà tư tưởng tư sản đã đi đến chỗ tuyệt đối hóa, thổi phồng, khuếch đại vai trò của khoa học kỹ thuật, chẳng hạn như học thuyết các nền văn minh, học thuyết xã hội hậu công nghiệp, xã hội thông tin, học thuyết kỹ trị,... nhằm mục đích thay thế học thuyết học thuyết hình thái kinh tế xã hội của C.Mác.
Nhưng như chúng ta đã biết dù có trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, khoa học kỹ thuật cũng chỉ là một bộ phận của lực lượng sản xuất. Trong lực lượng sản xuất, yếu tố quyết định vẫn là con người, mặc dù khoa học kỹ thuật nâng cao địa vị, vị thế, vai trò, sức mạnh của con người. Những máy vi tính có thể tính nhanh và chính xác gấp triệu lần con người; những rô bốt người máy có thể làm được những việc mà con người không thể làm nổi. Nhưng những cái đó suy cho cùng đều do con người chế tạo ra, nếu thiếu con người, thì tự bản thân chúng cũng không thể phát huy tác dụng, cũng không thể làm gì được. Khoa học kỹ thuật muốn phát triển, tác động phải thông qua con người, chịu sự chi phối bởi con người.
Lực lượng sản xuất tồn tại một cách khách quan, “người ta không được tự do lựa chọn lực lượng sản xuất cho mình... vì mọi lực lượng sản xuất là lực lượng đã đạt được, tức là một sản phẩm của một hoạt động đã qua... không phải do họ tạo ra, mà do thế hệ trước tạo ra... Mỗi thế hệ sau đã có sẵn những lực lượng sản xuất do những thế hệ trước xây dựng lên và được thế hệ mới dùng làm nguyên liệu cho sự sản xuất mới, ...'' (Thư C.Mác gửi P.V.Annencốp 28.1.1846).
Lực lượng sản xuất trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế hiện nay, nó không chỉ được xã hội hóa như trước kia, mà nó ngày càng được toàn cầu hoá, quốc tế hoá. Toàn cầu hoá kinh tế trước hết là toàn cầu hoá lực lượng sản xuất, cái mà thời C.Mác gọi là quá trình tư bản hóa. Ông viết :''Nhờ cải tiến mau chóng công cụ sản xuất và làm cho các phương tiện giao thông trở nên vô cùng tiện lợi, giai cấp tư sản lôi cuốn đến cả những dân tộc dã man nhất vào trào lưu văn minh. Giá rẻ của những sản phẩm của giai cấp ấy là trọng pháo bắn thủng tất cả những bức vạn lý trường thành và buộc những người dã man bài ngoại một cách ngoan cường nhất cũng phải hàng phục. Nó buộc các dân tộc phải thực hành phương thức sản xuất tư bản, nếu không sẽ bị tiêu diệt'' (C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, T.4, tr.598-562).
Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện ở trình độ của công cụ lao động, trình độ khoa học kỹ thuật, trình độ của người lao động (kinh nghiệm, kỹ năng, tri thức, trình độ tổ chức, quản lý, phân công, trình độ ứng đụng khoa học kỹ thuật).
Như vậy, phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay là phải phát triển khoa học kỹ thuật, khoa học công nghệ, cải tiến công cụ lao động, mở rộng đối tượng lao động, phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao thông qua công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chấn hưng nền giáo dục nước nhà. Đảng ta chủ trương phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học công nghệ ngày càng cao là hoàn toàn đúng đắn, là cái lõi quan trọng của sự phát triển lực lượng sản xuất hiện nay ở nước ta.
Muốn phát triển sản xuất ở nước ta hiện nay, chúng ta không chỉ phát triển lực lượng sản xuất, phát triển sức sản xuất, mà phải còn xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất; tức phải từng bước xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đó. Hai mặt đó không tách rời nhau, mà liên hệ mật thiết với nhau, thống nhất với nhau trong cái gọi là phương thức sản xuất.
Quan hệ sản xuất, đó là quan hệ giữa con người và con người trong quá trình sản xuất; nó là hình thức của lực lượng sản xuất, là cơ sở kinh tế, cơ sở sâu xa của đời sống tinh thần. Theo các nhà kinh điển, xã hội là sản phẩm có sự tác động qua lại lẫn nhau giữa người với người. Quan hệ giữa người với người tạo nên cái gọi là quan hệ xã hội, trong đó quan hệ sản xuất là cơ sở, cơ bản, nền tảng, ban đầu và có ý nghĩa quyết định. Sản xuất bao gồm sản xuất vật chất sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con người. Ba quá trình này không tách rời nhau, trong đó sản xuất vật chất đóng vai trò là cơ sở của sự tồn tại là phát triển xã hội. Như vậy, ''Trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, ông đã làm nổi bật riêng lĩnh vực kinh tế, bằng cách là trong tất cả mọi quan hệ xã hội, ông đã làm nổi bật riêng những quan hệ sản xuất, coi đó là những quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định tất cả mọi quan hệ khác”1.
Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối sản phẩm. Ba yếu tố đó liên quan khăng khít với nhau, thống nhất với nhau tạo nên một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với lực lượng sản xuất, nhưng trong đó yếu tố thứ nhất đóng vai trò quyết định, nó qui định hai yếu tố sau. Tính chất của quan hệ sản xuất trước hết được qui định bởi quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất - biểu hiện thành chế độ sở hữu đặc trưng cơ bản của phương thức sản xuất, qui định vị trí của từng tập đoàn người, từng giai cấp trong hệ thống sản xuất. Quan hệ tổ chức quản lý qui định trực tiếp qui mô, tốc độ, hiệu quả, xu hướng của mỗi nền sản xuất. Quan hệ phân phối sản phẩm có tác dụng như chất xúc tác, kích thích (kìm hãm), thúc đẩy (hạn chế) tốc độ, nhịp điệu của sản xuất.
Vậy, thế nào là xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ? Trước hết, như chúng ta đã biết, thời kỳ quá độ là thời kỳ mà xã hội cũ đã qua, nhưng xã hội mới chưa đến, tức xã hội xã hội chủ nghĩa thực sự vẫn chưa có, do đó, trong thời kỳ này Đảng ta chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vừa vận động theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội; trong đó, cơ chế thị trường được vận dụng đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh mẽ, có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Vậy, cơ sở lý luận của chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa này là chỗ nào?
Hiện nay, nhìn chung, trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta là khá đa dạng, không đồng đều, nhiều trình độ. Điều này thể hiện ở chỗ:
- Công cụ lao động hiện nay ở nước ta cũng rất đa dạng. Công cụ lao động thủ công chiếm phần lớn trong nông nghiệp, còn trong công nghiệp chiếm đến 60% lao động giản đơn. Nhưng bên cạnh đó ta cũng đã có công cụ lao động ở trình độ cơ khí hóa, hiện đại hóa, tự động hóa. Những công cụ lao động này thậm chí đan xen nhau trong một cơ sở sản xuất, trong một nhà máy. Nếu như phương Tây nhìn một cách đại thể đi từ lao động thủ công lên máy móc cơ khí, rồi lên tự động hóa, thì ở ta hiện nay có tất cả. Điều này nói lên tính chất nhiều trình độ của công cụ lao động nước ta hiện nay.
- Thích ứng với nhiều loại trình độ của công cụ lao động sản xuất như vậy, kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người Việt Nam hiện nay cũng rất khác nhau, có kinh nghiệm và kỹ năng của người lao động thủ công, giản đơn; có kinh nghiệm và kỹ năng của người lao động cơ khí, máy móc; có kinh nghiệm và kỹ năng của người lao động đối với những máy móc hiện đại, tự động hóa. Từ đó, trình độ tổ chức và phân công lao động, trình độ ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất ở Việt Nam hiện nay ở những cơ sở sản xuất khác nhau cũng rất khác nhau.
- Về khoa học kỹ thuật ở nước ta hiện nay, nhìn chung là thấp, chậm phát triển, nhưng cũng có những yếu tố hiện đại, đi trước, đón đầu. Từ đó, ta thấy trình độ khoa học kỹ thuật nước ta hiện nay cũng rất đa dạng.
Tóm lại, trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay khá đa dạng, không đồng đều, tức nhiều trình độ. Theo qui luật, muốn cho sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay đa dạng, không đồng đều nhiều trình độ như vậy; do đó, một lôgíc tất yếu đối với quan hệ sản xuất, hay trong quan hệ sản xuất cũng phải đa dạng. Đa dạng nghĩa là chúng ta phải xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần. Cụ thể hiện nay chúng ta có năm thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Điều này khiến chúng ta càng nhìn nhận một cách rõ nét tính chất chủ quan duy ý chí của thời kỳ 1975- 1986 với hai thành phần kinh tế là nhà nước và tập thể.
Đa dạng ở chỗ chúng ta cần phải có nhiều hình thức sở hữu, nhiều hình thức tổ chức quản lý, nhiều hình thức phân phối. Khác với trước kia (hai hình thức sở hữu là toàn dân và tập thể), ngày nay chúng ta có ba hình thức sở hữu là toàn dân, tập thể và tư nhân. Nếu như trước kia chúng ta phân phối theo chủ nghĩa bình quân, cào bằng thì ngày nay phân phối theo nhiều cách khác nhau như theo lao động (tức theo khả năng, năng lực, sức lực, trí tuệ của từng người), theo hiệu quả kinh tế, theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn khác, thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
Để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chúng ta cần phải tiến hành đồng bộ những công việc sau:
1. Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường;
2. Phát triển các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp;
3. Phát triền đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường;
4. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Qua đó ta thấy mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất với xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ là mối quan hệ biện chứng, liên hệ mật thiết với nhau, không tách rời nhau; một mặt, chúng ta phải phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học công nghệ ngày càng cao; nhưng mặt khác, chúng ta phải xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ, tức là chúng ta phải hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều này đã được trình bày một cách rõ ràng, khúc triết, chính xác trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thức XI của Đảng./.
___________
Mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta PGS.TS Nguyễn Gia Thơ
Viện Triết học, Viện KHXH Việt Nam
Xây dựng chủ nghĩa xã hội (bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa) là một tất yếu lịch sử trong việc lựa chọn con đường phát triển ở Việt Nam: ''đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”1. Tuy nhiên, vì nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, lại bị tàn phá bởi mấy chục năm chiến tranh, tức là một xuất phát điểm rất thấp về kinh tế, nên thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta rất dài và đầy khó khăn.
Trước Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam, do mắc sai lầm chủ quan duy ý chí, muốn có ngay chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã vi phạm qui luật khách quan là qui luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã rập khuôn theo mô hình Liên Xô (một nước đi lên chủ nghĩa xã hội với một xuất phát điểm cao hơn nước ta rất nhiều), thủ tiêu kinh tế thị trường với nền kinh tế đóng kín – chỉ quan hệ trong phe xã hội chủ nghĩa. Kết quả là: kinh tế suy thoái nghiêm trọng, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn. Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đánh một dấu mốc lớn trong nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đó thực sự là một Đại hội ĐỔI MỚI. Tại Đại hội này Đảng ta đã xác định kinh tế thị trường là thành tựu của văn minh nhân loại mà chúng ta cần sử dụng để xây dựng chủ nghĩa xã hội: ''Trong nhận thức cũng như trong hành động chúng ta chưa thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta đang tồn tại trong một thời gian tương đối dài, chưa nắm vững và sử dụng đúng qui luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất''2. Tuy nhiên, từ Đại hội VI đến Đại hội VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, khái niệm ''kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa'' vẫn chưa được sử dụng. Chỉ đến Đại hội IX, Đảng ta mới lựa chọn mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa: ''Thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển hàng hóa nhiều thành phần... nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội''3. Và cũng chính tại Đại hội IX, Đảng cũng nhấn mạnh mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là: ''phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối''4. Tại sao chúng ta cần kinh tế thị trường? Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta phải sử dụng kinh tế thị trường là vì nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, nhưng nền sản xuất xã hội của chủ nghĩa tư bản mà trong đó kinh tế thị trường là nền tảng thì phải sử dụng để phát triển lực lượng sản xuất, làm tăng sự giàu có cho xã hội, mà chủ nghĩa xã hội đích thực phải là một xã hội giàu có và ở trình độ cao hơn chủ nghĩa tư bản.
Cũng cần nhấn mạnh thêm rằng, khái niệm ''kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” là một khái niệm kinh tế chính trị học mới mẻ, trước đây chưa từng có, nó sinh ra từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nội hàm của khái niệm ''kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” bao gồm hai dấu hiệu chính: 1) kinh tế thị trường, và 2) định hướng xã hội chủ nghĩa. Hai dấu hiệu chính đó lại bao chứa một loạt các dấu hiệu sau.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế dựa trên sản xuất- trao đổi hàng hóa ở trình độ cao (chủ nghĩa tư bản). Cần lưu ý rằng sản xuất hàng hóa và kinh tế thị trường không phải là một. Có nền kinh tế hàng hóa chưa phải là nền kinh tế thị trường, ví dụ sản xuất hàng hóa giản đơn. Và cũng không phải cứ có quan hệ hàng hóa - tiền tệ là có kinh tế thị trường: trước chủ nghĩa tư bản đã có quan hệ tiền tệ. Hay như Liên Xô và các nước Đông Âu trước đây, Việt Nam trước đổi mới, Trung Quốc trước cải cách mở cửa tuy có quan hệ tiền- hàng, nhưng không phải kinh tế thị trường. Nhưng đã là kinh tế thị trường thì có quan hệ hàng hóa- tiền tệ. Kinh tế thị trường có mục đích là ''lợi nhuận" đôi khi bất chấp thủ đoạn để đạt mục đích. Kinh tế thị trường có mặt tốt là làm tăng năng suất lao động, làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo các quy luật của thị trường (đó là các qui luật như: qui luật giá trị qui luật giá trị thặng dư, có tranh theo kiểu ''cá lớn nuốt cá bé''), thương trường là chiến trường nên có thua người thắng, có người phất lên nhanh chóng và cũng có người khánh kiệt, bần cùng.
Còn nội hàm của định hướng xã hội chủ nghĩa có những dấu hiệu như hợp tác, nhân đạo; lợi nhuận chỉ là phương tiện để đạt được mục đích vì loài người. Nền sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa cần phải:
- Khuyến khích làm giàu chính đáng đồng thời tích cực xóa đói, giảm nghèo (vì nghèo thì không phải chủ nghĩa xã hội);
- Phát triển kinh tế song song với thực hiện các chính sách, phúc lợi xã hội, bảo đảm công bằng và an sinh xã hội, chú trọng phát triển nông thôn, vùng sâu, vùng xa, làm cho khoảng cách giữa thành thị và nông thôn ngày càng gần lại;
- Nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo có một trong những chức năng là điều tiết định hướng nền kinh tế: chủ yếu tầm vĩ mô, ví dụ như ở các lĩnh vực tiền tệ, tài chính, ngân hàng, các nguồn lực...
Định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa là quá trình phát triển phải nhắm tới một đích (dù xa và cho dù thời gian khá dài) là xã hội xã hội chủ nghĩa, giai đoạn đầu của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa. Chính theo nghĩa này của ''định hướng xã hội chủ nghĩa'', nhà hoạt động chính trị Khả Tri Chính, ủy viên Trung ương Đảng cộng sản Nhật Bản nói: ''con đường thông qua kinh tế thị trường đi tới chủ nghĩa xã hội là có tính phổ biến trong phạm vi toàn thế giới''5. Về vấn đề này, và theo nghĩa này của định hướng xã hội chủ nghĩa, Văn kiện đại hội XI của Đảng cộng sản Việt Nam có ghi rõ: ''Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc''6.
Xung quanh khái niệm ''kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa'' có không ít quan điểm hoài nghi. Những quan điểm còn hoài nghi đó cho rằng không thể gắn kinh tế thị trường vào với chủ nghĩa xã hội, vì kinh tế thị trường là của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội không có kinh tế thị trường. Tuy nhiên quan điểm đó đã ngộ nhận là đã đồng nhất hai khái niệm khác nhau: ''định hướng xã hội chủ nghĩa'' và ''xã hội chủ nghĩa''. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin thì, chủ nghĩa xã hội-giai đoạn đầu của hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa khi được xây dựng xong thì cơ sở kinh tế của nó chỉ còn hai hình thức sở hữu: toàn dân và tập thể, do vậy không còn kinh tế thị trường theo đúng nghĩa của nó, tuy vẫn còn hai hình thức sở hữu khác nhau: nhà nước và tập thể và do đó còn cần trao đổi trên cơ sở tính toán giá trị “định hướng xã hội chủ nghĩa” là quá trình hướng tới những tiêu chí của chủ nghĩa xã hội chứ bản thân nó chưa phải chủ nghĩa xã hội, mà đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.
Như vậy, trong nội hàm của hai khái niệm ''kinh tế thị trường'' và ''định hướng xã hội chủ nghĩa'' có nhiều đặc điểm, dấu hiệu khác biệt, thậm chí đối lập nhau. Ở nước ta, nền kinh tế thị trường mới đang được hình thành, còn nhiều đặc điểm sơ khai, chưa đạt đến tầng ''văn minh''. Vì vậy các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường có điều kiện để phát triển. Do thể chế kinh tế thị trường chưa được hoàn thiện, nên cạnh tranh vẫn còn thiếu lành mạnh, làm phân hóa giàu-nghèo ngày càng sâu sắc thêm. Quan hệ giữa người với người hầu như bị đồng tiền chi phối: tiền có thể mua được tất cả (danh dự, lương tâm, chức tước, bằng cấp, thậm chí biến tốt thành xấu, xấu thành tốt...). Có những cái tưởng không mua được bằng tiền ''thì lại mua được bằng rất nhiều tiền''. Những mặt trái này của kinh tế thị trường nếu được phát triển tự do sẽ đi ngược lại bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội, đi ngược lại tiến bộ xã hội và lý tưởng nhân đạo. Những mặt trái này Đảng đã nhận thay và đang có hướng khắc phục: ''Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tội, chạy bằng cấp, chạy huân chương chưa được khắc phục''7.
Về vấn đề ''mặt trái'' của kinh tế thị trường còn có nhưng quan điểm cho rằng đó không phải do cơ chế thị trường sinh ra, mà do vấn đề quản lý xã hội. Chúng tôi thì lại cho rằng quan điểm đó không thuyết phục, vì ở các xã hội phi thị trường, chúng ta không thấy nổi lên nhiều hiện tượng tiêu cực như vậy. Ví dụ, một thời gian dài ở Liên Xô và các nước Đông Âu xã hội chủ nghĩa (phi thị trường), quan hệ giữa người với người hết sức tốt đẹp, không có người nghèo, tội phạm rất ít, cuộc sống của người dân xô-viết tuy không giàu có lắm về vật chất nhưng rất nhân văn. Sau khi Liên Xô và các nước Đông Âu tan rã, phát triển kinh tế thị trường, tội phạm nổi lên nhiều, quan hệ giữa người với người thay đổi hẳn, cuộc sống của người dân nhiều khi rất bất an, phân hóa xã hội sâu sắc: một số giàu lên nhanh chóng và số khác thì bần cùng, điều mà trước đây không có.
Cũng chính vì cơ chế thị trường đẻ ra nhiều mặt trái như vậy, cho nên cần đến ''định hướng xã hội chủ nghĩa để chế ngự chúng'' và hướng nền kinh tế thị trường phát triển lành mạnh. Tất nhiên, khi bị chế ngự, động lực của kinh tế thị trường sẽ phần nào bị giảm bớt, tuy nhiên sự phát triển như vậy mới bền vững. Khái niệm ''kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa'' đã được định nghĩa một cách rõ ràng, đầy đủ trong văn kiện Đại hội XI của Đảng cộng sản Việt Nam: ''Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản; vừa vận động theo những qui luật của thị trường, vừa được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội; trong đó, cơ chế thị trường được vận dụng đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh mẽ, có hiệu qủa mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác cạnh tranh lành mạnh; trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”8.
Rõ ràng, một đặc điểm rất quan trọng của ''định hướng xã hội chủ nghĩa” đối với kinh tế thị trường là ''kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo''. Nếu kinh tế nhà nước không giữ được vai trò chủ đạo, thì kinh tế thị trường có thể phát triển chệch hướng. Vậy, thế nào là ''kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo?''. Ở đây kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo theo nghĩa là, kinh tế nhà nước có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Trong kinh tế nhà nước thì các doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt, làm công cụ vật chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. (Tuy nhiên, trong thời gian qua, phải thẳng thắn mà nói, các doanh nghiệp nhà nước còn nhiều yếu kém, chưa đảm nhiệm được chức năng quan trọng của mình). Thực chất vấn đề ''kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo'' không phải đến Đại hội XI mới đề cập tới, mà đã được đề cập tới từ trước đó mà gần đây, nhất là Đại hội X: “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển; Kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế''9. Tuy nhiên, việc thực hiện nghị quyết Đại hội X về vấn đề này chưa được như mong muốn. Chính vì vậy vấn đề này cần được chú ý giải quyết trong thời gian tới. Tuy nhiên, nếu nhà nước vẫn tiếp tục đổ nguồn lực vào các doanh nghiệp Nhà nước như trước đây thì những hiện tượng tương tự như ''sự cố Vinashin'' sẽ vẫn tiếp diễn, sẽ gây ảnh hưởng đến tầm vĩ mô của nền kinh tế. Nhà nước chỉ nên là công việc là sắp xếp, cơ cấu lại các doanh nghiệp nhà nước, tích cực thực hiện các giải pháp như: cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường chứ không nên dùng chính sách ưu đãi như trước đây.
Như trên đã phân tích, định hướng xã hội chủ nghĩa không những không mâu thuẫn với kinh tế thị trường mà trái lại, nó còn có tác động làm hạn chế mặt trái của kinh tế thị trường như xóa đói, giảm nghèo, hạn chế phân cực giàu - nghèo, thực hiện công bằng xã hội: “Giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo, thực hiện chính sách với người và gia đình có công, chính sách an sinh xã hội đạt kết quả tích cực. Trong 5 năm đã giải quyết được việc làm cho trên 8 triệu lao động, tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị giảm còn dưới 4,5 %, tỉ lệ hộ nghèo giảm còn 9,5 %... chỉ số phát triển con người không ngừng tăng lên; Việt Nam đã hoàn thành phần lớn các mục tiêu thiên niên kỷ” 10.
Rõ ràng, vai trò định hướng xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế nước ta không chỉ thuộc về kinh tế nhà nước (các kết cấu hạ tầng, dự trữ quốc gia, các doanh nghiệp nhà nước, các nguồn lực...), mà còn thuộc về nhà nước xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản: ''Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bằng luật pháp, cơ chế, chính sách, chiến lược, qui hoạch, kế hoạch và các nguồn lực kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, tạo lập, phát triển đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường, cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, khắc phục mặt trái, tiêu cực của cơ chế thị trường; Phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân trong lĩnh vực kinh tế''11.
Như vậy, sự vận động của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta phải trải qua một thời gian rất dài, vì chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một xuất phát điểm rất thấp, thậm chí Đảng ta xác định, đến giữa thế kỷ XXI, nước ta vẫn đang ở trong thời là quá độ: ''Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”12. Và ''mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến thức thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc''13.
Như vậy, kết thúc thời kỳ quá độ phát triển theo kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, dù quá trình là rất dài, là đích đến chủ nghĩa xã hội. Vậy đó là một xã hội như thế nào? Khái niệm ''xã hội xã hội chủ nghĩa” mà nhân dân ta xây dựng được định nghĩa rất rõ trong văn kiện Đại hội XI của Đảng: ''Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu...''14. So với khái niệm ''xã hội xã hội chủ nghĩa” được định nghĩa trong văn kiện Đại hội X có khác ở đặc điểm là ở Đại hội XI có sự khác biệt bởi cụm từ ''chế độ công hữu về các tư liệu sản xã chủ yếu...''; ''xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất...''15. Chúng ta thấy, trong nội hàm của khái niệm ''xã hội xã hội chủ nghĩa” được thể hiện trong văn kiện đại hội X chỉ nói đến “dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù họp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất” mà không nói đến vấn đề công hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu như ở Đại hội XI. Như vậy, đến Đại hội XI, nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã trở nên rõ ràng hơn.
___________
Quan điểm phát triển văn hóa trong văn kiện đại hội Đảng lần thứ XI và vấn đề đổi mới văn hóa ở nước ta TS. Mai Hải Oanh
Tạp chí Cộng sản
Văn hoá là phương thức sinh tồn đặc trưng của loài người, còn đổi mới là bản chất của văn hoá. Sự phát triển nhanh chóng và sự thay đổi lớn lao của thế giới đương đại đã làm cho ý nghĩa của việc đổi mới văn hoá trở nên đặc biệt nổi bật. Từ những năm 80 của thế kỷ XX đến nay, do sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật, nhất là kỹ thuật cao mới lấy thông tin làm cốt lõi đã làm thay đổi phương thức sản xuất và phương thức sinh hoạt của con người, tác động sâu sắc đến quan hệ kinh tế, chính trị quốc tế, cạnh tranh sức mạnh tổng hợp quốc gia. Biến đổi, đổi mới, yêu cầu phát triển, tiến bộ... đã trở thành ý thức phổ biến và thực sự là trào lưu nổi bật nhất của thời đại ngày nay.
Nắm bắt được tinh thần của thời đại và dựa trên thực tiễn của đất nước, Đại hội lần thứ XI của Đảng yêu cầu ''Phát triển văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển”(tr40); ''Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân''(tr98); ''Phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa xã hội hài hòa với phát triển kinh tế”(tr124). Tuy nhiên, Đảng ta cũng thẳng thắn nhận thấy: ''Văn hóa phát triển chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế'' (tr169). Như vậy, tại Đại hội lần này, Đảng ta đã khẳng định về mặt lý luận: đổi mới văn hoá chính là phát triển văn hóa hài hòa với phát triển kinh tế. Điều đó có nghĩa là việc đổi mới văn hoá không chỉ liên quan đến sự phát triển tự thân của văn hoá mà còn quan hệ sâu sắc đến kinh tế. Từ quan điểm phát triển mới của Đảng chúng ta cần phải xác định chính xác vai trò của văn hóa trong phát triển, sự thâm nhập của văn hóa vào mọi lĩnh vực của đời sống, làm sao để văn hóa ngày càng gắn bó chặt chẽ hơn với kinh tế, tạo nên sự hài hòa thực sự trong chiến lược phát triển đất nước.
I. Giá trị văn hóa truyền thống là kết tinh tinh thần đổi mới của cha ông trong lịch sử, đổi mới văn hóa ngày nay là nhân tố quyết định để các giá trị văn hóa truyền thống được phát triển trên một tầm cao mới hiện đại.
Trải qua mấy nghìn năm lịch sử, dân tộc ta là một dân tộc giàu tinh thần học hỏi, tiếp thu sáng tạo và giàu năng lực đổi mới. Chính trong thực tiễn sản xuất, thực tiễn xã hội, thực tiễn tư duy, thực tiễn đấu tranh dựng nước và giữ nước cha ông ta đã sáng tạo ra văn hóa Việt Nam, hình thành truyền thống văn hoá Việt Nam tốt đẹp. Nền văn hóa ấy không những kết tinh vẻ đẹp và cốt cách tâm hồn, trí tuệ Việt Nam mà còn có ảnh hưởng nhất định đối với văn minh khu vực Đông Nam Á, và vì thế, đó là nền văn hóa có đóng góp đối với văn hóa và văn minh nhân loại. Vấn đề đặt ra là: trong khi nhiều dân tộc, vốn từng có một nền văn hóa phát triển nhưng sau đó bị đứt đoạn hoặc bị diệt vong thì tại sao văn hóa Việt Nam vẫn phát triển, tuy thăng giáng khác nhau, nhưng liên tục và chưa bao giờ dứt đoạn. Có thể lý giải thực tế này từ nhiều góc độ khác nhau, nhưng chắc chắn, để có sự bền vững ấy, từ trong bản chất văn hóa Việt Nam đã hình thành cơ chế đổi mới và cơ chế thích ứng với mọi hoàn cảnh. Có thể nói, văn hoá Việt Nam là một hệ thống mở, khéo tiếp thu cái hay, dám tự suy nghĩ lại để phát triển, biết học tập và biến cải một cách chủ động để tạo nên sự phong phú và sức sống mạnh mẽ của văn hóa dân tộc. Sức sống và tinh thần tự đổi mới của văn hóa Việt Nam, dù nhiều lúc bị sự cấm đoán của chế độ phong kiến hà khắc và thực dân cai trị nhưng về cơ bản đã thấm sâu vào máu huyết của toàn dân tộc, tạo nên chiều sâu bản sắc trong trường kỳ lịch sử. Đến đầu thế kỷ XX, sự kết hợp chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa yêu nước ở Việt Nam đã tạo nên một bước ngoặt mới về đổi mới văn hóa dân tộc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là hiện thân đầy đủ và trọn vẹn nhất cho sự kết hợp và đổi mới ấy. Cũng từ đây, văn hóa của Đảng và văn hóa của dân tộc hòa kết, hướng tới một mục tiêu cao nhất là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Không phải ngẫu nhiên mà khi cắt nghĩa về sức mạnh Việt Nam, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã lý giải chính xác: Việt Nam thắng đế quốc Mỹ không phải bằng sức mạnh vật chất mà bằng sức mạnh của văn hóa. Như vậy, tính tích cực, tính sáng tạo của văn hóa Việt Nam đã được cha ông ta trước đây và Đảng ta sau này phát huy một cách hiệu quả, đưa cách mạng nước ta giành được những kỳ tích lịch sử. Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta chủ trương xây dựng một đất nước: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đổi mới tư duy, đổi mới thể chế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền... thực chất là đổi mới văn hóa, tạo sức sống mới cho văn hóa, biến văn hóa thành động lực phát triển đất nước. Chiến lược của Đảng về văn hóa là xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Từ tư tưởng chủ đạo này, trước thực tiễn biến đổi của thời đại, việc chủ trương gắn kết, phát triển hài hòa văn hóa và kinh tế thực sự là một bước tiến quan trọng về lý luận phát triển văn hóa của Đảng. Văn hóa Việt Nam đương đại là sự phản ánh đời sống xã hội Việt Nam đương đại, có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển tiến bộ xã hội. Cơ sở kinh tế và đời sống xã hội mà văn hoá Việt Nam dựa vào đó để sinh trưởng, phát triển, không chỉ còn là truyền thụ, kế thừa và tiếp nối mà cách đơn giản mà sâu hơn và cao hơn chính là sự chuyển hoá và xây dựng văn hoá theo hướng hiện đại hoá. Đó là quá trình không ngừng sáng tạo đổi mới văn hoá từ nội hàm tới ngoại diên. Nói khác đi, phát triển nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là phát triển văn hoá XHCN hướng tới hiện đại hoá, hướng tới thế giới, hướng tới tương lai. Nó vừa là mục tiêu của sự nghiệp xây dựng đất nước, vừa là nền tảng tinh thần, tạo nên động lực khát vọng phấn đấu cho toàn dân tộc. Vì thế, một khi văn hóa hòa nhập và kinh tế, chính trị, ý nghĩa và tầm quan trọng của văn hóa trong sức mạnh tổng hợp đất nước ngày càng nổi bật.
II. Đổi mới lý luận là cốt lõi và tiền đề của đổi mới văn hoá, thực tiễn sáng tạo của nhân dân là nguồn sống không bao giờ khô kiệt và động lực của đổi mới văn hoá
Tư tưởng, lý luận, quan điểm giá trị là nội hàm và đặc trưng bản chất của văn hoá, có tính ổn định tương đối và tính thẩm thấu rộng rãi. Nó vừa cơ sở nền tảng để văn hóa xã hội phát triển trong tính liên tục, lại có thể trở thành nhân tố tạo tính đột biến trong phát triển. Vì vậy, đổi mới lý luận là cốt lõi và tiền đề của đổi mới văn hoá. Có thể nói hầu như bất cứ sự phục hưng văn hoá nào trong lịch sử cũng đều bắt đầu từ giải phóng tư tưởng và đổi mới lý luận.
Giữa những năm 80 thế kỷ XX văn hoá xã hội Việt Nam bước vào thời kỳ mới đổi mới. Hơn 25 năm qua, những thành tựu to lớn lao của sự nghiệp đổi mới ở nước ta đã minh chứng một cách hùng hồn, giải phóng tư tưởng, đổi mới lý luận là hết sức quan trọng đối với sự phát triển và tiền đồ của một chính đảng, một quốc gia, một dân tộc.
Đảng ta đã lựa chọn mục tiêu chính trị phát triển đất nước phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại, vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác vào thực tiễn Việt Nam trên cơ sở kết hợp với việc phát huy những giá trị văn hóa ưu tú của dân tộc và nhân loại. Trước những biến đổi của thực tiễn thế giới đương đại và thực tiễn đất nước, trước những yêu cầu mới của sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, dứt khoát chúng ta phải có những đổi mới trong quan niệm và lý luận phát triển. Bản thân việc đổi mới và đổi mới triệt để cũng là một công việc mang ý nghĩa văn hóa. Ở đây, cần phải hiểu đổi mới khác với phủ định sạch trơn quá khứ. Về phương diện nào đó, thực chất đó là sự kết hợp truyền thống và hiện đại, phát huy những yếu tố hiện đại trong chính văn hóa truyền thống.
Đổi mới văn hoá trước hết là đổi mới bản thể văn hoá. Tư tưởng và quan niệm, nội dung và hình thức văn hoá phải thích ứng với phát triển của thời đại, hợp với nhu cầu của nhân dân. Điều đó đòi hỏi phát triển văn hoá Việt Nam tiên tiến phải bắt rễ sâu vào thực tế xây dựng đất nước, chú trọng những xu hướng phát triển mới của văn hóa thế giới nhằm tạo nên một nền văn hóa hiện đại thấm nhuần bản sắc dân tộc, thích ứng với yêu cầu phát triển sức sản xuất tiên tiến, phù hợp với lợi ích căn bản của đông đảo quần chúng nhân dân. Thực tiễn sáng tạo cuộc sống mới của quần chúng nhân dân chính là cội nguồn của văn hoá nghệ thuật. Vì thế, đi sâu vào cuộc sống, cảm nhận mạch đập của thời đại, lắng nghe tiếng nói của nhân dân, giữ vững liên hệ máu thịt với nhân dân chính là gắn liền với nguồn sống không bao giờ khô kiệt, phù hợp với tư tưởng ''Lấy dân làm gốc'' của Đảng. Thực tiễn ấy không chỉ là động lực lâu dài mà còn chính là thước đo kiểm nghiệm sự đổi mới có đạt hiệu quả hay không. Rõ ràng, vấn đề quan hệ văn nghệ với nhân dân chính là một trong những vấn đề cốt lõi nhất của văn hoá XHCN.
Thực tiễn của quần chúng nhân dân cũng như lợi ích, nguyện vọng, nhu cầu của nhân dân cũng là quá trình biến đổi không ngừng. Do sự phát triển của thời đại, nhu cầu về văn hoá nhân dân có nhiều thay đổi: yêu cầu cao hơn về chất lượng, đa dạng và khắt khe hơn trong lựa chọn. Nếu như trước đây, người tiêu dùng bị áp đặt và ít có sự lựa chọn các giá trị và chủng loại văn hóa thì ngày nay họ chính là người đặt hàng sản phẩm, và trong điều kiện kinh tế thị trường, những nhu cầu văn hoá nhiều tầng bậc, đa dạng ấy của quần chúng nhân dân chủ yếu đã được đáp ứng thông qua thị trường văn hóa. Sức mạnh và tác dụng của văn hóa trong thời đại ngày nay được tăng cường bởi sự lớn mạnh của công nghiệp văn hóa áp dụng những thông tin mới nhất của khoa học kỹ thuật hiện đại. Văn hóa, trong thời đại thông tin toàn cầu và kỹ thuật mới đã thấm sâu vào tất cả mọi hoạt động của đời sống. Tại đó, có sự cạnh tranh và hợp tác, có sự gặp gỡ và đấu tranh giữa các luồng tư tưởng, có sự chấp nhận và chối bỏ và lối sống, có sự hòa hợp và bất đồng về quan điểm...
Trước một thực trạng văn hóa đa đạng và đa cực như thế, để văn hóa Việt Nam phát triển lành mạnh và đúng hướng, điều quan trọng nhất vẫn là phải xây dựng một nền văn hóa do dân, vì dân, vì chủ nghĩa xã hội và đậm đà bản sắc Việt Nam.
III. Cải cách thể chế và cơ chế là khâu trọng tâm của đổi mới văn hoá, bảo đảm chế độ thúc đẩy phát triển văn hoá lâu dài và bền vững
Việc cải cách thể chế văn hoá phải phù hợp với đặc điểm và quy luật xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, thích ứng với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN nước ta.
Thể chế văn hoá của nước ta về cơ bản được hình thành dưới thể chế kinh tế kế hoạch, đến nay tỏ ra không còn phù hợp với thực tiễn phát triển văn hóa và phát triển đất nước. Vì thế, cải cách thể chế văn hoá là yêu cầu tất yếu của phát triển văn hóa trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay.
Mục đích của cải cách thể chế văn hoá thể hiện ở ba điểm chính sau đây: thứ nhất, huy động đầy đủ tính tích cực và tính sáng tạo của những người làm công tác văn hóa nghệ thuật, thúc đẩy đổi mới văn hoá, sáng tạo nhiều tác phẩm ưu tú, kích thích phát triển nhân tài; thứ hai, huy động đầy đủ tính tích cực của đông đảo quần chúng nhân dân, động viên toàn xã hội tham gia xây dựng văn hoá; thứ ba, phát huy đầy đủ tác dụng của cơ chế thị trường, phát triển công nghiệp văn hoá tạo ra con đường quan trọng phồn vinh văn hoá nghệ thuật, đáp ứng nhu cầu văn hóa nghệ thuật, đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần nhân dân. Nói một cách gọn nhất, mục đích của cải cách thể chế văn hoá là thông qua đổi mới chế độ, giải phóng sức sản xuất văn hoá, kích thích sức sáng tạo văn hoá, tạo ra bảo đảm chế độ cho văn hóa XHCN phát triển mạnh mẽ và lâu dài.
Phát triển và phồn vinh văn hóa là trung tâm của công tác văn hoá. Xây dựng văn hoá và cải cách thể chế văn hoá đều phải tiến hành xoay quanh trung tâm này. Trong điều kiện kinh tế thị trường, phải chú ý song song phát triển sự nghiệp công ích văn hoá và phát triển công nghiệp văn hóa, coi đó hai nhiệm vụ cơ bản của xây dựng văn hoá, đồng thời cũng là hai mặt quan trọng của cải cách thể chế văn hoá nhằm bảo đảm quyền được hưởng lợi ích văn hoá công cộng của quần chúng nhân dân, cung ứng đầy đủ nhu cầu văn hoá đa dạng của nhân dân. Hơn nữa, phát triển công nghiệp văn hóa và xây dựng thị trường văn hóa sẽ phát huy đầy đủ tác dụng của cơ chế thị trường đối với phát triển văn hoá, từng bước hoàn thiện hệ thống thị trường văn hoá, hoàn thiện chính sách công nghiệp văn hoá, tích cực xây dựng doanh nghiệp văn hoá, tăng cường thực lực chỉnh thể và sức cạnh tranh quốc tế của công nghiệp văn hoá nước ta.
Căn cứ vào thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN chúng ta phải coi đổi mới thể chế và cơ chế, hướng tới quần chúng, hướng ra thị trường là trọng điểm của cải cách thể chế văn hoá. Thị trường phải trở thành con đường quan trọng đáp ứng đời sống văn hoá tinh thần của quần chúng nhân dân. Công nghiệp văn hoá chỉ có thể phát triển mạnh, được tối ưu hoá một khi gắn với thị trường. Vì thế, thoát ly thị trường cũng có nghĩa là văn hoá thoát ly khỏi đối tượng phục vụ của mình, tự làm mất đi không gian rộng lớn và động lực lớn lao trong phát triển văn hóa.
Phải kết hợp cải cách đi vào chiều sâu với điều chỉnh kết cấu xúc tiến phát triển. Do điều kiện lịch sử, nước ta còn lạc hậu về nhiều mặt: thể chế văn hóa không hoàn thiện, hệ thống chính sách thiếu khoa học, công nghiệp văn hóa kém phát triển, điều kiện giao thông - kỹ thuật thông tin thiếu đồng bộ, quy hoạch manh mún, rời rạc... Để khắc phục điều này, chúng ta phải lấy doanh nghiệp văn hoá làm chủ thể, lấy tiến bộ khoa học kỹ thuật làm nâng đỡ, lấy thị trường làm đòn bẩy, lấy cải cách hành chính làm công cụ, tiến hành điều chỉnh một cách tổng thể kết cấu văn hóa.
Sản phẩm văn hoá là một thứ hàng hoá đặc thù, phải đặt hiệu quả xã hội và vị trí hàng đầu, cố gắng thống nhất hài hòa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Đây là một vấn đề quan trọng cần được xử lý tốt trong quá trình đổi mới. Phải coi chất lượng là tiền đề tất yếu, thị trường là con đường cơ bản. Nỗ lực sáng tạo nên nhiều tác phẩm văn hóa xuất sắc, vừa đáp ứng được hiệu quả xã hội, vừa đáp ứng lợi ích kinh tế là điều mà các nhà quản lý văn hóa phải đặc biệt quan tâm trong hoạch định chính sách và xây dựng cơ chế quản lý nhằm thúc đẩy mạnh mẽ phát triển văn hóa.
Cải cách thể chế văn hoá cần phải có thiết kế tổng thể, mở rộng dần từng bước. Mặc dù cải cách thể chế văn hoá đã được chúng ta tiến hành từ nhiều năm qua nhưng hiệu quả chưa được như mong muốn. Thể chế văn hóa nước ta cùng lúc phải giải quyết nhiều mối quan hệ, trong đó có hai quan hệ cơ bản: Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý. Tuy nhiên, trong nhận thức mới, gần đây, chúng ta đặc biệt coi trọng vai trò tự chủ của các đơn vị sản xuất và kinh doanh văn hóa. Nghị định 115 của Chính phủ và nhiều chính sách về đổi mới thể chế văn hóa được ban hành trong thời gian qua chính là những bước tiến trong việc giao quyền tự chủ cho các đơn vị và cơ sở văn hóa trong điều kiện kinh tế thị trường, cho phép các đơn vị phát huy cao hơn tính chủ động và huy động nhiều nguồn lực khác nhau để phát triển văn hóa.
Cải cách thể chế văn hoá và phát triển văn hoá cũng đòi hỏi phải xây dựng hệ thống pháp luật, chính sách, quy phạm thị trường, chế độ bồi dưỡng và đãi ngộ nhân tài, các chế tài cụ thể để bảo vệ và thúc đẩy đổi mới văn hoá. Chỉ có xây dựng được hệ thống pháp quy đầy đủ và hệ thống chấp pháp kiện toàn tương ứng mới có thể thực sự thực hiện chuyển đổi quản lý từ vi mô sang vĩ mô, từ trực tiếp sang gián tiếp, từ quản lý hành chính truyền thống sang quản lý theo pháp luật. Hiện nay, quản lý văn hoá phải đứng vững trên nguyên tắc bảo đảm quyền lợi văn hoá cơ bản của công dân, chú trọng mục đích phát triển của văn hóa theo đúng quan điểm của Đảng.
IV. Quán triệt tư tưởng phát triển văn hóa của Đảng, tôn trọng quy luật tự thân của phát triển văn nghệ tạo dựng môi trường và không khí tốt đẹp cho sự nghiệp đổi mới và phát triển văn hóa
Những thành tựu to lớn về phát triển kinh tế - xã hội và phát triển văn hóa trong hơn 25 năm qua đã chứng minh sự đúng đắn của Đảng ta trong quá trình lãnh đạo đất nước trên con đường xây dựng CNXH. Quan điểm xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc và phát triển văn hóa hài hòa với phát triển kinh tế phải được coi là tư tưởng chủ đạo cần được quán triệt sâu sắc trong toàn xã hội.
Trước hết, chúng ta phải xử lý chính xác quan hệ kế thừa và đổi mới. Văn hoá là linh hồn và huyết mạch của một dân tộc, là ký ức tinh thần của dân tộc ấy trong trường kỳ lịch sử. Việc đổi mới văn hóa theo hướng hiện đại phải gắn liền với quá trình bảo tồn giá trị văn hóa của tổ tiên và tính chất riêng biệt thuộc về bản sắc dân tộc, vì xét đến cùng, xây dựng văn hoá quý ở sự ổn định, trọng ở tích luỹ, phát triển trong ổn định, đổi mới trong tích luỹ. Truyền thống văn hoá cao đẹp của dân tộc ta bao gồm truyền thống yêu nước, nhân ái, khoan dung, không ngừng sáng tạo và đổi mới, tinh thần tự lực tự cường. Trải qua quá trình đấu tranh cách mạng, truyền thống văn hóa ấy được bồi đắp và trở nên phong phú hơn, sâu sắc hơn để hình thành nền văn hóa XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là tài sản tinh thần quý báu, là cơ sở vững chắc của phát triển, đổi mới văn hoá đương đại. Tuy nhiên, trong văn hóa truyền thống, bên cạnh những giá trị ưu tú cũng có những yếu tố tiêu cực cần loại bỏ, và các giá trị ưu tú trong văn hóa truyền thống phải được cải tạo, đổi mới, cấp thêm nội hàm mới và sức sống mới cho phù hợp với thời đại. Trong bối cảnh các loại văn hoá tư tưởng giao tranh gay gắt, cạnh tranh sức mạnh tổng hợp quốc gia ngày càng quyết liệt, vứt bỏ truyền thống cũng có nghĩa là tự đánh mất mình; nhưng nếu chỉ biết khư khư giữ nếp cũ, tất sẽ nên lạc hậu. Vì thế, phát triển phải gắn liền với kế thừa một cách sáng tạo. Đây là nguyên lý đúng đắn của phát triển văn hóa trong bất cứ thời đại nào.
Phải nhận thức một cách khoa học, toàn diện công năng của văn hoá. Văn hoá kết tinh sự sáng tạo của con người, nó có sức mạnh giáo hóa, là thay đổi nhận thức và tâm tính của con người, tố chất của một dân tộc. Chính vì thế khi bàn về xây dựng nền văn hoá tiên tiến, Đảng ta luôn nhấn mạnh đến việc không ngừng nâng cao tố chất đạo đức tư tưởng và tố chất văn hóa khoa học của toàn dân tộc, chú trọng làm phong phú đời sống tinh thần của nhân dân, tăng cường sức mạnh tinh thần của tất cả mọi người. Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, để phát triển văn hóa lành mạnh, phải chú ý ngăn chặn tư tưởng thực dụng chủ nghĩa chỉ biết đối xử một cách thô bạo và đơn giản đối với văn hoá nghệ thuật. Ảnh hưởng của văn hoá đối với kinh tế, chính trị là rất rộng rãi và sâu sắc, vì thế, phải tạo dựng không gian tinh thần rộng rãi cho sáng tạo văn hóa, tôn trọng tự do sáng tạo, đặc biệt là trong lĩnh vực văn học nghệ thuật. Vì văn hóa gắn liền với sự kết tinh nên sự tác động và hiệu quả của nó không phải lúc nào cũng tức thì, bởi thế, phát triển văn hóa xa lạ với thái độ nóng vội mà đòi hỏi phải có tầm chiến lược lâu dài. Điều đó yêu cầu chúng ta phải nghiên cứu kỹ lưỡng, phân loại chính xác các loại hình văn hóa để có chính sách và biện pháp quản lý phù hợp, chỉ đạo sát sao, phương pháp xây dựng và phát triển hợp lý, khoa học.
Trên tinh thần xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nền văn hóa do dân, vì dân, cần phải xúc tiến sự đa dạng hóa trong sáng tạo nghệ thuật, tạo mọi điều kiện thuận lợi để cho chủ thể sáng tạo văn hóa có khả năng phát huy tối đa tiềm năng sáng tạo của mình. Quá trình đổi mới là một quá trình thử nghiệm, khó tránh khỏi vấp váp và sai lầm. Mọi thành quả đổi mới phải trông chờ vào sự kiểm nghiệm của thực tiễn và lịch sử. Luôn tôn trọng trí thức, văn nghệ sĩ, tôn trọng lao động, tôn trọng sáng tạo là tư tưởng nhất quán của Đảng về chủ thể sáng tạo văn hóa. Đây cũng là tư tưởng cần được quán triệt sâu rộng hơn nữa trong toàn xã hội về xây dựng văn hoá và đổi mới văn hoá. Gắn chặt với thực tiễn đổi mới của đất nước, hiểu sâu sắc tâm tư nguyện vọng của nhân dân, nghe được những chuyển động của thời đại, đó là những nhân tố cơ bản để nghệ sĩ có đủ điều kiện sáng tạo nên những tác phẩm nghệ thuật ưu tú. Mặt khác, cũng phải chú ý phát triển phê bình văn học nghệ thuật, coi đó là tiếng nói phản biện, tiếng nói đồng sáng tạo để nâng cao hơn nữa chất lượng của những sản phẩm nghệ thuật ưu tú trong thời đại ngày nay.
Về quan điểm tiến bộ và công bằng xã hội ở nước ta
|
| PGS.TS. Trần Hậu Mặt trận Tổ quốc Việt Nam |
Vấn đề tiến bộ và công bằng xã hội được đề cập trong tất cả các văn kiện chính thức của Đại hội XI của Đảng và thể hiện những nhận thức ngày càng đầy đủ hơn về bề rộng cũng như bề sâu của vấn đề quan trọng này. Cuộc sống xã hội đang đặt ra nhiều vấn đề bức xúc cả về lý luận và thực tiễn, song nhận thức và hành động trong lãnh đạo và quản lý còn có khoảng cách không nhỏ so với những gì đang đặt ra trong thực tiễn. Bài viết nhỏ này mong muốn gợi mở một vài suy nghĩ góp phần nghiên cứu về lĩnh vực này.
Được sống đầy đủ về vật chất, tinh thần và công bằng là khát vọng từ xa xưa đã được đặt ra từ rất sớm trong lịch sử loài người. Con người phải đấu tranh không ngừng với thiên nhiên, với mọi chế độ áp bức, bóc lột, hy sinh bao nhiêu xương máu cũng vì mục đích cao cả nhưng rất thiết thực, bình dị đó. Mác, Ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh đề ra học thuyết và tư tưởng của các ông, cũng là nhằm giải phóng con người, thực hiện mục tiêu hạnh phúc và công bằng cho con người. Chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh cũng là nhằm giải phóng con người. Cương lĩnh (bổ sung và phát triển năm 2011) đã khẳng định ''Chính sách xã hội đúng đắn, công bằng là động lực mạnh mẽ, phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc''1.
Để giải phóng con người theo nghĩa đầy đủ của nó, chẳng những phải tăng trưởng kinh tế mà phải thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Thực tế đã cho thấy nhiều quốc gia có mức độ tăng trưởng kinh tế cao, có thu nhập bình quân đầu người lớn, có đời sống vật chất sung túc, nhưng lại không có công bằng xã hội, con người không được thực sự tự do và giải phóng mà còn đầy rẫy sự bất công. Kết quả tăng trưởng kinh tế đã mang lại những món lợi nhuận kếch sù cho những tập đoàn tư bản độc quyền lũng đoạn, và cuộc sống rất cao cho một thiểu số người, trong khi nạn đói và thất nghiệp vẫn gia tăng cùng với hàng loạt vấn đề xã hội suy thoái có thể làm lung lay nền móng xã hội, dẫn tới những xung đột xã hội làm đảo lộn cả chế độ chính trị. Trong hoàn cảnh nước ta, xác định mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội như thế nào cho đúng đắn, vẫn là một vấn đề bức xúc cần phải được tiếp tục nghiên cứu đầy đủ để có được những giải pháp phù hợp với thực tế đất nước.
Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội họp tại Copenhaghen (Đan Mạch) tháng 3-1995 đã chỉ ra rằng: có đến 85% các cuộc khủng hoảng các biến động lớn, thậm chí dẫn đến thay đổi chế độ chính trị, thay đổi thiết chế xã hội là bắt nguồn từ những nguyên nhân trực tiếp trong lĩnh vực xã hội hoặc mang nặng tính chất xã hội, trong đó nổi trội hơn cả là từ sự bất công xã hội, mà cụ thể là sự không công bằng trong xử lý các quan hệ lợi ích kinh tế và chính trị. Nhiều thập kỷ gần đây, nhiều nước trên thế giới đã và đang phải xem xét, điều chỉnh lại mô hình phát triển, kể cả những mô hình đã có một thời được xem là ưu việt nổi trội, như mô hình Bắc Âu với nhà nước phúc lợi; mô hình châu Âu đại lục với thị trường xã hội, trong đó đặc biệt quan tâm đến vấn đề phát triển và quản lý phát triển xã hội, nhằm vào mục tiêu phát triển con người với tư cách vừa là chủ thể vừa là mục tiêu của sự phát triển đất nước. Xét theo nội hàm, vấn đề kinh tế cũng nằm trong lĩnh vực xã hội, nhưng không phải lúc nào giải quyết tăng trưởng kinh tế cũng đồng nghiã với việc giải quyết các vấn đề công bằng xã hội.
Ở nước ta, cần tiếp tục tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận để xây dựng một mô hình lý thuyết về phát triển xã hội, về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội phù hợp với điều kiện nước ta. Những đặc điểm lịch sử cụ thể không giống nhiều nước đòi hỏi một khung lý thuyết về tiến bộ và công bằng xã hội ở Việt Nam mà không thể dập khuôn mô hình của bất cứ nước nào. Đó là cả một quá trình công phu tìm tòi từ nhiều góc độ khác nhau trong lịch sử và hiện tại, từ góc độ kinh tế đến chính trị, văn hoá, tập quán và tâm lý...
Vấn đề tiến bộ và công bằng xã hội được đề cập đến ở nhiều nơi, nhiều lúc song hình như vẫn còn tản mạn và chưa tập trung, nổi bật và nhất quán (kinh tế - xã hội hay văn hóa - xã hội?). Để góp phần nghiên cứu, có thể gợi mở một vài vấn đề để cùng suy ngẫm.
1. Xét về quá trình lịch sử hình thành tư tưởng xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng ta, về vấn đề chính sách xã hội và giải phóng con người có thể thấy rõ trong tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc. Ngày từ khi Hồ Chí Minh tìm đường cứu nước, Người bắt gặp chủ nghĩa Mác - Lênin, đặt cách mạng Việt Nam vào quỹ đạo cách mạng thế giới và khẳng định chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới thực hiện triệt để giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người, mang lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng và phát triển là làm cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Sau này Người còn nói rõ hơn: Nhà nào nghèo thì đủ ăn, đã đủ ăn thì khá lên, nhà nào khá thì làm cho giàu lên, nhà giàu thì giàu lên nữa, phải làm cho đất nước trở nên giàu mạnh, rồi đến khi thắng lợi, sẽ xây dựng đất nước ta đàng hoàng to đẹp hơn gấp mười ngày nay... Đó là những điểm cốt lõi trong quan điểm giải phóng và phát triển của Hồ Chí Minh. Đó cũng là cơ sở tư tưởng để hình thành các chính sách xã hội, để khảo cứu mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ công bằng xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng và phát triển đã trở thành động lực to lớn và mạnh mẽ, động viên toàn Đảng, toàn dân ta trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước ở những thập kỷ trước đây.
2. Trong một thời gian dài, chúng ta chưa nhận thức được đầy đủ tầm quan trọng của chính sách xã hội và sự kết hợp hữu cơ giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội, chưa nhận thức được rằng việc tiếp cận các vấn đề xã hội và đề ra những chính sách xã hội, như là những cách đề cập khác nhau đối với việc giải quyết một quá trình thống nhất, có quan hệ hữu cơ và thâm nhập lẫn nhau, không thể chia cắt trong khoa học về con người. Vì vậy, trong nhiều kế hoạch của Nhà nước, thường chú trọng nhiều đến các chính sách kinh tế, mà chưa chú trọng đầy đủ đến các chính sách xã hội. Đó là chưa kể trong xã hội còn coi chính sách xã hội như một loại chính sách hỗ trợ cho sự phát triển đất nước.
Trước đây do sai lầm giáo điều theo mô hình nước ngoài, công bằng xã hội được hiểu và thực hiện trong thực tế theo chủ nghĩa bình quân. Trong điều kiện chiến tranh, chính sách xã hội theo chủ nghĩa bình quân đã đóng vai trò lịch sử nhất định, trong một thời gian nhất định. Nhưng khi tình hình đã thay đổi, những chính sách xã hội, đặc biệt là chính sách phân phối, chính sách phúc lợi xã hội mang tính bình quân bị kéo dài quá lâu, cho đến nay vẫn chưa khắc phục được hết, đã cào bằng mọi giá trị lao động, chẳng những không tạo ra được bất cứ một sự công bằng xã hội nào, mà trái lại đã làm giảm ý nghĩa thực tế của những ý tưởng tốt đẹp mà ta hằng nói về ''con người'', về ''dân làm chủ'', về công bằng xã hội... Chủ nghĩa bình quân trong điều kiện lịch sử mới của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế đã có tác dụng tiêu cực, triệt tiêu động lực của sản xuất, là một trong những nguyên nhân kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế.
Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, đã tạo đà phát triển, làm cho kinh tế không ngừng tăng trưởng. Cùng với nó, các hình thức phân phối mới đa dạng hơn đã bước đầu tạo nên động lực phát triển cho xã hội ta. Song, cũng chính thời điểm ngày nay, mối quan hệ giữa kinh tế và xã hội, công bằng xã hội đang đứng trước hàng loạt những vấn đề thực tiễn vô cùng bức xúc. Đất nước ta trải qua thời gian chiến tranh kéo dài với mức độ tàn phá ác liệt, cơ sở kinh tế vốn đã nghèo nàn, lạc lậu, bối cảnh quốc tế diễn biến khá phức tạp, kiến thức và kinh nghiệm lãnh đạo, quản lý đất nước còn hạn chế. Đó là những đặc điểm lịch sử làm cho chúng ta không dễ dàng gì có thể nhanh chóng rút ngắn được khoảng cách giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
Chúng ta đang đứng trước những hiện tượng không bình thường, đúng ra là những bất công xã hội, đó là:
- Những gia đình thương binh, liệt sĩ, có công với cách mạng đã đóng góp lớn lao cho đất nước thì nay đời sống khó khăn, đạm bạc trong lúc bao người khác lại đang sống rất sung túc.
- Những vùng căn cứ địa cách mạng, cái nôi từ khi phong trào cách mạng còn trong trứng nước, trải bao năm tháng nay vẫn ở trong tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, nhiều nơi không có điện dùng, vẫn còn cuộc sống đói nghèo, bệnh tật... Ánh sáng cách mạng đến với họ rất sớm nhưng ánh sáng của điện, của cuộc sống ấm no, văn minh lại đến với họ muộn hơn nhiều vùng khác.
- Những vùng sâu, xa xôi hẻo lánh, vùng dân tộc ít người, biên giới, hải đảo, vì nhiều nguyên nhân lịch sử mà nay vẫn tồn tại kinh tế tự cấp, tự túc và hình thức trao đổi hàng hóa giản đơn trong khi cả nước đang chuyển sang cơ chế thị trường, mở cửa với thế giới bên ngoài.
- Những chênh lệch quá xa giữa thu nhập với mức sống đạm bạc của những người lao động chân chính, tận tụy đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc với bọn làm giàu bất chính, mọt dân, hại nước, tham nhũng của công, ức hiếp quần chúng, thả sức ăn chơi sa đọa, gây công phẫn trong dư luận xã hội.
- Cùng một chất lượng lao động nhưng chênh lệch thu nhập gấp nhiều lần giữa các vùng, các cơ sở sản xuất2.
- Những hiện tượng không công bằng trong đánh giá sử dụng cán bộ là những vấn đề không liên quan trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế, nhưng đã làm thui chột nhân tài, giảm tính tích cực lao động và ảnh hưởng tiêu cực đối với việc tăng trưởng kinh tế. Không công bằng trong công tác cán bộ dẫn tới tình trạng người có tài có đức không được trọng dụng, trong lúc có người kém tài, thiếu đức vẫn thông qua những con đường khác nhau được giao nhiều trọng trách, để rồi làm thất thoát những khối tài sản lớn của nhà nước.
Với tốc độ tăng trưởng hàng năm tương đối cao của nền kinh tế cho phép đất nước ta có cơ hội phát triển nhanh hơn, tạo điều kiện giải quyết những hiện tượng bất công trong xã hội. Giữ cho được sự cân bằng tương đối giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là một yêu cầu hết sức quan trọng. Tuy nhiên, cần phải có một hệ thống chính sách xã hội đúng đắn và có hiệu lực, và thực hiện tốt hệ thống chính sách đó, thì mới có thể thực hiện được công bằng xã hội.
Đại hội VI của Đảng lần đầu tiên tạo sự chuyển biến trong quan điểm nhận thức về vấn đề chính sách xã hội, chính thức đưa vào báo cáo chính trị. Tiếp theo đó, các hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, Quốc hội, Chính phủ đã từng bước cụ thể hóa thêm. Từ Đại hội VII đến nay đã phát triển lên một bước cao hơn trong Cương lĩnh, Chiến lược kinh tế - xã hội của Đảng về chính sách xã hội. Song, từ Nghị quyết đến cuộc sống là quá trình đấu tranh vô cùng gian khổ và phức tạp. Quá trình này tùy thuộc vào những con người cụ thể trong khi hoạch định chính sách và thực thi chính sách xã hội. Họ vừa là chủ thể, vừa là khách thể của chính sách xã hội. Đối mặt với những hiện tượng, bất công xã hội nhưng không dễ bề xử lý vì chưa có một cơ sở lý thuyết về phát triển và quản lý phát triển xã hội. Ngày nay, chuẩn mực xã hội mới chưa được hình thành, chuẩn mực xã hội cũ đang bị phá vỡ và khó tồn tại vì không còn thích hợp. Công bằng xã hội là mục tiêu cao đẹp nhưng nó mới dừng ở khái niệm chung mà chưa cụ thể hóa thành những nội dung phù hợp với từng lĩnh vực từng đối tượng dân cư, từng vùng miền, từng chính sách, từng việc làm thiết thực. Vì vậy niềm tin về một sự tiến bộ và công bằng xã hội đang bị sói mòn, nhiều lúc, nhiều nơi trở nên nghiêm trọng. Điều đó làm cho xã hội ta ''đang tiềm ẩn gây mất ổn định chính trị - xã hội...''3.
3. Muốn cho sự phát triển kinh tế có tác động đến công bằng xã hội, cần phải có hệ thống chính sách xã hội tích cực, đúng đắn, đồng thời động viên được toàn xã hội tham gia thực hiện. Mục tiêu bao trùm của tất cả các chính sách xã hội là phải mang lại cho con người một cuộc sống tốt đẹp không chỉ dành riêng cho ai, cho một thiểu số hay tập đoàn nào, mà là dành cho mọi người dân trong xã hội Việt Nam; chính sách đó phải phát triển xã hội một cách bền vững phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể và truyền thống văn hóa của dân tộc.
Một chính sách xã hội tiến bộ và công bằng phải là một chính sách đạt được những yêu cầu sau đây:
Một là, bảo đảm tái sản xuất sức lao động cho xã hội (bằng các chính sách phân phối thu nhập cho mọi đối tượng, đào tạo, giáo dục, bảo vệ sức khỏe, bảo hộ và bảo hiểm lao động... nâng cao dân trí, đáp ứng yêu cầu tăng trưởng kinh tế hiện nay và chuẩn bị một đội ngũ lao động cho những bước phát triển cho tương lai của đất nước.
Hai là, bảo đảm cơ sở và những điều kiện cơ bản cho đời sống vật chất và tinh thần (bao gồm cả văn hoá, khoa học, nghệ thuật...) đạt tới trình độ ngày càng cao cho thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau, đáp ứng yêu cầu của công cuộc phát triển đất nước.
Ba là, hướng dẫn tiêu dùng lành mạnh, vừa phát triển kinh tế, vừa bảo vệ tinh hoa truyền thống của dân tộc, làm cho mọi người vừa biết làm giàu hợp pháp, đồng thời biết hưởng thụ thành quả lao động chính đáng của mình làm ra. Trên cơ sở đó hình thành một lối sống Việt Nam vừa hiện đại, hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, vừa bảo vệ và phát triển những giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc, tạo nên một xã hội lành mạnh, văn minh, ổn định, làm môi trường ưu việt cho sự tăng trưởng kinh tế.
Một chính sách xã hội như thế là một chính sách tích cực, nó không dập khuôn giáo điều, tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh, liên quan hữu cơ với nhau để thực hiện công bằng xã hội trên cơ sở một nền kinh tế tăng trưởng. Một chính sách xã hội như vậy đòi hỏi các chính sách kinh tế và chính sách xã hội phối hợp đồng bộ thúc đẩy lẫn nhau chứ không phải cái này kìm hãm hay đối lập cái khác. Trong quá trình hình thành các chính sách, chúng ta có không ít những bài học về vấn đề này. (Chỉ nêu một thí dụ: Chính sách ruộng đất đã thúc đẩy nông dân tách hộ, kết hôn, sinh con để được chia ruộng, làm dân số tăng lên, trong lúc chúng ta đang tích cực vận động giảm tỉ lệ tăng dân số).
4. Việc hoạch định các chính sách xã hội, thực hiện công bằng xã hội đương nhiên phải dựa trên cơ sở tăng trưởng kinh tế, mà một trong những tiêu chí của sự tăng trưởng là tính toán thu nhập theo bình quân đầu người (xin nhắc lại đây chỉ là một trong những tiêu chí chứ không phải là duy nhất). Song cần phải thừa kế những kinh nghiệm lịch sử của dân tộc và truyền thống văn hóa phương Đông.
Ông cha ta trong những triều đại đời nhà Trần, nhà Lê đã tạo nên thời kỳ phát triển rực rỡ của đất nước sau khi kết thúc chiến tranh bảo vệ giang sơn bờ cõi. Ý chí tự lực tự cường của con người Việt Nam đã chuyển từ cuộc chiến đấu cho nền độc lập của Tổ quốc sang công cuộc xây dựng cuộc sống mới. Đó chính là động lực phát triển của xã hội Việt Nam. Ngày nay khi chúng ta sống chung trong thời đại văn minh mới, văn minh tin học, ý chí tự lực tự cường phải được nâng lên tầm cao mới với chân lý ''Không có gì quý hơn độc lập tự do''. Từ xa xưa, người Việt Nam sống có tư duy đổi mới, nhạy bén với cái mới, linh hoạt và mềm dẻo, nước gắn liền với nhà để phát triển. Tư tưởng đổi mới trong quá trình tìm tòi con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng xuất hiện rất sớm ở nước ta, ngay từ những tìm tòi ban đầu về khoán hộ trong nông nghiệp những năm cuối thập kỷ 60, chuyển sang hạch toán những năm đầu thập kỷ 80. Bài học những bước tìm tòi đó chính là ở chỗ: chính sách xã hội phải hướng vào con người, thực hiện công bằng xã hội trên những yêu cầu thường ngày của họ là ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh.
Người xưa có câu: ''Không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng, không sợ nghèo chỉ sợ lòng dân không yên''. Người Việt Nam vốn có truyền thống đùm bọc, đoàn kết, coi trọng sự công bằng, coi trọng mối quan hệ êm thấm trong cộng đồng, trong đó lòng dân yên ổn mà không sợ thiếu, không sợ nghèo.Truyền thống đó phải được kế thừa và nhận thức trong điều kiện mới. Nền kinh tế phải đủ, phải giàu, phải tăng trưởng để trên cơ sở đó mà thực hiện công bằng và yên dân. Người ta không thể phân phối cái gì mà người ta không có, không thể thực hiện công bằng yên dân trên một cơ sở nghèo đói, thiếu thốn. Trên cơ sở năng suất thấp, thu nhập quá ít ỏi, không có sản phẩm thặng dư thì sự công bằng sẽ trở thành sự cào bằng, sự yên dân trở thành sự yên phận. Như thế thì không thể có động lực, và khi đã không có động lực thì sẽ không có sự phát triển.
Chính sách về công bằng xã hội ngày nay phải kế thừa truyền thống đùm bọc của dân tộc, thể hiện lòng nhân nghiã, uống nước nhớ nguồn của người Việt Nam để không lãng quên quá khứ, chạy theo cơ chế thị trường, thương mại hóa tất cả tình nghĩa, xóa hết mọi bao cấp với mọi đối tượng cần được xã hội bao cấp mà bất cứ chế độ xã hội nào cũng có.
5. Chủ nghĩa nhân văn cộng sản, chủ nghĩa nhân đạo Hồ Chí Minh, trong đó cốt lõi là giải phóng con người. Dù đứng ở góc độ kinh tế học của tăng trưởng hay góc độ chính trị học của phân phối mà xét, thì chỗ đứng và điểm xuất phát cũng là quan điểm cơ bản này. Do đó sẽ không nên tách rời con người kinh tế và con người xã hội. Nói đến tăng trưởng kinh tế, tức là nói đến sản xuất xã hội, trong đó bao hàm sự thống nhất biện chứng của các quá trình tái sản xuất, trong đó vấn đề bình đẳng trong phân phối đóng vai trò rất quan trọng. Sẽ không thể nào có sự phát triển và cất cánh của đất nước, nếu không có một chính sách xã hội tiến bộ và công bằng, nhằm tạo môi trường xã hội lành mạnh và ổn định. Những bài học lịch sử của chúng ta trong quá trình tìm tòi con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của những thập kỷ qua đã chứng minh điều đó.
Công bằng xã hội chịu tác động của rất nhiều yếu tố. Muốn có công bằng xã hội phải tiến hành rất nhiều giải pháp, phải có một hệ thống những giải pháp hữu hiệu, khả thi. Trước mắt, để có được tiến bộ và công bằng xã hội, cần phải xem xét một cách khách quan và nghiêm túc vấn đề phân phối thu nhập trong xã hội. Tính công bằng trong phân phối thu nhập trước hết quyết định bởi việc thực hiện nguyên tắc ''hưởng theo lao động”. Nguyên tắc hưởng theo lao động không cho phép dành những khoản thu nhập lớn cho bất cứ đối tượng nào không có đóng góp lao động cho xã hội (bao gồm lao động trí óc và lao động chân tay). Những đóng góp lớn phải được hưởng thu nhập lớn, được xã hội tôn vinh và là nội dung hàng đầu của chuẩn mực xã hội. Vấn đề phân phối thu nhập đang là vấn đề bức xúc hiện nay trong xã hội, nó là lĩnh vực đang dung dưỡng những thói hư tật xấu và những ung nhọt của xã hội, đang che giấu những mưu toan xấu vị lợi ích cá nhân vị kỷ của những con người nhân danh tổ chức, những tập đoàn người... Vì vậy, để thực hiện được tư tưởng đúng đắn của Cương lĩnh về tiến bộ và công bằng xã hội, rất cần thiết phải có chủ trương, giải pháp và những con người tương xứng có thể kiểm soát được lĩnh vực phân phối thu nhập trong xã hội ta hiện nay, mổ xẻ thực trạng bất công trong phối hợp thu nhập, phanh phui các hình thức biến tướng của nó và truy tìm căn nguyên của thực trạng ấy. Mọi việc được công khai minh bạch, được giám sát và phản biện. Đó là cách tốt nhất để giải bài toán tiến bộ và công bằng xã hội hiện nay, thực hiện được tư tưởng công bằng xã hội của Hồ Chí Minh.
_____________
Giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở nước ta: Quan niệm, thực trạng và giải pháp GS, TS Vũ Văn Phúc
Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định 8 phương hướng cơ bản cần tập trung quán triệt và thực hiện để hoàn thành mục tiêu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là ''xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc''. Cương lĩnh yêu cầu, trong quá trình thực hiện các phương hướng đó, phải chú trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ cơ bản, trong đó có mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
l. Về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
Tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, tiến bộ và công bằng xã hội.
Tăng trưởng kinh tế là một khái niệm kinh tế học, dùng để chỉ sự gia tăng về quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Các chỉ tiêu thường được sử dụng để đo mức tăng trưởng kinh tế là mức tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân (GNP) và các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp khác. Tăng trưởng đơn thuần chỉ là sự thay đổi về lượng, chưa phản ánh mặt chất của một nền kinh tế.
Văn hóa, phát triển văn hoá.
Theo nghĩa rộng, văn hoá là toàn bộ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra, được tích lũy trong quá trình hoạt động thực tiễn của con người và nhằm phục vụ cho sự phát triển của con người. Các giá trị này được cộng đồng chấp thuận, vận dụng trong đời sống xã hội và được truyền lại cho các thế hệ sau. Văn hoá thể hiện trình độ phát triển và những đặc trưng riêng có của từng dân tộc. Theo nghĩa hẹp, văn hoá liên quan đến toàn bộ hoạt động tinh thần của xã hội. Phát triển văn hoá chính là phát triển và củng cố nền tảng tinh thần của xã hội.
Tiến bộ và công bằng xã hội
Tiến bộ xã hội là khái niệm phản ánh sự vận động của xã hội từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, là sự vận động của xã hội loài người từ hình thái kinh tế - xã hội này lên hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn, hoàn thiện hơn cả về cơ sở hạ tầng, cả về kiến trúc thượng tầng.
Tiến bộ xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta được thể hiện trên bình diện chung của toàn xã hội, của từng lĩnh vực, của mỗi tổ chức, mỗi gia đình và mỗi cá nhân. Một xã hội vận động theo hướng đi lên chủ nghĩa xã hội phải là một xã hội ngày càng giàu có hơn về của cải vật chất, phong phú hơn về đời sống tinh thần; đem lại cho con người những giá trị cuộc sống nhân văn, cao đẹp, hạnh phúc. Cái đích huớng tới của tiến bộ xã hội phải là con người, là sự phát triển toàn diện con người.
Công bằng xã hội là một khái niệm có tính lịch sử và có nội hàm, trình độ khác nhau ở các chế độ xã hội khác nhau. Công bằng xã hội là phương thức đúng đắn nhất để thỏa mãn một cách hợp lý những nhu cầu của các tầng lớp xã hội, các nhóm xã hội, các cá nhân xuất phát từ khả năng hiện thực của những điều kiện kinh tế -xã hội nhất định. Trước đây, khi nói đến công bằng xã hội dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, chủ yếu nhấn mạnh công bằng trong chế độ phân phối theo lao động. Còn việc phân phối trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhất là trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, thì công bằng xã hội mang nhiều nội hàm mới.
Công bằng xã hội không chỉ giới hạn ở công bằng về kinh tế, mặc dù đây là yếu tố nền tảng, mà còn lập công bằng trong các lĩnh vực chính trị, pháp lý, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế...
Về một phương diện nào đó, công bằng cũng là một mặt biểu hiện của tiến bộ xã hội; phản ánh việc giải quyết tương quan giữa các chủ thể trong các mối quan hệ xã hội về quyền và trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi, cống hiến, hưởng thụ...
Như vậy công bằng xã hội được thể hiện trên ba phương diện chủ yếu sau: công bằng về cơ hội phát triển (học tập, lao động, việc làm, tiếp cận các nguồn lực và điều kiện phát triển sản xuất, kinh doanh...); công bằng về phân phối sản phẩm xã hội; công bằng về quan hệ phát triển giữa các vùng miền, các nhóm, tầng lớp xã hội, thực hiện các chính sách xã hội đối với các đối tượng chính sách và những đối tượng yếu thế.
Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa.
Đời sống của con người cũng như của xã hội bao gồm hai mặt vật chất và tinh thần. Nếu kinh tế là nền tảng vật chất của xã hội, đáp ứng nhu cầu vật chất của con người và xã hội, thì văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, đáp ứng nhu cầu tinh thần của con người và xã hội. Tăng trưởng kinh tế là cơ sở và điều kiện quan trọng hàng đầu cho sự phát triển văn hóa, phát triển văn hóa chính là mục tiêu và động lực của tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế phải nhằm mục tiêu phát triển văn hóa, phát triển con người. Sức sản xuất càng phát triển, thì quan hệ giữa văn hoá và kinh tế càng mật thiết. Mọi hoạt động kinh tế từ thiết kế sản phẩm tới trao đổi và sử dụng sản phẩm đều thấm sâu yếu tố văn hoá, vì toàn bộ quá trình kinh tế đều là hoạt động của người, và con người, thông qua các hoạt động của mình thiết lập, các quan hệ giữa con người với tự nhiên, giữa con người với con người. Hiện nay, toàn cầu hoá kinh tế và sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật đã tạo điều kiện đề kinh tế phát triển nhanh chóng, và những thay đổi trong phát triển kinh tế có tác động rất lớn đến văn hóa. Mặt khác, chỉ khi những quyết sách và chiến lược phát triển kinh tế mang hàm lượng văn hóa cao, thì sự phát triển mới thật sự có giá trị.
Hiện nay, tăng trưởng kinh tế gắn chặt chẽ với phát triển văn hoá còn vì bên cạnh yếu tố vốn, kỹ thuật, tài nguyên, thì lao động, nhất là năng lực sáng tạo của con người ngày càng trở thành nguồn lực quan trọng hơn của sự giàu có và phát triển. Một chính sách phát triển đúng đắn phải là một chính sách làm cho các yếu tố văn hóa thấm sâu vào tất cả các lĩnh vực hoạt động sáng tạo của con người, nhân tố văn hóa phải trở thành nội dung quan trọng của hệ thống chính sách, chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước.
Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội
Tiến bộ và công bằng xã hội quan hệ chặt chẽ với tăng trưởng kinh tế có hai khía cạnh: vừa là động lực, vừa là thành quả của tăng trưởng kinh tế, thể hiện sự phân phối thành quả của tăng trưởng. Tăng trưởng kinh tế tạo cơ sở và điều kiện vật chất để thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Đến lượt mình, tiến bộ và công bằng xã hội là động lực, mục tiêu của tăng trưởng kinh tế. Không bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội sẽ gây cản trở cho tăng trưởng kinh tế ở giai đoạn tiếp theo.
2. Giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở Việt Nam trong những năm qua
Quan điểm của Đảng ta và kết quả giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá.
Vấn đề giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá đã được đặt ra ngay từ những ngày đầu của nước Việt Nam mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề phải chú ý đến cùng, phải coi trọng ngang nhau, đó là chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá. ''Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa''1. Văn hoá nghệ thuật, cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị''2. Đảng ta luôn luôn coi trọng gắn kết phát triển kinh tế với xây dựng văn hóa. Đại hội VIII của Đảng, khi nêu ra những nhiệm vụ phát triển kinh tế, đã nhận thấy sự gắn bó hữu cơ của yếu tố văn hoá và kinh tế qua việc xác định ''lấy việc phát huy, nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”3. Đại hội X của Đảng đã đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức, yêu cầu phát triển kinh tế phải gắn bó chặt chẽ và đồng bộ với phát triển văn hoá. Khi bàn về văn hoá, Đảng ta luôn khẳng định ''văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”. Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII đã xác lập một hệ thống chính sách để xây dựng và phát triển văn hoá, trong đó đáng chú ý là chính sách ''kinh tế trong văn hoá'' nhằm gắn văn hoá với các hoạt động kinh tế, khai thác tiềm năng tài chính hỗ trợ cho phát triển văn hoá và ''chính sách văn hoá trong kinh tế'' nhằm bảo đảm cho văn hoá thể hiện rõ trong các hoạt động kinh tế. Hội nghị Trung ương 10 khoá IX đã khẳng định mục tiêu chủ yếu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá là bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao đời sống văn hoá, nền tảng tinh thần của xã hội. Nghị quyết Đại hội X của Đảng nhấn mạnh: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sác dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội''4. Đại hội XI của Đảng yêu cầu ''Phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hoá, xã hội hài hoà với phát triển kinh tế''5.
Trên thực tế, sự phát triển kinh tế - xã hội, quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế và phân công lao động quốc tế tác động mạnh mẽ đến đời sống văn hoá của Việt Nam. Chúng ta đã phát triển đồng bộ và toàn diện quan hệ văn hoá - xã hội và các thành tố văn hoá theo hướng dân tộc, hiện đại, dân chủ, khoa học và nhân văn trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối văn hoá của Đảng nhằm phát triển con người, xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh và môi trường sinh thái an toàn, là động lực để thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong những năm qua, sự nghiệp phát triển văn hoá đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần tạo động lực tinh thần cho sự phát triển đất nước; tư tưởng, đạo đức và lối sống có nhiều chuyển biến tích cực; chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng thấm sâu vào nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Nhiều giá trị văn hoá mới, chuẩn mực đạo đức tiến bộ được khẳng định, dân chủ trong xã hội không ngừng được củng cố và phát huy. Thế hệ trẻ có khát vọng và ý chí lập thân, lập nghiệp để phát triển đất nước. Các giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc được kế thừa và phát huy trong điều kiện mới. Việc tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại làm giàu cho nền văn hoá dân tộc trong thời kỳ hội nhập quốc tế được chú trọng. Văn hoá đã ngày càng khẳng định vai trò nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Mặt khác, khi mức sống bình quân của người dân được cải thiện, quá trình đô thị hóa, hiện đại hóa ngày càng mạnh mẽ thì nhu cầu về văn hoá của nhân dân ngày càng cao là điều tất yếu. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, giao lưu văn hoá toàn cầu ngày càng sôi động cũng tác động không nhỏ đến văn hóa Việt Nam. Những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin đã và đang kích thích năng lực sáng tạo và thụ hưởng các giá trị văn hoá của nhân dân. Vai trò của văn hoá trong xây dựng doanh nghiệp, phát triển kinh tế khu vực và quốc tế ngày càng được coi trọng. Quá trình dân chủ hoá trong sáng tạo, sản xuất, truyền bá và hưởng thụ các giá trị văn hoá ngày càng gia tăng trong bối cảnh toàn cầu hoá. Đây là những viễn cảnh thuận lợi để phát triển văn hóa.
Trong giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa chúng ta đối mặt với cả thuận lợi và thách thức. Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế đã góp phần giải phóng các tiềm năng kinh tế. Quá trình dân chủ hóa đời sống kinh tế, cùng với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, sự tồn tại và phát triển của các thành phần kinh tế khác đã đóng góp một cách tích cực, to lớn vào sự phát triển kinh tế chung của đất nước. Thứ hai, tăng trưởng kinh tế đã góp phần đa dạng hóa và năng động hoá nền sản xuất, tạo điều kiện cho quá trình dân chủ hoá đời sống xã hội, thúc đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trong những năm gần đây, để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, Đảng và nhà nước ta chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, làm cho lực lượng sản xuất phát triển đa dạng, phong phú và nhanh hơn, để tăng năng suất lao động, có đủ sức cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế thành công, khắc phục tình trạng lạc hậu của lực lượng sản xuất, của lao động thủ công, lao động nông nghiệp. Thứ ba, tăng trưởng kinh tế có tác dụng thúc đẩy hình thành thói quen suy nghĩ về tính hiệu quả, tính thiết thực của công việc.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã và đang được phát triển ở nước ta, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, bên cạnh những tác động tích cực, cũng ảnh hưởng tiêu cực không nhỏ đối với sự phát triển con người ở Việt Nam. Một là, dẫn đến phân hoá xã hội sâu sắc giữa khu vực nông thôn và thành thị, giữa các ngành nghề khác nhau trong xã hội, giữa nhóm người có thu nhập thấp và nhóm người có thu nhập quá cao. Trong xã hội ta vẫn tồn tại hiện tưọng bất bình đẳng, và do vậy, dẫn đến nảy sinh nhiều mâu thuẫn về lợi ích. Hai là, tình trạng suy thoái đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên diễn ra nghiêm trọng; lối sống thực dụng, sùng bái đồng tiền, ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa, tham nhũng, tệ nạn xã hội có xu hướng gia tăng; tình trạng ô nhiễm môi trường, sự lây lan dịch bệnh nguy hiểm xảy ra thường xuyên, thái độ xem thường luân lý và các giá trị tinh thần, giá trị nhân văn, đề cao lợi ích vật chất, vô cảm, bàng quan với cuộc sống.v.v. có xu hướng mở rộng. Ba là, cùng với việc phát triển kinh tế thị trường là sự tác động mạnh mẽ của xu thế toàn cầu hóa kinh tế, hội nhập quốc tế, các giá trị văn hoá truyền thống có những biến đổi nhất định và đang đặt ra nhiều vấn đề bức xúc cho xã hội.
Quan điểm của Đảng ta và kết quả giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm yêu cầu phải gắn kết phát triển kinh tế với bảo đảm công bằng xã hội, xem đó không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực cho tăng trưởng kinh tế. Người nói: ''Trong công tác lưu thông phân phối, có hai điều quan trọng phải luôn nhớ: Không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng; không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên''6. Vấn đề này cũng được Đảng ta đặc biệt quan tâm. Văn kiện Đại hội VII của Đảng xác định: ''Kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội...''7. Văn kiện Đại hội VIII của Đảng nêu rõ: ''Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ, công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái''8. Văn kiện Đại hội IX của Đảng khẳng định: ''Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước phát triển''9. Văn kiện Đại hội X của Đảng nhấn mạnh: ''Phải gắn tăng trưởng kinh tế, với phát triển văn hoá, phát triển toàn diện con người, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội''10. Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định quan điểm nhất quán: ''Phải coi trọng, việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội''11. Như vậy, tư tưởng tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội được thể hiện rõ ngay trong từng bước hoàn thiện đường lối chiến lược và từng chính sách phát triển của Đảng.
Ngay khi nền kinh tế còn ở trình độ thấp, Đảng ta đã sớm lựa chọn mô hình phát triển kinh tế gắn với phát triển văn hóa và công bằng xã hội. Đến thời kỳ đổi mới, Đảng đề ra và triển khai thực hiện nhiều chính sách gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội. Chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần đã tạo động lực để huy động nguồn lực dạng của xã hội cho phát triển. Mỗi năm nước ta có khoảng 1,4 triệu người bước vào độ tuổi lao động, Nhà nước đã ban hành các chính sách hỗ trợ việc làm, khuyến khích các thành phần kinh tế mở các trung tâm dạy nghề, tạo điều kiện cho vay vốn tín dụng đối với người lao động đi xuất khẩu, chính sách xóa đói, giảm nghèo, chính sách phát triển giáo dục và y tế, chính sách bảo đảm an sinh xã hội, chính sách với người có công, người khuyết tật, người gặp khó khăn.., Đến nay, Việt Nam đã hoàn thành cơ bản các mục tiêu thiên niên kỷ về giảm nghèo và gần đây, Việt Nam được đánh giá là đã thoát nghèo.
Cùng với hệ thống chính sách ngày càng hoàn thiện và phát huy hiệu quả trong thực tiễn, những năm qua Việt Nam đã đạt nhiều tiến bộ trong giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Về kinh tế, vị thế của Việt Nam được cải thiện rõ rệt cả ở khu vực và trên thế giới. Lựa chọn xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mô hình tăng trưởng kinh tế mà chúng ta hướng tới là tăng trưởng bền vững, tăng trưởng vì con người, tăng trưởng gắn với bảo vệ môi trưởng. Đời sống vật chất và tinh thẩn của nhân dân được cải thiện. Trình độ dân trí, chất lượng nguồn nhân lực và tính năng động xã hội của con người được nâng lên đáng kể. Các địa phương trong cả nước đã hoàn thành mục tiêu xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở. Công tác đào tạo nghề được mở rộng. Năng lực nghiên cứu khoa học và ứng đụng công nghệ mới được nâng cao. Xoá đói, giảm nghèo đạt kết quả nổi bật, được thế giới đánh giá cao. Việc đền ơn đáp nghĩa đối với những người có công với nước; công tác bảo trợ xã hội, chăm sóc và giúp đỡ những người bị ảnh hưởng chất độc da cam, người tàn tật, người già không nơi nương tựa, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn... được quan tâm và thực hiện tốt. Việc bảo vệ, chăm sóc trẻ em, chăm lo sức khoẻ cộng đồng,... đạt nhiều tiến bộ.
Bên cạnh những kết quả tích cực, việc thực hiện công bằng xã hội ở nước ta vẫn còn những hạn chế. Trong lĩnh vực kinh tế, tuy chúng ta đã đổi mới mạnh mẽ về cơ chế, chính sách để phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất nhằm thực hiện công bằng xã hội, nhưng trong chỉ đạo thực hiện vẫn còn nhiều lúng túng, gây cản trở đối với sự phát triển của các thành phần kinh tế. Sự phân phối nguồn vốn đầu tư - một trong những tiền đề cho việc phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm sự công bằng giữa các vùng miền còn nhiều bất cập. Việc ưu tiên, ưu đãi các điều kiện phát triển sản xuất trong các doanh nghiệp như đầu tư, quyền sử dụng đất đai, chính sách tín dụng, thuế,... còn thiên về thành phần, chứ chưa thực sự căn cứ vào mục tiêu, nhiệm vụ, hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Hiện nay, các doanh nghiệp cũng chưa thực sự được hoạt động trên một “sân chơi” hoàn toàn bình đẳng.
Về xã hội, nảy sinh nhiều vấn đề bức xúc, đặc biệt là tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm ở nông thôn, những nơi đất nông nghiệp được chuyển đổi mục đích sử dụng. Bên cạnh đó, sự phân hoá giàu nghèo diễn ra khá nghiêm trọng giữa các tầng lớp dân cư, khoảng cách về thu nhập giữa nhóm có thu nhập cao nhất và nhóm có thu nhập thấp nhất đang có xu hướng mở rộng. Trong lĩnh vực giáo dục, y tế còn nhiều hiện tượng tiêu cực, ảnh hưởng tới chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, vi phạm công bằng xã hội. Thực hiện bình đẳng giới trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường gặp nhiều khó khăn, một bộ phận không nhỏ phụ nữ, nhất là phụ nữ nông thôn, vùng sâu vùng xa, vùng dân tộc thiểu số hiện đang trong tình trạng sức khoẻ yếu, trình độ học vấn và tay nghề thấp, thu nhập bấp bênh, nguy cơ mất việc làm cao và ít có điều kiện tham gia các hoạt động xã hội.
3. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong thời gian tới
Thứ nhất, để thúc đẩy và giải quyết tốt mối quan hệ nêu trên phải kiên trì lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm, nỗ lực phát triển sức sản xuất, đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng tăng trưởng bền vững. Của cải vật chất xã hội phong phú là cơ sở vật chất thực hiện công bằng xã hội. Chỉ có nỗ lực phát triển sức sản xuất, sáng tạo ra của cải vật chất ngày càng phong phú, chúng ta mới có khả năng đáp ứng và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Hơn nữa, phải từng bước nâng cao trình độ sức sản xuất chúng ta mới có thể hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo cơ sở vật chất hùng hậu để bảo đảm hạnh phúc cho nhân dân.
Thứ hai, giải quyết tốt mối quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế thị trường và xây dựng văn hoá.
Kinh tế thị trường đã góp phần giải phóng các tiềm năng kinh tế, làm năng động hoá đời sống kinh tế, tạo điều kiện phát triển cho các thành phần kinh tế, đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, kinh tế thị trường cũng dẫn đến sự phân hoá xã hội sâu sắc, hiện tượng suy thoái đạo đức lối sống lan rộng, làm biến dạng nhiều giá trị dẫn đến đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải biết phát huy cao nhất tác động tích cực và hạn chế đến mức tối thiểu ảnh hưởng tiêu cực của kinh tế thị trường, duy trì sự ổn định và phát triển xã hội.
Phải nhanh chóng khắc phục tình trạng kém phát triển của nền giáo dục Việt Nam, xây dựng thành công xã hội học tập, học tập suốt đời theo phương châm hiện đại, tiên tiến, mở rộng hệ thống trường dạy nghề, đẩy mạnh đào tạo đại học và sau đại học theo hướng phát triển kinh tế tri thức.
Về khoa học công nghệ cần có chiến lược phát triển đúng hướng, chú trọng tăng mạnh năng lực khoa học công nghệ nội sinh, mở rộng và phát triển thị trường công nghệ, tăng cường mối gắn kết giữa nghiên cứu ở các trường đại học và doanh nghiệp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong hoạt động khoa học và công nghệ, thực hiện việc chuyển giao công nghệ, đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý khoa học và công nghệ. Tạo nên sự thâm nhập sâu rộng giũa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, từng bước chuyển từ mục tiêu tăng trưởng vật chất sang mục tiêu vì chất lượng sống toàn diện của con người.
Thứ ba, tăng cường hơn nữa việc hoàn thiện các chính sách xã hội. Công tác này cần được triển khai theo hướng: Một là, nhanh chóng hoàn thiện chế độ phân phối thu nhập, quy phạm trật tự phân phối thu nhập; hai là, tích cực hoàn thiện chế độ tài chính công, thiết lập hệ thống phúc lợi hợp lý, chú ý thích đáng đến công tác xoá đói, giảm nghèo, đầu tư hiệu quả cho y tế, giáo dục, văn hoá, bảo đảm công ăn việc làm cho nhân dân, xây dựng môi trường sinh thái lành mạnh, an toàn,...; ba là, chú ý bảo đảm và cải thiện an sinh xã hội, hoàn thiện chế độ bảo đảm xã hội, kiện toàn hệ thống bảo đảm công bằng phúc lợi xã hội. Vận dụng các biện pháp khác nhau trên cơ sở căn cứ vào luật pháp, từng bước hình thành hệ thống an sinh xã hội, lấy công bằng quyền lợi, công bằng cơ hội, công bằng phân phối là nội dung chủ yếu, để toàn thể nhân dân được hưởng thành quả của sự nghiệp đổi mới.
Thứ tư, xây dựng chế độ chính trị dân chủ và chế độ pháp luật xã hội chủ nghĩa. Trong xã hội hiện đại, nếu không có dân chủ và pháp luật thì không thể có sự phát triển hài hòa kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, môi trường. Chúng ta nói công bằng xã hội là nói đến sự phân phối hợp lý quyền lợi chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội cho tất cả nhân dân.
Thứ năm, để thúc đẩy việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, cần đẩy mạnh việc giáo dục, tuyên truyền về mối quan hệ này vì đây là mối quan hệ liên quan đến toàn bộ đời sống xã hội đến mọi người và mọi giai tầng xã hội. Phải nhận thức rõ, mối quan hệ này không chỉ đề cập tới quyền lợi và nghĩa vụ về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, mà còn đề cập đền quan niệm tư tưởng, ý thức chủ thể và tố chất văn hoá của người dân. Vì thế, nó phải trở thành nhận thức của toàn dân và dựa vào sự nỗ lực phấn đấu của tất cả mọi thành viên trong xã hội.
Để phát huy những thành tựu, khắc phục những hạn chế, bất cập trong giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, cần sớm thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đại hội XI thành chính sách, kế hoạch, chương trình hành động của các cấp, các ngành, quyết liệt trong triển khai thực hiện các chính sách, kế hoạch, chương trình hành động đó.
__________
Tăng trưởng kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng trong phát triển theo tinh thần Đại hội XI TS. Phạm Việt Dũng
Tạp chí Cộng sản
Mối quan hệ hai chiều giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội ngày càng được quan tâm, và được coi là một trọng tâm của chính sách phát triển tất cả các nước. Mối quan hệ này thực ra đã nằm trong nội hàm của phát triển bền vững. Theo khái niệm mới nhất, phát triển bền vững gồm ba trụ cột có quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, đó là phát triển kinh tế bền vững, phát triển xã hội bền vững và bảo vệ môi trường. Qua đó để thấy rằng, nếu chỉ tăng trưởng kinh tế sẽ không đủ để bảo đảm một xã hội bền vững. Kết quả của mối quan hệ này thể hiện phần nào ở chỗ thành tựu về tăng trưởng có đi liền với tiến bộ, công bằng xã hội hay không.
Giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội luôn là tâm điểm trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Trong bối cảnh toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, mối quan hệ này càng trở lên cấp thiết hơn bao giờ hết. Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định: ''… thực hiện tốt tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển phù hợp với điều kiện cụ thể, bảo đảm phát tnển nhanh, bền vững”.1
1. Sự lựa chọn mô hình phát triển của các quốc gia
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, các quốc gia trên thế giới tìm kiếm con đường phát triển cho mình. Lúc đó, các quốc gia chú trọng nhiều đến tăng trưởng kinh tế về mặt lượng, vì vậy các thước đo đánh giá chủ yếu thông qua tổng sản phẩm trong nước (GDP) hoặc tổng sản phẩm quốc dân (GNP) và thu nhập đầu người. Đặc biệt đối với các nước đang phát triển, các vấn đề đặt ra thường gắn với những câu hỏi: Tại sao chúng ta nghèo? Làm thế nào để tránh tụt hậu hay bắt kịp các nước khác. Những câu hỏi này thể hiện cách tiếp cận hẹp, chủ yếu tập trung vào khía cạnh kinh tế. Có lẽ vậy nên nhiều quốc gia đạt được những thành công nhất định trong ngắn hạn, nhưng xét về dài hạn lại không được như mong muốn. Bảng thống kê về tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới trong 4 thập kỷ, từ 1960-2000 đã phần nào nói lên điều đó.
Bảng 1: Bức tranh tăng trưởng kinh tế của thế giới 1960 – 2000 2
| Vùng/Khu vực |
| GDP | (%/năm) |
| GDP | đầu (%/năm) | người |
|
|
| 1960-70 | 1970-80 | 1980-90 | 1990-2000 | 1960-70 | 1970-80 | 1980-90 | 1990-2000 |
| Thế giới (84 nước) | 5.1 | 3.9 | 3.5 | 3.3 | 3.5 | 1.9 | 1.8 | 1.9 |
| Các nước công nghiệp (22 nước) | 5.2 | 3.3 | 2.9 | 2.5 | 3.9 | 1.7 | 1.8 | 1.5 |
| Các nước Đông Á (không tính T.Quốc) | 6.4 | 7.6 | 7.2 | 5.7 | 3.7 | 4.3 | 4.4 | 5.7 |
| Trung Quốc | 2.8 | 5.3 | 9.2 | 10.1 | 0.9 | 2.8 | 6.8 | 8.8 |
| Châu Mỹ Latinh (22 nước) | 5.5 | 6.0 | 1.1 | 3.3 | 2.8 | 2.7 | -1.8 | 0.9 |
| Nam Á (4 nước) | 4.2 | 3.0 | 5.8 | 5.3 | 2.2 | 0.7 | 3.7 | 2.8 |
| Châu Phi (19 nước) | 5.2 | 3.6 | 1.7 | 2.3 | 2.8 | 1.0 | -1.1 | -0.2 |
| Trung Đông (9 nước) | 6.4 | 4.4 | 4.0 | 3.6 | 4.5 | 1.9 | 1.1 | 0.8 |
Từ thực tế tăng trưởng trong 4 thập kỷ trên của thế giới, có thể rút ra một số nhận xét sau:
- Tốc độ tăng trưởng cao trong một vài năm không phải là yếu tố quyết định trong dài hạn. Để đạt được mục tiêu trong dài hạn không cần tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, mà chỉ cần cao ở mức hợp lý nhưng bền vững. Người ta tính rằng, nếu một quốc gia duy trì được tốc độ tăng trưởng 5% trong vòng một thế kỷ thì tổng thu nhập quốc dân của quốc gia đó sẽ tăng 135 lần, còn nếu chỉ giữ được ở mức 2% thôi thì tổng thu nhập cũng tăng 10 lần.
- Trong bốn thập kỷ qua, không quốc gia nào duy trì được tốc độ tăng trưởng GDP/đầu người trung bình trên 6%. Nhật Bản, trong 25 năm phát triển mạnh mẽ nhất, tức là trong giai đoạn 1960-1985, chỉ đạt mức tăng trưởng bình quân GDP/đầu người là 5,8%. Xét trong cả 4 thập kỷ, tăng trưởng của Trung Quốc chỉ ở mức 4,8%; các nước Đông Á đạt khoảng 4,4%.
- Nếu xét trong khoảng thời gian một thập kỷ thì kỷ lục về tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình của một quốc gia thuộc về các nước Đông Á. Nhật Bản, Trung Quốc và Singapore đều đã từng đạt được trong một hoặc hai thập kỷ tăng trưởng trung bình trên 10%/năm, còn Hàn Quốc, Đài Loan và Malaysia cũng giữ được mức xấp xỉ 10%.
Bài học lịch sử đó cho thấy rằng đối với một quốc gia, dù ở bất kỳ trình độ phát triển nào, có rất ít khả năng đạt được tốc độ tăng trưởng GDP đầu người trung bình trên 5% trong một giai đoạn dài. Tuy nhiên trong trung hạn, tức là trong vòng khoảng một thập kỷ, khi ở vào những điều kiện thuận lợi cả bên trong và bên ngoài, một nền kinh tế quốc gia có thể đạt tới tốc độ tăng trưởng trung bình xấp xỉ 10%, tức là tỷ lệ tăng trưởng GDP/đầu người khoảng 8%/năm. Tuy nhiên thành tích này rấ ít khi đạt được. Một tỷ lệ tăng trưởng GDP khoảng 8% (GDP đầu người khoảng 6-6,5%) trong vòng 1 thập kỷ có thề coi là một kết quả khá cao đối với bất kỳ quốc gia nào.
Từ nhận xét trên cho thấy, quốc gia thành công là quốc gia giữ được tốc độ tăng trưởng bền vững trong quá trình phát triển, nhiều quốc gia đã nghiên cứu phân tích các mối quan hệ giữa các yếu tố kinh tế với thể chế quản lý cùng các mối quan hệ khác, để tìm ra mô hình phát triển thích hợp nhất cho quá trình phát triển của mình. Có thể khái quát thành các quan điểm cơ bản về mô hình phát triển cho quá trình phát triển như sau:
- Mô hình dựa trên quan điểm ''Tăng trưởng kinh tế tất yếu dẫn đến bất bình đẳng''. Quan điểm này cho rằng, chỉ có tầng lớp thu nhập cao mới có khả năng tích luỹ, và cũng chính nhờ sự tích tụ tập trung tư bản này đã tạo động lực cho phát triển. Đi kèm theo đó là sự tất yếu của bần cùng hoá. Theo tư tưởng của quan điểm này, trong giai đoạn đầu của phát triển tất yếu phải chấp nhận bất bình đẳng và các vấn đề khác như bất ổn xã hội, môi trường môi sinh. Mọi cố gắng tạo ra bình đẳng đều có thể làm ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Chỉ khi kinh tế phát triển đến một trình độ nhất định, khi thu nhập bình quân đầu người đạt đến một mức độ nhất định thì sự phân phối lại thu nhập và việc tăng cường chi tiêu công cộng mới không làm ảnh hưởng đến phát triển kinh tế.
- Mô hình dựa trên quan điểm “ưu tiên bình đẳng, giải quyết thỏa đáng các vấn đề xã hội hơn tăng trưởng”. Có lẽ mọi quốc gia đều hướng tới một xã hội công bằng và lành mạnh, chính vì vậy công bằng xã hội ở một khía cạnh nào đó đánh giá như độ phát triển của xã hội đó. Mô hình có bình đẳng và phát triển lành mạnh trước, tăng trưởng sau được áp dụng rộng rãi trong hệ thống xã hội chủ nghĩa (XHCN) trước đây. Nhưng bên cạnh sự tiến bộ của sự bình đẳng thì động lực phát triển của những mô hình này cũng bị triệt tiêu và gánh nặng của chi tiêu công cộng cũng quá lớn. Kết quả các quốc gia đi theo mô hình này không mấy thành công.
- Mô hình dựa trên quan điểm “tăng trưởng đi liền với bình đẳng, giải quyết hợp lý các vấn đề xã hội”. Nó dựa trên quan điểm song song với tăng trưởng là giải quyết bất bình đẳng bằng các chính sách, sự đầu tư hợp lý, như đầu tư đồng đều giữa các khu vực, giải quyết sự chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, giữa doanh nghiệp lớn với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tăng cường chế độ giáo dục, y tế miễn phí vì theo quan điểm này sự bất bình đẳng về học vấn và thể chất sẽ kéo theo bất bình đẳng về thu nhập và xã hội trong nhiều thế hệ. Tóm lại, theo quan điểm này bên cạnh tăng trưởng việc nâng cao chất lượng tăng trưởng luôn được coi trọng.
Trên thế giới, nhiều quốc gia tăng trưởng kinh tế nhanh nhưng vẫn ở trong tình cảnh tồi tệ nếu xét ở các góc độ như trình độ học vấn, sức khỏe, tuổi thọ và dinh dưỡng trung bình của người dân. Hai quốc gia điển hình của sự trái ngược nhau là Hàn Quốc và Brazil. Nếu như Hàn Quốc gắn tăng trưởng với công bằng xã hội, thì Brazil, ngược lại, chú trọng đến tập trung phát triển doanh nghiệp quy mô lớn, sử dụng nhiều vốn, các chính sách xã hội ít quan tâm đến dân nghèo. Chính vì vậy, mặc dù có tốc độ tăng trưởng cao trong nhiều năm nhưng họ không giải quyết được vấn đề bất bình đẳng, và chính điều này là nguyên nhân của sự chững lại trong tăng trưởng, thậm chí có nguy cơ khủng hoảng. Trong khi đó, Hàn Quốc là quốc gia có mức độ bất bình đẳng thấp và giữ được tốc độ tăng trưởng cao trong thời gian dài.
Thực tế cho thấy, các nước Đông Á như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc giữ được tốc độ tăng trưởng ổn định trong dài hạn là nhờ giải quyết tốt vấn đề tiến bộ và công bằng xã hội, trong khi các nước châu Mỹ Latinh sau giai đoạn tăng trưởng tốc độ cao đầu thập kỷ 80 thế kỷ trước đã đột ngột dừng lại bởi sự tăng trưởng đó chỉ phiến diện về mặt kinh tế, theo chiều rộng.
2. Kinh tế thị trường định hướng XHCN – con đường phát triển tất yếu của Việt Nam trong thời kỳ quá độ
Hiện nay nhiều nền kinh tế thị trường (KTTT) trên thế giới với sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học công nghệ đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, kéo theo những biến đổi mạnh mẽ về mọi mặt, tuy nhiên, cùng với đó là những nguy cơ không thể tự giải quyết nổi, như:
- Kinh tế phát triển mạnh mẽ, nhưng đi liền với nó là bất công xã hội. Nước Mỹ và các nước tư bản phát triển là minh chứng cho những xã hội mà sự giàu có tăng lên nhưng cùng với nó là bất công xã hội, dẫn đến đa số nhân dân không được hưởng thành quả của chính sự phát triển đó. Hiện nay 20% số dân giàu của họ chiếm gần 90% thu nhập, trong khi 20% số dân nghèo nhất chỉ chiếm chưa đầy 2% thu nhập. Sự bất công này trở thành lực cản, phá hoại tăng trưởng các nền kinh tế đó.
- Thế giới hiện nay đang có sự mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế với sự phát triển xã hội. Nhiều quốc gia, đi kèm với tăng trưởng kinh tế là khủng hoảng xã hội về đạo lý và đời sống tinh thần. Tăng trưởng kinh tế không có mục đích tự thân. Tăng trưởng kinh tế nhằm phát triển xã hội, phát triển con người, nhưng ở các nước này đi cùng với tăng trưởng kinh tế là sự băng hoại của xã hội và con người, là sự xuống cấp của đời sống tinh thần đạo đức.
- Sự mất ổn định về chính trị ở nhiều quốc gia. Sự giàu có về vật chất nhưng không đem lại ổn định về chính trị, là hậu quả của tăng trưởng phiến diện, tăng trưởng không đi đôi với giải quyết các vấn đề xã hội và nhân sinh. Tình hình bất ổn ở các nước khu vực Nam Mỹ, Đông Âu cuối thế kỷ trước, và của các nước Trung Đông và Bắc Phi hiện tại là một minh chứng rõ rệt nhất.
Đương thời, khi khái quát tính nghịch lý trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, Phuriê đã cho rằng trong giai đoạn văn minh, sự nghèo khổ chính là do sự dồi dào mà ra. Cũng trên tinh thần đó C.Mác viết: ''Trong chủ nghĩa tư bản, sự phát triển của kinh tế đi liền với sự suy đồi về đạo đức''.
Vấn đề đặt ra là làm thế nào để có tăng trưởng nhanh mà vẫn bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội. Phát triển kinh tế mà không đảm bảo các xu hướng phát triển này tất yếu sẽ dẫn đến đổ vỡ. Nhà nước tư sản với bản chất là đại điện và bảo vệ quyền lợi chủ yếu cho một nhóm người, mà trước hết là những tập đoàn lớn sẽ không bao giờ bảo đảm được tuyệt đối sự phát triển của các xu hướng đó. Để làm được điều này, nền kinh tế đó phải chịu sự chi phối của một nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân. Chỉ có nhà nước đó mới bảo đảm được lợi ích của đại đa số nhân dân lao động, mới định hướng vào sự phát triển của từng cá nhân, đồng thời là sự phát triển của tập thể cộng đồng và xã hội. Trong lịch sử phát triển của mình, mô hình kinh tế của các nước XHCN (cũ) đã giải quyết tốt tính công bằng và tiến bộ trong phát triển. Nhưng do nhấn mạnh quá đến công bằng và bình đẳng trong các khía cạnh khác để phát triển kinh tế, đặc biệt với trình độ phát triển còn thấp thì sẽ dẫn đến khủng hoảng, thậm chí sụp đổ. Kinh nghiệm của Liên Xô (cũ) và các nước Đông Âu trước đây là một bài học.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục khẳng định một trong nhưng phương hướng cơ bản là phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Như ta biết, KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam là một kiểu tổ chức nền kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của KTTT vừa dựa trên và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối.
Về bản chất, KTTT định hướng XHCN mà chúng ta xây dựng hoàn toàn khác với KTTT của các nước tư bản bởi một số đặc trưng cơ bản sau:
Một là, nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta có mục đích phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH. Chúng ta sử dụng cơ chế thị trường để kích thích sản xuất, phát huy tinh thần năng động, sáng tạo của người lao động, giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhưng mặt khác vẫn lãnh đạo, quản lý nền kinh tế để không đi chệch hướng theo con đường tư bản chủ nghĩa.
Hai là, cũng như các nền kinh tế thị trường ở các nước tư bản, có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế khác nhau, nhưng nếu như trong nền KTTT tư bản chủ nghĩa sở hữu tư bản tư nhân chiếm vị trí thống trị, thì ở nước ta kinh tế nhà nước chiếm vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Ba là, KTTT ở Việt Nam cũng như KTTT ở các nước tư bản đều chịu sự quản lý của nhà nước, nhưng hai nhà nước khác nhau về bản chất. Nhà nước tư sản chủ yếu bảo vệ quyền lợi của giai cấp tư sản, trước hết là những tập đoàn tư bản lớn, còn Nhà nước của ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân nên sẽ bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động và toàn thể nhân dân.
Bốn là, KTTT ở các nước tư bản chủ nghĩa phân phối chủ yếu theo tiền vốn, dẫn đến bất công xã hội, phân chia xã hội thành hai cực giàu nghèo đối lập, còn KTTT định hướng XHCN, thực hiện phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả sản xuất là chủ yếu, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác nhau vào sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Trong nền KTTT định hướng XHCN, tăng trưởng kinh tế gắn với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trong toàn bộ quá trình phát triển và ngay trong từng bước phát triển.
3. Những vấn đề đặt ra và một số giải pháp nhằm bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước phát triển ở Việt Nam
3.1 – Những vấn đề đặt ra ở Việt Nam trong mục tiêu bảo đảm tăng trưởng với tiến độ, công bằng xã hội
Trong 25 năm qua, với việc phát triển KTTT định hướng XHCN, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tích trong phát triển kinh tế (trong l0 năm từ 2010 tốc độ phát triển trung bình là 7,26%) cũng như trong việc bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội (chỉ số HDI cao so với mức GDP/đầu người, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 26% năm 2000 xuống còn khoảng l0% năm 2010, hệ thống an sinh xã hội phát triển tương đối tốt, …), Việt Nam cũng cơ bản hoàn thành Mục tiêu Thiên niên kỷ, tuy nhiên, vẫn còn nhiều bất cập, cụ thể trên một số mặt sau:
Hệ số GINI của Việt Nam
Hệ số GINI được sử dụng làm thước đo về tiến bộ và công bằng xã hội trong phạm vi một quốc gia hoặc vùng, tỉnh. Mức độ bất bình đẳng về thu nhập tăng dần cùng quá trình tăng trưởng, tăng từ 0,33 năm 1992 lên 0,37 năm 2002-2004.
Tuy hệ số Gini tính từ chi tiêu chỉ dao động trong khoảng 0,34 (năm 1993) tới 0,36 (năm 2006) hoặc 0,37 (năm 2004) nhưng Gini tính từ thu nhập lại tăng nhanh từ 0,35 (năm 1993) lên 0,43 (năm 2006), xấp xỉ 0,45 (năm 2010).
Chỉ số phát triển con người (HDI)
Các số liệu thống kê cho thấy Việt Nam hiện có trình độ phát triển con người cao hơn những nước có trình độ kinh tế tương đương do chỉ số phát triển giáo dục cao và chỉ số tuổi thọ tương đối cao. Từ năm 1994 đến năm 2007, xếp hạng chỉ số HDI của Việt Nam đã được nâng lên, từ 120 trên 174 nước lên 105 trên 177 nước. Nhưng, theo Báo cáo Phát triển con người năm 2010, Việt Nam ở vị trí 113 trên 169 quốc gia được đánh giá. Như vây, Việt Nam vẫn nằm ở nhóm cuối của thế giới và ngay cả so với trong khu vực.
Chênh lệch giàu nghèo
- Giữa các nhóm dân cư
Trước hết, sự phân hóa này thể hiện rõ nhất ở mức chênh lệch về thu nhập giữa nhóm giàu và nhóm nghèo: Mức thu nhập bình quân của nhóm giàu (20% người có thu nhập cao nhất) luôn cao hơn 7-8 lần so với nhóm nghèo (20% người có thu nhập thấp nhất) và mức chênh lệch này từ 7.3 lần năm 1996 lên 8.4 lần năm 2006 và hiện nay, hơn 9 lần.
Ngoài ra, Ngân hàng Thế giới thường tính toán tỷ trọng thu nhập của 40% số hộ có thu nhập thấp nhất chiếm trong tổng thu nhập của tất cả các hộ dân cư. Nếu tỷ trọng này nhỏ hơn 12% là có sự bất bình đẳng cao; nằn trong khoảng 12-17% là có sự bất bình đẳng vừa và lớn hơn 17% là có sự tương đối bình đẳng. Trên cơ sở kết quả các cuộc điều tra mức sống hộ gia đình trong những năm qua, có thể tính ra tỷ trọng thu nhập của 40% số hộ có thu nhập thấp nhất so với tổng thu nhập của tất cả các hộ dân cư như sau: Năm 1998 là 18,7%, năm 2002 là 17,98%, năm 2004 là 17,40% và đến nay chỉ còn xấp xỉ 17%. Tỷ trọng này cho thấy xu hướng bất bình đẳng ngày một gia tăng.
- Giữa các vùng
Bên cạnh đó, khoảng cách thu nhập giữa các vùng có xu hướng tăng lên. Trong 10 năm trở lại đây, mức thu nhập của các vùng đều tăng nhưng mức tăng không đồng đều. Ở đồng bằng Sông Hồng và Đông Nam Bộ tăng khoảng 3-4 lần, song ở Tây Bắc và Tây Nguyên chỉ tăng xấp xỉ khoảng 2 lần. Theo số liệu thống kê, chênh lệch về thu nhập giữa các vùng giàu nhất và nghèo nhất tăng từ 2 lần năm 1996 lên 3,5 lần năm 2009.
- Thành thị và nông thôn
Khoảng cách về thu nhập cũng như mức sống giữa thành thị và nông thôn khá lớn cũng là vấn đề. Ở nông thôn nơi có trên 70% dân số sinh sống, song chỉ chiếm 40% thu nhập của cả nước. Trong khi cư dân đô thị sống trên địa bàn vùng 2 và vùng 6 chỉ chiếm 10% dân cư của cả nước nhưng cũng chiếm tới 40% thu nhập của cả nước. Một nghiên cứu gần đây cho biết, thành thị có tới hơn 18% là người giàu, nhiều hơn gấp ba ở nông thôn. Trong khi đó, tỉ lệ người nghèo ở thành thị là gần 8%, bằng một nửa nông thôn. Cùng với sự phân hóa về mức sống và thu nhập là sự phân hóa về giáo dục, y tế, chi tiêu cho văn hóa, giải trí,... và sự khác biệt trong tiếp cận các phúc lợi xã hội khác.
Thực trạng tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường
Việt Nam đã đưa ra chủ trương tăng trưởng bền vững, tức là tăng trưởng nhanh gắn với sự phát triển bền vững, bởi chỉ như vậy mới có được tiến bộ xã hội.
Tuy nhiên, sự phát triển trong thời gian qua của Việt Nam mang trong mình những hiểm họa về môi trường sinh thái. Những năm qua, chúng ta chú trọng vào tăng trưởng kinh tế ít chú ý tới bảo vệ môi trường, nên hiện tượng khai thác bừa bãi và sử dụng lãng phí tài nguyên thiên nhiên, gây nên suy thoái môi trường và làm mất cân đối các hệ sinh thái đang diễn ra phổ biến.
Cùng với đó, là quá trình đô thị hoá tăng nhanh kéo theo sự khai thác quá mức nguồn nước ngầm, ô nhiễm nguồn nước mặt, không khí và ứ đọng chất thải rắn... làm ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường. Sự suy giảm chất lượng môi trường đang ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất và sức khoẻ của con người, trở thành một trong những vấn đề bức xúc đòi hỏi phải giải quyết hiện nay ở Việt Nam.
3.2- Đề xuất một số giải pháp
Những hạn chế nêu trên cần khắc phục kịp thời nếu không sẽ trở thành lực cản cho chính sự phát triển. Quan điểm của Đảng trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 là: ''Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội''3
Trên tinh thần Nghị quyết Đại hội XI về gắn kết hợp lý giữa phát triển kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội ở nước ta giai đoạn tới, chúng tôi xin đưa ra một số giải pháp sau:
Một là, thực hiện phát triển kinh tế nhanh và bền vững. Để đặt được mục tiêu này, cần các biện pháp cụ thể tập trung và chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế từ chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững. Cùng với đó, cần phải tái cơ cấu nền kinh tế kết hợp với nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
Hai là, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, chú trọng các chính sách nhằm gắn kết hợp lý giữa phát triển kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội.
Bao gồm các giải pháp cụ thể là:
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và các chính sách kinh tế nhằm bảo đảm gắn kết hợp lý giữa phát triển kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội.
- Tiếp tục hoàn thiện chính sách tài khóa, các chính sách xã hội nhằm bảo đảm gắn kết hợp lý giữa phát triển kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội.
- Hoàn thiện chính sách giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ nhằm bảo đảm gắn kết kết hợp lý giữa phát triển kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội.
Thứ ba, gắn kết hợp lý giữa phát triển kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội trên từng lĩnh vực.
Bao gồm các giải pháp cụ thể là:
- Tạo việc làm, kết hợp giáo dục, đào tạo nghề với phát triển thị trường lao động cạnh tranh và chất lượng cao.
- Giải pháp đầu tư phát triển khoa học, công nghệ và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
- Chú trọng an sinh xã hội, chăm sóc sức khỏe con người kết hợp với xóa đói giảm nghèo.
- Bảo đảm các quyền cơ bản của con người, giảm dần những bất bình đẳng và phân tầng xã hội.
- Khắc phục dần sự phát triển chênh lệch giữa các vùng, miền và khu vực.
- Kết hợp các chính sách bảo vệ môi trường với sử dụng tài nguyên hợp lý.
Chú thích:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 124.
2. Bosworth and Collins (2003). “The Empiric of Growth: An Updatet”. Brooking Panel on Economic Activity, September 4-5, 2003.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr.98.
Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa theo tinh thần Đại hội Đảng XI PGS.TS Lê Thị Lan
Viện Triết học, Viện KHXHVN
Giai đoạn 2011-2020 được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI xác định là giai đoạn bản lề, xác lập xong những nền tảng cơ bản để Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại hóa1. Trên cơ sở định hướng phát triển đất nước như vậy, Đại hội XI của Đảng đã thảo luận và đưa ra quyết nghị về nhiều vấn đề lý luận chiến lược như về tính tất yếu và những điều kiện của sự quá độ lên CNXH, về những mục tiêu cơ bản sau khi kết thúc thời kỳ quá độ, về nội dung các mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị, văn hóa, xã hội trong thời kỳ quá độ... Trong đó, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa là một phương diện được Đại hội quan tâm.
1. Tăng trưởng kinh tế: một số khía cạnh
- Tăng trưởng kinh tế là nhiệm vụ và mục tiêu số một của thời kỳ quá độ.
Tăng trưởng kinh tế là kết quả cụ thể của quá trình tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là một chỉ số quan trọng hàng đầu của phát triển. Trong giai đoạn 2001-2010, tăng trưởng kinh tế hàng năm của Việt Nam đạt tốc độ bình quân là 7,26%. Sự tăng trưởng này đã tạo ra một diện mạo mới về thế và lực của Việt Nam trên trường quốc tế, tạo đà cho Việt Nam tiếp tục xác định con đường phát triển và thực hiện các mục tiêu về kinh tế trong giai đoạn 2011-2020. Mục tiêu tổng quát về kinh tế đến 2020 là Việt Nam ''cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại''. Mục tiêu này được cụ thể hóa thành chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế là ''Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân 7-8%/năm”2. Như vậy, chỉ tiêu tăng trưởng mà Đại hội đặt ra trên cơ sở phân tích tình hình đất nước và bối cảnh quốc tế đã phản ánh quyết tâm duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế mà Việt Nam đã đạt được trong giai đoạn 2001-2010. Đây thực sự là một thách thức về lãnh đạo kinh tế của Đảng trong giai đoạn mới3.
- Yếu tố quyết định trong tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2011-2020:
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI xác định yếu tố quan trọng nhất cần phải phấn đấu đạt được nhằm đảm bảo cho tăng trưởng kinh tế giai đoạn mới là xây dựng cơ cấu kinh tế công nghiệp- nông nghiệp- dịch vụ hiện đại và hiệu quả trên cơ sở nền tảng là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ''Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ và hiện đại là tiền đề quan trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô''4. Thế chế kinh tế thị trường đồng bộ và hiện đại là thể chế được xây dựng dựa trên các quy luật của nên kinh tế thị trường hiện đại, đảm bảo để các quy luật kinh tế thị trường được vận hành theo đúng bản chất của chúng và phát huy hiệu quả. Đây cũng là một thách thức lớn đối với tài năng lãnh đạo của Đảng trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt Nam còn hết sức sơ khai và kinh nghiệm quản lý nền kinh tế thị trường của Việt Nam còn vô cùng non nớt, đặc biệt là đối với thể chế kinh tế thị trường hiện đại là đối tượng mà nhận thức của chúng ta còn chưa đầy đủ. Mặc dù những khó khăn to lớn đó, phương hướng chiến lược được xác định trong Đại hội về việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ và hiện đại chính là chìa khóa quyết định cho việc đạt được chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế. Điều này đã cho thấy nhận thực và tầm nhìn xa rộng cũng như quyết tâm của Đảng đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp hiện đại vào 10 năm tới.
- Điều kiện tổ chức thắng lợi việc thực hiện chiến lược tăng trưởng kinh tế
Đặt ra mục tiêu tăng trưởng kinh tế, xây dựng chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế cụ thể căn cứ trên thực tiễn nền kinh tế đất nước, xác định yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định tới sự tăng trưởng kinh tế, Đại hội Đảng XI khẳng định việc ''thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020 là nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành từ trung ương đến cơ sở”5. Đó là sự khẳng định sức mạnh đoàn kết và trách nhiệm công dân của toàn thể nhân dân đối với tiến trình phát triển đất nước giai đoạn 2011-2020. Việc đặt ra mục tiêu tăng trưởng kinh tế và thể hiện mục tiêu đó phải là sự thống nhất ý chí và hành động của cả các cấp lãnh đạo của Đảng và toàn thể dân tộc trên cơ sở nhận thức, quán triệt và hướng tới các lợi ích chung của đất nước. Toàn thể dân tộc như một cơ thể những nỗ lực hành động dưới sự chỉ huy của bộ não điều hành là Đảng Cộng sản. Có như vậy, chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế mới có thể thực hiện được và mỗi người dân, mỗi nhóm lợi ích và toàn thể dân tộc sẽ được hưởng lợi từ kết quả tăng trưởng chung của nền kinh tế. Chính vì vậy, việc tổ chức thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội nói chung, thực hiện chỉ tiêu tăng trường kinh tế nói riêng phụ thuộc hoàn toàn vào việc đảng viên các cấp, các ngành quán triệt tinh thần và nội dung của chiến lược mà Đại hội đã thông qua, từ đó khơi dậy niềm cộng thức về lợi ích chung của dân tộc trong toàn thể các nhóm xã hội và hướng dẫn quá trình thực hiện các nội dung của chiến lược. Văn kiện Đại hội Đảng nhấn mạnh tới điều kiện tiên quyết cho thành công của chiến lược tăng trưởng kinh tế là sự thống nhất nhận thức và hành động trong triển khai thực hiện chiến lược này.
2- Phát triển văn hóa và tăng trưởng kinh tế
- Phát triển văn hóa là mục tiêu và kết quả của tăng trưởng kinh tế.
Mục tiêu tăng trưởng kinh tế luôn đi kèm với mục tiêu phát triển văn hóa là nhận thức thống nhất và quán triệt của Đại hội Đảng XI, được phản ánh hết sức rõ ràng, nhất quán với quan điểm về phát triển trong Văn kiện Đại hội.
Tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa là những tiêu chí của phát triển. Mặc dù coi tăng trưởng kinh tế là mục tiêu số một của phát triển nhưng quan điểm của Đảng chỉ rõ đó không phải là tiêu chí duy nhất, lại càng không phải là mục tiêu duy nhất. Tiếp tục nhận thức đã được quán triệt trong Nghị quyết Trung ương V khóa VIII về vai trò của văn hóa là động lực và mục tiêu trong xây dựng và phát triển xã hội hiện đại để đạt tới một xã hội phát triển bền vững và hài hòa, văn kiện Đại hội XI đã tái khẳng định mục tiêu chủ yếu về phát triển văn hóa trong mục ''Mục tiêu chiến lược và khâu đột phá'' là ''Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc''6. Mục tiêu này được đưa thành định hướng chiến lược thứ 7 gắn kết chặt chẽ với phát triển kinh tế là ''Phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế”7.
- Văn hóa là một động lực phát triển kinh tế.
Nhận thức ''văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là một động lực phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập quốc tế'', Đảng chủ trương ''phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu những tinh hóa văn hóa nhân loại, xử lý tốt mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa”8. Đây là định hướng cơ bản nhất cho phát triển văn hóa giai đoạn 2011-2020 được xây dựng trên cơ sở nhận thức đúng đắn và hiện đại của Đảng về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, về xây dựng một xã hội phát triển bền vững. Tăng trưởng kinh tế dưới ánh sáng mới của quan điểm về phát triển không đơn thuần chỉ còn là sự gia tăng của những chỉ số kinh tế mà bao gồm các chỉ số tăng trưởng của văn hóa. Văn hóa trong quan hệ với kinh tế, trên phương diện nhất định, được coi là một khía cạnh của kinh tế. Nói cách khác, khía cạnh kinh tế của văn hóa được chú trọng khai thác, mở rộng và phát triển trở thành một thành tố của phát triển kinh tế. Khi kinh tế phát triển, chất lượng sống của người dân được cải thiện. Nhu cầu hưởng thụ vật chất được nâng cao dẫn tới nhu cầu hưởng thụ ngày càng cao hơn về văn hóa. Chính vì vậy, đây là một động lực cho phát triển kinh tế- xã hội. Đến lượt mình, sự phát triển văn hóa trên phương diện kinh tế không chỉ tạo ra các sản phẩm tinh thần nâng cao chất lượng sống cho người dân mà còn tạo ra nguồn lực tài chính đóng góp trực tiếp vào các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế, tạo nên một vòng xoáy trôn ốc ngày càng cao và ngày càng rộng mở của sự phát triển đồng bộ kinh tế- văn hóa- xã hội. Đó chính là mối quan hệ biện chứng của tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa trên cơ sở định hướng và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai lĩnh vực này của phát triển.
Tăng trưởng kinh tế làm tiền đề và kích thích phát triển văn hóa và đến lượt văn hóa tạo ra những sân chơi và giá trị để kinh tế tiếp tục tăng trưởng. Với ý nghĩa đó, quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa là mối quan hệ hữu cơ, tạo tiền đề cho nhau và là một thể thống nhất của sự phát triển bền vững. Quán triệt tầm quan trọng của sự gắn kết thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, Nghị quyết Đại hội XI đã đưa ra những phương châm căn bản và cụ thể cho chiến lược phát triển văn hóa 10 năm tới như: ''xây dựng đời sống văn hóa và môi trường văn hóa “lành mạnh'', ''khuyến khích tự do sáng tạo trong hoạt động văn hóa- văn học nghệ thuật'', ''Xây dựng và nâng cấp đồng bộ hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao''9..
Kết luận:
Tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa là hai mặt thống nhất căn bản cần phải đạt được để đảm bảo quá trình phát triển bền vững của dân tộc là nhận thức mà Đảng ta quán triệt trong Đại hội XI. Trong mỗi giai đoạn cụ thể, tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa luôn phải gắn kết hài hòa. Nền kinh tế phát triển nóng, với chỉ số tăng trưởng cao mà không đi kèm với việc đạt tới những tiêu chí phát triển tương ứng về văn hóa sẽ không đảm bảo cho sự bền vững của tăng trưởng kinh tế nói riêng, của phát triển xã hội nói chung.
Ngược lại, phát triển văn hóa, nâng cao mức thụ hưởng văn hóa của người dân vượt quá mức tích lũy do tăng trưởng kinh tế tạo ra sẽ dẫn tới nguy cơ lệ thuộc về kinh tế, từ đó dẫn tới sự lệ thuộc về tinh thần. Sự phát triển văn hóa tách rời tăng trưởng kinh tế như vậy là không bền vững và cũng sẽ dẫn tới những nguy cơ của sự kém phát triển. Như vậy, việc xác định các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa một cách khoa học, tương thích với những tiền đề kinh tế, văn hóa đã có phù hợp với xu hướng vận động của thế giới và việc lãnh đạo, hướng dẫn, tổ chức thực hiện thành công các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế và văn hóa đã đặt ra là hai nội dung quan trọng mà văn kiện Đại hội Đảng XI đã đặt ra, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững. Vấn đề còn lại là sự cụ thể hóa sự lãnh đạo của Đảng vào những lĩnh vực đã xác định, là khơi dậy ý chí, quyết tâm, sức mạnh của toàn dân phấn đấu đạt được các chỉ tiêu kinh tế, văn hóa đã đặt ra và kết quả cuối cùng như là thành tựu thống nhất của Đảng và nhân dân vì sự phát triển bền vững của dân tộc.
___________
1. Báo cáo chính trị của BCH TW Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.148.
2. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Sđd, tr.103.
3. Việt Nam đang dần thoát khỏi danh sách những nước nghèo và gia nhập vào những nước phát triển trung bình thì những ưu đãi và hỗ trợ về tài chính cảu các tổ chức kinh tế tài chính thế giới như World Bank, UNDP, IMF… sẽ không còn được như giai đoạn trước. Tháng 5-2011, Việt Nam đánh giá tốt độ tăng GDP cả năm sẽ chỉ ở mức 6,5%, thậm chí là 6% thấp hơn nhiều so với mục tiêu 7-7,5% đặt ra cho năm 2011.
4. Văn kiện ĐH XI, Sđd, tr.108.
5. Văn kiện ĐH XI, Sđd, tr.146.
6. Văn kiện ĐH XI, Sđd, tr.105.
7. Văn kiện ĐH XI, Sđd, tr.124.
8. Văn kiện ĐH XI, Sđd, tr.126.
9. Văn kiện ĐH XI, Sđd, tr.126-127.
Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong thời kỳ quá độ ở nước ta hiện nay PGS.TS Nguyễn Đình Tường
Viện Triết học – Viện KHXHVN
Phát triển bền vững là nhu cầu cấp bách và xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển của xã hội loài người, vì vậy đã được các quốc gia trên thế giới nhất trí xây dựng thành chương trình nghị sự cho từng thời kỳ phát triển của lịch sử. Khái niệm phát triển bền vững có nội hàm rất rộng, mỗi thành tố trong nó đều có mặt ý nghĩa riêng. Nhìn chung đây là quá trình phải đảm bảo có sự kết hợp chặt chẽ, hài hoà giữa các mặt của sự phát triển: kinh tế, xã hội, môi trường, văn hoá, chính trị....
Ở Việt Nam quan điểm phát triển bền vững đã được nhận thức rất sớm và thể hiện trong nhiều chủ trương nghị quyết của Đảng. Đại hội VII thông qua chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 1991-2000, nhấn mạnh “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hoá, bảo vệ môi trường”. Đại hội VIII nêu bài học “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái”... Phát triển bền vững đã trở thành đường lối, quan điểm của Đảng và chính sách của nhà nước trong sự phát triển của đất nước.
Bài viết này nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong thời kỳ quá độ ở nước ta. Luận điểm về sự kết hợp hài hoà, hợp lý giữa 3 lĩnh vực nêu trên là điều kiện quan trọng để phát triển toàn diện và bền vững đất nước. Trong đó nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, nhiệm vụ xây dựng văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, còn nhiệm vụ thực tiễn tiến bộ và công bằng xã hội là động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội.
Vấn đề phát triển bền vững trong văn kiện Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được khái quát: Mười năm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội (2001-2010) ở nước ta đã đạt những thành tựu to lớn và rất quan trọng. Những thành tựu của 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước cũng to lớn và có ý nghĩa lịch sử, đã đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Tuy vậy, sự phát triển về mọi mặt của nước ta chưa bền vững, cả về kinh tế, văn hoá-xã hội và bảo vệ môi trường.
Có thể khẳng định rằng, ba nhiệm vụ trên là thuộc về ba lĩnh vực của đời sống xã hội là kinh tế, văn hoá và xã hội. Các lĩnh vực này luôn kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hoà với nhau. Để hiện thực hoá quan điểm phát triển nhanh và bền vững cần phải nhận thức và thực hiện một trong những giải pháp được đưa ra trong văn kiện Đại hội X của Đảng: Phát triển các lĩnh vực văn hoá, xã hội hài hoà với phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển.
Bảo đảm tốc độ tăng trưởng cao, ổn định và không ngừng nâng cao chất lượng tăng trưởng là yếu tố quyết định nhất để đất nước ta phát triển nhanh và bền vững. Có đạt được tốc độ tăng trưởng cao, đất nước mới phát triển nhanh, thu hẹp khoảng cách với các nước, mới tạo được nguồn lực để phát triển các lĩnh vực xã hội, phát triển con người. Tăng trưởng kinh tế nhằm đảm bảo và nâng cao đời sống vật chất cho nhân dân. Khi đời sống vật chất được đảm bảo thì những nhu cầu về văn hoá tinh thần cũng tăng lên theo. Nếu đời sống vật chất không được đảm bảo thì tất yếu các nhu cầu tinh thần, đời sống văn hoá cùng bị hạn chế theo. Hơn nữa tăng trưởng kinh tế mới có điều kiện đầu tư phát triển những khu vực khó khăn, rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các vùng trong nước, mở rộng hệ thống phúc lợi và an sinh xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Cho nên nhiệm vụ xoá đói giảm nghèo, đặc biệt ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng các dân tộc thiểu số là điều kiện quan trọng nhất để xây dựng, phát triển văn hoá thống nhất và đa dạng ở nước ta trong thời kỳ quá độ. Đồng thời đời sống văn hoá ở các khu công nghiệp mới cũng cần được quan tâm và ưu tiên. Thực tế cho thấy rằng, điều kiện ăn ở của công nhân mà chủ yếu là của nhũng người nhập cư từ các vùng nông thôn nghèo còn thấp kém. Điều đó muốn nói lên rằng, kinh tế khu công nghiệp phát triển, nhưng đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của người công nhân vẫn còn hoàn toàn chưa tương xứng. Mặc dầu tăng trưởng kinh tế ở nước ta trong thời gian qua đã đạt được những thành tựu to lớn, nhưng tăng trưởng kinh tế chủ yếu diễn ra theo chiều rộng, nghĩa là dựa vào khai thác tài nguyên, đất đai, lao động giá rẻ, gia công hay giá trị công nghệ thấp... thì chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh và năng suất lao động thấp dẫn đến thâm hụt ngân sách, lạm phát, tiền lương thực tế bị giảm sút. Chính tình trạng này sẽ gây cản trở, kìm hãm cho việc cải thiện và nâng cao đời sống văn hoá cho người dân.
Như vậy, chỉ trên cơ sở tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng và chiều sâu nghĩa là một nền kinh tế phát triển bền vững với mục tiêu là phục vụ cho ích của nhân dân, không tạo ra khoảng cách giàu nghèo quá lớn, môi trường sinh thái được bảo đảm thì mới có thể xây dựng và phát triển được văn hóa với tư cách là nền tảng tinh thần của xã hội, mới thực hiện được tiến bộ và công bằng xã hội. Trong điều kiện kinh tế tăng trưởng không phù hợp với phát triển bền vững thì văn hoá sẽ không thực hiện được vai trò là nền tảng tinh thần của xã hội, đồng thời cũng sẽ không thực hiện có hiệu quả tiến bộ và công bằng xã hội, không bảo đảm an sinh xã hội.
Tăng trưởng kinh tế, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong thời kỳ quá độ đòi hỏi phải phát triển văn hoá, vì đời sống của người dân không thể coi là tốt đẹp nếu thiếu đi một nền văn hoá phát triển bền vững. Bản thân văn hoá là một lĩnh vực có nội hàm phong phú, đa dạng về cách tiếp cận. Lĩnh vực văn hoá bao hàm bảo tồn di sản (vật thể và phi vật thể), văn học nghệ thuật, thông tin đại chúng, xuất bản báo chí, văn hoá các dân tộc thiểu số, giao lưu văn hoá quốc tế... Lĩnh vực văn hoá hiểu theo nghĩa rộng như trên là bao hàm những nội dung gắn bó mật thiết với kinh tế, chính trị, xã hội bao gồm cả thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội thì mới có thể thực hiện được vai trò nền tảng tinh thần của xã hội. Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực cho sự phát triển bền vững trong đó có cả tăng trưởng kinh tế, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Văn hoá làm nên nguồn lực xã hội to lớn, thấm sâu vào quá trình phát triển. Giá trị kinh tế có thể tăng lên nhờ giá trị văn hoá, hơn nữa vốn văn hoá giúp ta hiểu sâu hơn về khái niệm tính bền vững của phát triển. Trên nền tảng văn hoá, con người không chỉ giải quyết mối quan hệ giữa con người với nhau, ứng xử với môi trường sinh thái trong đời sống hiện tại mà còn giải quyết mối quan hệ với các thế hệ tương lai trong quá trình phát triển. Ở nước ta trong thời gian qua văn hoá phát triển chưa phù hợp với tăng trưởng kinh tế. Môi trường văn hoá bị xâm hại, lai căng, thiếu lành mạnh, trái với thuần phong mỹ tục. Tệ nạn thanh nhũng, quan liêu, các tệ nạn xã hội, tội phạm và sự xâm nhập của các sản phẩm, dịch vụ độc hại làm suy đồi đạo đức, nhất là trong thanh, thiếu niên rất đáng lo ngại. Từ đây, nhiều chuẩn mực, giá trị văn hoá - đạo đức bị đảo lộn, đánh tráo. Chính điều này đã làm xói mòn nền tảng tinh thần, nền tảng đạo đức của xã hội dẫn đến tình trạng sa sút, xuống cấp của văn hoá và không thể có được một đời sống văn hoá tinh thần lành mạnh đóng vai trò là nền tảng tinh thần của xã hội. Với ý nghĩa này văn hoá không chỉ là kết quả của sự tăng trưởng kinh tế của phát triển bền vững mà nó còn là yếu tố tạo nên sự tăng trưởng kinh tế, phát triển bền vững. Cho nên phải đặt nhiệm vụ phát triển văn hoá ngang tầm và hài hoà với phát triển kinh tế nhất là tăng trưởng kinh tế, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Củng cố và tiếp tục xây dựng đời sống, lối sống và môi trường văn hoá lành mạnh. Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hoá, vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại để văn hoá thực sự đóng vai trò là nền tảng tinh thần của xã hội, và động lực cho sự phát triển bền vững của đất nước trong thời kỳ quá độ.
Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là nhiệm vụ rất quan trọng của tăng trưởng kinh tế bền vững và phát triển văn hoá bền vững, nghĩa là một lĩnh vực rất quan trọng của phát triển bền vững của nước ta trong thời kỳ quá độ. Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là tiêu chuẩn thể hiện bản chất của chế độ ta. Thực tế cho thấy rằng, chính sự bất bình đẳng và phân hoá giàu nghèo ở mức cao tạo nên sự xung đột xã hội ở không ít các quốc gia, dân tộc trên thế giới làm suy giảm tăng trưởng kinh tế và tha hoá đời sống văn hoá tinh thần. Với lý do này, Đảng ta chủ trương phải thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và chính sách phát triển. Chúng ta phải hết sức quan tâm giải quyết việc làm và thu nhập cho người lao động, đặc biệt là nông dân. Khắc phục những bất hợp lý về tiền lương, trợ cấp xã hội. Đặc biệt là tập trung hơn cho nhiệm vụ xoá đói giảm nghèo, đa dạng hoá các nguồn lực và phương thức để thực hiện giảm nghèo bền vững. Đồng thời bảo đảm an sinh xã hội, hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp và cứu trợ xã hội đa dạng, linh hoạt. Không ngừng nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ nhân dân cùng với việc đấu tranh phòng chống có hiệu quả tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông, phòng và chống tham những, lãng phí.
Như vậy, mối quan hệ giũa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong thời kỳ quá độ ở nước ta được thể hiện một cách hợp lý tưởng mối quan hệ biện chứng giữa phát triển các lĩnh vực văn hoá, xã hội hài hoà với phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển của Đảng và Nhà nước ta. Đây cũng là một trong những nhiệm vụ, giải pháp để hiện thực hoá quan điểm phát triển nhanh và bền vững trong Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011 -2020 của đất nước ta.
Phát triển kinh tế hài hòa với phát triển văn hóa, gắn với tiến bộ và công bằng xã hội - đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Đoàn Thị Bích Hiền
Tạp chí Cộng sản
l. Quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế hài hòa với phát triển văn hóa, gắn với tiến bộ và công bằng xã hội
1.1. Phát triển kinh tế hài hòa với phát triển văn hóa, gắn với tiến bộ và công bằng xã hội là yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Ngay tại Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943, Đảng ta đã nhận định: “văn hóa là một trong ba mặt trận mà người cộng sản phải quan tâm”. Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ - nhà văn hóa vĩ đại của dân tộc, cũng từng nhấn mạnh: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Đến Hội nghị Trung ương 5, Khóa VIII, Đảng ta khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội, vừa là động lực vừa là mục tiêu thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội”. Hội nghị Trung ương 10, Khóa IX tiếp tục phát triển: “Đảm bảo sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn đảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội; tạo nên sự phát triển đồng bộ cả ba lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định để bảo đảm cho sự phát triển toàn diện bền vững của đất nước”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ rõ: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”.
Như vậy, xuyên suốt các quan điểm của Đảng về vị trí, vai trò của văn hóa trong sự nghiệp cách mạng có thể khái quát mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa là:
- Văn hóa là động lực của phát triển. Văn hóa với tư cách là sức mạnh mềm - sức mạnh nội sinh, nền tảng tinh thần của một dân tộc, đóng vai trò to lớn thúc đẩy sự phát triển của cả dân tộc nói chung và của nền kinh tế nói riêng.
- Văn hóa là mục tiêu của phát triển kinh tế - xã hội. Đối với Việt Nam, mục đích tối cao của phát triển kinh tế - xã hội là nhằm phục vụ công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, công cuộc cách mạng giải phóng con người. Mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa, xét cho cùng, chính là để giải phóng những giá trị văn hóa tích cực nhất cho loài người. Mặt khác, phát triển kinh tế đồng thời giúp cho con người có nhiều cơ hội, khả năng tiếp nhận các giá trị văn hóa. Phát triển kinh tế nhằm mục tiêu văn hóa chính là “đặc sắc” của cách mạng xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Mục tiêu cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là: xã hội dân chủ, công bằng, văn minh - những kết quả, giá trị to lớn nhất của văn hóa. Cách mạng để giải phóng con người, để con người có thể tồn tại trong một xã hội ngày càng dân chủ, công bằng văn minh hơn. Đối với cách mạng nước ta, các giá trị kinh tế trước hết và tối cao nhất là để phục vụ cho con người đạt được các giá trị văn hóa, nhằm thực hiện tiến bộ và công bằng.
Công bằng xã hội là một khái niệm rộng bao gồm cả yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội sẽ có những định nghĩa riêng. Xét chung nhất, công bằng xã hội là sự công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, công bằng trong phân phối thu nhập, cơ hội phát triển... Một số công cụ để “đo” công bằng xã hội là: Chỉ số phát triển con người (HDI); Hệ số GINI; mức độ nghèo khổ; Mức độ thỏa mãn nhu cầu cơ bản của con người...
Tiến bộ xã hội là sự vận động phát triển của xã hội con người từ thấp lên cao; là sự phát triển của trình độ sản xuất, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất.
Mọi quan điểm của Đảng đều khẳng định phát triển kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội... Đại hội X của Đảng đã nêu: “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục..., giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội”. Đảng luôn khẳng định, giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại, làm tiền đề cho nhau cùng phát triển: Tăng trưởng kinh tế là điều kiện tiền đề để thực hiện công bằng xã hội thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội là động lực, điều kiện quan trọng có tác dụng thúc đẩy, bảo đảm tăng trưởng kinh tế cao, bền vững.
Sau 25 năm đổi mới, với những chứng minh trong thực tiễn về sự đúng đắn của con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam, chúng ta cũng đã tổng kết và làm rõ đặc điểm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, thành tố định hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện rõ nét bởi đặc điểm lớn: phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
1.2. Phát triển kinh tế hài hòa với phát triển văn hóa, gắn với tiến bộ và công bằng xã hội gắn với phát triển bền vững:
Thế giới ngày nay, sau sự sụp đổ của nhiều mô hình quản lý kinh tế với những cuộc khủng hoảng mang tính toàn cầu, với hàng loạt sự trả giá của con người do phát triển kinh tế không được đặt trong tổng thể gắn với văn hóa – môi trường sống, đã đặt ra cho nhân loại một bài toán mới: phát triển bền vững.
Khái niệm phát triển bền vững và quan điểm về phát triển bền vững đến nay còn có nhiều cách tiếp cận khác nhau tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia, khu vực. Nhưng, hiểu một cách chung nhất thì phát triển bền vững là một khái niệm nhằm định nghĩa một sự phát triển về mọi mặt trong hiện tại mà vẫn bảo đảm sự tiếp tục phát triển trong tương lai xa. Phát triển bền vững phải bảo đảm có sự phát triển kinh tế hiệu quả, xã hội công bằng và môi trường được bảo vệ, gìn giữ. Đối với Việt Nam, phát triển bền vững hiểu khái quát là sự cân bằng giữa 3 vấn đề: tăng trưởng - bảo vệ môi trường - bảo đảm an sinh xã hội.
Văn kiện Đại hội XI đã nêu quan điểm của Đảng về phát triển bền vững là:
- Coi chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là yêu cầu ưu tiên hàng đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức.
- Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống.
- Phát triển kinh tế - xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu.
Như vậy, trong quan điểm của Đảng, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là những điều kiện quan trọng để có sự phát triển bền vững. Phát triển bền vững là một tiêu chí không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
2. Tăng trưởng kinh tế gắn với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội Việt Nam thời gian qua
2.1. Nhũng thành quả đã đạt được
Thực tiễn trong những năm qua là những minh chứng rõ rệt nhất về quan điểm phát triển kinh tế nhằm mục tiêu phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội – một trong những tính chất cơ bản nhất để phân biệt mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với các mô hình kinh tế khác.
Giai đoạn 2001 - 2010, Việt Nam có tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt gần 7,3%/năm, thuộc nhóm nước có tốc độ tăng trưởng cao. GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt khoảng 1.200 USD, vượt qua ngưỡng nước đang phát triển có thu nhập thấp. Thu nhập thực tế bình quân đầu người 10 năm qua tăng khoảng 2,3 lần. Tổng sản phẩm trong nước năm 2010 tính theo giá thực tế ước đạt 106 tỷ USD, tăng gấp hai lần so với năm 2005. GDP bình quân đầu người từ khoảng 200 USD năm 1990 tăng lên l.200 USD năm 2010. Hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất gia tăng tích cực: Đóng góp của yếu tố vốn vào tăng trưởng GDP giảm từ 70% (giai đoạn kế hoạch 1991 - 1995) xuống còn khoảng 52% (giai đoạn 2006 - 2010); trong khi đó, đóng góp của yếu tố lao động vào tăng trưởng GDP tăng từ 16% lên khoảng 20% các giai đoạn tương ứng. Nền kinh tế đất nước tăng trưởng liên tục, hiệu quả quản lý nền kinh tế đất nước được nâng cao, vị trí kinh tế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao đáng kể.
Đi cùng với những thành tựu phát triển về kinh tế là những kết quả đáng ghi nhận về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển nền văn hóa. Dấu ấn nổi bật nhất là việc năm 2008, nước ta đã hoàn thành hầu hết các mục tiêu thiên niên kỷ đặt ra cho năm 2015.
- Dân chủ trong xã hội tiếp tục được mở rộng. Quốc phòng, an ninh được giữ vững, chính trị xã hội ổn định. Diện mạo của đất nước có nhiều thay đổi; thế và lực của nước ta vững mạnh thêm nhiều; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.
- Chỉ số phát triển con người (HDI – chỉ số đo sự tiến bộ trung bình của một nước về phát triển con người bao gồm tuổi thọ, trình độ dân trí và thu nhập GDP tính theo đầu người) ngày càng tăng cao. Mức hưởng thụ văn hoá, điều kiện tiếp cận thông tin của người dân được nâng lên rõ rệt. Hệ thống phúc lợi và an sinh xã hội được coi trọng và từng bước mở rộng. Bình đẳng giới có nhiều tiến bộ, tỷ lệ phụ nữ tham gia Quốc hội và giữ các trọng trách trong hệ thống chính trị ngày càng cao.
- Công cuộc xóa đói, giảm nghèo đạt nhiều thành tựu nổi bật. Chênh lệch thu nhập giữa thành thị và nông thôn giảm từ 2,3 lần năm 1999 xuống còn 2 lần năm 2008. Các Chương trình 135, 132 của Chính phủ đã giải quyết được tình trạng nghèo tuyệt đối ở các địa bàn nông thôn. Theo đó, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm rất ấn tượng trong 15 năm qua: từ 58,1% (năm 1993) xuống còn khoảng 11% (năm 2009).
- Về lao động và việc làm: Từ năm 1991 đến năm 2000, trung bình giải quyết lao động cho khoảng 1 - 1,2 triệu người/năm; giai đoạn 2001-2005 đạt khoảng 1,4 - 1,5 triệu người/năm; giai đoạn 2006-2010, tăng lên đến 1,6 triệu người/năm. Công tác dạy nghề đã đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo từ dưới 10% năm 1990 lên khoảng 40% năm 2010.
- Cùng với những kết quả lớn trong việc xã hội hoá phát triển các lĩnh vực xã hội, ngân sách nhà nước chi cho các lĩnh vực này không ngừng tăng lên; bảo hiểm y tế được mở rộng từ 13,4% dân số năm 2000 lên khoảng 62% năm 2010; 100% số xã có trạm y tế và 78% số xã có bác sĩ phụ trách. Ngân sách nhà nước đã bảo đảm được 78% chi phí cho giáo dục đào tạo toàn xã hội (đạt 20% ngân sách nhà nước) v.v.. Trẻ em được quan tâm bảo vệ, chăm sóc, tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm từ 33,8% xuống còn dưới 18%. Tuổi thọ bình quân tăng từ 67 lên 72 tuổi.
- Công tác bảo vệ môi trường được quan tâm và có nhiều mặt được cải thiện.
Một so sánh thú vị là: GDP bình quân đầu người của Việt Nam xếp 129 trên tổng số 182 nước được thống kê, còn HDI thì xếp thứ 116/182. Điều này cho thấy sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta có xu hướng phục vụ sự phát triển con người, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội khá hơn một số nước đang phát triển có GDP bình quân đầu người cao.
Việt Nam đã thực hiện sự phát triển kinh tế hướng vào con người, nhất là những người nghèo. Thực thi chiến lược phát triển toàn diện, cùng với việc đạt được chỉ tiêu tăng trưởng GDP cao, thì tất cả các chỉ tiêu về xã hội, môi trường có liên quan trực tiếp đến tăng trưởng và sử dụng kết quả của tăng trưởng đều hoàn thành và hoàn thành vượt mức. Các chỉ tiêu xã hội có xu hướng được cải thiện rõ rệt.
Sau gần 25 năm đổi mới, mối quan hệ giữa tăng trưỏng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở nước ta đã được giải quyết một cách khá hiệu quả. Các cơ hội phát triển được mở rộng cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư. Đời sống của đại bộ phận nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước.
2.2 Hạn chế và những tồn tại:
Tuy đã đạt được những thành tích đáng khích lệ nêu trên, nhưng tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng ở nước ta còn có những tồn tại, hạn chế, được nêu trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020: “Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng. Kinh tế phát triển chưa bền vững. Chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp, các cân đối kinh tế vĩ mô chưa vững chắc, cung ứng hiện chưa đáp ứng yêu cầu. Công tác quy hoạch, kế hoạch và việc huy động, sử dụng các nguồn lực còn hạn chế, kém hiệu quả, đầu tư còn dàn trải; quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nói chung còn nhiều yếu kém, việc thực hiện chức năng chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước còn bất cập. Tăng trưởng kinh tế vẫn dựa nhiều vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội có một số mặt yếu kém chậm được khắc phục, nhất là về giáo dục, đào tạo và y tế; đạo đức, lối sống trong một bộ phận xã hội xuống cấp. Môi trường ở nhiều nơi đang bị ô nhiễm nặng; tài nguyên, đất đai chưa được quản lý tốt, khai thác và sử dụng kém hiệu quả, chính sách đất đai có mặt chưa phù hợp. Thể chế kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng vẫn là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển. Nền tảng để Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa được hình thành đầy đủ. Vẫn đang tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định chính trị - xã hội và đe đọa chủ quyền quốc gia”.
10 năm qua, Việt Nam tuy là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong khu vực và thế giới, ngay cả khi kinh tế toàn cầu gặp khủng hoảng, nhưng tăng trưởng kinh tế Việt Nam vẫn chủ yếu theo chiều rộng, chất lượng tăng trưởng thấp. Thể hiện thông qua tình trạng hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực thấp, cấu trúc tăng trưởng bất hợp lý, năng lực cạnh tranh quốc gia kém và bất bình đẳng có xu hướng gia tăng. Bên cạnh đó là những nhức nhối về lạm phát, môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm... cũng khiến cho nhiều người lo lắng về chất lượng thực sự của sự tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
3. Đường lối, chiến lược, định hướng của Đảng về phát triển kinh tế hài hòa với phát triển văn hóa, gắn với tiến bộ và công bằng xã hội:
3.1. Về văn hóa, Đảng luôn chủ trương: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; con người phát triển toàn diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ pháp luật. Văn hóa là động lực, đóng góp trong mọi mặt của sức mạnh mềm, giúp kinh tế phát triển, trong đó trực tiếp nhất là giáo dục. Ngược lại, nền kinh tế của Việt Nam có đặc trưng lớn là phát triển nhằm mục đích nâng cao văn hóa cho nhân dân. Văn hóa vừa là động lực vừa là mục tiêu của tăng trưởng kinh tế; là một trong 3 nhiệm vụ lớn nhất của cách mạng Việt Nam, đồng thời với phát triển kinh tế và xây dựng đảng.
3.2. Chủ trương, đường lối của Đảng hiện nay thể hiện quan điểm phát triển kinh tế của Việt Nam là, tăng trưởng kinh tế là điều kiện vật chất bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, và tiến bộ, công bằng xã hội là động lực cho tăng trưởng kinh tế cao, ổn định; tăng trưởng kinh tế phải gắn với phát triển văn hóa, bảo đảm các quyền con người và bảo vệ môi trường. Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từ năm 2011 đến năm 2020 đã đề ra 5 quan điểm lớn:
- Thứ nhất, phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược.
- Thứ hai, đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- Thứ ba, mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển.
- Thứ tư, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ ngày càng cao; đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Thứ năm, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Như vậy, có thể thấy, xuyên suốt các quan điểm, đều thể hiện trực tiếp hoặc gián tiếp mục tiêu phát triển kinh tế hài hòa với phát triển văn hóa và gắn chặt với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Yêu cầu của đường lối làm tăng trưởng kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội phải được thực hiện trong toàn bộ quá trình và từng giai đoạn phát triển; thể hiện qua từng chính sách kinh tế lớn, nhỏ, trên phạm vi toàn quốc cho tới từng địa phương, các chính sách kinh tế gắn chặt với chính sách xã hội; mặt khác xây dựng các khung khổ, hành lang pháp lý tạo sự bình đẳng đối với các thành phần kinh tế; bảo đảm dân chủ trong xã hội...
Nhiều nhóm giải pháp đã được đưa ra trao đổi xung quanh vấn đề tăng trưởng kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, khái quát chung có thể nêu một số nhóm sau:
- Đẩy mạnh tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển dần sang phát triển kinh tế theo chiều sâu dựa trên nền kinh tế tri thức, nguồn nhân lực chất lượng cao.
- Đẩy mạnh việc chú trọng chất lượng thực sự của tăng trưởng kinh tế, không thể phát triển bằng mọi giá. Tăng trưởng kinh tế phải đặt trong mối quan hệ với chất lượng thực sự của phát triển đời sống, giảm thiểu tác động tới môi trường, sự suy thoái nguồn tài nguyên...
- Có quy hoạch, chiến lược cụ thể với việc phân bố các nguồn đầu tư giữa các vùng miền; giữa xây dựng các đầu tàu kinh tế với quan tâm tới phát triển ở các địa phương có vị thế kém hơn, nhất là vùng sâu, vùng xa...
- Tạo sự tiến bộ, công bằng trong “đầu vào”, “đầu ra” của nền kinh tế, từ tạo sự công bằng giữa các thành phần kinh tế tới việc phân phối kết quả lao động... Đấu tranh chống làm giàu phi pháp vì đây chính là sự nghiêm trọng nhất thể hiện thiếu công bằng và tiến bộ của phát triển nền kinh tế.
- Phát huy vai trò của các chính sách xã hội trong việc xây dựng một hệ thống phúc lợi xã hội nhằm bảo đảm sự hài hòa trong phân phối lợi ích do tăng trưởng kinh tế đem lại; hạn chế sự gia tăng khoảng cách giàu nghèo.
Như vậy, xuyên suốt các quan điểm của Đảng về vị trí, vai trò của văn hóa trong sự nghiệp cách mạng có thể khái quát mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa là:
- Văn hóa là động lực của phát triển. Văn hóa với tư cách là sức mạnh mềm, sức mạnh nội sinh, nền tảng tinh thần của một dân tộc, đóng vai trò to lớn thúc đẩy sự phát triển của cả dân tộc nói chung và của nền kinh tế nói riêng.
- Văn hóa là mục tiêu của phát triển kinh tế - xã hội. Đối với Việt Nam, mục đích tối cao của phát triển kinh tế - xã hội là nhằm phục vụ công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa - cuộc cách mạng giải phóng con người. Mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa, xét cho cùng, chính là để giải phóng những giá trị văn hóa tích cực nhất cho loài người. Mặt khác, phát triển kinh tế có nhiều cơ hội, khả năng tiếp nhận các giá trị đồng thời giúp cho con người có nhiều cơ hội, khả năng tiếp nhận các giá trị văn hóa. Phát triển kinh tế nhằm mục tiêu văn hóa chính là “đặc sắc” của cách mạng xã hội chủ nghĩa Việt Nam./.
Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong thời kỳ quá độ Phạm Xuân Nam
GS, TS, Viện Khoa học xã hội Việt Nam
Để có thể nhận thức đúng, đầy đủ ý nghĩa và tầm quan trọng của những chủ trương, quan điểm và chính sách mới do Đại hội XI của Đảng đề ra nhằm giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong giai đoạn hiện nay của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, trước hết chúng ta cần nhìn lại – dù chỉ trên những nét đại quát nhất – những vấn đề có liên quan ở giai đoạn vừa qua.
1. Thành tựu và hạn chế của tư duy lý luận và hành động thực tiễn đối với việc giải quyết mối quan hệ nêu trên trong giai đoạn 1986 - 2010
Hơn 25 năm qua, kể từ sau Đại hội VI của Đảng (năm 1986), tiến trình đổi mới toàn diện đất nước ngày càng đi vào chiều sâu. Trước những vấn đề mới nảy sinh từ cuộc sống, Đảng ta đã rất coi trọng phát triển tư duy lý luận trên cơ sở tổng kết thực tiễn trong nước, đồng thời mở rộng tầm nhìn ra bên ngoài, chú ý tham khảo kinh nghiệm của thế giới. Qua đó, các đại hội VII, VIII, IX, X của Đảng và nhiều hội nghị Trung ương thuộc các nhiệm kỳ đại hội ngày càng xác định rõ hơn mô hình kinh tế tổng quát, mục tiêu chung, cùng với hệ thống các chủ trương và quan điểm có ý nghĩa chỉ đạo việc giải quyết hàng loạt mối quan hệ cơ bản về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại…, bảo đảm cho sự thành công của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Riêng về mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa, xã hội, Đảng đã đề ra những chủ trương, quan điểm lớn có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn nổi bật sau:
- Kết hợp tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Đây là chủ trương và quan điểm có ý nghĩa bao trùm.
- Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xem văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
- Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu; phát triển giáo dục và đào tạo là nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo điều kiện để ai cũng được học hành.
- Khoa học và công nghệ cũng là quốc sách hàng đầu, là động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, từng bước phát triển kinh tế tri thức.
- Tôn trọng lợi ích chính đáng của người lao động và các chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội.
- Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân.
- Khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói, giảm nghèo; có chính sách hướng dẫn, hỗ trợ người nghèo vươn lên và phấn đấu trở thành khá giả.
- Thực hiện đồng bộ chính sách bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân, phấn đấu giảm tỷ lệ mắc bệnh, nâng cao thể lực, tăng tuổi thọ và phát triển giống nòi. Thực hiện công bằng xã hội trong chăm sóc sức khỏe đối với các tầng lớp dân cư, có chính sách trợ cấp và bảo hiểm y tế cho người nghèo.
- Trong các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, con người được đặt vào vị trí trung tâm, tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và phát huy tốt năng lực của mình...
Thực hiện những chủ trương và quan điểm nói trên của Đảng, Quốc hội và Chính phủ đã thể chế hóa thành hệ thống chính sách, luật pháp, các chương trình, dự án, kế hoạch cụ thể để đưa vào cuộc sống và đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Về kinh tế: Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đạt tốc độ tăng trưởng khá cao trong nhiều năm liền. GDP bình quân đầu người từ khoảng 200 USD năm 1990 tăng lên 1.168 USD năm 2010. Nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển.
Về văn hóa - xã hội: Các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thông tin - truyền thông… từng bước đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao của nhân dân. Giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo, thực hiện chính sách an sinh xã hội đạt kết quả tích cực. Đổi mới giáo dục thu được một số kết quả bước đầu. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng lên. Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ dần được đẩy mạnh. Công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân có tiến bộ. Chỉ số phát triển con người (HDI) không ngừng gia tăng: từ 0,561 năm 1985 lần lượt tăng lên 0,647 năm 1995; 0,715 năm 2005; 0,725 năm 2007...
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, mà chủ yếu là nguyên nhân chủ quan, sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của nước ta vẫn tồn tại nhiều hạn chế và yếu kém.
Tăng trưởng kinh tế vẫn dựa nhiều vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng, không kịp thời đổi mới nhận thức để sớm chuyển sang phát triển theo chiều sâu. Chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp.
Văn hóa phát triển chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế. Chất lượng giáo dục và đào tạo còn thấp, nguồn nhân lực được đào tạo ra chưa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Khoa học và công nghệ chưa thật sự trở thành động lực thúc đẩy công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và nhất là tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn còn cao. Xóa đói, giảm nghèo chưa bền vững, tình trạng tái nghèo còn nhiều. Khoảng cách chênh lệch giàu - nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa thành thị và nông thôn, miền xuôi và miền núi có xu hướng ngày càng doãng ra.
Trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe nhân dân, mạng lưới y tế tuy được mở rộng nhưng phân bố chưa hợp lý, chưa thuận tiện cho người dân. Cơ chế, chính sách bảo hiểm y tế, thu viện phí và khám, chữa bệnh cho người nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số còn không ít bất cập.
Bên cạnh đó, các tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp.
2. Chủ trương, quan điểm mới về việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội do Đại hội XI đề ra cho giai đoạn 2011 - 2020
Trên cơ sở đánh giá một cách khách quan, toàn diện thực trạng, tình hình đã qua, các văn kiện Đại hội XI của Đảng đã chú trọng kế thừa, đồng thời bổ sung, phát triển nhiều chủ trương, quan điểm mới để tiếp tục thực hiện tốt hơn việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội trong giai đoạn 2011 - 2020.
Những chủ trương, quan điểm và chính sách mới chủ yếu đó là:
1 - Kết hợp chặt chẽ, hợp lý giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách; phát triển hài hòa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, không ngừng nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội về ăn, ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh và nâng cao thể chất, gắn nghĩa vụ với quyền lợi, cống hiến với hưởng thụ, lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và cộng đồng xã hội.
2 - Đẩy mạnh xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển kinh tế - xã hội.
3 - Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội. Coi trọng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là đội ngũ lãnh đạo, quản lý giỏi; đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ, văn hóa đầu đàn; đội ngũ doanh nhân và lao động lành nghề. Tăng cường xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời.
4 - Phát triển mạnh khoa học, công nghệ làm động lực đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế tri thức; góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước; nâng cao tỷ lệ đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp vào quá trình tăng trưởng trong mô hình phát triển theo chiều sâu.
5 - Trên cơ sở đầu tư phát triển kinh tế, phải hết sức quan tâm tới yêu cầu chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội, tạo điều kiện giải quyết ngày càng nhiều việc làm cho người lao động, đặc biệt là cho nông dân. Có chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ tạo động lực để phát triển; điều tiết hợp lý thu nhập trong xã hội. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa nghèo bền vững; giảm dần tình trạng chênh lệch giàu - nghèo giữa các vùng, miền, các tầng lớp dân cư. Hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội.
6 - Chú ý nhiều hơn công tác y tế dự phòng và chăm sóc sức khỏe nhân dân. Củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế từ cơ sở, huyện, tỉnh đến Trung ương. Tăng đầu tư nhà nước đồng thời với đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động y tế. Phát triển mạnh công nghiệp dược; quản lý chặt chẽ thị trường thuốc chữa bệnh. Bảo đảm cho người có bảo hiểm y tế được khám, chữa bệnh thuận lợi; mọi công dân khi có nhu cầu và khả năng đều được đáp ứng dịch vụ y tế chất lượng cao.
3. Kiến nghị một số cơ chế, giải pháp
Như trên đã trình bày, các văn kiện Đại hội XI của Đảng đã đề ra nhiều chủ trương, quan điểm mới để tiếp tục giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong giai đoạn 2011 - 2020. Dưới đây xin nêu một số kiến nghị về cơ chế, giải pháp góp phần triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng xoay quanh mấy vấn đề chủ yếu sau:
Một là, quán triệt sâu sắc và thực hiện tốt hơn quan điểm kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Theo quan điểm đó, chúng ta không chờ kinh tế đạt đến trình độ phát triển cao mới phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không hy sinh văn hóa, hy sinh tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Muốn vậy, mỗi chính sách phát triển kinh tế đều phải hướng tới phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; mỗi chính sách phát triển văn hóa, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội đều phải góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, dù trực tiếp hay gián tiếp, trước mắt hoặc lâu dài. Bất cứ một sự sai sót hay thiên lệch nào trong hoạch định và thực thi các chính sách có liên quan đều sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đến mục tiêu này hay mục tiêu khác của kế hoạch phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, xã hội, thậm chí gây tác hại đến cả ba loại mục tiêu.
Hai là, đẩy mạnh quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, thực hiện mô hình tăng trưởng mới chủ yếu dựa trên nguồn nhân lực chất lượng cao. Bước vào giai đoạn 2011 - 2020, không thể tiếp tục kéo dài mô hình tăng trưởng theo chiều rộng vốn được áp dụng suốt mấy thập niên qua. Vì đây là mô hình tăng trưởng sử dụng nhiều vốn, công nghệ lạc hậu, với đa số lao động tay nghề thấp, chủ yếu làm gia công, lắp ráp, khai thác và bán rẻ tài nguyên thô hoặc sơ chế. Hệ quả là chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế không cao, thu nhập của một bộ phận đáng kể người lao động thấp, đời sống của họ gặp nhiều khó khăn. Do đó, đã đến lúc cần có cơ chế, chính sách và lộ trình thích hợp để tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển sang mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, với đa số lao động có trình độ học vấn và kỹ năng nghề nghiệp cao, có khả năng đi vào lĩnh vực thiết kế, chế tạo thuộc các ngành công nghệ mũi nhọn, làm ra sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Nhờ vậy mà nền kinh tế nước nhà tăng trưởng nhanh hơn, với chất lượng cao hơn và người lao động cũng có thu nhập xứng đáng để cải thiện đời sống vật chất và văn hóa của chính mình. Về thực chất, đây là giải pháp đưa các nhân tố văn hóa, tinh thần, nhân văn cùng các tiêu chí tiến bộ và công bằng xã hội chuyển nhập vào bên trong mô hình tăng trưởng mới của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Ba là, tạo cơ hội cho các loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được tiếp cận bình đẳng các yếu tố “đầu vào” của sản xuất, kinh doanh để cùng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đồng thời thực hiện tốt hơn tiến bộ và công bằng xã hội. Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định: Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Tuy nhiên, thời gian qua, các doanh nghiệp nhà nước vẫn thường được ưu tiên trong tiếp cận đất đai, tín dụng và các yếu tố “đầu vào” khác của sản xuất, kinh doanh. Nhưng hiệu quả làm ăn của nhiều doanh nghiệp nhà nước không tương xứng với những ưu ái mà Nhà nước dành cho họ. Chẳng những thế, không ít doanh nghiệp nhà nước còn làm ăn thua lỗ kéo dài. Trong khi đó, các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân - thành phần có tốc độ tăng trưởng cao nhất và tạo ra nhiều việc làm nhất - không phải bao giờ cũng được đối xử bình đẳng. Vì thế, sắp tới cần triệt để xóa bỏ cơ chế “xin - cho”, đặt tất cả các doanh nghiệp nhà nước vào môi trường cạnh tranh bình đẳng với các thành phần kinh tế khác trong cơ chế thị trường. Chỉ có như vậy mới kích thích các doanh nghiệp nhà nước vươn lên một cách lành mạnh, đồng thời sự phát triển của doanh nghiệp nhà nước mới không chèn lấn các nguồn lực để phát triển khu vực doanh nghiệp tư nhân - một động lực mạnh của tăng trưởng kinh tế gắn liền với mở rộng việc làm, yếu tố quan trọng của tiến bộ và công bằng xã hội.
Bốn là, đối với các kết quả “đầu ra” của quá trình sản xuất, kinh doanh, cần tiếp tục thực hiện nhất quán nguyên tắc phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào quá trình sản xuất, kinh doanh. Việc phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế được xem là chủ yếu vì chính lao động có năng suất, chất lượng và hiệu quả mới thực sự là nguồn gốc quan trọng nhất tạo ra mọi của cải cho xã hội. Nhưng trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, ngoài phân phối theo kết quả lao động, việc phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh cũng phải được coi là công bằng.
Năm là, trong việc đầu tư công cho phát triển đất nước, cần có quy hoạch và kế hoạch cụ thể để cân đối hợp lý mức đầu tư cho các vùng lãnh thổ khác nhau. Việc dành mức đầu tư cao hơn cho các vùng kinh tế động lực là rất cần thiết, nhằm tạo ra những “đầu tàu” tăng trưởng để kéo theo cả “đoàn tàu” kinh tế đi lên. Mặt khác, cần quan tâm đầu tư thỏa đáng cho các vùng khác, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhằm giảm dần khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, bảo đảm cho sự phát triển văn hóa - xã hội trên nguyên tắc tiến bộ và công bằng gắn liền với tăng trưởng kinh tế của tất cả các vùng, miền trong cả nước.
Sáu là, kết hợp hài hòa giữa việc phân phối lại thông qua điều tiết hợp lý thu nhập trong các tầng lớp dân cư với việc hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội. Theo chúng tôi, hệ thống đó bao gồm: Chính sách ưu đãi xã hội nhằm bảo đảm mức sống ít nhất trên trung bình đối với người có công; Chính sách bảo hiểm xã hội nhằm huy động sự tích góp một phần thu nhập của người lao động lúc bình thường để dành chi tiêu cho những lúc gặp khó khăn (thất nghiệp, bệnh tật, tuổi già…); Chính sách trợ cấp xã hội nhằm trợ giúp những người yếu thế và dễ bị tổn thương, như người tàn tật, người già cô đơn, trẻ em mồ côi lang thang, cơ nhỡ…; Chính sách cứu tế xã hội để cưu mang những người bị thiệt hại nặng do thiên tai, địch họa hoặc rủi ro trong cuộc sống; Chính sách tương trợ xã hội nhằm phát huy truyền thống tương thân tương ái, “lá lành đùm lá rách” trong cộng đồng để giúp nhau vượt qua khó khăn, xóa đói, giảm nghèo, cải thiện cuộc sống. nhằm cưu mang những người bị thiệt hại nặng do thiên tai, địch họa hoặc gặp rủi ro trong cuộc sống;
Việc thực hiện tốt hệ thống chính sách an sinh xã hội nhiều tầng nấc là thước đo quan trọng của một xã hội tiến bộ, công bằng, văn minh, đồng thời là nhân tố quan trọng khơi dậy tính tích cực, sự hăng hái của các tầng lớp nhân dân trong sản xuất, kinh doanh để thoát đói, vượt nghèo, vươn lên làm giàu cho bản thân và cho đất nước./.
Công nghiệp hóa theo hướng hiện đại và sự phát triển bền vững |
| GS, TS. Nguyễn Trọng Chuẩn Viện khoa học xã hội Việt Nam |
Kể từ khi Đảng ta đề ra đường lối công nghiệp hoá và lãnh đạo việc tiến hành công cuộc công nghiệp hoá trong thực tiễn đường lối đó nhằm đưa đất nước ra khỏi tình trạng một nước nông nghiệp lạc hậu và kém phát triển về công nghiệp tính đến nay đã tròn nửa thế kỷ.
Tuy nhiên, cuộc chiến tranh vô cùng ác liệt và kéo dài không những đã làm gián đoạn công cuộc công nghiệp hoá, mà bom đạn Mỹ còn phá huỷ hầu hết những gì mà nhân dân ta đã làm được trong thời kỳ hoà bình ở miền Bắc trước đó. Đồng thời, sau khi chiến tranh kết thúc, do nhiều nguyên nhân khác nhau, cả chủ quan lẫn khách quan, nên đất nước đã rơi vào tình trạng khủng hoảng nặng nề về kinh tế - xã hội. Hơn thế nữa, quan niệm cũ về công nghiệp hoá đã trở nên quá lạc hậu trước sự biến đổi mạnh mẽ của khoa học và công nghệ hiện đại.
Những thành tựu mà nhân dân ta thu được trong quá trình đổi mới, sự nhận thức mới về thời đại, về vai trò của khoa học, công nghệ và vai trò của con người trong phát triển kinh tế - xã hội đương đại, cũng như những khó khăn và cả những sai lầm khó tránh, v.v. đã được Đảng ta đúc kết thành những bài học có giá trị trong việc chỉ đạo công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Công nghiệp hoá theo hướng hiện đại được coi là nhiệm vụ trọng tâm để biến nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp trong khoảng vài chục năm. Sự đánh giá khách quan kinh nghiệm của các nước xung quanh nước ta đã công nghiệp hoá thành công đã góp phần giúp Đảng ta, qua các kỳ đại hội, đúc kết thành lý luận công nghiệp hoá đầy đủ hơn ở một đất nước kém phát triển trong điều kiện toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và kinh tế tri thức ngày càng đóng vai trò quan trọng.
Từ góc nhìn lịch sử có đầy đủ cơ sở để nói rằng, sự đánh giá về tính tất yếu, vị trí, vai trò, mục tiêu, định hướng phát triển hay nói chung là tầm quan trọng của công cuộc công nghiệp hoá đối với đất nước của Đảng ta là khá nhất quán và xuyên suốt. Tuy nhiên, do chủ quan, nóng vội, duy ý chí, bất chấp quy luật khách quan, và cả do sự hạn chế về trình độ nhận thức, cho nên trong một giai đoạn khá dài chúng ta đã xác định sai bước đi, ''trên thực tế đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết''1 đúng như Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12-1986) khẳng định.
Tại Đại hội lần thứ III (9-1960) Đảng coi “nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ ở miền Bắc nước ta là công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, mà mấu chốt là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng''2. “Vì vậy chủ trương của Đảng ta về công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là: xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, nhằm biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có công nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại”3. Chủ trương ''ưu tiên phát triển công nghiệp nặng'' đó của đại hội đã được đôn đốc thực thi ráo riết trong thực tế suốt hàng chục năm, tuy có đạt được một số kết quả khiêm tốn, song vì quá chú trọng đến quy mô, đến mặt lượng, đến nhanh, nhiều, rẻ mà không dựa vào khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới cho nên hiệu quả không cao, năng suất thấp, lãng phí nguyên vật liệu, sản phẩm kém chất lượng, đã đẩy cả nền kinh tế và xã hội vào rất nhiều khó khăn và kéo dài.
Đại hội lần thứ IV của Đảng (12-1976), khi đề ra đường lối để phát triển đất nước sau khi đã thống nhất, một mặt, tiếp tục khẳng định ''phải thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa'', mặt khác, đã có sự điều chỉnh nhất định, coi trọng hơn việc phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, cụ thể là ''ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ”4 nhưng về thực chất vẫn nặng về xây dựng và phát triển công nghiệp nặng, nghĩa là tư duy về nội dung công nghiệp hoá chưa có sự thay đổi căn bản. Cụ thể là phần lớn vốn đầu tư và viện trợ của nước ngoài đều được tập trung xây dựng các nhà máy có quy mô lớn trong khi lại lãng phí những cơ sở sản xuất sẵn có ở miền Nam trước đây với cách tổ chức, quản lý và công nghệ tiên tiến lại có cả thị trường quốc tế đã khá quen thuộc. Hơn thế nữa, trong thực tế, việc phát triển công nghiệp vẫn chưa trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
Đó cũng là lý do giải thích vì sao sau Đại hội lần thứ IV không những sản xuất không phát triển, lương thực, thực phẩm cùng với hàng tiêu dùng ngày càng thiếu thốn hơn mà điều đáng buồn nhất là đất nước bắt đầu rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội và ngày càng trở nên trầm trọng hơn. Trước tình thế đó, Đại hội lần thứ V (3-1982) khi đề cập đến “những nội dung chính của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường trước mắt” và những năm tiếp theo đã phải nhấn mạnh “cần tập trung phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng; kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý''5. Như vậy, có thể nói rằng, thực tế cuộc sống đã dần dần buộc chúng ta phải điều chỉnh quan niệm và nội dung công nghiệp hoá, song vẫn khẳng định việc tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng.
Nghị quyết Đại hội V, như Đại hội VI (12-1986) nhận định, đã không được thực hiện nghiêm chỉnh, ''nông nghiệp chưa thật sự được coi là mặt trận hàng đầu, không được bảo đảm những điều kiện cần thiết để phát triển... Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, kể cả tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, vẫn bị coi nhẹ về tổ chức, đầu tư, chính sách...; còn ham xây dựng nhiều công trình quy mô lớn''6. Vì vậy, Đại hội VI xác định, phải ''tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo'', nhưng trước hết ''phải tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện cho được ba chương trình mục tiêu về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu'', trong đó có ''vị trí hàng đầu của nông nghiệp”7.
Đại hội lần thứ VII của Đảng (6-1991) diễn ra trong điều kiện thế giới có nhiều biến động; các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô đã lần lượt theo nhau sụp đổ; chúng ta không còn những sự viện trợ và giúp đỡ vô tư, to lớn từ các nước xã hội chủ nghĩa nữa, do vậy, cũng không thể tiến hành công nghiệp hoá theo kiểu cũ nữa. Lần đầu tiên, Đại hội xác định, ''công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội''8. Đặc biệt, Đại hội khẳng định rằng, quan niệm mới về công nghiệp hoá theo hướng hiện đại ''đòi hỏi có chính sách công nghệ thích hợp, tận dụng được lợi thế của nước đi sau trong điều kiện mới của cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới''9. Tiến hành công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại là quan điểm rất mới vào thời điểm đó. Quan điểm đó đã bao hàm việc không tách rời công nghiệp hoá với hiện đại hoá, đồng thời phải tận dụng được những thành tựu, những tri thức mới nhất của khoa học và công nghệ hiện đại của thế giới.
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng (1-1994) tiếp tục coi công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm có tầm quan trọng hàng đầu, là con đường khả dĩ duy nhất có thể đưa đất nước thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn nữa so với các nước xung quanh, là cách thức để ổn định chính trị, xã hội, bảo vệ độc lập, giữ vững chủ quyền quốc gia và định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa. Hội nghị một lần nữa khẳng định, ''chúng ta tiến hành công nghiệp hoá không theo kiểu cũ, không lặp lại sai lầm nóng vội, chủ quan mà Đại hội VI đã phê phán. Công nghiệp hoá thực chất là xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đó không chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế, mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi mới căn bản về công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế quốc dân”10.
Như vậy, khái niệm công nghiệp hoá đã được bổ sung thêm những nội dung mới, không chỉ nhằm tăng tỷ trọng và tốc độ của sản xuất công nghiệp so với các ngành sản xuất khác, mà điều quan trọng là đổi mới căn bản về công nghệ, coi những công nghệ mới, tiên tiến là nền tảng của sự tăng trưởng nhanh nhằm nâng cao hiệu quả và, đặc biệt hơn nữa là, đã gắn công nghiệp hoá theo nội dung mới ấy với sự phát triển lâu bền của toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội. Việc gắn công nghiệp hoá với sự phát triển lâu bền, hay phát triển bền vững, là một sự thay đổi nhận thức rất quan trọng, là một bước ngoặt, trong việc xác định quan điểm phát triển; từ chỗ chỉ chú trọng đến GDP, đến tăng trưởng kinh tế đơn thuần sang việc chú trọng đến chất lượng tăng trưởng, sang việc duy trì các điều kiện cho sự phát triển tiếp theo trong tương lai.
Đại hội lần thứ VIII (6-1996) xác định ''mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”11, ra sức phấn đấu đến năm 2020 ''đưa nước ta cơ bản trở thành một nuớc công nghiệp''. Với 6 quan điểm và những nội dung cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trong đó đặc biệt coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn; chọn và tập trung vào một số ngành mũi nhọn đòi hỏi nhiều chất xám nhưng cần ít vốn; ưu tiên các ngành công nghiệp phục vụ nông nghiệp, chế biến lương thực - thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, công nghiệp điện tử, công nghệ thông tin; ngành khai thác và chế biến dầu - khí, du lịch12 khái niệm công nghiệp hoá đã được cụ thể hoá phù hợp với yêu cầu vừa sử dụng được thế mạnh sẵn có của nước ta, vừa đón nhận thời cơ đi vào các ngành cần được ưu tiên phát triển theo xu thế của thời đại.
Nhận thức mới, những điều kiện mới và những thành tựu thu được từ sau Đại hội VII là bước chuẩn bị, là cơ sở để Đại hội IX (4-2001) đưa ra quyết định quan trọng là ''đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá... nhằm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”13. Dứt khoát từ bỏ quan niệm công nghiệp hoá cổ điển là điều đã được khẳng định, nhưng để thành công với công nghiệp hoá theo quan niệm mới, để có thể rút ngắn được thời gian và khoảng cách với các nước đi trước, thì cần phải có nền tảng và động lực mới. Đại hội IX một lần nữa khẳng định, phải ''coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá''14; đồng thời yêu cầu ''công nghiệp hoá gắn với hiện đại hoá ngay từ đầu và trong suốt các giai đoạn phát triển. Nâng cao hàm lượng tri thức trong các nhân tố phát triển kinh tế - xã hội, tùng bước phát triển kinh tế tri thức ở nước ta”15 .
Muốn có sự phát triển bền vững trong suốt quá trình công nghiệp hoá thì tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, phải sử dụng tiết kiệm các nguồn tài nguyên thiên nhiên, phải bảo vệ và cải thiện được môi trường. Cho nên, phải ''chủ động gắn kết yêu cầu cải thiện môi trường trong mỗi quy hoạch, kế hoạch, chương trình và dự án phát triển kinh tế - xã hội, coi yêu cầu về môi trường là một tiêu chí quan trọng đánh giá các giải pháp phát triển”16. Cần lưu ý rằng, nếu như trước đây khi nói về phát triển kinh tế nói chung, xây dựng các cơ sở công nghiệp nói riêng, chúng ta cũng đã thường xuyên có nói đến việc chú ý bảo vệ môi trường nhưng dường như mới là nói về những phần việc riêng biệt, tách rời nhau thì tại đại hội này, yêu cầu gắn việc bảo vệ môi trường với quy hoạch phát triển kinh tế được coi là cơ sở, là giải pháp quan trọng để đánh giá tính đúng đắn, tính khoa học và tính khả thi của các giải pháp phát triển khi tiến hành công nghiệp hoá. Do vậy, Đại hội yêu cầu phải ''kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ và cải thiện môi trường theo hướng phát triển bền vững; tiến tới bảo đảm cho mọi người dân đều được sống trong môi trường có chất lượng tốt...''17.
Mục tiêu đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển nêu ra tại Đại hội lần thứ IX của Đảng được Đại hội lần thứ X (4-2006) coi là mục tiêu trực tiếp với sự bổ sung nhằm rút ngắn về mặt thời gian là ''sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”18. Trong điều kiện hiện nay, muốn sớm thực hiện được mục tiêu đó thì không có cách nào khác hơn là phải ''đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức”; ''phải coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá''; phải ''đẩy mạnh hơn nữa công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân”19.
Đối với nước ta, trong điều kiện hiện nay, phát triển kinh tế tri thức không có nghĩa gì khác hơn là thực hiện chiến lược công nghiệp hoá rút ngắn dựa vào tri thức, áp dụng thành công những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại vào tất cả các lĩnh vực sản xuất, kinh tế, tiết kiệm nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu bằng cách tăng hàm lượng tri thức trong các sản phẩm được sản xuất ra qua đó góp phần sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách hợp lý nhất và bảo vệ môi trường có hiệu quả nhất. Nói cách khác, công nghiệp hoá dựa vào tri thức có nhiệm vụ thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi mới căn bản về công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và lâu bền (bền vững) của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Tiếp thu, chắt lọc, phát triển tất cả những điểm hợp lý và quan trọng nhất của những luận điểm được các kỳ đại hội trước nêu lên, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển) được Đại hội lần thứ XI của Đảng thông qua ghi rõ: ''Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường”20. Đặc biệt, Đại hội XI đã bổ sung và làm sâu sắc thêm quan điểm phát triển bền vững, gắn phát triển bền vững với phát triển nhanh, coi phát triến bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược phát triển và trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đại hội khẳng định: ''Phát triển bền vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo nguồn lực cho phát triển bền vững. Phát triển nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế - xã hội''21.
Việc Đại hội XI nhấn mạnh đến sự phát triển bền vững mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội là phù hợp với tinh thần của thời đại, với sự nhận thức chung của các quốc gia và của loài người sau một giai đoạn dài do loài người lấy sự tăng trưởng kinh tế đơn thuần làm mục tiêu duy nhất nên đã dẫn đến không chỉ sự tàn phá thiên nhiên, huỷ hoại môi trường sống của chính con người, mà còn tạo ra bất công, sự bất bình đẳng giữa các quốc gia, các dân tộc, giữa người và người, giữa các thế hệ dân cư. Ngày nay, cần phải hiểu ''phát triển bền vững là sự phát triển kinh tế - xã hội lành mạnh, dựa trên việc sử dựng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường nhằm đáp ứng nhu cầu của thế hệ con người hiện nay và không ảnh hưởng bất lợi đối với các thế hệ tương lai trong việc thoả mãn các nhu cầu của họ''22.
Phát triển bền vững đó là sự phát triển kết hợp chặt chẽ được đồng thời ba mục tiêu: phát triển kinh tế nhanh; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, lấy chỉ số phát triển con người làm thước đo cao nhất của sự phát triển; bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường sống, khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm các nguồn tài nguyên thiên nhiên vừa nhằm thỏa mãn nhu cầu của hiện tại, vừa không làm tổn hại khả năng thỏa mãn nhu cầu của các thế hệ tương lai. Nói tóm lại, phát triển bền vững là sự phát triển xã hội có sự kết hợp hài hòa ba mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường. Cho nên, trong sự phát triển bền vững, Đảng ta yêu cầu ''tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hoà với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân”23, đồng thời ''gắn mục tiêu bảo vệ môi trường với phát triển kinh tế - xã hội''24.
Dễ dàng nhận thấy rằng, những yêu cầu được Đại hội nêu ra nhằm đạt được sự phát triển bền vững ở tất cả các lĩnh vực trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá theo hướng hiện đại là rất trúng, khá cụ thể và khoa học. Để thực hiện được các yêu cầu đó thì trước hết chúng ta phải nhìn thẳng vào sự thật, khắc phục những thiếu sót, những khuyết điểm, thậm chí cả những sai lầm đã mắc phải trong phát triển công nghiệp thời gian vừa qua, trong phát triển kinh tế nói chung, trong lĩnh vực khai thác, sử dụng đất đai, tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, đồng thời không để xảy ra những sai lầm mới.
Chúng ta không thể nào sớm thoát ra khỏi tình trạng lạc hậu, kém phát triển nếu như không tiến hành công nghiệp hoá theo hướng hiện đại; nếu như không chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ kinh tế nông nghiệp là chủ yếu sang kinh tế công nghiệp hiện đại và dịch vụ, đặc biệt là nếu như không từng bước chuyển sang và không mạnh dạn dựa vào nền kinh tế tri thức. Để phát triển các khu công nghiệp, dù là công nghiệp hiện đại dựa vào tri thức là chủ yếu, thì cũng không thể nào thiếu đất đai để xây dựng, nhưng đất đai lại có hạn, không thể đẻ ra được. Thế nhưng, vừa qua việc tính toán chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai ở nhiều nơi là khá tuỳ tiện, thậm chí là vô trách nhiệm, chỉ chạy theo mục tiêu kinh tế trước mắt đơn thuần, lãng phí rất lớn hoặc bị một số người lợi dụng danh nghĩa thu hút đầu tư, lợi dụng quyền lực, tranh thủ thời cơ liên kết với các nhà đầu tư để kiếm những khoản lời kếch sù bằng nhiều cách.
Chỉ tính trong vòng 5 năm, từ năm 2001 đến năm 2005, tổng diện tích đất nông nghiệp của cả nước đã bị thu hồi là vào khoảng 366.440 ha, tức là chiếm tới 3,89% tổng diện tích đất nông nghiệp hiện đang được sử dụng. Nếu tính bình quân thì mỗi năm trong khoảng thời gian 5 năm nói trên cả nước có tới 73.288 ha đất canh tác nông nghiệp bị thu hồi25, trong đó đất trồng lúa nước cũng đã giảm trong 5 năm đó là 7,6%26. Đáng tiếc là số đất nông nghiệp bị thu hồi ấy đã và đang được sử dụng khá lãng phí và không thật hiệu quả27. Nếu ai có dịp đi đến nhiều tỉnh, thành trong cả nước thì sẽ thấy tình trạng đất nông nghiệp bị thu hồi được bao rào xung quanh lại rồi để đấy cho cỏ mọc um tùm trong khi người nông dân không có đất để sản xuất không phải là hiếm. Điều đáng nói là ở chỗ, số đất bị thu hồi đó lại phần nhiều (tới 80%) là đất tốt mà nhân dân ta thường gọi là ''bờ xôi, ruộng mật'' cho 2 vụ lúa/năm với cơ sở hạ tầng thuỷ lợi và giao thông rất tốt. Đó là chưa kể đến việc một số địa phương trong cạnh tranh để thu hút vốn đầu tư nhằm tăng chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế đơn thuần cho địa phương mình nên đã ''chiều lòng'' các nhà đầu tư, đã ưu ái quá đáng cho các dự án lấy đất canh tác nông nghiệp không phải để phát triển công nghiệp mà là để xây dựng sân golf, nên có tỉnh tuy diện tích hạn hẹp nhưng đã có tới 3 sân golf! Đã có lúc quy hoạch sân golf 30 lỗ đe doạ nuôt đồng cỏ của trại bò giống Môncađa! Nếu cứ tiếp diễn tình trạng sử dụng đất canh tác với tốc độ và quy mô như những năm vừa qua cho các mục đích khác nhau ngoài mục đích nông nghiệp, mà không được tính toán một cách khoa học, cùng với sự biến động khó lường về thời tiết thì tình hình khó khăn về lương thực có lẽ không phải là điều không xảy ra. Một khi điều này trở thành sự thật thì sự ổn định xã hội sẽ bị đe doạ, mục tiêu phát triển bền vững vì vậy cũng khó lòng được đảm bảo.
Vấn nạn ô nhiễm môi trường sống do hậu quả của sự kém hiểu biết, sự thiếu cân nhắc và nhất là của sự thờ ơ, sự đùn đẩy, sự vô trách nhiệm và cả vì những cái lợi riêng, cái lợi cục bộ của một nhóm người đã hiển hiện. 35 năm trước, sau khi nghiên cứu thực tế, tôi đã nhận định rằng, ''khi xây dựng nhà máy, xí nghiệp chúng ta chưa chú ý đến việc bảo vệ môi trường, còn nặng tính chất tự phát, nặng về kinh tế đơn thuần chứ chưa có quy hoạch sinh thái. Trong nhận thức, ta chưa thấy rằng môi trường sống và thiên nhiên của chúng ta không chỉ thuộc về thế hệ hôm nay mà còn thuộc về nhiều thế hệ mai sau''28. Dù đã có những tiến bộ nhất định nhưng hiện giờ vẫn đang xảy ra tình trạng thế hệ hôm nay vay mượn và tiêu dùng quá mức được phép, quá nhiều các nguồn tài nguyên của thế hệ mai sau, nghĩa là ta đang có những việc làm đi ngược lại với quan điểm phát triển bền vững. Điều này dễ thấy nhất là với các tài nguyên trong lòng đất, với tài nguyên nước.
Cách làm chắp vá, thiếu quan điểm đồng bộ và thiếu quy hoạch tổng thể đã dẫn đến việc các khu công nghiệp, các cơ sở khai thác khoáng sản (cả được phép lẫn vô phép) đang làm ô nhiễm trầm trọng không khí, đất đai, các nguồn nước mặt và cả nước ngầm, làm đảo lộn hệ thống các công trình thuỷ lợi, thậm chí cả các công trình cấp nước sinh hoạt cho dân cư của cả một vùng rộng lớn.
Do tình trạng chắp vá, do thiếu quy hoạch tổng thể và lâu dài, do sự dễ dãi nhằm thu hút đầu tư về cho địa phương, lại không thật chặt chẽ trong việc xét duyệt hệ thống kỹ thuật và công nghệ xử lý các chất thải, cũng có thể do cả sự hạn chế về trình độ cho nên hiện nay, theo những đánh giá khác nhau, trên khắp cả nước số khu công nghiệp hoàn chỉnh và đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về tiêu chuẩn về môi trường là rất ít29. Tương tự như vậy, chúng ta đang thiếu điện nhưng lại tiếp nhận đầu tư quá nhiều nhà máy thép, từ đó không những dẫn đến chỗ điện càng thiếu thêm, mà còn làm cho môi trường càng ô nhiễm thêm.
Vụ Công ty bột ngọt Vedan đã giết chết sông Thị Vải và các vùng đất xưa nay được nó nuôi dưỡng chỉ là một trong rất nhiều vụ việc đang diễn ra mà thôi. Liệu còn có bao nhiêu con sông, bao nhiêu vùng đất có thể đang và sẽ chết như sông Thị Vải trên khắp cả nước nếu chúng ta cứ tiếp tục vì lợi ích cục bộ và trước mắt mà hạ thấp tiêu chuẩn môi trường, nếu các cấp có thẩm quyền không đủ cương quyết và cứ tiếp tục đùn đẩy trách nhiệm cho nhau như vừa qua?
Do Luật bảo vệ rừng không được thực thi nghiêm chỉnh, do quyết định cho phép chuyển cái gọi là các khu rừng nghèo kiệt (thật ra có khu không nghèo kiệt chút nào) đã bị lợi dụng và không được kiểm tra chặt chẽ mà chúng ta đang phải đối mặt với việc nhiều khu rừng, cả rừng nguyên sinh và rừng trồng, cả rừng đầu nguồn và rừng phòng hộ, bị triệt hạ vô tội vạ. Ngày càng có nhiều loại động vật và thực vật, do vậy, đã hoặc có nguy cơ bị tuyệt diệt. Cùng với nạn phá rừng, việc phát triển ồ ạt thuỷ điện, nhất là thuỷ điện nhỏ và vừa, nhưng không có báo cáo đánh giá và thẩm định khoa học tác động môi trường đang và chắc chắn sẽ gây hậu quả lớn là hạn hán, úng ngập và lũ lụt nặng.
Tất cả những hậu quả về môi trường đó rất có thể sẽ triệt tiêu những thành quả kinh tế và xã hội mà công cuộc phát triển mang lại. Rốt cuộc, sẽ không thể có phát triển và càng không thể có phát triền bền vững.
Thực hiện thành công công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; sử dụng tiết kiệm, hợp lý, bảo vệ tốt, tài nguyên thiên nhiên và môi trường cùng với sự phát triển mạnh mẽ kinh tế thị trường đúng định hướng xã hội chủ nghĩa; nói cách khác, sự kết hợp hài hòa, có hiệu quả ba mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường là những đảm bảo cho sự phát triển bền vững của đất nước, cho sự thành công của công cuộc xây dựng một xã hội văn minh với các tiêu chí dân chủ, tự do, công bằng, dân giàu, nước mạnh./.
___________
Công nghiệp hóa – hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ môi trường trong thời kỳ quá độ Nguyễn Thái Sơn
Tạp chí Cộng sản
Công nghiệp hóa - hiện đại hóa gắn với phát tiễn kinh tế tri thức
Từ Đại hội Đảng lần thứ III, Đảng ta luôn coi công nghiệp hóa (CNH) là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội (CNXH). Đảng ta xác định thực chất của CNH xã hội chủ nghĩa là ''Quyết tâm thực hiện cách mạng kỹ thuật, thực hiện phân công mới về lao động xã hội là quá trình tích lũy xã hội chủ nghĩa để không ngừng thực hiện tái sản xuất mở rộng''. Quan điểm này tiếp tục được các kỳ Đại hội Đảng tiếp theo củng cố và mở rộng.
CNH là một giai đoạn tất yếu của mỗi quốc gia. Đối với nước ta, từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, muốn tiến lên CNXH, nhất thiết phải trải qua CNH. Công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH-HĐH) giúp phát triển lực lượng sản xuất, làm thay đổi căn bản công nghệ sản xuất, tăng năng suất lao động. Đây là thời kỳ tạo tiền đề vật chất để không ngừng củng cố và tăng cường vai trò của kinh tế nhà nước trong điều tiết sản xuất và dẫn dắt thị trường. Đồng thời, CNH-HĐH là động lực phát triển kinh tế-xã hội, tạo điều kiện tăng cường củng cố an ninh-quốc phòng và là tiền đề cho việc xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, đủ sức tham gia một cách có hiệu quả vào sự phân công và hợp tác quốc tế.
Trong quá trình CNH-HĐH, nước ta có thuận lợi cơ bản là nước đi sau, có thể học hỏi được kinh nghiệm thành công của những nước đi trước và có cơ hội rút ngắn thời gian thực hiện quá trình này. Trước đây, nước Anh thực hiện CNH đầu tiên, phải mất 120 năm; nước Mỹ đi sau, chỉ mất 90 năm; sau nữa là Nhật Bản xuống còn 70 năm; và các nước công nghiệp mới (NICs) có hơn 30 năm. Việt Nam thực thực hiện quá trình này trong bối cảnh loài người đang bắt đầu chuyển sang phát triển kinh tế tri thức (KTTT), với sự bùng nổ của tự động hóa, công nghệ thông tin, công nghệ gen, công nghệ nano, công nghệ vật liệu mới... đúng như tiên đoán của C. Mác và Ph. Ăng-ghen từ giữa thế kỷ XIX: ''Tri thức sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp''. Đây chính là cơ hội lịch sử hiếm hoi mà thời đại tạo ra để các nước đi sau như Việt Nam rút ngắn khoảng cách và đuổi kịp các nước đi trước. Việc chuyển nền kinh nước ta sang hướng phát triển dựa vào tri thức trở thành yêu cầu cấp thiết không thể trì hoãn.
Chính vì thế, tại Đại hội lần thứ IX, lần đầu tiên, Đảng ta đã ghi vào văn kiện luận điểm quan trọng về phát triển KTTT ''Đi nhanh vào công nghệ hiện đại ở những ngành và lĩnh vực then chốt để tạo bước nhảy vọt về công nghệ và kinh tế, tạo tốc độ tăng trưởng vượt trội ở những sản phẩm và dịch vụ chủ lực. Công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa ngay từ đầu và trong suốt các giai đoạn phát triển. Nâng cao hàm lượng tri thức trong các nhân tố phát triển kinh tế- xã hội, từng bước phát triển KTTT ở nước ta''. Tới Đại hội X, việc phát triển KTTT được thể hiện rõ với tư cách là một yếu tố cấu thành đường lối CNH-HĐH đất nước: ''Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình CNH-HĐH đất nước theo định hướng XHCN gắn với phát triển KTTT, coi KTTT là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và CNH-HĐH. Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức; kết hợp việc sử dụng vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại”. Và Đại hội XI, với định hướng chiến lược cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng, sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững, Đảng ta tiếp tục khẳng định: ''phát triển mạnh khoa học, công nghệ làm động lực đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển KTTT, góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước”.
Từ một nền kinh tế nông nghiệp đi lên CNXH, trong bối cảnh toàn cầu hóa, chúng ta phải tiến thành đồng thời hai quá trình: Chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp (CNH-HĐH); chuyển từ kinh tế nông-công nghiệp lên KTTT. Trong khi ở các nước đi trước, đó là hai quá trình kế tiếp nhau, thì ở nước ta, tận dụng cơ hội là nước đi sau, hai quá trình này được lồng ghép với nhau, kết hợp các bước đi tuần tự với các bước phát triển nhảy vọt, tức là gắn CNH-HĐH với phát triển KTTT.
Năm 2000, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) đưa ra định nghĩa: ''KTTT là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, truyền bá và sử dụng tri thức là động lực chủ yếu nhất của sự tăng trưởng, tạo ra của cải, tạo ra việc làm trong tất cả các ngành kinh tế''. Khác với nền kinh tế công nghiệp, chủ thể là công nhân với các công cụ cơ khí, cho năng suất lao động cao; còn nền KTTT, chủ thể là công nhân trí thức với công cụ là tạo ra tri thức, quảng bá tri thức và sử dụng tri thức. Phát triển KTTT nước ta là thực thi chiến lược vận dụng tri thức mới vào tất cả các ngành kinh tế, làm tăng nhanh giá trị của sản phẩm; giảm tiêu hao tài nguyên và lao động. Nước ta xác định, KTTT là công cụ hàng đầu để rút ngắn thời gian thực hiện quá trình CNH-HĐH.
Nội dung trung tâm của thực hiện CNH-HĐH gắn với phát triển KTTT là lựa chọn để có thể bỏ qua một số thế hệ công nghệ trung gian, đi thẳng vào công nghệ cao, công nghệ mới nhằm nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành công nghiệp dịch vụ có hàm lượng tri thức, giá trị gia tăng cao. Trong ''Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020, ngoài một số mục tiêu khối lượng như: tăng trưởng GDP bình quân 7-8%/năm; GDP bình quân đầu người theo giá thực tế đạt khoảng 3.000 USD... còn có một số chỉ tiêu về chất lượng, như là những nấc thang trên lộ trình CNH-HĐH, phát triển KTTT. Cụ thể là: tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% GDP; giá trị sản phẩm công nghệ cao đạt 45% GDP; yếu tố năng suất tổng hợp đóng góp vào tăng trưởng đạt 35%; giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP 2,5-3%/năm; giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp xuống còn 30-35%...
Để đạt những chỉ tiêu trên điều tiên quyết là phải cơ cấu lại sản xuất công nghiệp theo hướng tăng hàm lượng khoa học công nghệ và tỷ trọng giá trị nội địa trong sản phẩm. Đồng thời phải sử dụng tri thức mới để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn như công nghệ thông tin, khai khoáng, luyện kim, hóa chất, chế biến nông sản, năng lượng... và đẩy nhanh CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn bằng cách đổi mới công tác đào tạo nhân lực, đưa tri thức sản xuất, kinh doanh, tri thức khoa học công nghệ đến với người nông dân; sử dụng công nghệ sinh học làm gia tăng giá trị các mặt hàng nông-lâm-thủy sản.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, nước ta có được sự lựa chọn rộng rãi để tăng nhanh hàm lượng khoa học công nghệ trong sản phẩm. Chúng ta cần phải đẩy mạnh việc sử dụng những tri thức mới của nhân loại bằng nhiều hình thức khác nhau, như nhập khẩu trực tiếp công nghệ; nhập khẩu công nghệ gián tiếp qua thu hút đầu tư; mua bằng sáng chế hay mời chuyên gia nước ngoài vào làm việc. Nhưng điều quan trọng hơn, ngoài phần nhập khẩu công nghệ cứng như nói ở trên, cần chủ động học hỏi và nhập khẩu những công nghệ mềm như công nghệ quản lý, kinh nghiệm sử dụng nhân tài, đổi mới thể chế kinh tế... và đổi cách cải tiến để thích nghi với điểu kiện nước ta. Công nghệ và tri thức của nhân loại sau một thời gian luôn bị thay thế bởi công nghệ và tri thức mới, do đó việc tiếp cận với chúng là liên tục và không có điểm dừng. Đây là điều kiện để chúng ta rút ngắn quá trình CNH-HĐH gắn với việc vận dụng tri thức mới vào tất cả các ngành kinh tế.
Như trên đã nói, chúng ta phải đồng thời lồng ghép 2 qua trình là CNH-HĐH và phát triển KTTT, do đó phải kết hợp các bước đi tuần tự với các bước phát triển nhảy vọt, với các đề xuất sau:
Một là, xây dựng 2 trung tâm quốc gia về công nghệ cao ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, lấy đây là đầu tàu, là mô hình tiêu biểu cho phát triển công nghệ của cả nước và là nơi thu hút, nuôi dưỡng công nghệ và tri thức mới của nhân loại.
Hai là, đẩy nhanh quá trình xây dựng thị trường khoa học-công nghệ theo hướng mọi tri thức, công nghệ đều được trao đổi, mua bán, chuyển giao thuận lợi trên thị trường, được nuôi dưỡng bằng tinh thần cạnh tranh bình đẳng.
Ba là, sử dụng công cụ tín dụng và thuế nhằm khuyến khích các doanh nghiệp bỏ qua các thế hệ công nghệ trung gian, đi thẳng vào các công nghệ tiên tiến, công nghệ cao.
Bốn là, tạo môi trường thuận lợi để các tập đoàn xuyên quốc gia không chỉ đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất mà còn xây dựng cả cơ sở đào tạo tại chỗ nguồn nhân lực chất lượng cao, thành thạo kỹ năng nghề nghiệp.
Năm là, khuyến khích du học sinh ra nước ngoài học tập và có chính sách đãi ngộ thích đáng để thu hút số du học sinh này về nước làm việc hay lập nghiệp.
Sáu là, cần có một chiến lược phát triển khoa học-công nghệ với những bước đi thích hợp. Ở giai đoạn đầu, hướng về sự tiếp cận, tiếp thu, chuyển giao công nghệ mới, trong đó ưu tiên xây dựng các khu công nghệ cao cấp vùng để thu hút công nghệ mới. Hình thành một số cơ sở nghiên cứu-ứng dụng đủ sức tiếp thu, cải tiến công nghệ và sáng tạo công nghệ mới gắn sản xuất kinh doanh. Giai đoạn tiếp theo sử dụng cơ chế tài chính khuyến khích đối tác nước ngoài hợp tác với cơ sở trong nước trong phát triển công nghệ mới. Trên nền tảng đó, tạo ra năng lực nghiên cứu nội sinh giúp các nhà khoa học và cơ sở sản xuất trong nước tiến tới vận dụng và làm chủ những công nghệ và tri thức mới của nhân loại.
Công nghiệp hóa - hiện đại hóa với bảo vệ môi trường
Sau 25 năm đổi mới, nước ta đã vượt qua ngưỡng nước nghèo vào 2010, bước vào nhóm nước có thu nhập trung bình. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu vượt bậc ấy, chúng ta đang phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng về môi trường. Theo thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường, hiện nước ta có gần 4000 cơ sở sản xuất, hơn 1500 làng nghề gây ô nhiễm, hơn 200 KCN cần được kiểm soát về khả năng gây ô nhiễm. Thực tế là, ô nhiễm nguồn nước, không khí đang lan rộng không chỉ ở các KCN, khu đô thị, mà ở cả nhũng vùng nông thôn; đa dạng sinh học tiếp tục bị suy giảm; biến đổi khí hậu và nước biển dâng gây ra triều cường và những hậu quả khôn lường; thành quả phát triển của nhiều địa phương trong nhiều năm chỉ sau một đợt thiên tai có thể bị xóa sạch.
Trước tình hình đó, ngày 15-11-2004, Bộ Chính trị có Nghị quyết 41- NQ/TW "Về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước” đã khẳng định bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một nội dung cơ bản của phát triển bền vững trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH. Năm 2005, Quốc hội đã thông qua Luật bảo vệ môi trường. Tại Đại hội Đảng lần thứ XI, nội dung BVMT được nâng lên một tầm cao mới, gắn chặt với quá trình CNH-HĐH: ''Đưa nội dung bảo vệ môi trường vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, vùng và các chương trình dự án đầu tư''. Một điểm mới so với Đại hội X là đưa thêm nội dung ''chú trọng phát triển kinh tế xanh, thân thiện với môi trường; từng bước phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch, tiêu dùng sạch”.
Quá trình CNH-HĐH đặt ra nhiều vấn đề cấp thiết đối với môi trường. Chỉ tiêu tăng GDP gấp 2,2 lần trong 10 năm tới với mức tăng trưởng công nghiệp hằng năm 13% sẽ làm trầm trọng hơn tình trạng ô nhiễm ở các KCN và vùng đô thị; việc CNH-HĐH các ngành công nghiệp nặng gây ra những ảnh hưởng không thể bỏ qua với môi trường. Số liệu của Ủy ban KH-CN-MT của Quốc hội cho thấy, mới có 60 KCN có trạm xử lý nước thải tập trung (chiếm 42% số KCN đã vận hành). Mỗi ngày, các KCN thải ra khoảng 30.000 tấn chất thải độc hại ra môi trường. Hầu hết các cụm, điểm, KCN chưa đáp ứng được những tiêu chuẩn môi trường.
Đẩy mạnh tiến trình CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn là động lực lớn phát triển các làng nghề. Theo thống kê, cả nước có gần 1500 làng nghề và tạo ra 11 triệu việc làm thường xuyên và không thường xuyên. Tuy nhiên do sản xuất tự phát, sử dụng công nghệ lạc hậu nên phần lớn các làng nghề gây ô nhiễm môi trường. Một cuộc khảo sát của Bộ Y tế tại 3 tỉnh Nam Định, Bắc Ninh, Hưng Yên đã cho kết luận, hầu hết các làng nghề không có hệ thống xử lý nước thải và kiểm soát chất thải rắn.
CHH-HĐH sẽ kéo theo đô thị hóa. Dân số đô thị năm 1996 là 19%, năm 2010 đạt 30% và dự kiến tăng lên 45% vào 2020. Đây thực sự là sức ép lớn về môi trường trong quản lý đô thị. Theo nghiên cứu của Bộ KH-CN, các đô thị Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Việt Trì, Ninh Binh, Quy Nhơn, Nha Trang, Biên Hòa... là những tụ điểm phát thải các chất độc hại. Riêng Hà Nội, mỗi năm thải vào môi trường nước khoảng 3.600 tấn chất hữu cơ, 320 tấn dầu mỡ, hàng chục tấn kim loại nặng...
Song song với quá trình CNH-HĐH, chúng ta đang phải chịu những áp lực về thay đổi cấu trúc và mô hình phát triển do sự cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường ngày càng lộ rõ. Do đó, các mối quan tâm về môi trường cần được lồng ghép ngay từ quá trình ra các quyết định về phát triến kinh tế và xã hội. Có nghĩa là, cần cụ thể hóa nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng thân thiện với môi trường, tiếp cận mô hình tăng trưởng xanh đã được đề cập trong văn kiện của Đại hội Đảng lần thứ XI. Trong đó, Nhà nước cần dành sự quan tâm đặc biệt để xây dựng năng lực nội sinh nhằm sử dụng và phát triển các công nghệ tiết kiệm tài nguyên, nguyên liệu, năng lượng...; vì đây là động lực chủ yếu để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta theo hướng phát triển bền vững. Một nghiên cứu của VCCI cho thấy, có khoảng trên 70% máy móc thiết bị ở nước ta sử dụng công nghệ cũ; 70% đã khấu hao hết và gần 50% là máy móc cũ, hoặc vừa mới tân trang được nhập vào. Thực tế này là một thách thức đòi hỏi phải có quyết tâm chính trị lớn nhằm tạo ra bước đột phá lớn trong chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
Bước đột phá ở đây là chuyển đổi quyết liệt từ cơ chế nặng về ''bao cấp”, ''xin cho” sang cơ chế kinh tế hóa, tài chính hóa trong quản lý tài nguyên, môi trường. Thực tế hiện nay, nhà nước bỏ ra rất nhiều kinh phí, trang thiết bị và nguồn nhân lực cho công tác điều tra tài nguyên khoáng sản, khí tượng, thủy văn... nhưng thường là cung cấp không hoặc với khoản phí không đáng kể cho các nhà đầu tư. Đó là sự bù đắp không cân xứng dẫn đến không đủ nguồn lực cho công tác quy hoạch tài nguyên và môi trường.
Nhà nước cũng cần sử dụng công cụ tài chính nhằm khuyến khích đầu tư vào các ngành sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng lớn, sử dụng công nghệ sạch; sản xuất và sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, các sản phẩm và bao bì không gây hại hoặc ít gây hại đến môi trường; tái chế và sử dụng các sản phẩm tái chế. Thực tiễn phát triển nước ta trong những năm gần đây khẳng định, chúng ta có đủ năng lực, điều kiện để chuyên đổi thành công sang mô hình phát triển bền vững. Kinh nghiệm phát triển lĩnh vực công nghệ thông tin, viễn thông, cơ khí tự động hóa, công nghệ vật liệu cũng như việc chế tạo thành công các sản phẩm nano, những thành tựu trong công nghệ sinh học, cùng với năng lực sáng tạo trong toán học, vật lý học, hóa học... cho thấy nếu có đủ quyết tâm và cách sáng tạo, phù hợp, chúng ta sẽ nhanh chóng bước vào quỹ đạo phát triển hiện đại mà 21 quốc gia thành viên APEC, trong đó có Việt Nam đã cam kết tại Hội nghị Thượng đỉnh tại Tokyo tháng 11- 2010, về thực hiện một mô hình tăng trưởng mới, đảm bảo 5 yêu cầu: i) Tăng trưởng cân bằng; ii) Tăng trưởng an toàn; iii) Tăng trưởng bền vững; iv) Tăng trưởng dựa vào trí tuệ; v) Tăng trưởng với lợi ích được chia sẻ công bằng cho tất cả mọi người. Đây phải trở thành điểm xuyên suốt quá trình CNH-HĐH nước ta.
Chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng bền vững là biện pháp hữu hiệu nhất có khả năng phòng ngừa và hạn chế tối đa các tác động xấu đối với môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH. Những yếu kém, khuyết điểm trong công tác bảo vệ môi trường trong thời gian qua chủ yếu là do các cấp các ngành thường nặng về quan tâm tới các chi tiêu tăng trưởng kinh tế, chưa đảm bảo hài hòa, cân bằng trong phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường. Do đó, cần có sự chuyển biến mạnh mẽ trong toàn Đảng và toàn xã hội về nhận thức và hành động, trong chỉ đạo điều hành và đặc biệt trong tổ chức triển khai các hoạt động bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH, gắn với phát triển KTTT. Trước hết, tất cả các dự án đầu tư phải có báo cáo đánh giá tác động môi trường, được Bộ hoặc Sở Tài nguyên - Môi trường thẩm định trước khi được phê duyệt. Đồng thời, tăng cường việc kiểm soát ô nhiễm tại nguồn; chú trọng quản lý chất thải, nhất là các chất thải trong sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ y tế. Khắc phục các khu vực môi trường đã bị ô nhiễm, suy thoái; nâng cao khả năng và nguồn lực điều tra nắm chắc các nguồn tài nguyên để có kế hoạch bảo vệ, khai thác hợp lý, bảo vệ đa dạng sinh học. Nói cách khác, bảo vệ môi trường phải vừa là mục tiêu, vừa là nội dung của quá trình phát triển bền vững.
Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ đồng thời tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo tinh thần Đại hội XI của Đảng PGS.TS Trần Thị Minh Châu
Học viện CT-HC QG Hồ Chí Minh
Đại hội XI của Đảng ta đã giải quyết nhiều vấn đề trọng đại, trong đó có việc thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (sau đây gọi tắt là Cương lĩnh 2011) và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 (gọi tắt là Chiến lược 2011-2020). Một trong những nội dung trọng tâm thể hiện cả trong Cương lĩnh 2011 lẫn trong Chiến lược 2011-2020 là đường lối “xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”. Để triển khai hiệu quả trong thực tiễn, cần nhận thức đúng nội dung cơ bản của đường lối này.
Chủ trương xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ không phải là chủ trương mới của Đảng ta. Ngay từ khi giành được độc lập, trong Tuyên ngôn độc lập đọc tại quảng trường Ba Đình ngày 2.9.1945, Hồ Chủ tịch đã thay mặt Đảng, Nhà nước, nhân dân trịnh trọng tuyên bố nước Việt Nam là một nước độc lập. Lịch sử đất nước đã chứng minh, độc lập, tự do là khát vọng, ý chí và bản lĩnh dân tộc Việt Nam trải qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Tuy nhiên, độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế là một mô hình mới với nhiều nội dung cần làm rõ. Chính vì vậy, sự khẳng định một lần nữa đường lối xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế tại Đại hội XI không những là cần thiết mà còn bao hàm cả sự phát triển về lý luận và nhận thức.
Về mặt nhận thức, Đại hội XI nhấn mạnh, đường lối xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế được thực hiện xuyên suốt thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Có nghĩa là sẽ không có bước đảo chiều để quay về nền kinh tế khép kín tự cung, tự cấp, thay thế hàng nhập khẩu như trước kia. Hơn nữa, hội nhập quốc tế được coi là một điều kiện để xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Chiến lược 2011-2020 nêu rõ: “Phát huy nội lực và sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định, đồng thời tranh thủ ngoại lực và sức mạnh thời đại là yếu tố quan trọng đế phát triển nhanh, bền vững và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ”1. Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới 2008-2009 chưa kết thúc, nhiều quốc gia có xu hướng thực hiện chính sách bảo hộ, Đại hội XI nhấn mạnh chủ trương tiếp tục hội nhập sâu rộng của nước ta là một điểm đáng chú ý.
Tầm quan trọng của xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đi đôi với tích cực và chủ động hội nhập quốc tế thể hiện ngay trong Cương lĩnh 2011. Ba trong tám phương hướng cơ bản, một trong tám mối quan hệ lớn cần phải giải quyết trong thời kỳ quá độ là mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế. Cương lĩnh 2011 cũng nhấn mạnh, không được phiến diện, cực đoan, duy ý chí trong giải quyết mối quan hệ này 2 và phải được giải quyết linh hoạt, mềm dẻo theo nguyên tắc: độc lập tự chủ là nền tảng, hội nhập quốc tế vừa bổ sung, vừa làm cho nội dung độc lập tự chủ phát triển lên một trình độ mới.
Về mặt lý luận, độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế là hai mặt của mối quan hệ biện chứng tồn tại trong suốt thời kỳ quá độ ở nước ta. Độc lập, tự chủ là nền tảng bởi vì trong một thế giới còn chịu sự chi phối của kinh tế thị trường và nguyên tắc tư bản chủ nghĩa thì các quốc gia dân tộc vẫn là các chủ thể chính trong bảo vệ quyền và lợi ích của dân tộc trên trường quốc tế. Không có độc lập, tự chủ, quốc gia sẽ trở thành công cụ trong tay các quốc gia khác, hậu quả là dân tộc bị chèn ép, bóc lột, thua thiệt.
Tuy nhiên, trong thời đại toàn cầu hóa, nếu cô lập, bất kỳ quốc gia nào cũng bị thiệt thòi về các phương diện mức sống, trình độ khoa học, kỹ thuật và tốc độ phát triển. Do đó, nền kinh tế độc lập, tự chủ trong thế giới ngày nay phải là nền kinh tế có năng lực độc lập, tự chủ trong mở rộng giao lưu kinh tế với các nước khác theo nguyên tắc thị trường. Bởi vì mở rộng giao lưu kinh tế, văn hóa, kỹ thuật với các nước, nhất là với các nước phát triển, Nhà nước, doanh nghiệp, dân cư có cơ hội học hỏi kinh nghiệm, tiếp thu thành tựu văn hóa, khoa học kỹ thuật của toàn thế giới, cơ hội mở rộng thị trường nhằm sử dụng tốt hơn các nguồn lực vốn có của đất nước. Hội nhập cũng là con đường tối ưu để nước ta có thể tham gia vào mạng phân công lao động toàn cầu trên cơ sở sử dụng lợi thế cạnh tranh. Hội nhập cho phép nước ta thu hút ngoại lực để phát triển nhanh, đi tắt, đón đầu, rút ngắn khoảng cách lạc hậu.
Trong mối quan hệ biện chứng này hội nhập quốc tế và độc lập, tự chủ có mặt thống nhất, đồng thời cũng có mặt mâu thuẫn lẫn nhau. Hội nhập quốc tế thống nhất với độc lập, tự chủ kinh tế trên góc độ “Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng”3. Hội nhập quốc tế tạo nguồn lực và môi trường để tăng tiềm lực cho nền kinh tế độc lập tự chủ. Hơn nữa, hội nhập quốc tế là cách thức thực hiện độc lập tự chủ tốt nhất trong điều kiện toàn cầu hóa. Bởi vì trong một thế giới mà các nền kinh tế quốc gia phụ thuộc một cách khách quan và nhau, thì hội nhập tích cực và chủ động không những tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế quốc gia mà còn tạo cơ hội ảnh hưởng đến luật lệ ràng buộc giữa các nước. Khi thế giới còn hội nhập với nhau bằng ngôn ngữ thị trường thì tiềm lực kinh tế quốc gia càng lớn, khả năng độc lập và tự chủ đưa ra được các quyết định hợp tình, hợp lý càng cao, càng giúp quốc gia đó có điều kiện hội nhập hiệu quả và có lợi hơn. Song hội nhập sẽ làm thay đổi nội hàm của độc lập và tự chủ theo hướng: trong hội nhập, các Nhà nước quốc gia dân tộc phải chuyển giao bớt quyền tự quyết của họ cho các định chế quản trị toàn cầu như WTO, IMF, WB... Nhiều quyết định của các Nhà nước quốc gia phải tuân thủ luật pháp và chuẩn mực quốc tế. Đó còn chưa kể các quốc gia siêu cường lợi dụng tiềm lực mọi mặt của họ để áp chế các nước yếu hơn. Muốn làm cho quyền tự chủ không bị suy giảm, quốc gia đó phải vươn lên thực hiện quyền tự chủ trong các quyết định quốc tế. Đó là tầm cao và vị thế mới của nền kinh tế độc lập, tự chủ trong tương lai của nước ta.
Điểm lưu ý thứ hai của Đại hội XI là làm rõ nét hơn những đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với tư cách điều kiện của độc lập tự chủ. Cương lĩnh 2011 nêu rõ các định hướng phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ:
- Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, nhiều hình thức phân phối, trong đó các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể không ngừng được củng cố, phát triển, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của kinh tế quốc dân; kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển.
- Các yếu tố thị trường được tạo lập đồng bộ, các loại thị trường từng bước được xây dựng và phát triển.
- Phân định rõ quyền của người sở hữu, quyền của người sử dụng, quyền quản lý của nhà nước trong lĩnh vực kinh tế.
- Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác, phân phối qua hệ thống an sinh và phúc lợi xã hội.
- Thực hiện CNH,HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường4.
Trong nửa đầu thế kỷ XXI, nền kinh tế độc lập, tự chủ ở nước ta phải có những đặc trưng sau: là nền kinh tế có cơ cấu kinh tế hợp lý dựa trên nên tảng công nghiệp; có quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa; là nền kinh tế thị trường phát triển toàn diện; là nền kinh tế có sức cạnh tranh và có vị thế trên thị trường thế giới. Đại hội XI cũng chỉ rõ trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 phương hướng giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và tích cực, chủ động hội nhập nhằm tạo dựng được sức mạnh dân tộc với tính chất yếu tố quyết định; tranh thủ được yếu tố ngoại lực và thời đại với vai trò yếu tố quan trọng. Vận dụng quan điểm này trong thực tiễn có nghĩa là phải tăng cường tiềm lực kinh tế và sức mạnh tổng hợp của đất nước trên các mặt: tăng trưởng cao; ổn định kinh tế vĩ mô; nâng cao hiệu quả nền kinh tế; đẩy mạnh áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ; phát triển hệ thống doanh nghiệp trong nước về số lượng, uy tín và sức cạnh tranh; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH,HĐH.... Sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững nền kinh tế là điều kiện để nước ta hội nhập quốc tế tích cực và sâu rộng trên nguyên tắc chủ động thích ứng với những thay đổi của tình hình thế giới, bảo đảm hiệu quả và lợi ích quốc gia. Đồng thời hoạt động đối ngoại tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế trong nước thông qua quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước láng giềng, chủ động, tích cực và có trách nhiệm trong xây dựng cộng đồng ASEAN vững mạnh, kết hợp chặt chẽ đối ngoại của Đảng với ngoại giao của nhà nước và ngoại giao nhân dân, giữa ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế, phát huy vai trò và nguồn lực của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài trong phát triển đất nước, thu hút mạnh đầu tư nước ngoài, mở rộng thị trường xuất khẩu... Nói cách khác, ngoại giao kinh tế có vai trò quan trọng trong đường lối ngoại giao. Để phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế, phải sử dụng sức mạnh tổng hợp của ngoại giao trên cả ba mặt trận: Đảng, chính phủ, nhân dân.
Trong ngắn hạn, cụ thể là trong kế hoạch 5 năm 2011-2015, Đại hội XI chỉ rõ phải xây dựng nền kinh tế có sức mạnh nội tại bằng cách “phát triển kinh tế nhanh, bền vững; ...tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”5. Đây là điểm cần nhấn mạnh, vì chỉ có nền kinh tế phát triển, mà bước đầu tiên là nền kinh tế dựa trên nền công nghiệp hiện đại, nước ta mới có điều kiện cải thiện năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh để không những nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, mà còn nâng cao vị thế và sức ảnh hưởng của đất nước trên trường quốc tế. Đi đôi với phát huy nguồn lực trong nước thực hiện CNH, HĐH, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2011-2015 cũng chỉ rõ phải tranh thủ ngoại lực cho phát triển, mở rộng, nâng cao các hoạt động đối ngoại, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế.
Điểm lưu thứ ba của Đại hội XI là nhấn mạnh tính chất của hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta trong những năm tới. Cương lĩnh 2011 nêu rõ: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam XHCN giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”6.
Chiến lược 2011-2020 cũng nêu nhiệm vụ “Phải không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế và sức mạnh tổng hợp của đất nước để chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng và có hiệu quả”. Ở đây, một lần nữa Đảng ta nhấn mạnh vai trò quyết định của tiềm lực kinh tế quốc gia trong nâng cao trình độ hội nhập quốc tế có lợi cho đất nước. Chỉ bằng cách phát triển bền vững nền kinh tế quốc dân dựa trên hệ thống doanh nghiệp mạnh và đường lối điều hành kinh tế nhanh nhạy của chính phủ thích nghi với những biến đổi của kinh tế thế giới. Hai chân: doanh nghiệp và nhà nước cùng vững mạnh thì nước ta mới có thể tiến bước vào thị trường thế giới một cách sâu, rộng, hiệu quả. Đại hội XI chỉ ra phương hướng hành động ưu tiên của doanh nghiệp và nhà nước trong 10 năm tới là:
- Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó doanh nghiệp chủ động nâng cao sức cạnh tranh và Nhà nước chủ động cải cách hành chính.
- Ưu tiên đầu tư vào nguồn nhân lực để tạo năng suất cao cho nền kinh tế. Tạo dựng điều kiện cần cho nền kinh tế năng động, hiệu quả, đó là hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, có khả năng phục vụ với chất lượng cao, chi phí cạnh tranh.
Điểm lưu ý thứ tư của Đại hội XI là chủ trương phối hợp đồng bộ mọi hoạt động, mọi lĩnh vực để vừa tận dụng được cơ hội cho phát triển kinh tế, bảo vệ được nền độc lập tự chủ nước nhà, vừa giảm thiểu tác động bất lợi từ quá trình hội nhập sâu hơn, rộng hơn vào nền kinh tế thế giới, vừa thích nghi với các quy định và cam kết quốc tế. Đại hội nhấn mạnh hơn nữa chủ trương phối hợp ngoại giao, chính trị, văn hóa với phục vụ phát triển kinh tế đã được triển khai trong một số năm qua. Đại hội nêu rõ phải “Kết hợp chặt chẽ quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế - xã hội trên từng địa bàn lãnh thổ, trong công tác quy hoạch, kế hoạch và các chương trình dự án... Lồng ghép các chương trình để xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng ở vùng biên giới, hải đảo”7. Đây là những điểm mới nhằm nâng tầm hoạt động của các lĩnh vực trong xã hội phù hợp với phương thức hành xử trong một thế giới vừa tồn tại các đối tác có thiện chí hợp tác cùng phát triển, vừa tồn tại các đối thủ cạnh tranh, chèn ép, thậm chí phá hoại nước khác vì mục tiêu vụ lợi.
Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong điều kiện một nước nghèo, ít nhiều chậm phát triển là công việc khó khăn. Sẽ còn khó khăn hơn nữa khi phải giữ được quyền độc lập, tự chủ quốc gia trong một thế giới toàn cầu hóa với tốc độ nhanh như hiện nay. Tuy nhiên, trong khó khăn cũng tiềm ẩn rất nhiều cơ hội đề nước ta có thể tận dụng ngoại lực, phát huy cao độ nội lực nhằm gặt hái nhiều thành công trên con đường xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ đi đôi với hội nhập quốc tế. Những kinh nghiệm đã có và đường lối đúng đắn do Đại hội XI sẽ tạo nền tảng cơ bản để đất nước ta thành công trên con đường đã chọn.
___________
Đổi mới mô hình tập đoàn kinh tế Nhà nước ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế PGS.TSKH Trần Nguyễn Tuyên
Vụ trưởng Ban Đối ngoại Trung ương
1. Xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đặt ra yêu cầu cần phát huy và sử dụng hiệu quả tiềm năng của các thành phần kinh tế, đồng thời với việc đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý theo chiều sâu, nâng cao chất lượng hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Theo hướng này đối với thành phần kinh tế nhà nước thực tế qua hơn 25 năm đổi mới ở Việt Nam cho thấy cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách, tiến hành cổ phần hoá nhằm nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước, thực hiện đúng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Văn kiện đại hội XI Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định cần ''xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh, đa sở hữu, trong đó sở hữu nhà nước giữ vai trò chi phối, cơ cấu lại ngành nghề kinh doanh của các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước để doanh nghiệp nhà nước thực sự trở thành nóng cốt của kinh tế nhà nước”.
Đẩy mạnh đổi mới, sắp xếp và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước, hoàn thiện mô hình tập đoàn kinh tế và các tổng công ty nhà nước, nhiệm vụ này càng trở nên cấp bách trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Qua tổng kết thực tiễn và lý luận, nhất là sau 4 năm Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Văn kiện đại hội XI Đảng Cộng sản Việt Nam nêu rõ chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”.
Báo cáo của Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước cho biết: Năm 2010 tổng hợp tình hình của 21 tập đoàn, tổng công ty 91 (ngoại trừ Tập đoàn công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam Vinashin), quy mô vốn chủ sở hữu đạt 540.701 tỷ đồng, tăng 11,75% so năm 2009; tổng doanh thu ước đạt 1.173.489 tỷ đồng, bằng 122% kế hoạch năm, tăng 36% so năm 2009; 20/21 tập đoàn - Tổng công ty nhà nước có lãi, tổng lợi nhuận trước thuế ước đạt 70.778 tỷ đồng.
Về phương hướng, nhiệm vụ của các tập đoàn – tổng công ty nhà nước trong năm 2011, Ban Chỉ đạo kiến nghị các đơn vị tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp theo tinh thần nghị quyết Đại hội XI của Đảng và Nghị quyết về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2011 của Chính phủ, trong đó cần thực hiện nhiều giải pháp cụ thể đối với các bộ ngành, tập đoàn - tổng công ty nhà nước, thực hiện mục tiêu phấn đấu mức tăng trưởng bình quân 15% năm.
Trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, kinh tế nhà nước được xác định đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Trong thời gian qua, các doanh nghiệp nhà nước được nhà nước ưu đãi trong việc cung cấp nguồn vốn, tín dụng, đầu tư, mặt bằng sản xuất kinh doanh, sử dụng nguồn lao động qua đào tạo và nhiều chính sách ưu đãi khác. Kinh tế nhà nước đóng góp gần 40% GDP.
Tác động cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đối với kinh tế Việt Nam ngày càng rõ rệt, cùng với những yếu kém vốn có của nền kinh tế đã tạo ra những điều kiện khó khăn trong việc thực hiện những mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên nhờ có hệ thống các doanh nghiệp nhà nước và các công cụ kinh tế vĩ mô khác nên Nhà nước vẫn đảm bảo được các cân đối vĩ mô, duy trì được tốc độ tăng trưởng tương đối cao của nền kinh tế. Hệ thống doanh nghiệp nhà nước còn đóng góp tích cực vào việc giải quyết mục tiêu an sinh xã hội, tạo việc làm, xoá đói, giảm nghèo, góp phần nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế và khu vực.
Bên cạnh kết quả đạt được, hoạt động của các tập đoàn kinh tế trong thời gian qua đã bộc lộ những điểm yếu, khiếm khuyết của mô hình này. Trước hết đó là việc chưa xác định rõ chủ sở hữu đích thực của doanh nghiệp nhà nước, do vậy chưa tạo động lực để phát triển hiệu quả khu vực kinh tế này. Thực tế vẫn còn quan điểm cho rằng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải dựa trên chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, bởi đây là một trong những yếu tố đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế, cho rằng mức độ công hữu cao thì mới thể hiện được đặc trưng của mô hình xã hội chủ nghĩa. Chính xuất phát từ quan niệm này nên việc đầu tư định hướng phát triển của thành phần kinh tế nhà nước chưa chú trọng đầy đủ đến yếu tố hiệu quả, sức cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cơ sở lý luận của quan điểm này thực chất là đồng nghĩa chủ nghĩa xã hội với chế độ công hữu. Thực tế những hạn chế yếu kém của mô hình kinh tế của Liên Xô và các nước Đông Âu cũ cho thấy khiếm khuyết của mô hình này, việc kéo dài quá lâu dẫn đến sự tan rã của hệ thống.
Thực tế quá trình đổi mới của Việt Nam đã khẳng định tính đúng đắn của đường lối phát triển mạnh các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp, thực hiện sự phát triển kinh tế trên cơ sở đa sở hữu. Bên cạnh kết quả đạt được còn những hạn chế của doanh nghiệp nhà nước nói chung và các tập đoàn kinh tế nhà nước nói riêng như việc nâng cao hiệu quả hoạt động của các chủ thể này, liên quan trực tiếp đến quản trị doanh nghiệp, tình trạng hiệu quả sử dụng vốn trong các doanh nghiệp nhà nước hiện chưa cao (chỉ số ICOR của Việt Nam năm 2010 ở mức cao nhất khu vực trên 8) do hai yếu tố chủ yếu chế độ sở hữu và quản trị. Việc sở hữu đồng tiền nguồn gốc từ đâu không quyết định được hiệu quả của đồng vốn, quan trọng là phụ thuộc vào yếu tố quản trị. Quản trị hạn chế sẽ dẫn đến hệ quả sử dụng vốn vào hoạt động thấp.
Lâu nay chúng ta chưa quan tâm nhiều đến yếu tố quản trị, cơ chế quản trị doanh nghiệp của Việt Nam hiện còn lúng túng. Do đó, vấn đề quan trọng đặt ra trong thời gian tới là quản trị doanh nghiệp, thiết kế lại một quy chế về quản trị doanh nghiệp; vấn đề giám sát của nhà nước; làm rõ vai trò quản trị nhà nước và vai trò chủ sở hữu; làm rõ vai trò chủ sở hữu với quyền quyết định kinh doanh... Thực tế cho thấy đến nay Bộ Tài chính cũng chưa xác định được cơ chế định giá tài sản nhà nước trong doanh nghiệp nên như thế nào cho hợp lý, chưa có giải pháp xác định đúng giá trị thực sự của doanh nghiệp, chưa xây dựng được công thức tính giá trị doanh nghiệp. Nếu chưa xây dựng được cơ chế này thì khó khăn trong việc hoàn thành chuyển đổi mô hình hoạt động của doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa được tháo gỡ. Cũng do vướng mắc trong cơ chế xác định giá trị tài sản nhà nước trong doanh nghiệp nên quá trình cổ phần hoá, chuyển đổi mô hình hoạt động của doanh nghiệp từ sau năm 2006 đến nay bị chậm lại khiến nhiều doanh nghiệp nhà nước ở vào tình thế chờ đợi, nghe ngóng. Một số doanh nghiệp nhà nước không còn thiết tha với việc chuyển đổi, hoạt động cầm chừng, rơi vào tình trạng trì trệ và suy yếu dần. Nhiều doanh nghiệp nhà nước sản xuất kinh doanh không có hiệu quả, không sử dụng tài sản nhà nước giao cho để tạo ra giá trị sản xuất đích thực mà đem cho thuê nhà, tài sản phục vụ lợi ích riêng.
Một số tập đoàn, tổng công ty lớn thì hiệu quả hoạt động chưa tương xứng với số tài sản mà nhà nước giao, chưa phát huy được vai trò chủ lực đối với nền kinh tế. Trong khi đó phần lớn các doanh nghiệp nhà nước sau khi chuyển đổi cổ phần hoá đã làm ăn có lãi, hiệu quả, đời sống của cán bộ, người lao động được cải thiện, nâng lên. Mấu chốt của thành công trong việc đổi mới doanh nghiệp nhà nước là phải có chủ sở hữu đích thực cho doanh nghiệp nhà nước. Như chúng ta đã biết để xảy ra tình trạng của Vinashin vừa qua cũng là vì chưa có người đại diện chủ sở hữu đích thực để kiểm tra giám sát thường xuyên hoạt động của tập đoàn này. Nghị quyết giám sát chuyên đề của Quốc hội về vấn đề này cũng đã nhấn mạnh đến yêu cầu là để tạo điều kiện, cơ hội cho doanh nghiệp phát triển thì phải đổi mới cách thức quản lý, tách quyền sở hữu ra khỏi chức năng quản lý hành chính, tức là tạo điều kiện để doanh nghiệp nhà nước có được chủ sở hữu thực sự.
Nhưng đến thời điểm này chúng ta cũng chưa tách được hai chức năng này: Một số bộ định tách chức năng quản lý khỏi các doanh nghiệp, nhưng nếu tách thì lại nảy sinh vấn đề không có đầu mối quản lý các doanh nghiệp, nên cuối cùng lại giao cho các bộ quản lý. Năm 2005 Việt Nam đã thành lập Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) nhằm tập trung đầu mối quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp, tuy nhiên đồng thời với việc thành lập SCIC, chúng ta lại thành lập các tập đoàn, tổng công ty nhà nước với số vốn lớn nên vốn nhà nước rút cục không được tập trung quản lý thống nhất. Điều này cũng là một trong những nguyên nhân thúc đẩy doanh nghiệp vào tình trạng tùy tiện, muốn làm gì thì làm, do vậy xảy ra tình trạng nhiều doanh nghiệp nhà nước đầu tư trái ngành nghề, không thực hiện đúng vai trò, trách nhiệm của mình đối với xã hội và nền kinh tế.
2. Để thực hiện mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 - 2020, thực hiện quan điểm phát triển nhanh gắn với phát triển bền vững, phát triển bền vững là phát triển xuyên suốt trong chiến lược, Việt Nam cần tiếp tục đổi mới các mô hình tập đoàn của các tổng công ty nhà nước.
Trước mắt trong năm 2011 với mục tiêu nhiệm vụ trọng tâm là ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, thực hiện an sinh xã hội, phấn đấu đạt mức tăng trưởng JDP từ 7 - 7,5%. Điều này đang đặt ra hàng loạt khó khăn, thách thức đối với các doanh nghiệp nhà nước, các tập đoàn kinh tế. Cùng với lộ trình mở cửa, hội nhập, yêu cầu nâng cao sức cạnh tranh của các tập đoàn kinh tế nhà nước càng trở nên cấp bách.
Theo hướng này, cần tiếp tục làm rõ chủ sở hữu đích thực của doanh nghiệp nhà nước đồng thời cần hoàn thiện cơ chế quản trị doanh nghiệp, trong đó sớm ban hành điều lệ, quy chế nội bộ về tài chính đầu tư, cán bộ, gắn quyền hạn và trách nhiệm, thực hiện kiểm tra giám sát chặt chẽ.
Tập trung vào việc nâng cao hiệu quả của đầu tư công, kiên quyết cắt bỏ những công trình không có hiệu quả, thực hiện từng bước thị trường hóa đối với các sản phẩm của các tập đoàn nhà nước như sản xuất và phân phối điện, than, xăng dầu.
Hoàn thiện các cơ chế, thể chế quản lý của chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước, tăng cường phân cấp trên cơ sở giao quyền tự chủ cho doanh nghiệp, không gây phiền hà cho doanh nghiệp nhưng tăng cường sự quản lý, giám sát của chủ sở hữu, bảo đảm cho các doanh nghiệp nhà nước hoạt động đúng pháp luật, tuân thủ các quyết định, đóng góp xứng đáng vào sự phát triển của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay.
Quan điểm của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI về xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam GS, TS. Đỗ Thế Tùng
Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh
Đi lên chủ nghĩa xã hội là nguyện vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử. Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen. Một trong những phương hướng cơ bản để thực hiện thành công quá trình cách mạng nói trên là phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là cách diễn đạt vắn tắt, còn đầy đủ là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hình theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vừa vận động theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội; trong đó cơ chế thị trường được vận dụng đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh mẽ, có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế; khuyến khích làm giầu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo, thực hiện mục tiêu dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa bằng pháp luật cơ chế, chính sách chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các nguồn lực kinh tế.
Theo phương hướng trên, một trong ba khâu đột phá, được xác định trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính.
Mặc dù thể chế kinh tế được xây dựng và từng bước hoàn thiện từ khi đổi mới, nhưng cho đến nay vẫn còn yếu kém, vẫn là một điểm nghẽn cản trở sự phát triển. Những nhược điểm nổi bật là: 1) Năng lực xây dựng thể chế quản lý, điều hành, tổ chức thực thi pháp luật còn yếu. Hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập. Công tác quy hoạch, kế hoạch và việc huy động, sử dụng các nguồn lực còn hạn chế, kém hiệu quả, đầu tư dàn trải. Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp nói chung còn nhiều yếu kém, việc thực hiện chức năng chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước còn bất cập. 2) Tổ chức bộ máy ở nhiều cơ quan còn chưa hợp lý, biên chế cán bộ, công chức tăng thêm; chức năng nhiệm vụ của một số cơ quan chưa đủ rõ, còn chồng chéo. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới của đất nước, cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu đề ra, thủ tục hành chính còn gây phiền hà cho các tổ chức và công dân. Quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc xã hội. 3) Trật tự, kỷ cương xã hội và thực thi pháp luật không nghiêm.
Bởi vậy, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tiền đề quan trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, mà nội dung chủ yếu của thể chế này là:
Thứ nhất, phát triển nhanh, hài hoà các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp. Tăng cường tiềm lực và nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Phát triển kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng mà nòng cốt là hợp tác xã. Khuyến khích phát triển các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh với sở hữu hỗn hợp, như công ty cổ phẩn, công ty trách nhiệm hữu hạn nhiều thành viên, công ty hợp danh, hợp tác xã cổ phần, mà chủ yếu là các doanh nghiệp cổ phần để loại hình kinh tế này trở thành phổ biến trong nền kinh tế, thúc đẩy xã hội hoá sản xuất kinh doanh và sở hữu. Đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh, đa sở hữu trong đó sở hữu nhà nước giữ vai trò chi phối, khuyến khích tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực của nền kinh tế. Khuyến khích kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài với công nghệ hiện đại, thân thiện môi trường, phát triển theo quy hoạch.
Bảo đảm quyền tự do kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng, minh bạch giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Thứ hai, phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường
Phát triển đa dạng, đồng bộ, ngày càng văn minh, hiện đại các loại thị trường hàng hoá, dịch vụ. Tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu, đồng thời chú trọng mở rộng và chiếm lĩnh thị trường trong nước, bảo vệ lợi ích của cả người sản xuất và người tiêu dùng, nhất là về giá cả, chất lượng hàng hoá, vệ sinh, an toàn thực phẩm.
Phát triển thị trường tài chính với cơ cấu hoàn chỉnh, quy mô tăng nhanh, phạm vi hoạt động mở rộng, vận hành an toàn, được quản lý và giám sát hiệu quả; hoàn thiện thể chế về tiền tệ, tín dụng và ngoại hối.
Hoàn thiện thể chế, bảo đảm phát triển lành mạnh thị trường chứng khoán, tăng tính minh bạch, chống các giao dịch phi pháp, các hành vi rửa tiền, nhiễu loạn thị trường, làm cho thị trường này ngày càng đóng vai trò quan trọng trong huy động vốn cho đầu tư phát triển.
Phát triển đa dạng và nâng cao chất lượng các sản phẩm bảo hiểm; khuyến khích, tạo điều kiện phát triển các doanh nghiệp bảo hiểm thuộc mọi thành phần kinh tế trong nước; thực hiện lộ trình mở cửa thị trường bảo hiểm phù hợp với điều kiện đất nước và cam kết hội nhập quốc tế, bảo vệ lợi ích của người mua bảo hiểm.
Nhà nước khẩn trương nghiên cứu hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách đất đai, tạo lập, quản lý thị trường bất động sản và cơ chế vận hành sàn giao dịch bất động sản, chủ động tham gia thị trường với tư cách là chủ sở hữu đất đai và tài sản trên đất để phát triển và điều tiết thị trường, ngăn chặn tình trạng đầu cơ.
Phát triển mạnh thị trường khoa học và công nghệ gắn với việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; có nhiều hình thức thông tin giới thiệu các hoạt động và sản phẩm khoa học, công nghệ; hoàn thiện các định chế về mua, bán các sản phẩm khoa học, công nghệ trên thị trường.
Đẩy mạnh phát triển thị trường lao động. Tiền lương, tiền công phải được coi là giá cả sức lao động, được hình thành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Chế độ hợp đồng lao động được mở rộng, áp dụng phổ biến cho các đối tượng. Đổi mới tổ chức và hoạt động của các trung tâm dịch vụ việc làm của Nhà nước; khuyến khích tổ chức các hội chợ việc làm; phát triển các tổ chức dịch vụ tư vấn, sàn giao dịch, giới thiệu việc làm đi đôi với tăng cường quản lý của Nhà nước; ngăn chặn các hành vi lừa đảo và các hiện tượng tiêu cực khác.
Thứ ba, đổi mới, nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật và cơ chế vận hành của kinh tế thị trường, phát huy mặt tích cực, hạn chế, ngăn ngừa mặt trái của cơ chế thị trường; tạo ra những tiền đề để nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước tập trung duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng phát triển, tạo điều kiện để nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm cạnh tranh bình đẳng, minh bạch của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Hoàn chỉnh hệ thống luật, chính sách về đất đai bảo đảm hài hòa các lợi ích của Nhà rước, của người sử dụng đất, của người giao lại quyền sử dụng đất và của nhà đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để sử dụng có hiệu quả nguồn lực đất đai cho sự phát triển, khắc phục tình trạng lãng phí và tham nhũng đất đai.
Đổi mới công tác quy hoạch, kế hoạch và điều hành phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường đồng thời thực hiện tốt chính sách xã hội.
Thực hiện hệ thống cơ chế và chính sách phù hợp, đặc biệt là cơ chế, chính sách tài chính, tiền tệ nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng, đảm bảo sự phát triển an toàn, lành mạnh của nền kinh tế. Chính sách tài chính quốc gia phải động viên hợp lý, phân phối và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội; phân phối lợi ích công bằng. Tiếp tục hoàn thiện chính sách và hệ thống thuế, cơ chế quản lý giá, pháp luật về cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh, bảo vệ người tiêu dùng, các chính sách về thu nhập, tiền lương, tiền công. Thực hiện cân đối ngân sách tích cực, bảo đảm tỷ lệ trích quỹ hợp lý cho đầu tư phát triển; phấn đấu giảm dần bội chi ngân sách. Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước, nhất là các tập đoàn kinh tế và các tổng công ty. Quản lý chặt chẽ việc vay và trả nợ nước ngoài; giữ mức nợ chính phủ, nợ quốc gia và nợ công trong giới hạn an toàn. Tăng cường vai trò giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Chính sách tiền tệ phải chủ động và linh hoạt thúc đẩy tăng trưởng bền vững, kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền. Hình thành đồng bộ khuôn khổ pháp lý về hoạt động ngân hàng. Mở rộng các hình thức thanh toán qua ngân hàng và thanh toán không dùng tiền mặt. Điều hành chính sách lãi suất, tỷ giá linh hoạt theo nguyên tắc thị trường. Đổi mới chính sách quản lý ngoại hối và vàng; từng bước mở rộng phạm vi các giao dịch vốn; tăng cường kiểm tra, kiểm soát tiến tới xóa bỏ tình trạng sử dụng ngoại tệ làm phương tiện thanh toán trên lãnh thổ Việt Nam. Tăng cường vai trò của Ngân hàng nhà nước trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ. Kết hợp chặt chẽ chính sách tiền tệ với chính sách tài khoá. Kiện toàn công tác thanh tra, giám sát hoạt động tài chính, tiền tệ.
Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách nói trên, đặc biệt quan tâm giải quyết việc làm cho người lao động, khắc phục những bất hợp lý về tiền lương, tiền công phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước. Gắn cải cách tiền lương với sắp xếp, kiện toàn, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức của hệ thống chính trị. Gắn tiền công với hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Chăm lo bảo hộ lao động, cải thiện điều kiện làm việc; hạn chế tai nạn lao động; xử lý nghiêm các vi phạm luật lao động; xây dựng quan hệ lao động ổn định, hài hòa, tiến bộ. Bảo đảm an sinh xã hội, hoàn thiện hệ thống bảo hiểm, trợ giúp và cứu trợ xã hội. Tập trung triển khai có hiệu quả các chương trình xóa đói, giảm nghèo ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Đa dạng hóa các nguồn lực và phương thức xóa đói, giảm nghèo. Huy động mọi nguồn lực xã hội cùng với Nhà nước chăm lo tốt hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của những người và gia đình có công.
Thứ tư, đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước, tạo bước chuyển mạnh về cải cách hành chính
Đẩy mạnh cải cách lập pháp, hành pháp, tư pháp, đổi mới tư duy và quy trình xây dựng pháp luật, nâng cao chất lượng hệ thống pháp luật. Tập trung xây dựng nền hành chính nhà nước trong sạch, vững mạnh, bảo đảm quản lý thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả. Tích cực phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có năng lực đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cả về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành quản lý nhà nước.
Thứ năm, tăng cường tiềm lực kinh tế và sức mạnh tổng hợp của đất nước để chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng và có hiệu quả; tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Phát triển lực lượng doanh nghiệp trong nước với nhiều thương hiệu mạnh, có sức cạnh tranh cao để làm chủ thị trường trong nước, mở rộng thị trường ngoài nước, góp phần bảo đảm độc lập, tự chủ của nền kinh tế. Trong hội nhập quốc tế, phải luôn chủ động thích ứng với những thay đổi của tình hình, bảo đảm hiệu quả và lợi ích quốc gia.
Tóm lại, các văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã chỉ rõ: phải hoàn thiện thể chế kinh tế hỗn hợp, tức là kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thể chế này bảo đảm quyền tự do kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng, minh bạch giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, từ kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đến các tổ chức với sở hữu hỗn hợp, nhất là các công ty cổ phần. Thể chế này bao trùm tất cả các loại thị trường, từ thị trường hàng hóa dịch vụ; thị trường tài chính - tiền tệ; thị trường chứng khoán; thị trường bảo hiểm; thị trường bất động sản; thị trường khoa học - công nghệ và thị trường lao động. Trong thể chế này Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc phát huy mặt tích cực, hạn chế, ngăn ngừa mặt trái của cơ chế thị trường, tạo ra những tiền đề để nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thông qua việc hoàn thiện và thực thi nghiêm hệ thống pháp luật; đổi mới công tác quy hoạch, kế hoạch và điều hành phát triển kinh tế - xã hội; thực hiện hệ thống chính sách phù hợp, đặc biệt là chính sách tài chính - tiền tệ, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách kinh tế - xã hội.
Để hoàn thành tốt chức năng trên phải đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước, tạo bước chuyển mạnh về cải cách hành chính; xây dựng một đội ngũ ngũ cán bộ công chức trong sạch, vững mạnh, có năng lực đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hướng vào tăng cường tiềm lực kinh tế và sức mạnh tổng hợp của đất nước để tích cực, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng và có hiệu quả; kết hợp sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, nhằm phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực để phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững./.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam từ Đại hội VI đến Đại hội XI về nguyên tắc phân phối vì mục tiêu công bằng xã hội PGS, TS Nguyễn Ngọc Hà
Viện Triết học, Viện KHXHVN
Công bằng xã hội luôn luôn là mục tiêu nhất quán của Đảng ta từ khi thành lập đến nay. Chính nhờ giương cao ngọn cờ công bằng xã hội mà Đảng ta đã nhận được sự ủng hộ của đông đảo nhân dân trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc trước đây và trong sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay. Tuy nhiên, nhận thức về con đường đi đến mục tiêu ấy có sự thay đổi qua các kỳ đại hội Đảng. Trong thời kỳ trước đổi mới, xuất phát từ quan điểm cho rằng chế độ tư hữu là nguồn gốc của mọi sự bất công nên Đảng ta coi việc xoá bỏ chế độ tư hữu là nội dung chủ yếu để thực hiện công bằng xã hội. Trong giai đoạn này, nguyên tắc phân phối để thực hiện công bằng xã hội là nguyên tắc phân phối theo lao động. Tuy nhiên, lúc đó nguyên tắc phân phối theo lao động đã không được thực hiện đúng vì sự phân phối đã bị tách khỏi cơ sở số lượng và chất lượng lao động (hiệu quả kinh tế của lao động), không theo lao động mà mang tính bình quân. Việc thực hiện chế độ phân phối mang tính bình quân đã nuôi dưỡng sự lười biếng; đã thủ tiêu tính tích cực của người lao động, thủ tiêu động lực phát triển sản xuất và dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội vào đầu những 80 của thế kỷ XX. Xuất phát từ tình hình đó Đảng ta đã thay đổi quan điểm về nguyên tắc phân phối vì mục tiêu công bằng xã hội.
Quan điểm của Đảng về nguyên tắc phân phối tại Đại hội VI
Trước tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, Đại hội lần thứ VI của Đảng trên tinh thần ''Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”1, đã thẳng thắn tự phê bình về việc đã thực hiện nhiều chủ trương, chính sách sai lầm trong cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Báo cáo chính trị tại Đại hội đã vạch rõ những hạn chế và sai lầm trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội cả về chế độ sở hữu, chế độ phân phối và cơ chế quản lý. Về chế độ sở hữu, chúng ta đã có những biểu hiện nóng vội, muốn xoá bỏ ngay khu vực kinh tế ''phi xã hội chủ nghĩa”, muốn nhanh chóng thiết lập, khu vực kinh tế ''xã hội chủ nghĩa” (gồm quốc doanh và tập thể). Về phân phối, chúng ta đã thực hiện một chế độ phân phối về thực chất là bình quân. Về quản lý, chúng ta đã thực hiện một cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp. Để khắc phục những sai lầm ấy, Đại hội VI đã quyết định chuyển nền kinh tế từ mô hình dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Đại hội khẳng định trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường ấy, nền kinh tế phải được quản lý bằng các phương pháp kinh tế là chủ yếu với động lực thúc đẩy là sự kết hợp hài hoà lợi ích của toàn xã hội, lợi ích của tập thể và lợi ích riêng của từng người lao động, phù hợp với đường lối đổi mới ấy. Để khắc phục tính chất bình quân, Đại hội VI cho rằng cần khắc phục tình trạng ''tách rời việc trả công lao động với số lượng và chất lượng lao động'' 2 trong phân phối thời kỳ trước đổi mới; phải quay trở lại thực hiện đúng nguyên tắc phân phối theo lao động. Văn kiện Đại hội viết: ''Việc thực hiện đúng nguyên tắc phân phối theo lao động đòi hỏi sửa đổi một cách căn bản chế độ tiền lương theo hướng bảo đảm yêu cầu tái sản xuất sức lao động, khắc phục tính chất bình quân, xoá bỏ từng bước phần cung cấp còn lại trong chế độ tiền lương, áp dụng các hình thức trả lương gắn chặt với kết quả lao động và hiệu quả kinh tế''3, “Bảo đảm cho người lao động có thu nhập thoả đáng phụ thuộc trực tiếp vào kết quả lao động, có tác dụng khuyến khích nhiệt tình lao động''4. Mặt khác, Đại hội đã không tuyệt đối hoá nguyên tắc phân phối theo lao động, Văn kiện Đại hội VI ghi rõ: ''Giải quyết một phần quan trọng việc làm cho người lao động và bản đảm về cơ bản phân phối theo lao động. Thực hiện công bằng xã hội phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta''5. “Về cơ bản thực hiện phân phối theo lao động, điều đó có nghĩa rằng không hoàn toàn phân phối theo lao động. Liên quan đến phần phân phối không theo lao động này, Văn kiện Đại hội khẳng định: ''Xoá bỏ những thành kiến thiên lệch trong sự đánh giá và đối xử với người lao động thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Nhà nước có chính sách ưu đãi về kinh tế (như chính sách đầu tư, thuế, tín dụng...) đối với thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa; song về pháp luật phải thực hiện nguyên tắc bình đẳng. Những người làm ra của cải và những việc có ích cho xã hội, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật và chính sách đều được tôn trọng, được quyền hưởng thu nhập tương xứng với kết quả lao động, kinh doanh hợp pháp của họ. Đối với những kẻ lười biếng, ăn bám, phải phê phán và cưỡng bức lao động. Những kẻ phạm pháp đều bị trừng trị theo pháp luật. Ai vi phạm hợp đồng kinh tế, đều bị xử phạt và phải bồi thường. Đó là chính sách nhất quán với mọi công dân, không phân biệt họ thuộc thành phần kinh tế nào''6, ''Tôn trọng lợi ích chính đáng của những hoạt động kinh doanh hợp pháp, có ích cho xã hội. Ngăn chặn và xử lý nghiêm khắc các nguồn thu nhập bất chính'', ''Nghiêm trị những kẻ phạm pháp bất kỳ ở cương vị nào'', ''Bảo đảm sự công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi công dân, chống đặc quyền, đặc lợi''7.
Quan điểm của Đảng về nguyên tắc phân phối từ Đại hội VII đến Đại hội XI
Văn kiện Đại hội VII đã có diễn đạt mới về nguyên tắc phân phối so với Văn kiện Đại hội VI. Văn kiện Đại hội VII viết: ''Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu”8, ''Lấy phân phối theo lao động làm hình thức chính, khuyến khích làm giàu đi đôi với giảm số nghèo, nâng cao phúc lợi xã hội phù hợp với trình độ phát triển kinh tế''9. Tuy nhiên, ''nhiều hình thức phân phối'' là những hình thức phân phối nào? Vấn đề này chưa được văn kiện của Đại hội VII giải thích rõ. Hội nghị đại biểu toàn quốc giũa nhiệm kỳ khoá VII khẳng định: ''Phân phối theo lao động là chủ yếu, khuyến khích và đãi ngộ xứng đáng các tài năng, đồng thời phân phối theo nguồn vốn đóng góp vào sản xuất kinh doanh''10. So với Đại hội VII, Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII đã chỉ rõ một hình thức phân phối khác ngoài phân phối theo lao động; đó là phân phối theo nguồn vốn đóng góp vào sản xuất kinh doanh.
Văn kiện của Đại hội VIII không nói đến nguyên tắc ''phân phối theo nguồn vốn đóng góp vào sản xuất kinh doanh''. Văn kiện Đại hội VIII ghi: ''Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất - kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội''11. Có thể hiểu trong ''phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất - kinh doanh'' có phân phối theo nguồn vốn. Tuy nhiên, cụm từ ''phân phối theo nguồn vốn đóng góp vào sản xuất kinh doanh'' thể hiện sự khác biệt rõ hơn so với ''phân phối theo lao động''. Ngoài ra, Đại hội VIII diễn đạt rõ hơn so với Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII và các đại hội trước đó về khi nói đến ''phân phối thông qua phúc lợi xã hội'' (trước đó chỉ nói ''nâng cao phúc lợi xã hội phù hợp với trình độ phát triển kinh tế'').
Đại hội IX phục hồi trở lại cụm từ ''phân phối theo nguồn vốn đóng góp, Văn kiện Đại hội IX viết: ''Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội”12. Đại hội X và Đại hội XI tiếp tục khẳng định phân phối theo mức đóng góp vốn. Văn kiện Đại hội X viết: ''thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội''13. Văn kiện Đại hội XI viết: ''Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; các nguồn lực được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cũng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội''14. Văn kiện Đại hội XI bổ sung thêm phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội bên cạnh phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Như vậy, Văn kiện Đại hội XI diễn đạt nguyên tắc phân phối rõ hơn và đầy đủ hơn so với văn kiện trước đó của Đảng.
Thực chất của nguyên tắc phân phối mà Đại hội XI xác định
Tên gọi của nguyên tắc phân phối có sự khác nhau ở các văn kiện đại hội. Tuy nhiên, trên thực tế từ 1986 với chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần chúng ta đã thực hiện nguyên tắc phân phối như đã nói trong Văn kiện Đại hội XI (''phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội''). Vậy nguyên tắc đó khác với nguyên tắc phân phối theo lao động được thực hiện trước đó như thế nào?
Cả hai nguyên tắc phân phối nói trên đều căn cứ vào cống hiến của mỗi người cho xã hội. Cống hiến có nhiều hình thức khác nhau song vẫn có thể quy về hai hình thức cơ bản là cống hiến sức lao động và cống hiến vốn.
Nguyên tắc phân phối mà Đảng ta chủ trương thực hiện trong thời kỳ trước đổi mới là nguyên tắc phân phối theo lao động (mặc dù trên thực tế chúng ta không thực hiện đúng nguyên tắc phân phối này, thay vào đó chúng ta đã thực hiện sự phân phối bình quân). Nguyên tắc phân phối theo lao động chỉ căn cứ và sự cống hiến sức lao động. Nếu thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động thì giá trị của tổng sản phẩm xã hội sẽ được chia thành hai phần: phần thứ nhất được dành để tái sản xuất và để giải quyết các vấn đề xã hội chung, để đóng góp vào quỹ phúc lợi xã hội (từ đó phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội); phần thứ hai sẽ được phân phối cho các cá nhân theo mức cống hiến bằng sức lao động của họ cho xã hội (bao gồm cả cống hiến bằng sức lao động chân tay và cống hiến bằng sức lao động trí óc, cống hiến của người lao động quản lý và người lao động không tham gia quản lý, cống hiến của người lao động trực tiếp và cống hiến của người lao động gián tiếp cho quá trình sản xuất của xã hội (tức là cống hiến của tất cả những người lao động làm việc trong mọi lĩnh vực không thể thiếu của xã hội).
Nguyên tắc phân phối được xác định ở Đại hội XI vừa căn cứ vào sự cống hiến sức lao động vừa căn cứ vào sự cống hiến vốn. Nếu thực hiện nguyên tắc phân phối vừa theo lao động vừa theo vốn thì giá trị của tổng sản phẩm xã hội sẽ được chia thành ba phần: phần thứ nhất được dành để tái sản xuất và để giải quyết các vấn đề xã hội chung, để đóng góp vào quỹ phúc lợi xã hội (từ đó phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội); phần thứ hai sẽ được phân phối cho các cá nhân theo mức cống hiến bằng sức lao động của họ cho xã hội (bao gồm cả cống hiến bằng sức lao động chân tay và cống hiến bằng sức lao động trí óc, cống hiến của người lao động quản lý và người lao động không tham gia quản lý, cống hiến của người lao động trực tiếp và cống hiến của người lao động gián tiếp cho quá trình sản xuất của xã hội (tức là cống hiến của tất cả những người lao động làm việc trong mọi lĩnh vực không thể thiếu của xã hội); phần thứ ba sẽ được phân phối cho các cá nhân theo mức cống hiến vốn. Trong ba phần như trên, phần thứ nhất và phần thứ hai cũng có ở nguyên tắc, phân phối theo lao động; riêng phần thứ ba không có ở nguyên tắc phân phối theo lao động. Tỷ lệ giữa ba phần này được xác định căn cứ vào tình hình cụ thể của từng địa phương và từng giai đoạn. Với nguyên tắc phân phối vừa theo lao động vừa theo vốn thì một số người dù không lao động vẫn có thể có thu nhập. Những người vừa có cống hiến vốn cho nên sản xuất của xã hội vừa tham gia lao động (lao động quản lý hay lao động không quản lý, lao động chân tay hay lao động trí óc, lao động trực tiếp hay lao động gián tiếp) thì được hưởng ở cả 3 phần nói trên. Những người tham gia lao động mà không có cống hiên vốn cho nền sản xuất của xã hội thì chỉ được hưởng ở phần thứ nhất và phần thứ hai. Những người không có lao động và không có cống hiến vốn thì chỉ được hưởng phần thứ nhất. Trong phần trên, phần thứ nhất là rất quan trọng vì xã hội nào cũng phải tái sản xuất và giải quyết các vấn đề xã hội chung (như khắc phục thiên tai, dịch bệnh...), hơn nữa xã hội nào cũng có những người không có sức lao động và không có vốn. Việc dành một phần thu nhập (với tỷ lệ phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng nước) để phân phối cho những người thuộc diện này là chính sách nhân đạo mà các nhà nước đều thực hiện (việc này được mọi người ủng hộ và được coi là công bằng vì đó là điều cần thiết đối với sự phát triển xã hội).
Nguyên tắc phân phối mà Đại hội XI xác định không loại trừ nguyên tắc phân phối theo lao động (nguyên tắc đầu bao hàm nguyên tắc sau như là một bộ phận). Trong nguyên tắc phân phối mà Đại hội XI xác định thì phần dành để phân phối theo lao động là chủ yếu. Bởi vì, người lao động là người tạo ra sản phẩm cho xã hội để nhờ đó mới có cái mà phân phối, theo lợi ích của người lao động không được bảo đảm thì tính tích cực của họ sẽ không được phát huy mức cao nhất, điều đó dẫn đến sản xuất trì trệ, năng suất lao động thấp. Bên cạnh đó nguyên tắc phân phối mà Đại hội XI xác định còn bao hàm cả sự phân phối theo mức đóng góp vốn. Tiền lãi thu được sau khi cho vay (cho các ngân hàng vay hoặc cho các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân vay) hoặc tiền thu được từ cổ phần đóng góp trong các doanh nghiệp là hình thức dễ nhìn thấy của thu nhập do góp vốn chứ không phải do góp sức lao động. Nguyên tắc phân phối do Đại hội XI xác định đã thể hiện một sự đổi mới dứt khoát quan trọng trong tư duy về nguyên tắc phân phối vì mục tiêu công bằng xã hội. Bởi vì trong thời kỳ trước đổi mới, nguyên tắc phân phối theo lao động được coi là nguyên tắc phân phối duy nhất đúng để thực hiện công bằng xã hội; còn từ khi đổi mới đến nay nguyên tắc phân phối để thực hiện công bằng xã hội không phải là nguyên tắc phân phối theo lao động mà là nguyên tắc phân phối mà Đại hội XI xác định.
Với việc thực hiện nguyên tắc phân phối được nêu ra ngay từ Đại hội VI và ngày càng được hoàn chỉnh thêm qua Đại hội VII, Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII, Đại hội VIII, Đại hội IX, Đại hội X và nhất là Đại hội XI, chúng ta đã thực hiện mục tiêu công bằng xã hội trong thời kỳ đổi mới tốt hơn so với trong thời kỳ trước đổi mới. Trên chặng đường lâu dài đi đến mục tiêu ''dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh'', nội dung của nguyên tắc phân phối có thể còn được tiếp tục bổ sung và hoàn thiện thêm. Tuy nhiên, nếu thực hiện đúng nguyên tắc phân phối được Đại hội XI xác định thì nước ta có thể đạt được mục tiêu công bằng xã hội ngay trong giai đoạn còn nghèo khó hiện nay.
___________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.12.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.62.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.72.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.88.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.45.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.61-62.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.88-89.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.10.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.9.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khóa VII), Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, tr.47.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.92.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.88.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.26.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.74.
Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính trong giai đoạn mới theo tinh thần Đại hội XI của Đảng Hiếu Giang
Tạp chí Cộng sản
1. Quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ của cải cách hành chính ở nước ta đã được đề cập trong các văn kiện Hội nghị Trung ương 8 khoá VII, Hội nghị Trung ương 3 và 7 khoá VIII, trong các nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, IX và X. Hội nghị Trung ương 8 khoá VII xác định cải cách nền hành chính là nhiệm vụ trọng tâm của việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước đã đề ra mục tiêu: xây dựng một nền hành chính trong sạch, có đủ năng lực, sử dụng đúng quyền lực và từng bước hiện đại hóa để quản lý có hiệu lực, hiệu quả công việc của nhà nước, thúc đẩy xã hội phát triển lành mạnh, đúng hướng, phục vụ đắc lực đời sống nhân dân, xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong xã hội.
Nền hành chính trong hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước có chức năng trực tiếp tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, luật pháp và nghị quyết của Quốc hội. Thực tiễn cho thấy, có chính sách và pháp luật đúng chưa đủ, cần phải có nền hành chính mạnh, có hiệu lực thì chính sách và luật pháp mới đi vào cuộc sống. Hơn nữa, trong quá trình tổ chức thực hiện nền hành chính còn góp phần tích cực vào việc bổ sung, phát triển chính sách, pháp luật. Các cơ quan hành chính là các cơ quan trực tiếp xử lý công việc hằng ngày của nhà nước, thường xuyên tiếp xúc với dân giải quyết các yêu cầu của dân, là cầu nối quan trọng giữa Đảng, Nhà nước với dân, nhân dân đánh giá chế độ, đánh giá Đảng trước hết là thông qua hoạt động của bộ máy hành chính.
Cải cách hành chính ngoài yêu cầu của đổi mới phát triển đất nước, công nghiệp hóa, hiện đại hóa xây dựng nền kinh tế thị trường mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, cải cách nền hành chính còn do yêu cầu bức xúc của người dân: không muốn bị phiền hà, sách nhiễu; được pháp luật bảo vệ... Nền hành chính có trách nhiệm chính trong việc đáp ứng yêu cầu đó. Không phải ngẫu nhiên Trung ương Đảng đi ra mục tiêu, nhiệm vụ của cải cách hành chính, xây dựng nền hành chính dân chủ phục vụ đắc lực nhân dân; cải cách hành chính là để giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cơ quan hành chính với tổ chức và nhân dân. Đây là vấn đề liên quan đến bản chất của nền hành chính nhà nước ta - Nền hành chính trong nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, nhân dân là chủ thể duy nhất và tối cao của quyền lực nhà nước.
Cải cách hành chính từ khi có Nghị quyết Trung ương 8 khóa VII đến nay được triển khai trên tất cả các cấp hành chính theo hướng đơn giản hóa, tạo môi trường thuận lợi, thông thoáng cho sự phát triển kinh tế - xã hội; bảo đảm lợi ích chính đáng và quyền làm chủ của nhân dân. Tập trung rà soát, loại bỏ những quy định, những thủ tục không phù hợp, không cần thiết, gây phiền hà, sách nhiễu, khó khăn cho người dân và doanh nghiệp. Đồng thời sửa đổi, bổ sung những quy định và cơ chế chính sách, tạo thuận lợi cho sản xuất kinh doanh của Doanh - Dân, cải thiện môi trường đầu tư, xây dựng, cấp các loại giấy phép, quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản, giải quyết nhanh và có kết quả các yêu cầu chính đáng của người dân, qua đó cải thiện mối quan hệ giữa các cơ quan hành chính nhà nước với nhân dân, lấy lại niềm tin của nhân dân đối với các cơ quan và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước.
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng ta đã chỉ rõ sự cần thiết phải tiến hành cải cách hành chính, coi đây là một giải pháp quan trọng góp phần đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Chúng ta đã tiến hành cải cách hành chính từng bước thận trọng và đã thu được nhiều kết quả rất đáng khích lệ. Cải cách hành chính ở Việt Nam được triển khai trên nhiều nội dung: cải cách thể chế, cải cách tổ chức bộ máy hành chính, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, cải cách tài chính công, hiện đại hóa nền hành chính, trong đó cải cách thủ tục hành chính là một khâu quan trọng và được đặt ra ngay từ giai đoạn đầu của tiến trình cải cách. Thủ tục hành chính không chỉ liên quan đến công việc nội bộ của một cơ quan, một cấp chính quyền, mà còn đến các tổ chức và công dân trong mối quan hệ với Nhà nước. Các quyền, nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp hay ở các văn bản pháp luật khác có được thực hiện hay không, thực hiện như thế nào về cơ bản đều phải thông qua thủ tục hành chính do các cơ quan, các cấp chính quyền nhà nước quy định và trực tiếp giải quyết. Nhận rõ mục đích, ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác cải cách thủ tục hành chính, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 38/CP ngày 4 tháng 5 năm 1994 về cải cách một bước thủ tục hành chính mà mục tiêu quan trọng là hướng đến việc giải quyết tốt hơn các công việc của công dân, tổ chức đặc biệt là cộng đồng doanh nghiệp. Yêu cầu của Nghị quyết là “nhằm tạo bước chuyển căn bản trong quan hệ và thủ tục giải quyết công việc giữa các cơ quan nhà nước với nhau, giữa cơ quan nhà nước với tổ chức xã hội và giữa cơ quan nhà nước với công dân”. Cùng với yêu cầu phát triển và hội nhập, cải cách thủ tục hành chính ở nước ta từng bước được định hình về nội dung, phương hướng triển khai với những bước đi, cách làm nhằm bảo đảm bộ máy hành chính phục vụ tốt hơn nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Trên lộ trình thực hiện Nghị quyết số 38/CP, cơ chế một cửa đã được thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh và sau đó là tại nhiều địa phương khác. Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 – 2010 ban hành kèm theo Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17 tháng 9 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ đã xác định phải đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính với mục tiêu cơ bản là: Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính nhằm bảo đảm tính pháp lý, hiệu quả, minh bạch và công bằng trong khi giải quyết công việc hành chính. Loại bỏ những thủ tục rườm rà, chồng chéo dễ bị lợi dụng để tham nhũng, gây khó khăn cho dân. Mở rộng cải cách thủ tục hành chính trên tất cả các lĩnh vực, xóa bỏ kịp thời những quy định không cần thiết về cấp phép và thanh tra, kiểm tra, kiểm soát, kiểm định, giám định. Trên tinh thần đó, những năm qua công tác cải cách thủ tục hành chính trở thành nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt trong chương trình công tác của Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương. Nghị quyết Trung ương 5 Khoá X về tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước đã nêu rõ: Tập trung đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, xem đây là khâu đột phá để tạo môi trường thuận lợi, minh bạch cho mọi hoạt động của người dân và doanh nghiệp, phải tiến hành rà soát các thủ tục hành chính trên tất cả các lĩnh vực, chỉ rõ những thủ tục, những quy định sai trái, không phù hợp và nguyên nhân cụ thể để kiên quyết sửa đổi. Đây là khâu cản trở sự phát triển và gây nhiều bức xúc trong nhân dân, phải tập trung chỉ đạo tạo sự chuyển biến nhanh trong lĩnh vực này. Thực hiện Nghị quyết Trung ương, việc tiếp tục cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính gắn với việc thực hiện cơ chế “một cửa” đã được triển khai mạnh và thu được những kết quả bước đầu tích cực. Các bộ, ngành và địa phương đã tích cực rà soát, sửa đổi một số thủ tục hành chính liên quan nhiều đến người dân, doanh nghiệp, những vấn đề bức xúc đã được sửa đổi theo hướng đơn giản hoá, thuận tiện. Đặc biệt, thủ tục hành chính trên những lĩnh vực bức xúc, liên quan trực tiếp tới người dân và doanh nghiệp như đất đai, xây dựng, hộ tịch, hộ khẩu, đầu tư, đăng ký doanh nghiệp, hải quan, thuế, kho bạc, xuất nhập khẩu v.v... đã được rà soát nhiều lần, loại bỏ những thủ tục hành chính phức tạp, gây phiền hà, bước đầu tạo lập lại niềm tin của người dân và doanh nghiệp vào hoạt động phục vụ của các cơ quan công quyền.
Những kết quả tích cực đã đạt được của cải cách hành chính là đáng ghi nhận: bộ mặt của nền hành chính nhà nước đã bước đầu thay đổi, hướng tới phục vụ dân; xã hội, hệ thống thể chế được xây dựng và hoàn thiện hơn, tổ chức bộ máy tinh gọn hơn và chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức được nâng lên một bước, cải cách hành chính đã thực sự góp phần vào những thành tựu phát triển kinh tề - xã hội, ổn định chính trị và trật tự xã hội ở nước ta trong thời gian qua. Tuy nhiên, vẫn còn những mặt hạn chế:
Tốc độ cải cách hành chính còn chậm, chưa nhất quán, hiệu quả còn thấp so với mục tiêu đặt ra là “đến năm 2010 xây dựng được một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại”. Nhìn một cách tổng thể, những kết quả đạt được chưa tương xứng với yêu cầu, quy mô đổi mới toàn diện theo tinh thần Nghị quyết của Đảng và mục tiêu chung mà chương trình tổng thể đề ra; kết quả đạt được chưa bền vững.
Hệ thống thể chế thiếu đồng bộ, thống nhất, còn chồng chéo, đảm bảo về số lượng nhưng chất lượng còn hạn chế; Có sự giảm đầu mối trực thuộc Chính phủ, nhưng bộ máy bên trong các bộ, ngành còn chưa giảm. Bộ máy chính quyền địa phương thiếu ổn định, thường xuyên thay đổi. Thiếu quy hoạch tổng thể đơn vị hành chính các cấp. Công tác kiểm tra sau phân cấp còn buông lỏng.
Chưa xây dựng cơ cấu cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính và thực hiện chưa tốt việc đào tạo trước khi bổ nhiệm; chưa có cơ chế quy định trách nhiệm của người đứng đầu và đánh giá được chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức sau đào tạo; công tác cải cách tiền lương còn chậm; Cải cách tài chính công thực hiện mới chỉ là bước đầu, kết quả đạt được còn hạn chế. Các thể chế về cải cách tài chính công chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời cho phù hợp với thực tế.
Áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001- 2000 vào hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước theo Quyết định số 144/2006/QĐ-TTg ngày 20-6-2006 của Thủ tướng Chính phủ đạt được còn hạn chế. Việc hiện đại hoá công sở không đồng bộ, dẫn tới manh mún, phân tán. Kết quả đầu tư xây dựng trụ sở xã vẫn chưa thực hiện được như Chương trình tổng thể đề ra, ứng dụng công nghệ thông tin không đạt mục tiêu của Chương trình tổng thể.
2. Tiếp tục cải cách hành chính trong giai đoạn mới theo tinh thần Nghị quyết XI của Đảng
Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ XI của Đảng gần 20 lần nói đến vấn đề cải cách hành chính. Điều này cho thấy Đảng ta đặc biệt quan tâm đến vấn đề này. Quan điểm chỉ đạo của Đại hội XI là: “Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập mới trường cạnh tranh lành mạnh và cải cách hành chính”(1), “bãi bỏ các thủ tục hành chính gây phiền hà cho tổ chức và công dân”(2), “tiếp tục hoàn thiện và đẩy mạnh cải cách hành chính phục vụ phòng, chống tham nhũng lãng phí, tập trung vào các lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng, lãng phí”(3), “đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong Đảng khắc phục tình trạng rườm rà, bất hợp lý về thủ tục”(4), “đẩy mạnh cải cách lập pháp, hành pháp và tư pháp”(5), “thực hiện chương trình tổng thể cải cách hành chính và hiện đại hóa nền hành chính quốc gia”(6).
Từ quan điểm trên của Đảng, Chương trình cải cách hành chính giai đoạn 2011-2020 là vấn đề chiến lược. Vì vậy, các nội dung cải cách phải bảo đảm tính hệ thống, tính khả thi của quá trình xây dựng một nền hành chính mới, một mô hình tổ chức hành chính phù hợp với thời kỳ phát triển mới, hội nhập của đất nước. Do đó, trong thời gian tới, các nội dung cần ưu tiên, tập trung thực hiện là:
Một là, tiếp tục hoàn chỉnh thể chế quản lý nhà nước mới bảo đảm tính đồng bộ, tính hệ thống, tính khả thi của thể chế pháp luật gắn với mục tiêu cải cách, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, bảo đảm công khai, minh bạch và tính dễ áp dụng trong thực hiện các quan hệ nhà nước với dân. Công chức và cơ quan nhà nước chỉ được phép làm những gì mà pháp luật quy định.
- Hai loại thể chế tiếp tục được ưu tiên hoàn chỉnh là: thứ nhất, thể chế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - hội nhập kinh tế quốc tế; thứ hai, thể chế tổ chức, vận hành của bộ máy Chính phủ và chính quyền các cấp phù hợp.
- Tiếp tục thực hiện Đề án 30, điều chỉnh hợp lý các quy định về thủ tục hành chính trong các văn bản luật, pháp lệnh và pháp quy của Chính phủ tới năm 2012, kiểm soát chặt chẽ các quy định về thủ tục hành chính trong các văn bản pháp luật mới ban hành. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế “một cửa – liên thông và hiện đại” ở tất cả các cấp.
- Sớm ban hành Luật trưng cầu dân ý; Luật về quyền được cung cấp thông tin của dân; Luật về tổ chức xã hội.
Hai là, tiếp tục cải cách, cơ cấu lại Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ và chính quyền địa phương các cấp.
- Xác định rõ nội dung, quyền, trách nhiệm quản lý hành chính vĩ mô của Chính phủ, làm rõ nhiệm vụ của tập thể Chính phủ, vai trò, nhiệm vụ, thẩm quyền trách nhiệm của cá nhân Thủ tướng Chính phủ trong thực hiện quyền hành pháp - hành chính mới.
- Tổ chức bộ máy Chính phủ nhỏ, các bộ, cơ quan ngang bộ với số lượng khoảng 20 theo mô hình tổ chức bộ đa ngành, đa lĩnh vực có chức năng quản lý nhà nước thống nhất về ngành, lĩnh vực trong phạm vi cả nước và cơ cấu Chính phủ phù hợp để ổn định lâu dài cho quản lý phát triển. Xác định rõ vai trò của bộ trưởng, là người đứng đầu hành chính về ngành, lĩnh vực và trách nhiệm tham gia hoạt động chung của Chính phủ với tư cách thành viên Chính phủ.
- Kiên quyết tách chức năng quản lý hành chính nhà nước của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bộ, bộ trưởng khỏi chức năng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước, sự nghiệp, dịch vụ công của các tổ chức sự nghiệp theo yêu cầu độc lập và tự chủ theo pháp luật. Chính phủ tổ chức cơ quan chuyên trách quản lý thống nhất các doanh nghiệp nhà nước. Chính phủ không điều hành nền kinh tế thị trường mà giữ vai trò định hướng chiến lược, tạo khuôn khổ thể chế cho kinh tế mọi thành phần phát triển, kiểm soát, điều tiết và can thiệp vào nền kinh tế khi cần thiết. Đây là bản chất quản lý nhà nước phù hợp với nền kinh tế thị trường.
- Thực hiện tổ chức lại chính quyền địa phương theo 2 cấp chính quyền địa phương hoàn chỉnh có hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân tại tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cơ sở xã, thị trấn, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và một cấp hành chính ở huyện, quận, phường có ủy ban hành chính.
- Tiến hành phân công, phân cấp mạnh hơn cho các cấp chính quyền để phát huy vai trò chủ động, tích cực, sáng tạo và tự chịu trách nhiệm của chính quyền từng cấp trong thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước và phát triển trên địa bàn. Sớm có bộ luật về phân cấp - phân quyền.
Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức bảo đảm chất lượng theo hướng chuyên nghiệp, có chế độ tiền lương tương xứng.
- Tập trung rà soát đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan chính quyền các cấp căn cứ vào tiêu chuẩn chức danh công chức mới theo vị trí làm việc của công chức. Tiến hành cơ cấu lại công chức các cấp làm cơ sở cho tiếp tục tinh giản biên chế, đồng thời tuyển chọn, bổ sung lực lượng công chức mới bảo đảm các tiêu chuẩn vị trí công chức.
- Tiến hành cải cách cơ bản tiền lương và thu nhập của công chức có sức cạnh tranh với khu vực tư. Đây là vấn đề có tính đột phá của việc nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, là động lực của công chức trong thực thi công vụ một cách tận tụy, trung thành với ý thức trách nhiệm phục vụ cao, thực sự là “công bộc” của dân.
- Thực hiện triệt để thi tuyển cạnh tranh đầu vào công chức và thi tuyển vào các vị trí lãnh đạo, quản lý các cấp để thực sự tuyển chọn được người tài, có năng lực, phẩm chất vào nền công vụ. Chấm dứt việc tuyển chọn, bổ nhiệm vào công chức rồi mới đi học. Thực hiện đào tạo, bồi dưỡng tiền công vụ và trước bổ nhiệm và chức vụ lãnh đạo, quản lý. Xây dựng quy định về chế độ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hằng năm trong nền công vụ về nghiệp vụ, về kỹ năng hành chính và các chủ trương, chính sách mới.
Bốn là, về cải cách tài chính công.
Vấn đề sử dụng tài chính công có hiệu quả là yêu cầu của cải cách nền hành chính, giai đoạn này cần ưu tiên vào một số nội dung:
- Làm rõ nội dung quản lý ngân sách, thẩm quyền, trách nhiệm cụ thể của từng cấp ngân sách tương ứng với từng cấp chính quyền (bộ, ngành, tỉnh, cơ sở) trong việc tổ chức thu, chi ngân sách.
- Xây dựng được chế độ dự toán ngân sách theo kết quả đầu ra và mục tiêu quản lý của từng đơn vị hành chính, khắc phục việc cấp ngân sách theo biên chế.
- Tiến hành cải cách, cơ cấu lại ngân sách nhà nước theo hướng hợp lý, khoa học, được sử dụng đúng và hiệu quả; điều chỉnh cơ cấu giữa đầu tư cơ sở hạ tầng, nhiệm vụ quốc phòng an ninh, xóa đói giảm nghèo với chi thường xuyên cho bộ máy quản lý và chi tiền lương công chức xứng đáng.
- Hoàn thiện chế độ kiểm toán nhà nước, kiểm soát độc lập và kiểm toán nội bộ bất kỳ cơ quan, tổ chức nào có sử dụng ngân sách nhà nước.
Năm là, hiện đại hóa nền hành chính.
- Chuẩn hóa theo tiêu chuẩn, từng bước hiện đại hóa trụ sở làm việc của các cơ quan, tổ chức nhà nước các cấp. Hoàn chỉnh các mẫu quy hoạch, thiết kế trụ sở từ cấp xã, cấp huyện, cấp tỉnh và bộ, ngành trung ương theo hướng tổ chức các trung tâm hành chính, tạo thuận lợi cho người dân tới giải quyết công việc, lấy vị trí giao dịch thuận lợi với dân làm trung tâm của các trụ sở, tập trung vào nơi tổ chức giao dịch “một cửa liên thông - hiện đại”.
- Áp dụng triệt để việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý hành chính các cấp làm cơ sở cho việc tổ chức, chỉ đạo, điều hành kịp thời, chính xác các nhiệm vụ giữa các cấp chính quyền từ trung ương tới cơ sở và được xử lý một cách hệ thống. Mặt khác, ứng dụng công nghệ thông tin để thực hiện công khai, minh bạch các chính sách, pháp luật và quy định hành chính với người dân, tổ chức, doanh nghiệp, tạo điều kiện nhanh nhất trong việc giải quyết các công việc của dân, tránh các biểu hiện sách nhiễu, phiền hà và tham nhũng./.
Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng trong công cuộc đổi mới đất nước thời gian tới PGS, TS. Vũ Văn Viên
Viện Triết học, Viện KHXH VN
Một trong những bài học lớn dẫn tới những thành công trong hai mươi năm đổi mới mà Đảng ta đã rút ra tại Đại hội X là: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân”. Bài học này bao trùm toàn bộ những hoạt động cơ bản của Đảng nhằm lãnh đạo nhân dân ta tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Tiếp tục tinh thần ấy, Đại hội lần thứ XI cũng chỉ rõ: “...nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn với Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân hiện nay”.
Vấn đề nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng là một vấn đề được toàn Đảng, toàn dân hết sức quan tâm. Nó đã được đặt ra trong nhiều hội thảo khoa học, nhiều kỳ họp của Ban Chấp Hành Trung ương Đảng cũng như các tổ chức đảng các cấp. Có thể nói, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng là một đòi hỏi khách quan, cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Thực tiễn hơn hai mươi năm đổi mới cho thấy: Một mặt, đường lối đổi mới đo Đảng khởi xướng và lãnh đạo thực hiện là hoàn toàn đúng đắn, đã đem lại những thành tựu to lớn, tạo ra những tiền đề cho phát triển kinh tế - xã hội với nhịp độ nhanh hơn, chất lượng cao hơn. Mặt khác, nước ta đang đứng trước nhiều thách thức lớn như nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế; tình trạng suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận nhân dân, cán bộ, đảng viên,... Để khắc phục các nguy cơ, đẩy nhanh nhịp độ và chất lượng phát triển kinh tế - xã hội, việc nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng là yêu cầu khách quan hết sức cấp bách.
Năng lực lãnh đạo của Đảng là yếu tố quan trọng quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới, của sự nghiệp phát triển đất nước. Năng lực lãnh đạo càng cao thì hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước càng lớn.
Để làm rõ điều này, trước hết chúng ta hãy phân tích về một số biểu hiện về vai trò năng lực lãnh đạo của Đảng. Thứ nhất, chúng ta thấy rằng, năng lực lãnh đạo của Đảng trước hết được thể hiện qua việc xây dựng cương lĩnh, đường lối, chủ trương, kế hoạch... phát triển đất nước gọi tắt là việc xây dựng các quyết sách và tổ chức thực hiện các quyết sách ấy của các cấp ủy đảng, từ Ban Chấp hành Trung ương đến các cấp uỷ cơ sở cũng như của các cá nhân đảng viên nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong các cơ quan Đảng và Nhà nước, tổ chức chính trị- xã hội. Cũng từ đó có thể khẳng định: Năng lực lãnh đạo của Đảng được thể hiện tập trung ở các khía cạnh:
Một là, năng lực xây dựng các quyết sách. Việc xây dựng các quyết sách ở các cấp khác nhau cũng có những biểu hiện khác nhau, ở cấp Trung ương, đó là việc xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách, kế hoạch chung... cho sự phát triển đất nước; ở các địa phương, ngành - đó là việc xây dựng chủ trương, kế hoạch phát triển của địa phương, của ngành. Việc xây dựng các quyết sách đúng đắn, khả thi đem lại hiệu quả cao phụ thuộc vào việc nhận thức một cách khoa học thực trạng đối tượng mình quản lý, bối cảnh xung quanh và mục tiêu cần đạt được. Hiệu quả của việc nhận thức như vậy rõ ràng phụ thuộc vào năng lực lãnh đạo của chủ thể (tập thể, cá nhân). Năng lực lãnh đạo của chủ thể càng phát triển thì việc xây dựng các quyết sách càng đúng đắn và hiệu quả đối với cuộc sống càng cao.
Hai là, năng lực tổ chức thực tiễn. Tổ chức thực tiễn bao gồm hai bộ phận: Vận dụng các quyết sách vào thực tiễn; Tổng kết thực tiễn rút ra những bài học kinh nghiệm nhằm điều chỉnh các quyết sách đã có hoặc xây dựng các quyết sách mới. Việc vận dụng các quyết sách vào cuộc sống và tổng kết thực tiễn rõ ràng cũng phụ thuộc vào năng lực lãnh đạo của chủ thể. Năng lực lãnh đạo càng cao thì hiệu quả vận dụng, tổng kết thực tiễn càng lớn.
Thứ hai, cũng cần phải nhấn mạnh rằng, năng lực lãnh đạo của Đảng được thể hiện thông qua năng lực lãnh đạo của các tổ chức đảng, của các đảng viên là cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành cũng như của đội ngũ cán bộ, đảng viên nói chung. Cho nên, nói đến năng lực tư duy khoa học của chủ thể cũng là muốn nói đến năng lực lãnh đạo của các cán bộ lãnh đạo Đảng, chính quyền các cấp – những người giữ vị trí trọng trách về sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội. Đảng ta coi: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng”.
Nhận thấy việc nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng gắn liền với việc nâng cao năng lực lãnh đạo của các đảng viên giữ các cương vị lãnh đạo, quản lý nói riêng, chất lượng đảng viên nói chung, Đại hội VI khẳng định: “Đổi mới, tăng cường công tác quản lý, phát triển đảng viên, bảo đảm chất lượng đảng viên theo yêu cầu của Điều lệ Đảng; phát huy tính tiên phong, gương mẫu, chủ động sáng tạo của đội ngũ Đảng viên trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao”.
Từ thực tiễn thành công và chưa thành công của công cuộc đổi mới thời gian qua, có thể khẳng định, để thực hiện thắng lợi quá trình đổi mới trong giai đoạn 2011-2020, việc nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng trở thành một yêu cầu cấp bách. Một yêu cầu khách quan nữa của việc phải nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng là sự thay đổi nhanh chóng và mạnh mẽ tình hình trong và ngoài nước trong thời gian vừa qua và tương lai.
Tuy nhiên, việc nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng không thể chỉ là dừng lại ở lời nói, ở khẩu hiệu, ở ý thức của mỗi đảng viên mà phải có chủ trương việc làm cụ thể. Từ những đòi hỏi khách quan và tình hình chủ quan, chúng tôi cho rằng, một số công việc trước mắt cần phải làm ngay để nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng là:
Thứ nhất, phải đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Trong hơn 20 năm đổi mới, phương thức lãnh đạo của Đảng đã có những đổi mới nhất định. Tuy nhiên, so với yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn mới thì vẫn còn nhiều bất cập. Chính vì vậy, để nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, chúng ta phải đổi mới chính ngay phương thức lãnh đạo của Đảng.
Chúng tôi cho rằng, trong việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, chúng ta cần phải tập trung giải quyết một số vấn đề sau đây:
1. Phải phân định rõ một cách có tính nguyên tắc đâu là sự lãnh đạo của Đảng đâu là sự quản lý của nhà nước. Chúng ta phải kiên quyết, khắc phục sự lấn lướt, sự bao biện, làm thay, dẫn đến tình trạng chồng chéo, “tranh công, đổ lỗi” giữa các cơ quan của Đảng với các cơ quan của nhà nước. Đã đến lúc cần xác định rõ vị thế của một Đảng cầm quyền, Đảng không làm thay công việc của nhà nước và phân định rõ trách nhiệm của Đảng, trách nhiệm của nhà nước, từ đó làm rõ trách nhiệm của các cá nhân lãnh đạo, quản lý, tránh tình trạng thành công thì mọi người đều nhận, thất bại thì không biết quy trách nhiệm cho ai.
2. Đổi mới phương thức xây dựng các quyết sách, xây dựng các nghị quyết làm sao cho rõ ràng, khả thi và có hiệu quả. Các quyết sách, nghị quyết được đưa ra không chỉ cho hay, cho đủ lệ mà phải được đưa vào cuộc sống. Chính vì vậy, các quyết sách, nghị quyết phải xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn và phải là kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn. Các quyết sách phải ngắn gọn, rõ ràng, tránh lập lờ, nước đôi, ai hiểu thế nào thì hiểu. Bên cạnh đó, việc xây dựng các quyết sách, nghị quyết cần đảm bảo tính khả thi và hiệu quả của chúng.
Thời gian qua có nhiều quyết sách, nghị quyết còn chung chung, chưa gắn với thực tế đất nước, vì vậy, tính khả thi thấp. Còn nhiều quyết sách vẫn nằm trên giấy. Vẫn còn tình trạng nhiều văn bản chưa kịp triển khai thì đã có văn bản mới. Chúng ta có quá nhiều quyết sách dài hạn mà thiếu quyết sách ngắn hạn, trước mắt. Từ đó mà các quyết sách ít khả thi, hiệu quả không cao.
3. Thực hiện dân chủ trong phương thức hoạt động của Đảng từ việc xây dựng các quyết sách đến sinh hoạt Đảng. Vì những lý do khách quan và chủ quan nào đó, trong thời gian qua hoạt động của Đảng nói chung, sinh hoạt Đảng nói riêng tính dân chủ chưa được phát huy đầy đủ. Đã đến lúc cần đổi mới nhận thức nguyên tắc tập trung dân chủ, hiểu cho đúng vấn đề này. Nguyên tắc này không loại trừ việc thảo luận công khai, dân chủ trong Đảng về các quyết sách và đi tới sự đồng thuận, nó cũng không loại trừ sự tham khảo ý kiến các cơ quan hữu quan, các nhà khoa học và nhân dân về các chủ trương, chính sách, văn kiện của Đảng. Đương nhiên, việc thảo luận, tham khảo phải đi vào thực chất tránh cách làm hình thức. Có như thế mới khơi dậy tính năng động, sáng tạo trong Đảng cũng như trong xã hội.
Thứ hai, phải chỉnh đốn Đảng, làm trong sạch Đảng, tăng cường sức chiến đấu của Đảng.
Để nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn mới, Đảng phải tự đổi mới, tiếp tục tự chỉnh đốn, xây dựng Đảng ngang tầm thời đại và với yêu cầu của công cuộc đổi mới giai đoạn 2011 -2020.
1. Đảng phải tự chỉnh đốn, đổi mới để thích nghi với tình hình mới. Đảng phải vượt lên trên những định kiến hẹp hòi, kiểu “ngựa quen đường cũ”, để dám đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước vận mệnh của quốc gia, dân tộc và trước nhân dân.
Đảng phải đổi mới cách ứng xử như thế nào để tranh thủ được sự giúp đỡ, hợp tác có hiệu quả của cộng đồng quốc tế, làm cơ sở cho sự phục hưng và phát triển đất nước.
Tư duy mới của Đảng phải vừa đảm bảo tính độc lập, tự chủ, vừa mang tính sáng tạo, khoa học, hướng đến cái mới thì nhằm đáp ứng được yêu cầu của thời cuộc. Chậm chạp, khép kín, lỗi thời, không theo kịp sự biến đổi của thời cuộc, cũng có nghĩa là tự loại bỏ mình ra ngoài lề cuộc sống.
2. Đẩy mạnh chống tham nhũng, làm trong sạch Đảng. Muốn nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, trước hết phải làm trong sạch Đảng, đấu tranh đi đến xóa bỏ tệ nạn tham nhũng. Đảng chỉ có thể giữ vững vai trò lãnh đạo của mình khi Đảng vẫn giữ được uy tín của mình trước nhân dân. Muốn vậy, Đảng phải thực sự trong sạch, loại bỏ được tham nhũng và các tệ nạn khác.
Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật”, Đảng cần phải dũng cảm nhìn nhận, phân tích khách quan, thấy rõ những “căn bệnh trầm kha” trong cơ thể Đảng là sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận, cán bộ, đảng viên; những tệ nạn xã hội đang sách nhiễu, lũng đoạn trong một số tổ chức đảng, chính quyền như tham nhũng, quan liêu, hối lộ, bè cánh, chạy chức, chạy quyền, gây mất đoàn kết trong nội bộ Đảng và trong nhân dân, v.v., để cắt bỏ, làm trong sạch Đảng; có như vậy cơ thể Đảng mới thật sự khoẻ mạnh, có sức sống, có năng lực lãnh đạo.
Một trong những việc làm trước mắt của đổi mới chỉnh đốn Đảng là phải đổi mới cơ chế tuyển chọn nhân tài, lãnh tụ của Đảng sao cho thật chính xác; kiên quyết loại bỏ và không để cho những phần tử cơ hội, biến chất chui vào bộ máy của Đảng, Nhà nước, nấp dưới danh nghĩa Đảng để trục lợi làm tổn thương uy tín của Đảng, lợi ích của nhân dân.
3. Nâng cao sức chiến đấu của Đảng. Khác với lãnh đạo trong chiến tranh, khác với lãnh đạo thời bao cấp, lãnh đạo công cuộc xây dựng và phát triển đất nước khó khăn, phức tạp hơn nhiều. Cùng với điều đó tình hình hiện nay cũng đã thay đổi. Chính vì vậy, các chủ trương, đường lối, chính sách, cũng như các quan hệ, ứng xử, giải pháp phải rất mềm dẻo, linh hoạt, uyển chuyển theo tinh thần mới đa phương hóa, đa dạng hóa song lại phải đúng nguyên tắc, đạt hiệu quả. Vì thế, toàn Đảng, từ Ban Chấp hành Trung ương đến các cán bộ, đảng viên của Đảng phải nâng cao sức chiến đấu để đủ sức phát hiện, nhận thức sự biến đổi của tình hình từ đó phải quyết đoán, sáng tạo, độc lập, tự chủ trong việc xây dựng các quyết sách. Có như thế, mới quyết định đưa ra mới chính xác, không rơi vào chủ quan, duy ý chí, mắc sai lầm, gây thiệt hại cho quốc gia, dân tộc.
Mặt khác, với chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn, lật đổ,... các thế lực thù địch cũng đang tìm mọi cách chống phá nước ta. Vì vậy, cùng với việc tranh thủ các cơ hội cho sự phát triển đất nước, chúng ta cần tỉnh táo, cảnh giác để có các đối sách phù hợp, đập tan các âm mưu đen tối của chúng.
Thời cuộc đã và đang đặt ra những trách nhiệm nặng nề cho toàn Đảng và nhân dân ta. Chỉ có nâng cao sức chiến đấu, Đảng ta mới nâng cao được năng lực lãnh đạo của mình, giữ vững được vị thế của một Đảng cầm quyền, thực hiện sứ mạng lịch sử mà nhân dân giao phó.
Thứ ba, nâng cao năng lực trí tuệ, đặc biệt là năng lực tư duy khoa học cho cán bộ đảng viên, trong đó có đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Trong thời đại ngày nay, để nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, chúng ta cần phải nâng cao năng lực trí tuệ của Đảng, trước hết là năng lực tư duy khoa học cho cán bộ, đảng viên. Thiếu những phẩm chất đó, Đảng nói chung và mỗi cán bộ, đảng viên nói riêng không thể lãnh đạo đất nước, quần chúng nhân dân thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Để thấy rõ hơn tác động của năng lực tư duy khoa học đối với năng lực lãnh đạo của Đảng, chúng ta có thể phân tích kỹ hơn về vai trò của năng lực tư duy khoa học đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo (các cấp) của Đảng.
Cũng như tư duy khoa học nói chung, năng lực tư duy khoa học có vai trò to lớn trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người nói chung, của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nói riêng. Khi khẳng định vai trò của tư duy (ý thức) đối với nhận thức và cải tạo thế giới, V.I.Lênin đã khẳng định: “ý thức con người không chỉ phản ánh thế giới khách quan mà còn tạo ra thế giới khách quan”(5). Khẳng định trên cho thấy: một mặt, thông qua hoạt động tư duy, con người có thể nhận thức đúng đắn được hiện thực khách quan; mặt khác, thông qua hoạt động thực tiễn, được chỉ đạo bởi các tri thức đúng đắn con người có thể cải biến hiện thực khách quan vì những lợi ích của mình. Cũng từ đó có thể khẳng định tư duy khoa học, năng lực tư duy khoa học có vai trò quan trọng cả đối với hoạt động nhận thức, cả với hoạt động thực tiễn. Dưới đây, chúng tôi sẽ đề cập đến từng khía cạnh nói trên.
Một là, năng lực tư duy khoa học có vai trò lớn đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong việc xây dựng các quyết sách, đó là việc xây dựng các đường lối, chủ trương, kế hoạch, trước hết là đưa ra các quyết định chiến lược trong phạm vi mình quản lý.
Xét trong phạm vi xây dựng các quyết sách, vai trò này thể hiện ở những nội dung sau:
1 - Năng lực tư duy khoa học giúp cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ thể xác lập trí thức đúng đắn về đối tượng. Để ra được các quyết sách về một vấn đề, đối tượng nào đó, cần phải hiểu đúng về nó trong trạng thái hiện tại cũng như xu hướng vận động, phát triển của nó trong tương lai. Đây được xem như sự nhận diện vấn đề. Các quyết sách đưa ra chỉ có hiệu quả nếu như chúng ta nhận thức được đúng bản chất của vấn đề. Việc nhận diện mơ hồ vấn đề sẽ dẫn đến việc đưa ra các quyết sách kém hiệu quả, thậm chí có hại.
2 - Năng lực tư duy khoa học giúp cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý (chủ thể) phân tích bối cảnh chung tác động đến việc giải quyết vấn đề (để đưa ra quyết sách). Nếu như việc nhận thức bản chất vấn đề chỉ liên quan đến phạm vi, lĩnh vực mà chủ thể phụ trách thì việc phân tích bối cảnh chung vượt ra ngoài phạm vi đó. Chẳng hạn, việc đưa ra chủ trương mở rộng việc đào tạo nghiên cứu sinh theo hệ tại chức, thì ngoài việc nhận thức về bản chất của quá trình đào tạo này trong hệ thống đào tạo sau đại học, chủ thể cần phải phân tích bối cảnh chung của đất nước, của khu vực để đảm bảo rằng việc thực hiện nó mang lại hiệu quả.
Việc tách rời vấn đề với bối cảnh, và những vấn đề liên quan khác sẽ dẫn đến các sai lầm siêu hình, phiến diện và đương nhiên kết quả nhận được sẽ rất hạn chế.
3 - Năng lực tư duy khoa học giúp cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý (chủ thể) đưa ra các quyết sách một cách hợp lý tối ưu. Trên cơ sở nắm được bản chất vấn đề, bối cánh chung, chủ thể bằng năng lực phán đoán, lựa chọn và luận chứng sẽ đưa ra các quyết sách. Đây là quá trình biến những tri thức (về vấn đề, về bối cảnh chung, về mục tiêu cần đạt được) đã lĩnh hội được thành các chủ trương đường lối, quyết định của chủ thể. Hiệu quả của các quyết định này phụ thuộc rất nhiều vào năng lực tư duy khoa học của chủ thể.
Hai là, năng lực tư duy khoa học có vai trò to lớn trong hoạt động tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo.
Hoạt động thực tiễn đặc thù của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là hoạt động tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối, kế hoạch, quyết định (các quyết sách) trong phạm vi mình phụ trách. Với loại hoạt động này, năng lực tư duy khoa học có một vai trò đặc biệt. Vai trò này được thể hiện cụ thể như sau:
l- Năng lực tư duy khoa học giúp cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý (chủ thể) hiểu biết sâu sắc, đúng đắn, chính xác nội dung các chủ trương, đường lối, chính sách, quyết định (gọi chung là các quyết sách) của cấp trên, của tập thể lãnh đạo cùng cấp trên địa bàn hoặc lĩnh vực mình phụ trách.
Đây là khâu rất quan trọng trong hoạt động tổ chức thực tiễn, bởi lẽ chỉ có hiểu đúng, chính xác các chủ trương, đường lối, chính sách, quyết định thì mới có thể làm (thực hiện) đúng và có hiệu quả, sự hiểu biết hời hợt tất yếu sẽ dẫn đến hiệu quả thấp, thậm chí còn có hại.
2 - Năng lực tư duy khoa học giúp đội ngũ, cán bộ lãnh đạo, quản lý (chủ thể) chủ thể lựa chọn phương pháp, hình thức để thực hiện các quyết sách có hiệu quả nhất. Mỗi một quyết sách có những đặc thù riêng và để việc thực hiện nó có hiệu quả, chúng ta cần sử dụng các phương pháp phù hợp. Năng lực tư duy khoa học giúp chủ thể lựa chọn được các phương pháp phù hợp cũng như cách thức vận dụng chúng một cách tối ưu.
Bên cạnh các phương pháp, cách thức thực hiện quyết sách cũng rất quan trọng. Có những quyết sách tác động, toàn diện, lại có những quyết sách chỉ tác động tới bộ phận, có những quyết sách tác động dài hạn, lại có những quyết sách tác động ngắn hạn. Với từng loại quyết sách như vậy cần có cách thức thực hiện thích hợp.
Hơn nữa, trong phạm vi phụ trách của chủ thể, có thể có nhiều quyết sách khác nhau cùng được thực hiện. Ở đây, cần một sự phối hợp hợp lý để đạt được hiệu quả cao nhất. Những yêu cầu trên, rõ ràng đòi hỏi chủ thể phải có năng lực tư duy khoa học phát triển mức nhất định.
3 - Năng lực tư duy khoa học giúp cho đội ngũ, cán bộ lãnh đạo, quản lý (chủ thể) có năng lực tổng kết thực tiễn trong phạm vi mình phụ trách. Việc tổng kết thực tiễn, một mặt giúp chủ thể rút ra được các bài học kinh nghiệm quý giá, mặt khác, nó giúp cho việc điều chỉnh các quyết sách, thậm chí đưa ra các quyết sách mới. Vì vậy, nó cần được thực hiện trên cơ sở khoa học với một năng lực tư duy khoa học nhất định của chủ thể.
Từ những phân tích trên, có thể khẳng định để nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng tất yếu phải nâng cao năng lực trí tuệ nói chung, năng lực tư duy khoa học nói riêng cho cán bộ, đảng viên, trước hết là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.
Nâng cao vị thế và năng lực cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam TS. Nhị Lê
Tạp chí Cộng sản
42 năm trước, trong Di chúc của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Đảng ta là một Đảng cầm quyền”1.
42 năm sau, kể từ đó, Đảng ta khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011): "Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội”2.
Rõ ràng, Đảng cầm quyền, đối với chúng ta, là vấn đề cực kỳ hệ trọng, hết sức phong phú, phức tạp. Nhưng, từ trước tới nay, dù gần 66 năm qua, kể từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhất là 25 năm đổi mới, bất chấp những sự xuyên tạc, bóp méo, phủ nhận, trên thực tế, với vị thế là người cầm quyền, Đảng ta thực sự xứng đáng là người "đứng mũi chịu sào” trước dân tộc và đã tích luỹ, tiếp tục làm phong phú hơn không ít kinh nghiệm trên bình diện cơ bản, trọng yếu này... Song, thực tế vẫn đang tồn tích, đặt ra không ít vấn đề hết sức cơ bản cả lý luận lẫn tổ chức thực tiễn cần tiếp tục kiến giải, tổng kết và phát triển ngang tầm trọng trách lịch sử và yêu cầu thời đại đặt ra. Vì sao vậy? Đảng ta chỉ rõ: "Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”3.
Vì thế, chưa khi nào như hiện nay, vấn đề Đảng cầm quyền trở nên cấp bách. Đây là việc rất cơ bản, mệnh hệ, xuyên suốt và quán xuyến các quyết sách chính trị và thực tiễn cầm quyền của Đảng ta mấy chục năm qua.
Trong rất nhiều vấn đề quan trọng chung quanh việc nâng cao vị thế và năng lực cầm quyền của Đảng, hiện nay, nổi bật chín luận điểm có ý nghĩa cơ bản và cấp bách:
1-Phát triển quy luật cầm quyền của Đảng - yêu cầu của lịch sử dân tộc, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về quy mô, tốc độ, chiều sâu của công cuộc đổi mới và phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại.
Có thể nói, lịch sử phát triển của các quốc gia, dân tộc hiện đại là lịch sử của sự gắn liền với sự phát triển của các đảng chính trị. Nói cách khác, lịch sử và sự phát triển của các đảng chính trị gắn liền với lịch sử và sự phát triển của thế giới hiện đại.
Lịch sử Việt Nam hơn tám mươi năm qua là lịch sử đất nước lựa chọn và khẳng định mục tiêu phát triển gắn với sự lựa chọn đảng chính trị lãnh đạo đất nước vì mục tiêu đó. Đảng Cộng sản Việt Nam được lịch sử dân tộc, nhân dân Việt Nam lựa chọn là người duy nhất cầm quyền, là người duy nhất lãnh đạo đất nước, lãnh đạo xã hội, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trong vô vàn đảng phái chính trị ở Việt Nam.
Từ năm 1930 tới nay, Đảng xuất hiện, đứng mũi chịu sào trước lịch sử và gánh vác trọng trách nhân dân giao phó là hợp quy luật, hợp lòng dân và hợp với xu thế phát triển của thời đại. Bởi, Đảng là "đứa con nòi" của giai cấp công nhân và nhân dân dân lao động, được hun đúc trong lò lửa yêu nước thương nòi Việt Nam, dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Mác - Lênin, quyết phấn đấu và hy sinh vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nói cách khác, chủ nghĩa Mác - Lê-nin kết hợp với phong trào yêu nước Việt Nam và phong trào công nhân đã chung đúc và sinh ra Đảng. Nói cách khác, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, gánh vác trọng trách lịch sử là một tất yếu không gì cưỡng và cản nổi. Và, thực tế hoạt động 81 năm qua, trong đó có 66 năm cầm quyền, càng khẳng định địa vị cầm quyền của Đảng một cách tất yếu, phù hợp với lịch sử dân tộc, khát vọng của nhân dân và xu thế thời đại.
Bước vào thập kỷ thứ 2 thế kỷ XXI, quy mô, tốc độ và chiều sâu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, trong thế giới diễn biến phức tạp, khôn lường, hơn bao giờ hết, đòi hỏi chúng ta tiếp tục phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại và chủ động hội nhập quốc tế đang đặt ra trước Đảng những trọng trách mới, với những thời cơ mới to lớn và những thách thức rất nặng nề. Con đường dân tộc đi tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, do Đảng lãnh đạo, đã rõ ràng, không thể đảo ngược nhưng đang chất đầy những khó khăn, cản trở, chông gai và cạm bẫy. Đó là quy luật. Và cũng hợp lẽ tự nhiên, vị thế, vai trò, năng lực cầm quyền và trách nhiệm lịch sử của Đảng vì thế, càng phải được tiếp tục khẳng định và không ngừng nâng cao, ngang tầm nhiệm vụ lịch sử mới.
2- Tiếp tục đổi mối quan niệm một cách phong phú và đa diện về vị thế, vai trò cầm quyền của Đảng
Nói khái quát, Đảng cầm quyền là sự tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp cách mạng trong điều kiện có quyền lực nhà nước và Đảng lãnh đạo Nhà nước của dân, do dân và vì dân, suy rộng ra là lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Rõ ràng, Đảng cầm quyền có nghĩa là, không phải việc gì Đảng cũng trực tiếp thực thi, nhưng cũng đồng thời có nghĩa rằng, bất cứ việc gì diễn ra trong xã hội cũng không nằm ngoài tầm quán xuyến và kiểm soát của Đảng. Đảng lãnh đạo Nhà nước của dân, do dân, vì dân nói riêng, lãnh đạo hệ thống chính trị nói chung là vì nhân dân làm chủ, để nhân dân làm chủ và bảo đảm vô điều kiện cho nhân dân làm chủ một cách toàn diện, triệt để và sâu sắc, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đó là mục tiêu tối thượng của sự cầm quyền của Đảng. Nói cách khác, đó là yêu cầu về sự cân bằng và hài hòa giữa địa vị cầm quyền của Đảng và phát huy dân chủ xã hội xã hội chủ nghĩa.
Đảng không phải là cơ quan quyền lực nhà nước nhưng Đảng có quyền lực về chính trị, quyền lực về tư tưởng chính trị, quyền lực về tổ chức bộ máy và nhân sự, quyền lực về kiểm tra... đối với toàn bộ hệ thống chính trị. Đảng tự nguyện và hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật do Nhà nước xây dựng theo ý chí của nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Các quyền và bổn phận đó được nhân dân trao cho Đảng, vì hạnh phúc của nhân dân, vì sự phát triển bền vững của đất nước. Điều đó cũng tự nhiên như nhân dân uỷ thác cho Nhà nước quyền lực của mình và khi Nhà nước phụ lòng và "làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”4, nói như Chủ tịch Hồ Chí Minh, như đã đuổi cổ chính quyền của chế độ thực dân nửa phong kiến vào Tháng Tám năm 1945. Nghĩa là, Đảng không phải, không thể, và trên thực tế chưa bao giờ là cơ quan "siêu quyền lực"(!), "đứng trên quyền lực của Nhà nước và quyền lực của nhân dân"(!), như một số người lầm tưởng hoặc bôi nhọ. Và, do Đảng lãnh đạo, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, cũng không được "đứng trên nhân dân", "cai trị nhân dân”(!).
Theo đó, không thể "Đảng hoá Nhà nước" hay "Nhà nước hoá Đảng"...; càng không thể phạm vào quan liêu, mệnh lệnh..., dù là Đảng hay Nhà nước. Vì Đảng cầm quyền chứ không phải Đảng là Nhà nước, Đảng làm thay việc của Nhà nước; "Đảng cầm quyền nhưng dân là chủ. Mọi “quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”5. Trái nguyên tắc đó, Đảng sẽ biến chất, không xứng đáng là "đứa con nòi" của nhân dân, không được đứng trên, đứng ngoài pháp luật của nhà nước. Qua 66 năm, Đảng chưa hề đòi hỏi "...phải thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà luôn tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất; chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo"6, như Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ.
Đó cũng chính là sự thách thức từ thực tiễn, là yêu cầu đổi mới trước hết trong nhận thức về sự cầm quyền của Đảng.
3- Xây dựng cơ sở cầm quyền ngày càng rộng lớn và vững chắc
Sự cầm quyền của Đảng không phải từ "trên trời rơi xuống", như ai đó tự huyễn hoặc. Nó phải được bảo đảm bởi những cơ sở lý luận và cơ sở hiện thực.
Về cơ sở lí luận chính trị cầm quyền: Cái làm nền tảng để mọi hoạt động của Đảng diễn ra đúng quy luật và hợp lòng dân, hợp với thời đại là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Dù thế giới có đổi thay thế nào, cái bất biến về lý luận cầm quyền đó của Đảng không thể thay đổi. Điều đó không hề mâu thuẫn với việc Đảng chủ động không ngừng thâu thái những lý thuyết tinh hoa và tiến bộ khác trên thế giới một cách cầu thị; không kỳ thị và xa lánh những lý thuyết khác, thậm chí cả những lý thuyết không phù hợp với mình... để tự làm giàu lý thuyết về sự cầm quyền của mình. Đồng thời, tôn trọng và lắng nghe nhân dân, "học ở nơi dân chúng", để tự mình thâu thái, bổ sung lý luận và kinh nghiệm cầm quyền phục vụ nhân dân. Và có như thế, Đảng mới thực sự có điều kiện và tự mở ra nhiều cơ hội và khả năng trong việc trung thành và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh hợp với xu thế phát triển của thời đại, không ngừng nâng cao tính cách mạng và khoa học của lý luận cầm quyền.
Về cơ sở kinh tế - xã hội cầm quyền: Tiếp tục xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo hướng hiện đại, phát triển mạnh mẽ và bền vững, với xung lực là kinh tế tri thức; một xã hội có nền chính trị ổn định, văn minh và tiến bộ. Nói cách khác, không có sức mạnh của quyền năng kinh tế thật khó có sức mạnh bền vững của quyền lực lãnh đạo chính trị. Vì, hơn lúc nào hết, hiện nay, chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế. Do đó, phải không ngừng tạo dựng cho được văn hoá của sự phát triển bền vững, trước hết là văn hóa chính trị của Đảng dựa trên nền tảng một nền kinh tế vững mạnh theo định hướng xã hội chủ nghĩa; và nó chỉ đạo, thấm sâu vào toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của đất nước, không ngừng chủ động hội nhập đúng hướng và hiệu quả quốc tế nhằm xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong bất cứ tình huống nào.
Về cơ sở xã hội - chính trị cầm quyền: Nhân dân muốn bảo đảm được quyền lực của mình, phải có sự lãnh đạo của Đảng; đến lượt Đảng, muốn giữ vững vị thế và vai trò cầm quyền của mình, cần củng cố cái nền nhân dân, phải coi trọng "dân là gốc", "lấy dân làm gốc"... Vì, Đảng ta là "đứa con nòi xuất thân từ giai cấp lao động", bởi "Gốc có vững cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân", như Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ dẫn. Trong điều kiện nước ta, việc xác định phải có Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, lấy liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm nền tảng của cách mạng, tập hợp dưới ngọn cờ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, là một sáng tạo lớn của Đảng cầm quyền, cần được phát huy.
Đó cũng chính là tư tưởng “dân vị bản" (dân làm gốc), "phúc chu thủy tín dân do thủy” (làm lật thuyền mới biết sức dân mạnh như nước) của ông cha ta hàng ngàn năm nay, từ thuở dựng nước, mà Chủ tịch Hồ Chí Minh là người chung đúc và phát triển trong thời đại mới.
4- Nguyên tắc cầm quyền bất biến nhưng phương châm linh hoạt, chiến lược và sách lược cầm quyền thống nhất mà quyền biến
Về nguyên tắc: Đảng không chia sẻ quyền lãnh đạo cho bất kỳ ai hoặc buông lỏng quyền đó - quyền mà lịch sử và nhân dân giao phó cho Đảng là người đứng mũi chịu sào trước lịch sử. Làm trái đi là Đảng tự tước bỏ vị trí, vai trò cầm quyền của mình; là đi ngược với lịch sử, đi ngược với nguyện vọng của nhân dân và dân tộc mà Đảng là đại biểu trung thành, trái với đạo lý Việt Nam mà Đảng là sự chung đúc và biểu hiện.
Về phương hướng: Đảng cầm quyền để đưa nước Việt Nam độc lập tự do lên chủ nghĩa xã hội. Đó là mục tiêu bất di bất dịch, là xu hướng, là quy luật phát triển tất yếu của Đảng, của đất nước đồng thời là nguyện vọng của nhân dân lao động, trong thời đại ngày nay.
Về phương châm: Đảng cầm quyền để nhân dân là chủ và nhân dân làm chủ thông qua Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong một xã hội Việt Nam dân chủ phát triển không ngừng. Đó cũng chính là biểu hiện tập trung nhất, sinh động nhất toàn bộ mục tiêu cầm quyền của Đảng. Nói cách khác, mục tiêu đó phải chi phối và quán xuyến toàn bộ hoạt động của Đảng. Vì Đảng ta không phải ai khác mà chính vừa là người lãnh đạo vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân.
Về chiến lược và sách lược cầm quyền: Trên phương diện này, cần thấu triệt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Dĩ bất biến ứng vạn biến". Cái bất biến là mục tiêu cầm quyền chiến lược của Đảng, là lý tưởng phấn đấu cao cả của Đảng: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Theo đó, Đảng hoạch định cương lĩnh chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước theo từng thời kỳ, trên cơ sở đó hoạch định những quyết sách chính trị theo từng giai đoạn một cách phù hợp.
5- Nội dung cầm quyển không ngừng mở rộng, sâu sắc nhưng tập trung, cụ thể
Được lịch sử giao phó là người duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng chịu trách nhiệm trước lịch sử dân tộc, trước nhân dân Việt Nam về vận mệnh và sự phát triển của nước Việt Nam. Theo đó, nội dung cầm quyền của Đảng phải bao quát và chi phối một cách toàn diện, triệt để và sâu sắc toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Ở đây, xin nhấn mạnh mấy vấn đề có ý nghĩa chiến lược quan thiết nhất:
Trên bình diện chính trị: Việc hoạch định đường lối chính trị là trọng trách căn bản của Đảng. Nếu toàn bộ chiến lược phát triển của đất nước thuộc quyền hoạch định của Đảng trên cơ sở góp ý xây dựng của toàn dân và Đảng chịu trách nhiệm trước toàn dân về việc tổ chức thực tiễn đường lối chiến lược đó thì chất lượng và hiệu quả thực hiện đường lối chính trị đó, đến lượt nó, quyết định vị thế chính trị, sự tồn tại và vai trò cầm quyền của Đảng. Do đó, nâng cao trình độ hoạch định đường lối chính trị, với tầm nhìn chiến lược những cụ thể và hiệu quả, là trọng trách trước hết, quyết định sự sống còn của công việc cầm quyền.
Mặt khác, Đảng có trọng trách xác lập thể chế chính trị xã hội đất nước trên cơ sở đường lối chính trị của Đảng trên ba bình diện: cơ cấu tổ chức chính trị xã hội, cơ chế vận hành xã hội và những điều kiện cần và đủ bảo đảm cho hai vấn đề trên. Theo đó, việc lãnh đạo trực tiếp hệ thống chính trị là việc mang tính tất yếu và được bảo đảm bằng pháp luật.
Trên bình diện kinh tế: Xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Vấn đề mấu chốt là, phải tăng nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất bằng con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn chặt với việc không ngừng hoàn thiện quan hệ sản xuất tiên tiến, phù hợp và hiện đại, nâng cao năng lực chủ động hội nhập quốc tế.
Việc phát triển kinh tế phải đồng thời với phát triển chính trị và văn hoá, thậm chí trong nhiều trường hợp tính chính trị và văn hoá của sự phát triển kinh tế phải được xem là quá trình đi trước sự phát triển kinh tế đơn thuần để tránh các quy luật "cá lớn nuốt cá bé", “kinh tế vị kinh tế”, "tiền vì tiền" ... như đã từng diễn ra ở các nước tư bản chủ nghĩa cùng tiến hành kinh tế thị trường. Đó là lợi thế so sánh tuyệt đối của sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Và điều quán xuyến đó phải được thể hiện cụ thể từ việc hoạch định chiến lược phát triển nền kinh tế xã hội tới việc xây dựng hệ chính sách công cụ quản lý vĩ mô và hệ chính sách đòn bẩy nhằm quản lý và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trên phương diện văn hoá-xã hội: Đây là một trong những lĩnh vực cầm quyền chủ yếu của Đảng. Trên nền tảng xây dựng một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, việc trực tiếp và trọng tâm của Đảng là xây dựng văn hoá chính trị nói chung, trực tiếp là văn hoá cầm quyền của Đảng nói riêng. Nói cách khác, là xây dựng một nền văn hoá trong Đảng hiện đại, dân chủ và tiến bộ. Đó phải là một nhân tố rường cột, một bộ phận hữu cơ trong tổng thể chiến lược xây dựng một nền văn hóa của sự phát triển đất nước mạnh mẽ và bền vững, trong sự chủ động hội nhập quốc tế.
Trên lĩnh vực đối ngoại, an ninh quốc phòng: Chủ động hội nhập quốc tế với phương châm "dĩ bất biến ứng vạn biến”, luôn cầu thị, không kỳ thị, không xa lánh, không biệt phái, "không gây thù oán với một ai", dù các đảng cầm quyền hoặc chưa cầm quyền trên thế giới, như Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn. Lấy độc lập dân tộc làm căn bản, gìn giữ hòa bình, hữu nghị làm trọng, coi hợp tác làm động lực, tôn trọng mọi đối tác, mọi đối trọng,... trên nền tảng bang giao hòa hiếu của dân tộc, phù hợp với thông lệ và luật pháp quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. v.v..
Có thể hình dung, nội dung cầm quyền xoay chung quanh việc xử lý hiệu quả các mối quan hệ lớn, mang tính cơ bản, mệnh hệ tới con đường xã hội chủ nghĩa Việt Nam: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ;... theo tám phương hướng cơ bản do Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) hoạch định và chủ động xử lý tốt hàng loạt những quan hệ chủ yếu, phát sinh khác xuất hiện trên lộ trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
6- Đổi mới cơ chế cầm quyền phù hợp, dân chủ và thiết thực
Đảng ta là hiện thân của sự kết hợp biện chứng giữa chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào yêu nước và phong trào công nhân, là "đứa con nòi xuất thân từ giai cấp lao động". Do đó, toàn bộ sự cầm quyền là để nhân dân là chủ và làm chủ đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, bằng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân. Bởi vậy, một cách tự nhiên mối quan hệ giữa Đảng - Nhà nước - Nhân dân là mối quan hệ máu thịt không thể gì cắt chia, không thể gì phá vỡ. Và một cách hợp lôgíc và hợp điều kiện lịch sử, cốt lõi và bản chất của cơ chế cầm quyền của Đảng chính là sự vận hành và phát triển không ngừng mối quan hệ đó vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và phát huy mạnh mẽ, bảo đảm thực chất quyền và nghĩa vụ làm chủ của nhân dân theo pháp luật.
Phân định và làm rõ sự thống nhất và khác biệt giữa quyền lực chính trị của Đảng, sự lãnh đạo của Đảng với quyền lực và quyền uy pháp luật, sự quản lý của Nhà nước là việc cấp bách. Tất nhiên sự phân định này không phải là sự tách rời, biệt lập hay đối lập, mà đây là sự khác biệt trong thống nhất về mục tiêu chung, hệ giá trị xác định của Đảng và Nhà nước là phục vụ Tổ quốc, phụng sự quyền làm chủ của nhân dân. Đây là cơ sở để tiếp tục đổi mới và nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước nhằm phục vụ nhân dân. Việc thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng trong hoạt động của Nhà nước phải nhằm đạt tới Nhà nước thực sự là cơ quan quyền lực thể hiện ý chí của Đảng và cũng là ý chí của nhân dân. Thực tế đã và đang cho thấy, tình trạng Đảng "lấn sân", bao biện Nhà nước... cần được khắc phục; nhưng đồng thời lại phải cảnh giác với khuynh hướng một số cơ quan nhà nước thoát ly sự lãnh đạo của tổ chức đảng đối với họ. Cả hai đều nguy hiểm như nhau! Để thực hiện cơ chế đó, Đảng phải vững mạnh và trong sạch, thực sự xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là "đứa con nòi" vừa là "người đày tớ thật trung thành của nhân dân”, và chịu trách nhiệm trước nhân dân về vị thế và vai trò cầm quyền của mình trong thực hiện quyền lực chính trị của mình. Nhà nước thực sự là của dân, do dân, vì dân do Đảng lãnh đạo, cán bộ các cấp của Nhà nước phải xứng đáng là công bộc của nhân dân; quyền lực của Nhà nước là thống nhất và sự thống nhất ở đây là, mọi quyền hành, mọi lực lượng là ở dân, của dân, nhân dân có quyền hạn và trách nhiệm tham gia xây dựng Đảng, tham gia quản lý Nhà nước và quản lý xã hội. Cần có cơ chế thẩm xét tín nhiệm các thành viên của Chính phủ, đại biểu Quốc hội một cách dân chủ, công bằng, đúng pháp luật, đồng thời xác lập cơ chế xử lý hữu hiệu trong các trường hợp Quốc hội vượt quyền kiểm soát của quốc dân (chẳng hạn trưng cầu dân ý, thông qua Hiến pháp mới…, nếu cần).
Sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đều nhằm tới xác lập, bảo đảm, hoàn thiện và nâng cao địa vị là chủ và năng lực làm chủ thực tế của nhân dân. Nhân dân làm chủ trực tiếp, làm chủ thông qua Nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội của mình do Đảng lãnh đạo, theo pháp luật. Nhưng, nhân dân là chủ và làm chủ là gì và như thế nào? Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: Dân chủ là thế nào? Là dân làm chủ. Dân làm chủ thì Chủ tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, ủy viên này khác là làm gì? Làm đày tớ. Làm đày tớ cho nhân dân, chứ không phải là làm quan cách mạng. Trên phương diện này, càng nghiêm khắc đòi hỏi Đảng "không thiên tư, thiên vị", như Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ dẫn. Do đó, cùng với việc bảo đảm vô điều kiện việc thực thi quyền làm chủ trực tiếp (các hình thức tự quản, bằng quy ước cộng đồng, hương ước...), tiếp tục đổi mới cơ chế làm chủ gián tiếp của nhân dân (bằng và thông qua Nhà nước, các đoàn thể nhân dân...). Ở đây, các đoàn thể chính trị phải xứng đáng là người đại diện và bảo vệ quyền làm chủ của đoàn viên, hội viên của tổ chức mình; là môi trường dân chủ thực sự để nhân dân thực thi quyền dân chủ chính đáng theo điều lệ và pháp luật.
Nói khái quát, Đảng cầm quyền theo cơ chế: Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - các đoàn thể nhân dân làm chủ - phụng sự nhân dân là chủ, tất cả nhằm bảo vệ và nâng cao vị thế, quyền và trách nhiệm làm chủ của nhân dân. Và, dù thế nào, Đảng chịu trách nhiệm lịch sử về sự cầm quyền của mình trước nhân dân và dân tộc.
7 - Phương thức cầm quyền luôn ngày càng rộng mở, hài hòa và hiệu quả
Nếu trước đây, khi Đảng ta chưa giành được chính quyền, phương thức lãnh đạo của Đảng là lãnh đạo nhân dân lao động giành lấy quyền lực nhà nước, lập nên Nhà nước của dân, do dân, vì dân và Đảng trực tiếp lãnh đạo bộ máy nhà nước thì hiện nay, Đảng tiếp tục tìm tòi và phát triển các phương thức lãnh đạo theo hướng ngày càng phát huy năng lực và hiệu lực quản lý xã hội, tổ chức, huy động lực lượng và sức mạnh nhân dân bằng các biện pháp hành chính, pháp lý thông qua bộ máy của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân để thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Mối quan hệ giữa mục tiêu cầm quyền với phương thức cầm quyền của Đảng là mối quan hệ giữa cái bất biến với cái khả biến, giữa mục tiêu và phương tiện. Phương thức cầm quyền cơ bản của Đảng hiện nay là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, sử dụng và giám sát Nhà nước trong vị thế công cụ quyền lực pháp lý, một phương tiện có hiệu lực pháp lý để tổ chức và quản lý xã hội mới, huy động mọi tiềm lực và sức mạnh của toàn dân tộc theo, đường lối chính trị của Đảng. Theo đó, Đảng tập trung vào ba bình diện chủ yếu của việc cầm quyền theo pháp luật: một là, lãnh đạo lập pháp; hai là, đi đầu tuân thủ pháp luật; ba là, giám sát bảo đảm việc hành pháp thật sự hiệu lực và hiệu quả, việc tư pháp công minh, công bằng, dân chủ và nghiêm ngặt.
Về nguyên tắc, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước phải trực tiếp, toàn diện nhưng có trọng điểm, trên cơ sở phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước. Về phương châm thực hiện, có thể là nhất thể hoá sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, trước mắt là người đứng đầu các cấp, tức là Đảng "hoá thân" sự lãnh đạo của mình trong sự quản lý của Nhà nước, trên từng phương tiện của đời sống kinh tế xã hội một cách phù hợp và thận trọng trước hết nhất thể hóa một số chức danh lãnh đạo - quản lý. Theo đó, Nhà nước đổi mới chức năng, nhiệm vụ của mình theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng lãnh đạo, trên nền tảng xây dựng một xã hội công dân.
Theo hướng đó, không ngừng phi "nhà nước hoá " các đoàn thể chính trị - xã hội, trên cơ sở đổi mới chức năng, nhiệm vụ, vị thế và vai trò của các tổ chức này trong chỉnh thể hệ thống chính trị. Nói cụ thể, tiếp tục đổi mới và tái cấu trúc hệ thống chính trị nước ta theo lộ trình đổi mới sự cầm quyền của Đảng đối với toàn bộ đời sống đất nước.
8- Phát triển nguồn lực cầm quyền một cách căn cơ, không ngừng phong phú và bền vững
Đây là một trong những vấn đề có ý nghĩa quyết định sự thành bại vị thế cầm quyền, năng lực và hiệu quả cầm quyền của Đảng. Trong số các nguồn lực, nổi bật ba nguồn lực chính yếu bảo đảm cho sự cầm quyền.
Nguồn lực con người: Là nhân tố căn bản, trung tâm trong các nguồn lực cầm quyền của Đảng. Đội ngũ cán bộ, đảng viên thực sự bao gồm những phần tử ưu tú nhất của dân tộc, tiêu biểu cho sức mạnh toàn dân tộc. Cấp uỷ các cấp thực sự là những cơ quan tinh hoa nhất của Đảng. Đặc biệt là, những người đứng đầu cấp ủy các cấp phải là tấm gương chính trị thực sự toàn diện nhất. Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước mang tầm chiến lược ngang tầm nhiệm vụ; mặt khác, đẩy nhanh việc trí thức hoá, trẻ hoá giai cấp công nhân, nhất là đội ngũ cán bộ, đảng viên - nhu cầu, nhân tố quyết định trực tiếp chất lượng và uy tín cầm quyền của Đảng.
Tổ chức bộ máy: Theo tốc độ phát triển của quy mô, tính chất, mức độ của nội dung cầm quyền của Đảng, tiếp tục tái cấu trúc nhằm tạo dựng một bộ máy cầm quyền của các cấp ủy thật thống nhất, đồng bộ, tinh gọn và hiệu quả. Cắt các bộ phận trùng lắp nhằm xây dựng một bộ máy lãnh đạo theo hướng tập quyền cao độ trên cơ sở một thể chế dân chủ nội bộ rộng rãi, sâu sắc nhưng cụ thể nhất và hiệu quả nhất. Theo đó, chỉnh đốn lại bộ máy của các thành viên của hệ thống chính trị theo chức năng, nhiệm vụ của mỗi thành viên.
Nhân tố vật chất - kỹ thuật: Bảo đảm các phương tiện cầm quyền một cách hiện đại nhằm tạo sự thông suốt giữa các cơ quan của Đảng với nhau, giữa cơ quan của Đảng với các thành viên của hệ thống chính trị. Trước tin học hoá nhằm điện tử hóa phục vụ công việc cầm quyền.
9- Phát triển môi trường cầm quyền ngày càng dân chủ, hiện đại và trong sạch
Toàn bộ sự cầm quyền của Đảng phải nhằm bảo đảm sự ổn định chính trị - xã hội để phát triển đất nước; đến lượt nó, mọi sự phát triển đều phải nhắm tới bảo đảm sự ổn định cao hơn về chính trị - xã hội làm tiền đề, nền tảng vững chắc nâng cao chất lượng cầm quyền của Đảng. Đó là sứ mệnh cầm quyền của Đảng. Không có sự ổn định chính trị - xã hội thì không thể nói tới bất cứ một sự phát triển nào của đất nước nói chung, của Đảng nói riêng. Đảng tiếp tục là tấm gương mẫu mực về gìn giữ và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, lãnh đạo các tổ chức chính trị - xã hội thực thi dân chủ, nhất là cổ vũ các tổ chức này đóng vai trò vừa là những người phản biện và thực thi đường lối của Đảng vừa trong tư cách là những người giám sát, kiểm tra hoạt động của Đảng.
Không ngừng phát triển và bảo vệ môi trường pháp lý hiện đại, phù hợp, trước hết sửa đổi và bổ sung Hiến pháp, các vấn đề về Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm bảo đảm trên phương diện pháp lý vị thế cầm quyền của Đảng. Và, Đảng tự chỉnh đốn, tự đổi mới mình, ngày càng trở thành dân tộc, cầm quyền trong khuôn khổ của Hiến pháp, pháp luật.
Đảng không ngừng xây dựng và phát triển dân chủ trong Đảng, trước hết là sự đoàn kết thống nhất nội bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình; mỗi cán bộ, đảng viên phải bảo vệ nó như "giữ gìn con ngươi của mắt mình”; chỉnh đốn bộ máy và trong sạch hóa đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đó là môi trường căn bản, là tiền đề, là tấm gương để thực thi dân chủ toàn xã hội, bảo đảm cho sự thành công vị thế cầm quyền của Đảng. Cảnh giác với những nguy cơ làm diệt vong Đảng: mơ hồ, phai nhạt bản chất giai cấp công nhân của Đảng, "tự diễn biến hòa bình", phạm vào các tệ quan liêu, xa dân, tham nhũng...
Thực thi đồng bộ những vấn đề đó, Đảng sẽ tiếp tục tôi luyện, khẳng định và bảo đảm vị thế cầm quyền tất yếu, năng lực cầm quyền khoa học với bản lĩnh cầm quyền cách mạng, chịu trách nhiệm cầm quyền xứng đáng trước nhân dân và lịch sử dân tộc, ngang tầm yêu cầu phát triển mới của đất nước, trong thời đại hiện nay.
___________
Phòng, chống tham nhũng - Một nhiệm vụ rất quan trọng Nhà báo Hữu Thọ
Tạp chí Cộng sản
Đại hội lần thứ XI của Đảng nêu lên những định hướng và những giải pháp đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Thực hiện mục tiêu đó có nhiều nội dung, trong đó nội dung phòng, chống tham nhũng lãng phí được nhấn mạnh trong các bài học kinh nghiệm của cách mạng, trong phần Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Chiến lược kinh tế - xã hội và trong phần Nhà nước cũng như Xây dựng Đảng của Báo cáo chính trị. Nghĩa là nội dung quan trọng trong đó nằm trong phương hướng dài hạn, trung hạn cũng như ngắn hạn của quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
1- Trong tình hình hiện nay, tình trạng tham những lãng phí đang là nỗi bức xúc của toàn xã hội, có yêu cầu bức bách phải bị đẩy lùi. Tham nhũng có nguyên nhân cơ bản từ lòng ham muốn cá nhân vị kỷ cộng với quyền lực bị lạm dụng, do đó trở thành tệ nạn của toàn thế giới. Nhiều nước thấy cần phải cùng nhau đánh giá rút kinh nghiệm để hòng trừ tệ nạn này cho nên đã tổ chức Hội nghị chống tham nhũng toàn cầu lần thứ nhất tại Mỹ vào năm 1983. Và vừa qua, vào tháng 11-2010 đã tổ chức Hội nghị quốc tế lần thứ 14 với 1.500 đại biểu của hơn một trăm nước. Trao đổi ý kiến tại các Hội nghị đó, các nhà quản lý quốc gia, đại biểu các Hiệp hội doanh nghiệp, các nhà khoa học đều cho tham nhũng là "một thứ thuế vô hình”, "làm bóp méo thị trường đầu tư, mỗi năm làm thiệt hại khoảng 40 đến 50 tỷ đô la Mỹ, là "hành vi bóc lột phi kinh tế", cho đó "là ung nhọt của cơ chế xã hội đe dọa chế độ xã hội và quyền lực nhà nước". Do đó mà lãnh đạo Nhà nước, các Hiệp hội doanh nghiệp, các nhà khoa học, nhà báo hết sức quan tâm. Đảng và Nhà nước ta cũng hết sức quan tâm phòng chống tệ nạn này.
2- Đối với nước ta, chỉ vài tháng sau khi Cách mạng Tháng tám thành công, chính quyền về tay nhân dân; Nhà nước mới ra đời, Hồ Chủ tịch đã rất sáng suốt, sớm nhắc nhở cán bộ, viên chức về tệ nạn này và sau đó liên tiếp Người luôn luôn cảnh báo về nguy cơ tham ô, lãng phí. Người đã nói thực chất của hành vi tham ô là "ăn cắp của công", là "đục khoét của nhân dân", do đó hành vi đó và những kẻ tham nhũng là "giặc nội xâm”, là "kẻ thù của nhân dân”, "kẻ thù không mang gươm giáo mà nằm ngay trong tố chức của ta", phải đấu tranh, loại trừ. Người tự mình nêu gương và luôn nhắc nhở cán bộ, viên chức phải thực hiện cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư, phải giữ gìn mình và gia đình mình trong sạch, đồng thời Người rất nghiêm khắc với những kẻ tham ô cho dù họ ở cấp bậc cao, có nhiều công lao.
Kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta liên tục khẳng định quyết tâm chính trị trong việc phòng chống tệ nạn này, nhất là từ sau ngày đổi mới. Nhớ lại Nghị quyết Đại hội VI mở đầu thời kỳ đổi mới, đã chỉ rõ phải "triệt để chống tham nhũng lãng phí, và coi là vấn đề "nóng bỏng, bức xúc" do đó phải “kiên quyết và thường xuyên phòng và chống". Trong thực tế, ngày càng thấy rõ nguyên nhân sâu xa của bệnh tham ô, lãng phí là do bệnh quan liêu, xa rời nhân dân, một bộ phận cán bộ không còn là đày tớ của dân như lời Bác Hồ dạy mà thực chất đã nhuốm màu quan lại. Do đó, nhìn xa hơn khi tổng kết các bài học kinh nghiệm của cách mạng nước ta, trong Cương lĩnh 1991 đã nêu rõ: "quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ gây tổn thất khôn lường với đất nước". Xuất phát từ thực tiễn và tiếp thu sự đánh giá phân tích của các Đại hội và Hội nghị Trung ương, trong Cương lĩnh bổ sung, sửa đổi 2011 giữ lại những đánh giá về tác hại nghiêm trọng mà Cương lĩnh 1991 đã khẳng định, không chỉ gây tổn thất khôn lường với đất nước mà nhấn mạnh, còn "làm tổn hại tới chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng”. Trên đây xin nhắc lại một cách sơ lược sự đánh giá của Đảng nhằm để muốn nhấn mạnh, từ thực tiễn, Đảng ta đã đánh giá tệ quan liêu, tham nhũng ngày càng nghiêm trọng, nó không những làm thiệt hại to lớn về kinh tế mà quan trọng là làm giảm niềm tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước, thực sự đe dọa sự tồn vong của chế độ và Đảng.
3- Cùng với khẳng định sự nguy hại to lớn của bệnh quan liêu, tham nhũng, lãng phí Đảng, Nhà nước ta đã nêu lên ngày càng đầy đủ hơn, cụ thể hơn phương hướng và giải pháp phòng, chống tệ nạn này. Quốc hội đã thông qua những bộ luật và Sắc lệnh, Chính phủ cũng đã ban hành các nghị định để từng bước hoàn chỉnh luật pháp phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Mặt khác mỗi Văn kiện Đại hội và Hội nghị Trung ương đều có những bổ sung mới, một vài mốc rất quan trọng các phương hướng và giải pháp chống tham nhũng lãng phí đó là:
Xem ra ngành nào, cấp nào cũng có những thủ đoạn, hành vi tham nhũng, nhưng xuất phát từ thực tiễn, theo tôi một cái mốc đáng nhớ là Văn kiện Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã chỉ ra những trọng điểm cần tập trung đấu tranh, đó là đất đai, xây dựng cơ bản, hợp tác đầu tư, tài chính, ngân hàng, xuất nhập khẩu, hải quan, quản lý tài sản công, quản lý trong các doanh nghiệp nhà nước. Nghĩa là đã chỉ rõ nơi dễ xảy ra sai phạm và gây thất thoát lớn cần tập trung kiểm tra, đấu tranh. Theo tôi nghĩ, cho tới nay, những trọng điểm nêu trên về cơ bản vẫn chính xác. Trên tinh thần tiếp thu những nội dung của các văn kiện Đảng trước đây, một cái mốc nữa cần ghi nhớ là Đại hội XI đã bổ sung một phương hướng rất quan trọng về sự công khai, minh bạch: Công khai minh bạch về kinh tế, tài chính trong các cơ quan hành chính, đơn vị cung ứng dịch vụ công, doanh nghiệp nhà nước; công khai minh bạch trong cơ chế chính sách, các dự án đầu tư, xây dựng cơ bản, mua sắm từ ngân sách Nhà nước, huy động đóng góp của nhân dân, quản lý và sử dụng đất đai, tài sản công, và đặc biệt là công khai minh bạch trong tiếp nhận, bổ nhiệm cán bộ. Điều đó chứng tỏ Đảng ta không chỉ rõ quyết tâm chính trị mà đã hoàn chỉnh dần và cụ thể hơn phương hướng và giải pháp phòng ngừa, đấu tranh...
4. Trong cuộc đấu tranh phức tạp này không ai nghĩ rằng một lúc có thể xoá bỏ được tham nhũng và đó là cuộc đấu tranh lâu dài, nhưng mong muốn chính đáng của nhân dân cũng là quyết tâm của Đảng là phải từng bước đẩy lùi các tệ nạn đó. Vậy thực tế tình trạng đó như thế nào? Theo điều tra của Viện Nghiên cứu dư luận xã hội, Ban Tuyên giáo Trung ương, thông báo cuối năm 2010 thì trong số những người được hỏi ý kiến qua phiếu không cần ghi danh có 28% số người được hỏi cho là tình trạng tham nhũng có giảm; 39% số người được hỏi cho là tình trạng tham nhũng tăng; 29% cho là vẫn như cũ. Các số liệu này cho thấy: Chúng ta chưa đẩy lùi được tình trạng tham nhũng mà Nghị quyết Đại hội VIII đã nêu.
5. Như trên đã phân tích thì thấy rõ, chúng ta không nghi ngờ về quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước và các giải pháp, pháp luật, cơ chế tuy chưa thật đầy đủ nhưng cũng không đến nỗi thiếu, vậy vấn đề còn lại chủ yếu là ở tổ chức thực hiện. Nói đến tổ chức thực hiện thì không như một số người nghĩ là chỉ ở cấp dưới mà việc hệ trọng đó để biến những ý tưởng và nghị quyết trên giấy thành hiện thực cuộc sống, nằm ngay ở cấp ra nghị quyết. Về vấn đề này, tôi xin được có một số ý kiến sau đây:
- Cuộc đấu tranh bài trừ tệ nạn, chống quan liêu, tham nhũng là cuộc đấu tranh toàn diện, phòng ngừa cũng toàn diện, đấu tranh cũng phải toàn diện. Người ta thường nói tới ba hệ thống giải pháp chính. Giải pháp về tư tưởng trong việc giáo dục tư tưởng, đạo đức, đề cao nhân tố mới, đấu tranh với hành vi sai trái và đặc biệt là khắc phục tâm lý “muốn đấu tranh nhưng ngại va chạm”, do đó “muốn chống tham nhũng nhưng không dám vạch trần” đang là tâm lý khá phổ biến hiện nay làm giảm sút tinh thần đấu tranh nhất là với người sai phạm nhưng ở cấp cao hoặc cấp trên trực tiếp... Giải pháp chính trị bao gồm việc hoàn chỉnh luật pháp, cơ chế đánh giá, bổ nhiệm cán bộ; cơ chế giám sát của cơ quan đảng, cơ quan tư pháp, các cơ quan công luận và đặc biệt là sự giám sát của nhân dân. Giải pháp về kinh tế, trọng tâm là có quy chế và thực hiện nghiêm quy chế thực hiện cạnh tranh bình đẳng và công khai, minh bạch. Chắc chắn là chưa đầy đủ nhưng rõ ràng ở hệ thống giải pháp nào cũng thực hiện chưa hiệu quả hoặc chỉ là qua loa, hình thức và sự phối hợp đồng bộ các giải pháp chưa chặt chẽ.
- Có chút hiểu biết từ thực tế của cuộc đấu tranh phức tạo này, tôi xin có một số ý kiến cũng là kiến nghị với Đảng trong việc thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XI về phòng và chống tham nhũng: Về mối quan hệ giữa xây và chống, giữa phòng và chống tham nhũng. Chúng ta không nên hạn chế, kể cả trên báo chí những bài đấu tranh chống tiêu cực miễn là chính xác, vì những kẻ xấu rất sợ đấu tranh công khai. Còn nhớ, trong chuyên mục “Những việc cần làm ngay” do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh phát động từ tháng 5-1987 và gương mẫu thực hiện, nhưng rồi 2 tháng sau có bài động đến một cán bộ cao cấp thì có người khuyên “nên thôi”, do đó đồng chí phải viết bài nói lại là vẫn cứ làm vì thấy cần và nhắc tới phải nhổ cỏ cho lúa mọc; thực ra đồng chí nhắc lại ý kiến của Bác Hồ năm 1952, khi Người viết: Muốn lúa tốt thì phải nhổ cỏ cho sạch, nếu không thì dù cày bừa kỹ, bón phân nhiều thì lúa vẫn xấu vì lúa bị cỏ át đi...
Trong cuộc đấu tranh phòng và chống tham nhũng về lâu dài lấy phòng là chính, nhưng trong tình hình hiện nay khi nạn tham nhũng đã tràn lan, có vị trong Thường vụ Quốc hội khoá XII nói: Nhìn vào đâu cũng thấy có chuyện... có đồng chí nói không chỉ là nguy cơ và đã là hiểm hoạ vậy nên như thế nào. Ví như về cơ bản thì cả cuộc đời con người phải lấy phòng bệnh là chính nhưng khi đã có bệnh, đã sốt cao, thậm chí phải vào bệnh viện thì trước hết bác sĩ phải coi trọng các biện pháp trừ bệnh. Cho nên cần quan tâm tới phát biểu kết luận của đồng chí Tổng Bí thư tại Hội nghị Trung ương 3 khoá X về phòng và chống tham nhũng tháng 7-2006: Nhìn xuyên suốt cả nhiệm vụ đấu tranh thì phòng là chính. Nhưng trước tình hình bức xúc hiện nay, phải hết sức coi trọng việc kiên quyết đấu tranh, phát hiện, xử lý kịp thời; kiên quyết xử lý cũng là để răn đe, là một biện pháp phòng ngừa. Xử lý nghiêm khắc, kịp thời kẻ xấu, không sợ thiếu người làm việc vì người tốt và trong sạch không thiếu, và để một người xấu trong bộ máy còn nguy hại hơn là thiếu người. Vấn đề xử lý trách nhiệm là vấn đề rất lớn; tiếp thu tư tưởng Hồ Chí Minh về trách nhiệm người phụ trách thì, từ Nghị quyết Đại hội VIII, và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 lần 2 (khoá VIII) đã nêu rõ việc xử lý trách nhiệm người đứng đầu để cơ quan xảy ra tham nhũng, lãng phí nghiêm trọng. Văn kiện Đại hội XI vừa rồi cũng nhấn mạnh “trước hết là người đứng đầu”...
Như thế để thấy đã nhận trách nhiệm thì phải chịu trách nhiệm, trách nhiệm không rõ ràng, xử phạt trách nhiệm không nghiêm một số vụ để thất thoát lớn vừa qua đã gây ra nghi ngờ về sự bao che cho những người tiêu cực đã làm sứt mẻ niềm tin vào lãnh đạo cuộc đấu tranh này. Trong việc chống tham nhũng, khi góp ý kiến với Đại hội XI tôi nêu: Việc gì thì cũng làm từ dưới lên nhưng riêng “việc chống tham nhũng thì phải làm từ trên xuống”. Nói thế không có nghĩa là nhất loạt cấp trên đều tham nhũng lớn hơn cấp dưới, mà muốn cấp trên trong sạch thì mới có điều kiện để nghiêm túc kiểm tra cấp dưới. Thực ra, ý kiến tôi chỉ mới với những gì trong thực trạng nhưng không mới so với tư tưởng của Đảng, vì Nghị quyết Trung ương 3 (khoá VII) đã nêu rõ, việc chống tham nhũng phải làm từ trong Đảng ra ngoài, từ trên xuống. Chúng ta đã thành lập cơ quan chống tham nhũng ở Trung ương và địa phương, và hoạt động của tổ chức này cũng đã đạt được một số kết quả nhưng chưa được như mong muốn của Đảng và nhân dân như chính cơ quan này nhận định. Tôi chỉ xin kiến nghị một số điều để công việc của cơ quan này có hiệu quả hơn. Chống tham nhũng về cơ bản và thực chất là chống các cơ quan và cá nhân trong bộ máy công quyền đã lạm quyền đục khoét của nhân dân như Bác Hồ nói. Do đó, người đứng đầu cơ quan này không nên là người đứng đầu cơ quan hành pháp vì dễ vừa đá bóng vừa thổi còi rất khó công bằng; nên là cơ quan của Quốc hội, do Quốc hội bổ nhiệm người đứng đầu và phân bổ ngân sách hoạt động.
Kết hợp sức mạnh với sức mạnh thời đại trong xây dựng và phát triển đất nước hiện nay PGS. TS Nguyễn Văn Phúc
Viện Triết học, VKHXHVN
Trong những khuôn khổ và những mức độ nhất định, việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại đã từng được thực hiện trong lịch sử phát triển của nhân loại cũng như ở Việt Nam. Tuy vậy, không phải bao giờ vấn đề cũng được nhận thức một cách đầy đủ và xử lí một cách hợp lí. Sự sùng ngoại hoặc bài ngoại đều là sai lầm về một nhận thức dẫn đến trì trệ trong phát triển. Lịch sử Việt Nam từng trải qua những giai đoạn như vậy. Chẳng hạn, sự sùng ngoại cuối thời Trần, sự bài ngoại cuối thời Nguyễn đã từng làm đất nước và dân tộc rơi vào tình trạng suy yếu và thất bại trước sự xâm lược của ngoại bang.
Ngày nay, toàn cầu hoá mà trước hết là toàn cầu hoá về kinh tế đang tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống xã hội, đến mọi quốc gia, dân tộc. Không một quốc gia, dân tộc nào có thể phát triển được mà lại tách biệt, cô lập với thế giới. Mở cửa, hội nhập, chủ động gia nhập vào quá trình toàn cầu hoá, đó chính là đòi hỏi của toàn cầu hoá, nhưng cũng chính là điều kiện thuận lợi để kết hợp và phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong phát triển. Nhận thức sâu sắc tính tất yếu và cơ hội đó, Đảng ta luôn coi việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để tạo nên sức mạnh tổng hợp là một trong những yêu cầu, một trong những bài học kinh nghiệm lớn trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Tại Đại hội Đảng lần thứ XI, một lần nữa, bài học kinh nghiệm này lại được nhấn mạnh: "Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế ... phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại".1
1. Sức mạnh dân tộc hay nội lực của một dân tộc, một quốc gia chính là tổng hợp những lợi thế, những nguồn lực nội sinh của dân tộc, quốc gia đó. Những lợi thế, những nguồn lực này bao hàm trong toàn bộ các lĩnh vực kinh tế chính trị văn hoá, xã hội; chúng là tài nguyên thiên nhiên, nguồn lực con người, là tổng thể những giá trị vật chất, tinh thần, truyền thống văn hoá,... Sức mạnh dân tộc, vì thế là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của một dân tộc. Như vậy, sức mạnh dân tộc, nội lực của chúng ta bao gồm cả những nguồn lực, những tiềm lực tự nhiên và xã hội.
Trên bình diện nguồn lực tự nhiên, Việt Nam có lợi thế về vị trí địa lí, giao thông, có bờ biển dài rất thuận lợi cho phát triển kinh tế biển; lâm sản, hải sản, khoáng sản tuy không thật nhiều nhưng khá đa dạng và phong phú. Cố nhiên, những nguồn lực tự nhiên, tự nó, chỉ tồn tại như là tiềm năng. Vấn đề là làm sao khơi dậy, huy động được những nguồn lực, những lợi thế đó trong phát triển. Ngày nay, cơ chế thị trường tỏ ra là cơ chế kinh tế có hiệu quả nhất. Với việc thừa nhận và khuyến khích lợi ích cá nhân (cố nhiên, đó là lợi ích cá nhân chính đáng), cơ chế thị trường đã tạo ra động lực hết sức mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế. Cũng chính trong điều kiện kinh tế thị trường, những nghiên cứu và áp dụng khoa học - công nghệ được xúc tiến mạnh mẽ. Nhờ thế những nguồn lực tự nhiên được khai thác và huy động tối đa cho phát triển. Tuy nhiên, những nguồn lực tự nhiên không phải là vô tận. Việc khai thác tự nhiên, do vậy, cần đi liền với quá trình bảo vệ tự nhiên, phát triển những nguồn tài nguyên có thể tái tạo. Chỉ có như vậy, những nguồn lực tự nhiên mới trở thành nguồn nội lực bền vững cho xây dựng và phát triển đất nước...
Trên bình diện nguồn lực xã hội, Việt Nam cũng có những ưu thế về mặt văn hoá và con người. Có thể nói, đó là những nguồn lực nội sinh giữ vị trí trung tâm của phát triển; bởi con người với những sức mạnh về văn hoá, chính là chủ thể của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, là chủ thể của sự khai thác, huy động và hợp nhất các lợi thế, các nguồn nội lực khác.
Văn hoá, như chúng ta biết, không chỉ là mục tiêu mà đồng thời còn là động lực của phát triển. Những giá trị văn hoá có khả năng liên kết, cố kết con người thành một cộng đồng thống nhất; đồng thời định hướng họ trong hoạt động sống, trong xây dựng và phát triển đất nước. Trải qua lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, những giá trị, những tinh hoa văn hoá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam đã được hình thành và trở thành truyền thống. "Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lí, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống”2. Những giá trị văn hoá truyền thống chính là nguồn lực tinh thần, nền tảng tinh thần để chúng ta xây dựng đất nước trong điều kiện mới. Những giá trị đó khi được phát huy và nội tâm hoá thành sức mạnh tinh thần của mỗi người dân thì nó không chỉ là động lực kích thích họ trong lao động sáng tạo, xây dựng và bảo vệ đất nước mà đồng thời, còn góp phần tạo nên bản sắc dân tộc trong điều kiện toàn cầu hoá. Bởi thế, chủ động và tích cực kế thừa, phát huy những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc trong điều kiện hiện nay chính là phát huy một trong những nguồn nội lực quan trọng nhất. Ngày nay, tính tất yếu của việc kế thừa các giá trị văn hoá truyền thống đã được thừa nhận rộng rãi. Tuy nhiên, điều cần lưu ý là kế thừa như thế nào để các giá trị văn hoá truyền thống có thể thực sự trở thành sức mạnh tinh thần, nội lực của sự phát triển. Trong trường hợp này, chúng tôi muốn nói tới cơ sở, tiêu chí của việc kế thừa. Kế thừa truyền thống không có nghĩa là phục cổ hoặc "lưu giữ giấy lộn”, theo cách nói của V. Lênin, mà là nhằm tạo ra nhân tố mới cho hiện tại và tương lai. Vì thế, cần phải lấy những yêu cầu của sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay làm cơ sở, tiêu chí cho việc thẩm định, kế thừa và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người mới với những đức tính được xác định tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ năm khoá VIII là những yêu cầu, những định hướng lớn của sự nghiệp đổi mới hiện nay. Đó chính là cơ sở, là những tiêu chí cơ bản cho việc kế thừa các giá trị văn hoá truyền thống với tư cách là nguồn nội lực tinh thần hiện nay.
Cùng với những giá trị văn hoá, con người là nguồn lực nội sinh có ý nghĩa quyết định nhất đối với sự phát triển đất nước. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội cần có những con người xã hội chủ nghĩa. Con người chính là chủ thể của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Nguồn lực con người, trên bình diện số lượng, được xác định bởi quy mô dân số, cơ cấu độ tuổi, giới tính, sự phân bố dân cư. Hiện Việt Nam đang có dân số khoảng 86 triệu người, trong đó hơn 50% thuộc độ tuổi lao động. Đó là một lợi thế cần được huy động tối đa. Trên bình diện chất lượng, nguồn lực con người là tổng hợp những sức mạnh về thể chất, tri thức, tay nghề, năng lực quản lí, phẩm chất đạo đức, ... Xét về chất lượng, mặc dù người Việt Nam có một số ưu thế, chẳng hạn, khéo léo, cần cù, ham hiểu biết, có lòng yêu nước, ý chí vượt khó,... nhưng chừng ấy là chưa đủ. Hiện nay, trong cơ cấu lực lượng lao động ở nước ta, nông dân vẫn chiếm tới 70%; công nhân chiếm xấp xỉ 10%; nguồn nhân lực trí thức chỉ chiếm 2,15%3. Thậm chí, lao động đã qua đào tạo vẫn còn bất cập so với yêu cầu một số cơ sở sản xuất sau khi nhận người đã phải đào tạo lại từ 1 đến 2 năm mới sử dụng được. Nhìn chung, lực lượng lao động hiện nay còn nhiều bất cập trước các yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Đó là những bất cập về thể lực, năng lực chuyên môn, tính chuyên nghiệp, kỉ luật lao động, khả năng thích ứng với những biến đổi kinh tế - xã hội,... Điểm tính cho năng lực cạnh tranh tổng hợp về nguồn nhân lực của Việt Nam hiện còn rất thấp, mới chỉ đạt 3,79 điểm theo thang điểm 104. Vì thế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là yêu cầu vừa có tính cấp thiết vừa có tính lâu dài nhằm tăng cường sức mạnh dân tộc trong điều kiện hiện nay. Để giải quyết vấn đề này, cần có những đầu tư thích đáng và những đổi mới hơn nữa trong hàng loạt các lĩnh vực liên quan đến sự phát triển con người, đặc biệt là lĩnh vực giáo dục, đào tạo. Cần "đặc biệt coi trọng giáo dục lí tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, năng lực thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội"5.
Sức mạnh con người không đơn thuần chỉ biểu hiện ở các cá nhân; nó còn biểu hiện ở sức mạnh tập thể, cộng đồng. Vì thế, sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam là nguồn lực nội sinh cực kì quan trọng; nó luôn được coi là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối, chiến lược của Đảng trong chiến tranh cũng như trong đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước. Tuy vậy, việc phát huy sức mạnh nội sinh này không phải là một điều đơn giản. Trong điều kiện hiện nay, dưới tác động của những biến đổi về cơ cấu thành phần kinh tế, của sự điều tiết bởi cơ chế thị trường, của mở cửa hội nhập, sự phân hoá các tầng lớp xã hội cũng như sự phân hoá giàu nghèo ngày một gia tăng, xuất hiện nhiều nhóm lợi ích khác biệt nhau, thậm chí đôi khi đối lập nhau, thì vấn đề phát huy sức mạnh dân tộc đang đứng trước những thách thức mới. Có sâu xa của sự đoàn kết xã hội là sự thống nhất về lợi ích. Điều đó có nghĩa là, "Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hoà quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội"6. Bởi thế, một mặt, cần đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục tinh thần "lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; xoá bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung... để tập hợp đoàn kết mọi người vào mặt trận chung, tăng cường đồng thuận xã hội"7; mặt khác, các chính sách kinh tế, xã hội cần phải được hoạch định và thực thi sao cho sự khác biệt, đặc biệt là sự đối lập lợi ích giữa các nhóm, các tầng lớp xã hội ngày càng giảm thiểu. Có thể nói, đây là một vấn đề nan giải. Sự phát triển kinh tế thị trường luôn giả định phân hóa giàu nghèo; nhưng sự ổn định, sự bền vững lại đòi hỏi giảm thiểu sự phân hóa. Tuy nhiên, vấn đề không phải là không thể giải quyết được. Giữ vững và tăng cường định hướng xã hội chủ nghĩa đối với sự phát triển kinh tế thị trường không chỉ tạo điều kiện cho kinh tế phát triển mà còn là đảm bảo cho việc giải quyết hài hoà các quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội. Chỉ có như thế, sự đồng thuận xã hội mới ngày được gia tăng, khối đại đoàn kết dân tộc mới không ngừng được củng cố và phát triển. Ngoài ra, trong điều kiện mà các thế lực thù địch chủ nghĩa xã hội luôn tìm mọi cách thực hiện diễn biến hoà bình, chia rẽ các tôn giáo, các tầng lớp xã hội thì chính sách kinh tế, xã hội và tôn giáo càng cần phải chú ý hơn đến việc khắc phục những tác động tiêu cực từ những hoạt động đó nhằm tăng cường hơn nữa khối đại đoàn kết dân tộc với tư cách là sức mạnh nội sinh quyết định thắng lợi của sự nghiệp phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
2. Mặc dù có vai trò quyết định, nhưng sức mạnh dân tộc hay nội lực không phải là tất cả. Sẽ là hạn chế và khiếm khuyết nếu không biết đến những nguồn lực bên ngoài, những sức mạnh thời đại trong xây dựng và phát triển. Thực tế cho thấy, giao lưu kinh tế và văn hoá là quy luật phổ biến của sự phát triển lịch sử nhân loại; không dân tộc nào là không ít nhiều tiếp nhận và sử dụng những nguồn lực, những thành tựu, những tinh hoa văn hoá của các dân tộc khác để làm giàu thêm cho nội lực đồng thời tạo ra một sự thống nhất, một hợp lực cho phát triển. Chẳng hạn, việc tiếp nhận và bản địa hóa các giá trị của Phật giáo, Nho giáo,... biến chúng thành sức mạnh nội sinh đã từng được thực hiện rất thành công trong lịch sử Việt Nam. Những hệ tư tưởng này, dưới hình thức Việt hoá đã thực sự trở thành những yếu tố cấu thành của văn hóa Việt Nam, nghĩa là của sức mạnh Việt Nam. Điều đó có nghĩa rằng, sức mạnh của một dân tộc phải bao hàm nội lực và sự bổ sung, sự kết hợp với các nguồn lực từ bên ngoài, các yếu tố ngoại lực, tức sức mạnh của thời đại. Trước đây, trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, chính V. Lênin, người đã đối lập chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa xã hội trên nhiều phương diện, đã phê phán triệt để nhiều khiếm khuyết của chủ nghĩa tư bản vẫn khẳng định rằng: "Phải tiếp thu toàn bộ nền văn hoá do chủ nghĩa tư bản để lại và dùng văn hoá đó để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phải tiếp thu toàn bộ khoa học kĩ thuật, tất cả những kiến thức, tất cả nghệ thuật. Không có những cái đó, chúng ta không thể xây dựng cuộc sống của xã hội cộng sản được"8. Ông còn nhấn mạnh: "Dùng cả hai tay mà lấy những cái tốt của nước ngoài: Chính quyền Xô viết + trật tự đường sắt Phổ + kĩ thuật và cách tổ chức các Tơrớt ở Mỹ + ngành giáo dục quốc dân Mỹ… = Chủ nghĩa xã hội”9.
Trong điều kiện hiện nay, sức mạnh thời đại là đa dạng, chẳng bao hàm các nguồn lực vật chất như vốn, máy móc, thiết bị, vật tư, công nghệ cùng các kiến thức, kinh nghiệm quản lý, những giá trị văn hoá tinh thần,... của các dân tộc khác, của thời đại nói chung. Những nguồn lực thuộc về vốn, công nghệ,... là những cái mà chúng ta còn thiếu hoặc hạn chế. Bởi thế, tiếp nhận những nguồn ngoại lực này là điều cần thiết và dễ hiểu. Vấn đề là làm sao để tăng cường được sự tiếp nhận cũng như sử dụng được một cách hiệu quả những nguồn lực đó. Trong trường hợp này, chúng tôi muốn nói tới sự thông thoáng của chính sách đầu tư, hợp tác, liên kết, liên doanh; đồng thời cũng muốn nói tới năng lực cũng như trách nhiệm của những cá nhân và các cấp có thẩm quyền đối với vấn đề này. Những yếu kém cũng như tình trạng thiếu trách nhiệm trong lĩnh vực đầu tư, hợp tác quốc tế đã được phê phán trong nhiều năm qua; nhưng sự khắc phục dường như là quá chậm. "Hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư còn thấp, còn thất thoát, lãng phí"10. Những tụt hậu về kinh tế, công nghệ của chúng ta so với khu vực và so với yêu cầu của thời đại đang đòi hỏi phải có những biện pháp có tính triệt để hơn nữa nhằm thúc đẩy việc "cải thiện môi trường đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút mạnh các nguồn vốn quốc tế"11 và "khai thác hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa học - công nghệ, trình độ quản lí tiên tiến”12. Điều đó có nghĩa là cần tận dụng tối đa ngoại lực, sức mạnh thời đại phục vụ cho sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh những nguồn lực thuộc về lĩnh vực vật chất, thì những giá trị tinh thần mà nhân loại đạt được, những giá trị được coi là thành quả và yêu cầu của xã hội hiện đại nghĩa là những sức mạnh thời đại, cũng là nguồn ngoại lực cần thiết, quý giá mà chúng ta cần tiếp thu.
Trong số những giá trị mang tính quốc tế, thời đại, tinh thần sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật là có ý nghĩa cực kì quan trọng. Đây là giá trị gắn liền với kinh tế thị trường. Chính sự phát triển kinh tế thị trường đòi hỏi con người tôn trọng và hoạt động theo hiến pháp và pháp luật. Những ảnh hưởng của tâm lí và thói quen từ xã hội nông nghiệp truyền thống khiến cho ý thức pháp luật của xã hội ta hiện nay chưa đáp ứng được đòi hỏi của sự phát triển. Cũng như vậy, tính tích cực về mặt xã hội của công dân là một giá trị gắn liền với dân chủ. Dân chủ hoá xã hội tạo điều kiện cho công dân phát huy tính tích cực về mặt xã hội. Nhờ thế, cùng với những hoạt động sống mang tính cá nhân, con người đồng thời quan tâm đến trách nhiệm xã hội, tích cực tham gia vào các hoạt động mang tính cộng đồng. Ngược lại, tính tích cực về mặt xã hội của công dân được thực hiện thông qua những hoạt động mang tính cộng đồng, đặc biệt là các hoạt động chính trị (bầu cử, tham gia quản lí xã hội, giám sát, phản biện,...) không chỉ là biểu hiện mà còn là nhân tố để mở rộng và phát huy dân chủ. Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa đang là một trong những yêu cầu, một trong những phương diện được nhấn mạnh trong "Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020". Điều đó đòi hỏi nâng cao hơn nữa tính tích cực về mặt xã hội của công dân trong điều kiện hiện nay. Tính chuyên nghiệp trong hoạt động nghề nghiệp cũng là một trong những yêu cầu mang tính thời đại. Với sự phát triển của kinh tế thị trường và tiến bộ công nghệ, sự phân công lao động ngày một chuyên sâu đã dẫn đến sự đa dạng của các loại hình lao động nghĩa là các loại hình nghề nghiệp. Những yêu cầu của hoạt động nghề nghiệp trong điều kiện hiện đại đòi hỏi người lao động phải có sự phát triển tương ứng về trách nhiệm nghề nghiệp, trình độ chuyên môn, phong cách làm việc. Những phẩm chất đó tạo nên tính chuyên nghiệp và do đó tính hiệu quả của hoạt động. Dưới ảnh hưởng của lề lối làm ăn cũ cùng những yếu kém trong quản lí, sự thiếu gương mẫu của những người có trách nhiệm, tính thiếu chuyên nghiệp đang là một trong những hạn chế cần khắc phục trong hoạt động nghề nghiệp ở nước ta hiện nay. Cũng với sự phát triển của kinh tế thị trường và tiến bộ công nghệ, nhu cầu và khả năng khai thác tự nhiên phục vụ sản xuất và tiêu dùng đang vượt quá sức chịu đựng của tự nhiên. Cạn kiệt tài nguyên và biến đổi khí hậu đang tác động bất lợi đến sự phát triển của mọi quốc gia và trở thành vần đề toàn cầu. Bảo vệ môi trường là đòi hỏi của thời đại và do đó, ý thức sinh thái trở thành yêu cầu, trở thành sức mạnh mà chúng ta không thể xem nhẹ được.
Như vậy, tinh thần sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, tính tích cực về mặt xã hội của công dân, tính chuyên nghiệp của hoạt động nghề nghiệp, ý thức sinh thái, cùng nhiều giá trị khác nữa là những giá trị, những sức mạnh đặc trưng cho thời đại mà chúng ta còn yếu hoặc thiếu; và do đó, cần học tập, tiếp thu để bổ sung, làm phong phú Bảng giá trị tinh thần của xã hội Việt Nam - động lực, nguồn lực tinh thần của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
3. Với tư cách là nguồn lực của phát triển, sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại là thống nhất. Tuy nhiên, việc huy động và kết hợp hai nguồn lực này trong thực tế là có một vấn đề mà nếu không giải quyết hợp lý thì hiệu quả sẽ không cao. Tuyệt đối hoá sức mạnh dân tộc, xem nhẹ sức mạnh thời đại hay ngược lại, tuyệt đối hoá sức mạnh thời đại, xem nhẹ sức mạnh dân tộc đều là cách nhìn nhận phiến diện và bất lợi cho phát triển.
Ngày nay, việc tuyệt đối hoá sức mạnh dân tộc thường được lí giải rằng, chỉ những nhân tố bên trong là trực tiếp quyết định sự phát triển của sự vật. Nếu quá chú ý đến sức mạnh thời đại có nghĩa là hạn chế việc phát huy các yếu tố nội lực; là lệ thuộc vào nước ngoài, là dẫn tới mất độc lập, mất bản sắc trong phát triển. Ngược lại, việc tuyệt đối hoá sức mạnh bên ngoài lại được biện minh bằng tính quy định của thời đại đối với phát triển. Những giá trị thời đại là những giá trị hình thành trong quá trình hiện đại hoá đã dẫn đến những thành công, đặc biệt là những thành công về kinh tế, công nghệ ở các nước phát triển. Chúng mang ý nghĩa phổ quát và đặc trưng cho thời đại. Hiện đại hoá xã hội, do vậy, không thể xem nhẹ tính quy luật này; không thể không coi trọng và tiếp nhận những nguồn lực, những giá trị mang tính quốc tế, tính thời đại. Nếu quá chú ý đến nội lực thì sẽ rơi vào bảo thủ, biệt lập, trì trệ, tụt hậu.
Từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa cái giai cấp, cái dân tộc và cái nhân loại phổ biến, có thể khẳng định rằng, giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại có mối quan hệ biện chứng. Trong quan hệ này, việc phát huy sức mạnh dân tộc là có ý nghĩa quyết định, là cơ sở để mở rộng và tăng cường việc tranh thủ một cách có hiệu quả sức mạnh thời đại, và ngược lại, việc tận dụng sức mạnh thời đại là nhân tố không thể thiếu để phát triển và khơi dậy tiềm năng, sức mạnh dân tộc.
Trong quá trình lãnh đạo Cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh không khi nào xem nhẹ ngoại lực, sức mạnh thời đại, nhưng Người luôn nêu cao tinh thần "tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính”. Dựa vào sức mình là chính đòi hỏi phải đẩy mạnh việc tạo dựng nội lực, phát huy sức mạnh dân tộc. Sức mạnh dân tộc bao gồm cả những nguồn lực tự nhiên, kinh tế, văn hoá, con người,... Do vậy, việc phát huy sức mạnh dân tộc đòi hỏi không chỉ đẩy mạnh tạo dựng, phát triển từng nguồn lực với tư cách là yếu tố cấu thành sức mạnh dân tộc, mà còn đòi hỏi kết hợp các yếu tố đó thành một hợp lực. Nói cách khác, yêu cầu phát huy sức mạnh dân tộc đòi hỏi phát triển đồng bộ các thành phần, các yếu tố của nội lực, sức mạnh dân tộc. Chủ động và tích cực xây dựng nội lực không chỉ có nghĩa là làm gia tăng bản thân nội lực, mà còn có nghĩa là tạo ra điều kiện để tiếp nhận ngoại lực. Hồ Chí Minh từng khẳng định rằng, muốn người ta giúp mình thì trước hết mình phải tự giúp mình đã. Phải đẩy mạnh xây dựng lực lượng bản thân mới tạo ra được "thế" và "lực" để tiếp nhận sự giúp đỡ từ bên ngoài. Hơn thế, từ bình diện chính trị có thể thấy, có xây dựng được nội lực, phát huy được sức mạnh dân tộc mới bảo đảm giữ vững được độc lập, tự chủ trên mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, an ninh,... Đại hội Đảng lần thứ XI khẳng định : "Trong bất kì hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ và nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế”13. Độc lập, tự chủ chính là yêu cầu sống còn, là bản sắc, lẽ sống của dân tộc ta.
Trong điều kiện hiện nay, những thành quả mà nhân loại đạt được trong thế giới hiện đại là những yếu tố vô cùng quan trọng đối với sự phát triển đất nước ta. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (2011) và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011- 2020 đã khẳng định rằng, mục tiêu của chúng ta là làm sao đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, đến giữa thế kỉ XXI trở thành nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu đó, một mặt, đòi hỏi phải hiện đại hoá các yếu tố nội lực, mặt khác, đòi hỏi phải chủ động tích cực tiếp như các yếu tố ngoại lực, hiện đại tiêu biểu cho thời đại. Vốn nước ngoài, công nghệ hiện đại cùng những giá trị văn hoá tinh thần gắn liền với công nghệ hiện đại là nguồn ngoại lực, sức mạnh thời đại cần thiết cho sự phát triển đất nước hiện nay. Các yếu tố ngoại lực đó chính là tác nhân quan trọng không thể thiếu để hiện đại hoá đất nước. Nhưng, như đã phân tích, những vấn đề ngoại lực chỉ có thể phát huy tác dụng khi được tiếp nhận và chuyển hóa thành sức mạnh bên trong, thành nội lực. Về vấn đề này, Hồ Chí Minh từng viết: "Các nước bạn giúp ta cũng như thêm vốn cho ta, ta khéo dùng cái vốn ấy để bồi bổ lực lượng của ta, phát triển khả năng của ta”14. Đó chính là biện chứng của quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại .
Như vậy, biện chứng của quan hệ giữa nội lực và ngoại lực, giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại dẫn đến yêu cầu là: tăng cường và phát huy những sức mạnh dân tộc cho phát triển, tạo cơ sở và điều kiện để tiếp nhận những sức mạnh của thời đại. Đồng thời chủ động và tích cực tiếp sức thời đại, dân tộc hoá chúng, biến chúng thành sức mạnh bên trong cho phát triển. Thực hiện đồng bộ và hiệu quả hai yêu cầu đó sẽ tạo ra hợp lực, sức mạnh tổng hợp cho sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
___________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.66.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.56.
3. Xem: http://vietbao.vn/xa-hoi/Nguon-nhan-luc-Viet-Nam-thua-ma-van-thieu/30158150/157/
4. Xem: http://nhantainhanluc.com/vn/644/3197/contents.sapx
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.216.
6. Sđd, tr.240.
7. Sđd, tr.240.
8. V.I.Lênin, Toàn tập (Tiếng Việt), Nxb Tiến bộ, M.1978, t.38, tr.67.
9. Sđd, t.36, tr.684.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.166.
11. Sđd, tr.139.
12. Sđd, tr.236.
13. Sđd, tr.66.
14. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1966, tr.30.
Xây dựng và phát triển giai cấp công nhân Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng PGS, TS. Phạm Công Nhất
Đại học Quốc gia Hà Nội
Từ ngày 12 đến ngày 19 tháng 1 năm 2011, tại Hà Nội đã diễn ra Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại hội lần thứ XI của Đảng đã tổ chức thảo luận và thông qua nhiều nội dung quan trọng trong đó có chiến lược xây dựng và phát triển giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ mới, trong đó khẳng định: "Quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Phát huy vai trò của giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng, thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam"1. Có thể thấy, quan điểm trên đây của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Đại hội XI không chỉ là sự tiếp tục kiên trì khẳng định các quan điểm của các kỳ Đại hội, các Hội nghị Trung ương trước đó, đặc biệt là Nghị quyết số 20-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương khóa X về "Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", mà còn thể hiện của tư duy mới, sách lược mới trong xây dựng và phát triển giai cấp công nhân Việt Nam trong điều kiện mới. Tuy nhiên, nhìn từ thực thực trạng phát triển giai cấp công nhân Việt Nam những năm vừa qua cho thấy bên cạnh những thành tựu nhất định thì cũng còn bộc lộ rất nhiều hạn chế, trong đó nhìn tổng quát về số lượng, chất lượng đội ngũ còn chưa ngang tầm với vai trò là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là giai cấp đóng vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam như chúng ta kỳ vọng. Bài viết này muốn xuất phát từ việc đanh giá thực trạng, nguyên nhân để đi đến góp phần đề xuất một số giải pháp bước đầu nhằm xây dựng và phát triển giai cấp công nhân Việt Nam đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, xứng đáng là giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Trong suốt tiến trình lịch sử của cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn khẳng định: giai cấp công nhân luôn là động lực chính, là lực lượng lãnh đạo của cách mạng Việt Nam. Mặc dù là đội tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam những kể từ khi ra đời Đảng lại luôn chú trọng tới việc xây dựng và phát triển giai cấp công nhân và sự phát triển của giai cấp công nhân trong suốt tiến trình cách mạng đã qua càng không thể thiếu vai trò lãnh đạo của Đảng. Lịch sử xây dựng và trưởng thành của giai cấp công nhân Việt Nam trong các giai đoạn cách mạng đã qua, đặc biệt trong tiến trình đổi mới hiện nay đã chứng minh điều đó.
Ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, vừa mới lớn lên đã tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân quốc tế, nhanh chóng trở thành lực lượng chính trị tự giác thống nhất, được Chủ tịch Hồ Chí Minh giáo dục, đã sớm giác ngộ, mục tiêu, lý tưởng chân lý của thời đại: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân Việt Nam luôn luôn có tinh thần và bản chất cách mạng triệt để. Trong thời gian chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc trở đi, do ảnh hưởng sâu sắc của cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và sự truyền bá Chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân Việt Nam đã có bước chuyển biến sâu sắc về chất. Giai cấp công nhân đã từng bước giác ngộ về mình, về địa vị, vai trò của mình trong xã hội, trong cách mạng Việt Nam và ngày càng tiến tới sự tự giác. Sự ra đời của Công hội đỏ Bắc Kỳ (28/7/1929) và Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930) là mốc lịch sử đánh dấu bước phát triển mới về chất của giai cấp công nhân Việt Nam: từ sự tự phát lên sự tự giác.
Từ đây, giai cấp công nhân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu, lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân - đã không ngừng vươn lên và phát triển mọi mặt, từng bước giác ngộ và thực hiện hoá sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình. Và cũng từ đây giai cấp công nhân Việt Nam - thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam - bước lên vũ đài chính trị nắm quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Cao trào cách mạng năm 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh và cao trào cách mạng dân chủ 1936-1939 chứng tỏ sự trưởng thành nhanh chóng vượt bậc của giai cấp công nhân Việt Nam về mặt chính trị, về ý thức giai cấp, về tinh thần đoàn kết, tính kỷ luật trong đấu tranh cách mạng. Với thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945, không những mở ra một kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc, cho cách mạng thế giới mà còn là dấu mốc đưa giai cấp công nhân và nhân dân lao động từ địa vị của người dân mất nước, người lao động làm thuê lên địa vị người làm chủ của đất nước. Sự thành công của cuộc cách mạng Tháng Tám 1945 cũng chứng tỏ vai trò lãnh đạo không thế thay thế của giai cấp công nhân Việt Nam thông qua đội tiền phong của mình là Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cuộc cách mạng mới ở Việt Nam. Lịch sử cách mạng Việt Nam hiện đại đã trao cho giai cấp công nhân Việt Nam vai trò sứ mệnh lịch sử ấy và giai cấp công nhân Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử của mình trong giai đoạn cách mạng này. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất cách mạng nhất, luôn luôn đương đầu với bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cách mạng tiên phong và kinh nghiệm của phong trào vô sản quốc tế, giai cấp công nhân ta đã tỏ ra là người lãnh đạo xứng đáng nhất và đáng tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam”2.
Tuy nhiên, trong bối cảnh mới hiện nay gắn liền với quá trình đổi mới thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế, giai cấp công nhân Việt Nam đang có sự biến đổi to lớn cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu đội ngũ. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ Sáu (Khóa X) khẳng định: đội ngũ công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển "bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công và hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp"3; thuộc các doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, hay thuộc tư nhân, hợp tác đầu tư với nước ngoài. Họ hình thành giai cấp thống nhất đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam được vũ trang bằng Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đang lãnh đạo công cuộc đổi mới và phát triển đất nước.
Theo số liệu thống kê của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, tính đến hết năm 2010, tổng số công nhân nước ta ước tính có khoảng 12,6 triệu người4, bao gồm số công nhân đang làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế (doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp của tư nhân và tập thể, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài); số công nhân làm việc trong các hộ sản xuất kinh doanh cá thể (trong lĩnh vực công nghiệp hoặc có tính chất công nghiệp); số lao động Việt Nam đang làm việc theo hợp đồng ở nước ngoài (chủ yếu làm việc trong các doanh nghiệp); số lao động chân tay trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể.
Sau gần 30 năm đổi mới, giai cấp công nhân nước ta đã có những chuyển biến quan trọng, đang tiếp tục phát huy vai trò là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng; đóng góp trực tiếp to lớn vào sự phát triển của đất nước. Về mặt sản xuất, giai cấp công nhân là lực lượng cơ bản, chủ yếu, có vai trò to lớn trong nền kinh tế quốc dân. Mặc dù về số lượng giai cấp công nhân ở nước ta chiếm tỷ lệ không lớn trong tổng số dân cư (chiếm tỷ lệ 11% dân số và 21% lực lượng lao động xã hội) nhưng nắm giữ những cơ sở vật chất và các phương tiện sản xuất hiện đại nhất của xã hội, quyết định phương hướng phát triển chủ yếu của nền kinh tế. Giai cấp công nhân là lực lượng lao động đóng góp nhiều nhất vào ngân sách nhà nước. Hằng năm giai cấp công nhân "đóng góp hơn 60% tổng sản phẩm xã hội và 70% ngân sách nhà nước"5.
Tuy nhiên, trong điều kiện mới hiện nay bên cạnh những thành tựu thì giai cấp công nhân ở nước ta hiện nay còn bộc lộ những hạn chế, đó là:
- Sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng, cơ cấu và trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế, quốc tế. Có thống kê của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam năm 2009, trình độ chuyên môn của công nhân Việt Nam tại các doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế còn khá khiêm tốn, cụ thể: 57,08% lao động phổ thông, 26,97% là lao động có trình độ chuyên môn từ sơ cấp học nghề trở lên, 6,26% công nhân có trình độ trung cấp và 10,09% tỷ lệ công nhân có trình độ đại học, cao đẳng6. Còn theo số liệu thống kê từ cuộc điều tra khảo sát về "tiền lương thu nhập của người lao động trong các khu công nghiệp" do Viện Công nhân Công đoàn (thuộc Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam) tiến hành năm 2010 cho thấy trình độ chất lượng công nhân tại các khu công nghiệp trong cả nước vẫn còn rất hạn chế. Cụ thể theo điều tra, công nhân có 10,5% trình độ tiểu học; 43,7% trình độ, trung học cơ sở 45,5% có trình độ tiểu học phổ thông, đặc biệt vẫn còn 0,28% người lao động không biết chữ. Kết quả khảo sát cũng cho thấy, lao động của ta chủ yếu là lao động giản đơn chưa qua đào tạo nghề. Có tới 75% lao động chưa qua học nghề tại các cơ sở đào tạo ngoài doanh nghiệp, trong số này có khoảng 94% người được đào tạo ngắn hạn tại doanh nghiệp trước khi bắt đầu công việc của mình. Chỉ có 9,5% công nhân lao động kỹ thuật, 3,7% công nhân có trình độ trung cấp, 3% cao đẳng và 5,6% có trình độ đại học. Nếu tính chung số công nhân được đào tạo nghề (cả ở các cơ sở và doanh nghiệp) thì tỷ lệ công nhân lao động bậc cao là rất ít. Số công nhân bậc 4 chiếm 8,4% và bậc 6-7 chỉ chiếm 3,2%7.
Đặc biệt, hiện chúng ta còn thiếu nghiêm trọng các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề; tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động còn nhiều hạn chế; đa phần công nhân từ nông dân chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống, một bộ phận công nhân chậm thích nghi với cơ chế thị trường.
- Địa vị chính trị của giai cấp công nhân chưa thể hiện đầy đủ. Giai cấp công nhân còn hạn chế về phát huy vai trò nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị của công nhân không đồng đều; sự hiểu biết về chính sách, pháp luật còn nhiều hạn chế. Tỷ lệ đảng viên và cán bộ lãnh đạo xuất thân từ công nhân còn thấp. Một bộ phận công nhân chưa thiết tha phấn đấu vào Đảng và tham gia hoạt động trong các tổ chức chính trị - xã hội. Đặc biệt, tỷ lệ công nhân là đảng viên trong tổng số đảng viên của Đảng những năm gần đây đang giảm dần là một xu hướng rất đáng lo ngại. Do công tác phát triển Đảng trong công nhân chưa thực sự được quan tâm, nên ở khu vực kinh tế ngoài nhà nước, có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), tỉ lệ doanh nghiệp có tổ chức cơ sở Đảng rất thấp. Theo Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, hiện cả nước mới có 1,2% số doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có chi bộ đảng, với số đảng viên chỉ bằng 0,84% tổng số đảng viên của cả nước8. Đặc biệt, từ năm 2000 đến nay, tỉ lệ đảng viên là công nhân trong số đảng viên mới kết nạp chưa năm nào vượt quá 10%. Theo số liệu của Ban Tuyên giáo Trung ương (2008): Năm 2003, số người được kết nạp Đảng là công nhân trực tiếp sản xuất chiếm 7,69% tổng số được kết nạp Đảng (10.723/143.550); năm 2004, tỷ lệ này là 8,19 % (12.899/157.510); năm 2005 là 6,87% (11.646/169.461)9.
- Tuy trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đời sống của đội ngũ công nhân trong các thành phần ngày càng được cải thiện, những lợi ích của một bộ phận công nhân được hưởng chưa tương xứng với những thành tựu của công cuộc đổi mới và những đóng góp của chính mình; việc làm, đời sống vật chất và tinh thần của công nhân đang có nhiều khó khăn, bức xúc, đặc biệt là ở bộ phận công nhân lao động giản đơn tại các doanh nghiệp của tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Theo số liệu điều tra của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam năm 2008 cho thấy hiện ở nước ta còn có 14,7% công nhân trong tình trạng thường xuyên không có việc làm hoặc có việc làm nhưng không ổn định, 51,7% công nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, 35,6% công nhân trong các doanh nghiệp tư nhân phải đi thuê nhà ở trọ10. Đặc biệt, sự an toàn đối với người lao động chưa được bảo đảm. Theo số liệu thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, từ năm 2005-2010, cả nước đã xảy ra hàng chục nghìn vụ tai nạn lao động dẫn đến những thiệt hại rất lớn về người và vật chất. Riêng năm 2010, xảy ra 5.125 vụ tai nạn lao động, trong đó có 554 vụ tai nạn lao động chết người. Tổng số người bị nạn là 5.307 người, trong đó có 600 người chết, 1.260 người bị thương nặng. Tổng thiệt hại về vật chất lên tới 137,5 tỷ đồng; số ngày nghỉ do tai nạn lao động cũng lên đến 75.454 ngày11.
Theo guồng quay của nền kinh tế thị trường, người công nhân ngày càng chịu nhiều áp lực hơn. Công việc khiến họ không còn có thời gian để quan tâm nhiều tới đời sống tinh thần, chính trị xã hội. Nếu những công nhân trí thức làm quản lý, làm chủ doanh nghiệp có mức thu nhập cao có điều kiện để tiếp xúc với các phương tiện truyền thông, các dịch vụ giải trí thì những công nhân lao động phổ thông với mức lương thấp phải làm thêm mới đủ sống dường như không có điều kiện. Tại Việt Nam hiện nay theo số liệu thống kê, tỷ lệ công nhân tập trung đông nhất là ở Thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Một thực tế đặt ra là hầu hết họ là những công nhân từ các tỉnh lẻ lên làm thuê với mức lương thấp mà chi phí cho cuộc sống ở hai thành phố này rất đắt đỏ do lượng người tập trung đông. Với mức lương từ 1,5 đến 2 triệu đồng/tháng rất khó khăn trong việc duy trì một cuộc sống vật chất tối thiểu của mình.
Những hạn chế, yếu kém trên đây do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân do vai trò lãnh đạo của Đảng trong công tác xây dựng đội ngũ còn nhiều bất cập, thể hiện trên các phương diện sau:
Thứ nhất, trong những năm qua, mặc dù Đảng có chú trọng xây dựng giai cấp công nhân, nhưng quan tâm chưa đầy đủ, chưa ngang tầm với vị trí, vai trò của giai cấp công nhân trong thời kỳ mới . Mặc dù giai cấp công nhân luôn được coi là giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn khẳng định: Đảng là đội tiền phong của giai cấp công nhân nhưng trong thực tế từ trước khi có Đại hội VII của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị chưa có nghị quyết, chỉ thị chuyên đề về xây dựng giai cấp công nhân. Từ sau Đại hội VII, đặc biệt thực hiện triển khai Nghị quyết Đại hội X, lần đầu tiên Đảng ta đã ban hành được nghị quyết chuyên đề về giai cấp công nhân, nhưng việc triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng, đặc biệt việc triển khai thực hiện Nghị quyết hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa X "Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" trong thực tiễn hiện nay còn chậm, do còn thiếu cơ chế đồng bộ để thực hiện, hoặc do nhận thức của các cấp các ngành về các giải pháp thực hiện xây dựng giai cấp công nhân trong tình hình mới vẫn còn có sự khác nhau.
Thứ hai, sự lãnh đạo của một số cấp ủy Đảng địa phương chưa được quyết liệt sát sao; chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với người lao động chưa được thực hiện nghiêm túc; vai trò, trách nhiệm của tổ chức Công đoàn chưa được phát huy đầy đủ; sự phối kết hợp của cả hệ thống chính trị đối với việc xây dựng giai cấp công nhân, chăm lo đến đời sống chưa đạt hiệu quả cao; chưa thường xuyên quan tâm tổ chức các cuộc tiếp xúc, gặp gỡ và đối thoại trực tiếp giữa cán bộ của Đảng, Nhà nước với CNLĐ; ít có hình thức tôn vinh người lao động tiêu biểu, nhằm kịp thời động viên những người lao động trực tiếp làm ra của cải vật chất cho đất nước. Hệ thống cơ chế, chính sách đối với giai cấp công nhân chưa đồng bộ, có những chủ trương chính sách không còn phù hợp, nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung kịp thời, v.v...
Thứ ba, tình trạng người sử dụng lao động vi phạm pháp luật lao động vẫn còn diễn ra phổ biến nhưng chưa được xử lý nghiêm. Sự phân hoá giàu nghèo giữa đông đảo công nhân với một bộ phận cán bộ quản lý trong doanh nghiệp và một số giai tầng trong xã hội ngày càng tăng. Một số địa phương chỉ chú trọng đưa ra các cơ chế, chính sách ưu đãi kêu gọi đầu tư, mà chưa chú ý đúng mức đến sự phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, chăm lo đời sống, thu nhập, nhà ở, cải thiện môi trường sống, điều kiện lao động cho công nhân nên đã xảy ra nhiều vụ tranh chấp lao động, đình công, ngừng việc tập thể trong thời gian qua12.
Thứ tư, công tác đào tạo bồi dưỡng, nâng cao trình độ công nhân lao động, đào tạo cán bộ xuất thân từ công nhân ưu tú, công tác phát triển đảng trong công nhân lao động, nhất là trong công nhân lao động tại khu vực kinh tế ngoài nhà nước cũng chưa được quan tâm đứng mức. Nhận thức của các cấp ủy đảng ở một số địa phương về vai trò công nhân và các tổ chức Công đoàn Việt Nam chưa đầy đủ, trong khi bản thân một bộ phận không nhỏ người lao động còn có trình độ còn thấp, ý thức tổ chức kỷ luật còn hạn chế, quan hệ lao động còn có diễn biến phức tạp; việc thu hút, tập hợp người lao động tham gia các tổ chức chính trị - xã hội trong doanh nghiệp còn khó khăn, v.v...
Cố nhiên, để xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh, xứng đáng là giai cấp tiên phong trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, làm cơ sở xã hội, chỗ dựa vững chắc cho Đảng, Nhà nước và khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trên thực tế có rất nhiều giải pháp. Tuy nhiên trong phạm vi bài báo này, chúng tôi mạnh dạn đề xuất một số giải pháp cơ bản sau:
Một là, cần phải cụ thể hóa những quan điểm, chủ trương lớn của Đảng về giai cấp công nhân, nhanh chóng đưa Nghị quyết hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X "Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", đặc biệt là những quan điểm, những quyết sách của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng về "Quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động; đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”13 vào cuộc sống. Phải sử dụng tổng hợp các biện pháp thực sự đưa nghị quyết của Trung ương Đảng vào cuộc sống, phải làm cho giai cấp công nhân Việt Nam nói riêng và những người lao động Việt Nam nói chung cảm nhận được những thay đổi tích cực khi thực hiện Nghị quyết của Đảng trong đời sống thực tế.
Hai là, Đảng và Nhà nước sớm thể chế hoá những quan điểm, chủ trương lớn đã được thể hiện trong nghị quyết của Đảng thành cơ chế chính sách cụ thể, nhằm giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức xúc, cấp bách của giai cấp công nhân, tạo chuyển biến mạnh mẽ và rõ rệt trong việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người lao động tương xứng với những thành quả của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước và những đóng góp của giai cấp công nhân. Trước mắt, cần giải quyết những bức xúc hiện nay đối với công nhân như: Nhà ở, nhà trẻ tại các khu công nghiệp, tiền lương và thu nhập bảo hiểm xã hội, nơi sinh hoạt văn hoá, an toàn vệ sinh lao động và bảo vệ môi trường.
Ba là, quan tâm lãnh đạo sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật có liên quan trực tiếp tới người lao động và tổ chức Công đoàn, nhất là Bộ luật Lao động, Luật Công đoàn, Luật Bảo hiểm xã hội. Việc sửa đổi, bổ sung các luật trên vừa phải đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, vừa phải tạo điều kiện để tổ chức Công đoàn năng động, tự chủ và sáng tạo trong hoạt động, thực sự trở thành người đại diện tin cậy, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động - đối tượng yếu thế nhất trong quan hệ lao động. Tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật lao động, xử lý nghiêm những vi phạm pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền lợi người lao động, không vì thu hút đầu tư mà xem nhẹ người lao động, yếu tố có tính quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, nhằm xây dựng quan hệ lao động hài hoà, tiến bộ trong doanh nghiệp.
Thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng "Phát triển về số lượng, chất lượng và tổ chức nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và tay nghề, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước"14. Muốn vậy, cần triển khai một cách có hiệu quả chủ trương từng bước trí thức hoá giai cấp công nhân. Theo xu hướng mới hiện nay, chất lượng giai cấp công nhân có vai trò quyết định đến năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Vì vậy, cần đầu tư mạnh hơn cho đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề cho công nhân, đặc biệt là công nhân trẻ, công nhân xuất thân từ nông dân, công nhân nữ, nhằm phát triển về số lượng, nâng cao về chất lượng, hợp lý về cơ cấu. Tăng nhanh số lượng tỷ lệ công nhân là công nhân trí thức trong các doanh nghiệp có ngành nghề kinh doanh dịch vụ xã hội, dịch vụ công nghiệp, trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, v.v..
Bốn là, chỉ đạo kiểm tra các doanh nghiệp trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện quy chế dân chủ; tăng cường các hoạt động đối thoại, thương lượng giữa người sử dụng lao động và người lao động nhằm xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ. Các cấp chính quyền tăng cường công tác kiểm tra, hướng dẫn việc thực hiện quy chế dân chủ trong các doanh nghiệp. Tiến hành rà soát, bổ sung quy hoạch các khu, cụm công nghiệp thêm hướng gắn với phát triển các khu đô thị mới, trong đó chú trọng xây dựng nhà ở và các công trình phúc lợi thiết yếu phục vụ chăm sóc sức khỏe, nhu cầu sinh hoạt tinh thần cho công nhân và nhân dân. Trong từng doanh nghiệp phải có quy hoạch bố trí quỹ đất để xây dựng nơi sinh hoạt văn hóa cho công nhân.
Năm là, Đảng cần quan tâm bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, ý thức giai cấp, tinh thần dân tộc cho công nhân lao động, để họ luôn gắn bó với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, có ý chí vươn lên thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, tinh thần phấn đấu vươn lên trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế; xây dựng tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động, lương tâm nghề nghiệp. Muốn vậy, cần phải tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng với hoạt động của tổ chức Công đoàn trong công tác tuyên truyền, giáo dục công nhân lan rộng, đảm bảo định hướng thống nhất nội dung và nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục từ Trung ương đến cơ sở, nhằm tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng với công nhân và công đoàn. Nhà nước cần đầu tư và có chính sách ưu đãi đầu tư xây dựng thiết chế văn hóa và tổ chức hoạt động của các nhà văn hoá lao động, câu lạc bộ công nhân, hệ thống truyền thông đại chúng, tạo môi trường lành mạnh để xây dựng đời sống văn hóa trong công nhân lao động, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Sáu là, vấn đề cấp bách hiện nay là phải xem công tác xây dựng Đảng, củng cố các đoàn thể quần chúng là nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn đối với phong trào công nhân hiện nay. Để làm được điều này chúng ta phải thẳng thắn trả lời một câu hỏi lớn. Vì sao Đảng của giai cấp công nhân, Công đoàn của công nhân, Đoàn Thanh niên là tổ chức chính trị của tuổi trẻ công nhân, nhưng một bộ phận công nhân chưa thiết tha vào Đảng, vào Đoàn, chưa hoàn toàn xem công đoàn là tổ chức của họ. Thực tế cho thấy công tác xây dựng đảng và tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên chưa theo kịp yêu cầu phát triển của sự nghiệp đổi mới. Một mặt do áp lực của những điều kiện khách quan, mặt khác bản thân các tổ chức đảng, công đoàn cũng bộc lộ những bất cập yếu kém, tự thân không theo kịp yêu cầu của sự phát triển, nhưng không có những chấn chỉnh kịp thời. Đã đến lúc không chỉ dừng lại ở những chỉ thị, nghị quyết mà nên có những văn bản pháp luật thể chế rõ chỉ thị nghị quyết thành những quy định cụ thể. Đảng ta là Đảng cầm quyền, hoạt động của các tổ chức đảng, công đoàn, đoàn thanh niên phải được hình thành trong từng doanh nghiệp bất kỳ thuộc thành phần kinh tế nào. Tuy nhiên hoạt động của các tổ chức trên đây phải góp phần làm cho doanh nghiệp phát triển, sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao. Đời sống vật chất, tinh thần và các quyền lợi khác của người công nhân phải được bảo đảm tốt hơn. Các chủ trương đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước phải được thực thi và chấp hành nghiêm túc15.
Với niềm tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng cũng như thành công của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI chúng ta tin tưởng rằng với việc quán triệt vận dụng thành công những quan điểm cơ bản của Đảng xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ cách mạng mới sẽ cho phép chúng ta nhìn thấy giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, xứng đáng là giai cấp lãnh đạo cách mạng và là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá và hội nhập quốc tế.
____________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, trang 240-241.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội – 2000, Tập 10, tr.9.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành trung ương khóa X. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008, tr. 23.
4. Đặng Ngọc Tùng: Báo cáo tổng hợp đề tài: “Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020” (chương trình KX.04.06/10), Hà Nội, tr.47.
5. Dẫn theo bài viết: “Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam vững mạnh: Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách”, Nguồn tài liệu đã dẫn.
6. Đặng Ngọc Tùng: Báo cáo tổng hợp đề tài: “Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020” (chương trình KX.04.06/10), Hà Nội, tr.147.
7. Xem thêm tác giả Lục Bình: “Tìm lời giải nâng cao chất lượng giai cấp công nhan” (http://daidoanket.vn, ngày 20/5/2011).
8. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, năm 2011.
9. Xem thêm: Ban Tuyên giáo Trung ương: Tài liệu nghiên cứu các nghị quyết Nghị quyết Trung ương 6, Khóa X. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.24-25.
10. Ban Tuyên giáo Trung ương: Tài liệu nghiên cứu các nghị quyết Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6, Khóa X, Sđd, tr.25.
11. Dẫn theo: http://dantri.com.vn, ngày 28/02/2011.
12. Số liệu thống kê của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam năm 2011 cho thấy trong giai đoạn 2009-2010, có 3.620 vụ đình công trong khắp nước. Riêng trong quý đầu năm 2011 này cũng đã xảy ra 220 cuộc đình công.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, trang 49.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, trang 118.
15. Xem thêm Trương Giang Long: Giai cấp công nhân Việt Nam – thực trạng và suy ngẫm. Tạp chí Cộng sản số 23 (143) năm 2007.
Vị trí, vai trò của trí thức trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo quan điểm của Đại hội lần thứ XI PGS,TS. Nguyễn Khánh Bật
Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh
1. Thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và vị trí, vai trò của trí thức.
Lịch sử phát triển của mỗi quốc gia dân tộc đều phải trải qua thời kỳ công nghiệp hoá đất nước.
Ở Việt Nam từ Đại hội III (1960) đến Đại hội V (1982) về đường lối xây dựng kinh tế, Đảng ta chủ trương ''tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng văn hóa, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt, đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ”1.
Tại Đại hội V và Đại hội VI, Đảng ta đưa ra khái niệm: ''chặng đường trước mắt'', ''chặng đường đầu tiên'' của thời kỳ quá độ. Theo đó: ''Chặng đường đầu tiên là một bước quá độ nhỏ trong bước quá độ lớn''2. Độ dài và vị trí của chặng đường này được khẳng định trong Văn kiện Đại hội V: ''Chặng đường trước mắt bao gồm thời kỳ đầu 5 năm 1981 - 1985 và kéo dài đến năm 1990, là khoảng thời gian có tầm quan trọng đặc biệt''3.
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội V, đến Đại hội VI, Đảng ''Xác định nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế xã hội, tiếp tục xây dựng tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội trong chặng đường tiếp theo”4.
Đại hội VII (1991) của Đảng thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong Cương lĩnh 1991, Đảng Cộng sản Việt Nam đã gắn công nghiệp hóa với hiện đại hóa. Cương lĩnh viết: Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.
Tháng 1 - 1994, Đảng ta tiến hành Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII. Trên cơ sở đánh giá khách quan những thành tựu và hạn chế của đất nước, Hội nghị cho rằng: ''Mặc dù còn nhiều yếu kém phải khắc phục, nhưng thành tựu quan trọng đạt được đã và đang tạo ra những tiền đề đưa đất nước chuyển sang một thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy tới một bước công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước''5 .
Đại hội VIII (1996) của Đảng khẳng định những thành tựu sau 10 năm đổi mới (1986-1996) đề ra phương hướng phát triển cho chặng đường tiếp theo. Văn kiện Đại hội VIII viết: công cuộc đổi mới 10 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, thế và lực của nước ta về chất đã có sự chuyển biến về chất. ''Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nghiêm trọng và kéo dài hơn 15 năm, tuy còn một số mặt chưa vững chắc, song đã tạo được tiền đề cần thiết chuyển sang thời kỳ phát triển mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước''6. Việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa được Đảng ta khẳng định từ Đại hội VIII, tiếp tục được bổ sung, phát triển trong các văn kiện Đại hội IX, X, XI và các văn kiện của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư các khóa VIII, IX, X.
Tuy vậy, cho đến nay vẫn còn những nhận thức khác nhau về đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa:
- Tại Đại hội X của Đảng có ý kiến cho rằng chúng ta bàn nhiều về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhưng đến nay vẫn chưa thực sự đưa ra được những tiêu chí cơ bản của một nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa để làm mục tiêu phấn đấu. Giải trình vấn đề này, Đoàn chủ tọa Đại hội X cho biết xin tiếp thu bổ sung vào văn kiện Đại hội, tiếp tục nghiên cứu sâu hơn để làm rõ những tiêu chí một nước công nghiệp theo hướng hiện đại trong quá trình xây dựng chiến lược phát triển đất nước giai đoạn 2010 – 20207.
- Mới đây, tại Đại hội XI cẫn còn ý kiến đề nghị làm rõ các tiêu chí của mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, xác định rõ nội dung cụm từ ''nước công nghiệp''.
- Việc ghi các chỉ tiêu định lượng vào mục tiêu phấn đấu trong văn kiện Đại hội X có 3 loại ý kiến khác nhau:
+ Không ghi các chỉ tiêu đó vào trong Nghị quyết Đại hội.
+ Nhiều chỉ tiêu đề ra là quá cao, khó thực hiện.
+ Một số chỉ tiêu đề ra trong Nghị quyết còn thấp chưa tương xứng với mục tiêu phấn đấu trở thành nước công nghiệp hóa theo hướng hiện đại.
Giải trình những ý kiến trên Đoàn Chủ tịch Đại hội XI cho biết trong quá trình chuẩn bị văn hoá Đại hội XI, Ban Chấp hành Trung ương khóa X đã chỉ đạo nghiên cứu, tính toán, cân nhắc kỹ để xác định mục tiêu tổng quát, các mục tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế xã hội, môi trường đến năm 2020.
Mục tiêu tổng quát mà chúng ta cần đạt được là ''phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững, vị trí của Việt Nam được tiếp tục nâng lên, tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau''8
Từ mục tiêu tổng quát nêu trên, Đại hội XI còn đề ra những mục tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường đến năm 2020: GDP năm 2020 bằng khoảng 2,2 lần so với 2010, GDP bình quân đầu người khoảng 3,5 lần so với năm 2010, tỉ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85 % trong GDP, tỉ lệ lao động trong nông nghiệp chiếm khoảng 30 - 35 % lao động xã hội, chỉ số phát triển con người HDI đạt nhóm trung bình của thế giới, tuổi thọ bình quân đạt 75 tuổi, lao động qua đào tạo đạt từ 70 %, đào tạo nghề đạt 55 % tổng lao động xã hội, cố sinh viên đạt 450 trên một vạn dân. Điểm mới trong văn kiện Đại hội XI là Đảng đã đề ra một số chỉ tiêu chủ yếu về bảo vệ môi trường: Đến năm 2020 tỉ lệ che phủ rừng đạt 45 %, hầu hết dân cư ở cả thành thị và nông thôn được sử dụng nước sạch, trên 80 % các cơ sở sản xuất kinh doanh hiện có đạt tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường.
Có thể nói với Đại hội XI của Đảng, mục tiêu tổng quát và những mục tiêu chủ yếu về kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường của nước Việt Nam đến năm 2020 đã được xác định trên những nét chủ yếu.
Một trong nhĩmg nhân tố quan trọng nhất để đạt các mục tiêu trên là đội ngũ trí thức - nguồn lực chất lượng cao chủ yếu của đất nước.
Quán triệt quan điểm Hồ Chí Minh: Trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc, trong đấu tranh giành chính quyền cần trí thức, kháng chiến, kiến quốc cần trí thức, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội càng cần trí thức, cũng cần trí thức hơn, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định''. Đội ngũ cán bộ khoa học, đặc biệt là cán bộ có trình độ khoa học cao là vốn quý báu của dân tộc”9.
Ngay từ Đại hội VIII - Đại hội xác định nước ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng đã chỉ rõ: Cùng với khoa học công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, phát triển nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Văn kiện Đại hội III yêu cầu: Phát triển và kết hợp chặt chẽ các ngành khoa học phục vụ việc, xác định phương hướng, bước đi của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng pháp luật, chính sách, kế hoạch, chương trình kinh tế xã hội.
Trong văn kiện Đại hội XI từ đổi mới mô hình tăng trưởng đến phát triển nhanh gắn với phát triển bền vững. Đảng ta đều chú trọng làm nổi bật vị trí, vai trò của trí thức Đảng ta khẳng định phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định để cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, bảo đảm phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững của đất nước10.
2. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế trí thức và vị trí, vai trò của trí thức.
Từ thập kỷ 80 thế kỷ XX đến nay, sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học, công nghệ, sự bùng nổ các công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ tin học đã tác động mạnh mẽ, sâu sắc đến nền kinh tế thế giới và xã hội loài người. Nền kinh tế thế giới bước sang một giai đoạn mới: Trí thức trở thành yếu tố quyết định nhất đối với sự phát triển sản xuất. Hiện nay, có nhiều tên gọi khác nhau cho giai đoạn phát triển mới của lực lượng sản xuất. Kinh tế tri thức (KTTT) là khái niệm được các nước thuộc Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) nêu lên từ năm 1985 và hiện đang được sử dụng phổ biến, KTTT là trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất khi hàm lượng lao động cơ bắp, hao phí lao động cơ bắp trong lao động xã hội ngày một giảm đi trong khi hàm lượng trí thức, hao phí lao động trí óc ngày càng tăng. KTTT là sự sản sinh, phổ cập và sử dụng tri thức của con người đóng vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống. 11
Theo quy định một ngành, một nước có thể nói là đã trở thành KTTT khi tỉ lệ đóng góp của yếu tố trí thức trong tăng trưởng kinh tế, sản xuất các sản phẩm, dịch vụ chiếm từ 70 % trở lên. Có người đưa ra quy định tiêu trí của KTTT được thể hiện ở 4 con số trên 70 %.
- Trên 70 % GDP là do các ngành sản xuất và dịch vụ sử dụng công nghệ cao mang lại.
- Trên 70 % cơ cấu giá trị gia tăng là do kết quả của lao động trí óc.
- Trên 70 % lực lượng lao động là công nhân trí thức.
- Trên 70 % tư bản là tư bản con người12.
Từ năm 2000 ở một số nước phát triển nhất như Mỹ, Nhật Bản, Canađa, KTTT chiếm tỉ lệ trên 50 %. Cũng từ năm 2000 trong các nước OECD công nhân trí thức chiếm trên 35 % lực lượng lao động.
Đảng ta quan niệm KTTT là một xu thế khách quan, một trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất. Việc nước ta tích cực, chủ động tiếp thu KTTT phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa như là một biểu hiện cụ thể của việc kết hợp súc mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Với chủ trương đó, trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nước ta. Văn kiện Đại hội IX khẳng định: Phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm. Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy lợi thế của đất nước, tranh thủ áp dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn, phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học công nghệ, tìmg bước phát triển kinh tế KTTT13.
Mười năm sau, nhận thức của Đảng ta về KTTT đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã có bước tiến rõ rệt. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI viết: ''Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn bới phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên môi trường”14.
Cũng như vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vấn đề KTTT mấy năm gần đây trong Đảng và ngoài xã hội còn những nhận thức khác nhau:
- Một số ý kiến cho rằng trong điều kiện nước ta, chưa nên gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với KTTT. Bởi vì, cho đến nay nước ta vẫn còn là nước nông nghiệp, hơn 70 % dân cư vẫn sống ở địa bàn nông thôn. Nên chăng chỉ dùng cụm từ ''từng bước phát triển KTTT như chủ trương tại Đại hội IX của Đảng''.
Một số ý kiến khác bày tỏ quan điểm không nên coi KTTT là chiếc đũa thần có thể giải quyết được mọi việc. Quá chú trọng đầu tư vào lĩnh vực này là vượt quá khả năng của nước nhà.
Cần nhận thức rằng chúng ta chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển KTTT là cần thiết và có tính khả thi vì:
- KTTT là xu thế phát triển mới của thế giới hiện nay. Tất cả mọi quốc gia, dân tộc, trong đó có Việt Nam không thể đứng ngoài xu thế chung mà cần tích cực, chủ động phát triển KTTT phù hợp với điều kiện bên trong và xu thế bên ngoài.
- Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển KTTT vừa thể hiện bước tiến trong nhận thức của Đảng vừa đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Ở Việt Nam, phát triển KTTT thực chất là thực hiện chiến lược công nghiệp hóa rút ngắn dựa trên tri thức.
- Trên thực tế, những năm gần đây ở nước ta đã xuất hiện những mô hình phát triển mới dựa vào tri thức. Đó là Tổng công ty Bưu chính viễn thông, là những cánh đồng cho thu hoạch 500 - 600 triệu đồng/ l ha ở Hải Dương, Đà Lạt. Đó còn là việc ứng dụng những công nghệ cao trong một số cơ sở sản xuất công nghiệp như đóng tàu, dầu khí, nhà máy lọc dầu Dung Quất.
Việc phát triển KTTT đã đặt người trí thức vào vị trí trung tâm của sự phát triển đó. Văn kiện Đại hội XI viết: ''Thực hiện các chương trình, đề án đào tạo nhân lực chất lượng cao, đổi mới các ngành, lĩnh vực chủ yếu mũi nhọn. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng phát huy nhân tài, đào tạo nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức''15. Văn kiện Đại hội XI còn chỉ ra những ngành, những lĩnh vực khoa học công nghệ làm nền tảng cho phát triển KTTT cần tập trung để phát triển là: Công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ môi trường.
3. Lựa chọn khâu đột phá chiến lược để khai thông các điểm nghẽn và vị trí, vai trò của tri thức.
Đối với Việt Nam việc gắn công nghiệp hoá với hiện đại hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa với KTTT đều khá mới mẻ. Đi vào các lĩnh vực này nảy sinh những khó khăn, vướng mắc cần phải tháo gỡ là một tất yếu. Các văn kiện của Đảng trước Đại hội XI đã nhiều lần đề cập đến ách tắc, khó khăn, bất cập cần giải quyết. Đại hội Đảng lần thứ XI nêu lên 3 điểm nghẽn cản trở sự phát triển đất nước;
- Thể chế kinh tế thị trường chưa hoàn thiện,
- Chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao còn nhiều hạn chế, yếu kém.
- Kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ
Vấn đề đặt ra cần tháo gỡ ở điểm nghẽn thứ hai không phải là nguồn nhân lực nói chung mà là chất lượng nguồn nhân lực. Có thể nói Việt Nam đang ở trong tình trạng vừa thừa vừa thiếu nhân lực: Thừa nhân lực phổ thông, lao động giản đơn, thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao, công nhân lành nghề, nhất là trí thức tinh hoa, chuyên gia đầu đàn. Văn kiện Hội nghị Trung ương bảy, khóa X Về xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nuớc chỉ rõ ở nước ta: ''Trí thức tinh hoa và hiền tài còn ít”. Đây là một nguyên nhân trực tiếp tạo nên điểm nghẽn thứ hai và tác động đến các điểm nghẽn khác.
Để từng bước tháo gỡ 3 điểm nhấn nêu trên, Đại hội XI của Đảng đã xác định 3 khâu đột phá chiến lược:
- Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất luợng cao.
- Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện đại. 16
Có thể coi 3 khâu đột phá chiến lược như là những giải pháp để tháo gỡ 3 điểm nghẽn.
Từ việc giải quyết 3 điểm nghẽn, nhất là điểm nghẽn thứ hai, Đảng ta đã khẳng định vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức: ''Ngày nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đội ngũ trí thức trở thành nguồn lực đặc biệt quan trọng tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia trong chiến lược phát triển''.
Như vậy, mục tiêu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 đòi hỏi phải lựa chọn con đường phát triển rút ngắn, phát huy đến mức cao nhất mọi nguồn nhân lực, tiềm năng trí tuệ của dân tộc, đặc biệt năng lực sáng tạo của đội ngũ trí thức.
_______________
Chú thích:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, tập 43, tr. 57-58.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, sđd, tập 47, tr. 175.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, sđd, tập 43, tr. 59.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, sđd, tập 47, tr. 376.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, sđd, tập 53, tr. 196.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, Hà Nội, 1996, tr.12
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, tr.338
8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.103
9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, sđd, tập 50, tr. 565.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.41-130.
11. Ban Khoa giáo Trung ương: Triển khai Nghị quyết Đại hội IX trên lĩnh vực khoa giáo, Nxb CTQG, Hà Nội, 2001, tr. 320.
12. Học viện Chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh: Những vấn đề về kinh tế tri thức, số 5, 2000, tập 1, tr.72.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội, 2001, tr.75
14. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.75
15. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.130
16. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.106
Tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển mới của trí thức Việt Nam Phan Thanh Khôi
Học viện CT-HC QG Hồ Chí Minh
Trí thức là người lao động trí óc, sáng tạo trong lĩnh vực sản xuất tinh thần là chủ yếu. Do vậy, hoạt động của trí thức phụ thuộc lớn vào tồn tại xã hội, những yếu tố kinh tế, vật chất... của đời sống con người, mà có thể gọi khái quát và phổ thông là: môi trường phát triển của trí thức. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã thông qua các văn kiện quan trọng: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng... Đại hội đã tạo ra những môi trường thuận lợi cho sự phát triển mới của dân tộc, trong đó có trí thức Việt Nam.
Trước hết, Đại hội XI với đường lối đối ngoại ngày càng đổi mới sẽ mở ra môi trường quốc tế rộng lớn cho sự phát triển của trí thức Việt Nam. Bước vào công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã chú ý đến mở rộng quan hệ đối ngoại nhưng trước hết là hội nhập kinh tế quốc tế. Đến Đại hội X, tinh thần này được nâng lên tầm "chủ động và tích cực", nhưng cũng chủ yếu về mặt kinh tế, đồng thời quan tâm hơn đến mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Cho nên, để đáp ứng thực tế khách quan của xu thế toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng ở mọi phương diện của đời sống xã hội, Đại hội XI nêu rõ: "Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”1.
Đường lối đối ngoại chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sẽ tạo điều kiện đa dạng hóa các nguồn lực và địa chỉ đào tạo trí thức nước ta từ các quốc gia khác nhau. Hợp tác quốc tế về khoa học được mở rộng tạo khả năng để trí thức nước ta giao lưu, trao đổi thông tin, tiếp cận những tri thức mới. Trí thức người Việt Nam định cư ở nước ngoài có cơ hội nhiều hơn hướng về Tổ quốc, đóng góp trí lực và vật lực nhiều hơn vào xây dựng quê hương, đất nước...
Toàn cầu hóa không chỉ đem lại những thuận lợi mà còn có những thách thức. Trong hội nhập quốc tế, người trí thức phải tự giác vươn lên về ngoại ngữ, học vấn... để khỏi đứng ngoài sự phát triển chung của nhân loại. Người trí thức còn phải vững vàng về chính trị, có lòng yêu nước, tự trọng và kiêu hãnh dân tộc để lao động sáng tạo đứng vững trong môi trường quốc tế rộng lớn, xứng đáng với danh hiệu: Trí thức Việt Nam.
Hai là, Đại hội XI xác định một trong những phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu phát triển đất nước là phát triển kinh tế tri thức, tiếp tục đổi mới phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ. Đây thực chất là tạo môi trường trí tuệ cho xây dựng trí thức Việt Nam. Đại hội XI nêu rõ: "Phát triển kinh tế tri thức trên cơ sở phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ; xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng khoa học, công nghệ, trước hết là công nghệ thông tin, truyền thông, công nghệ tự động, nâng cao năng lực nghiên cứu - ứng dụng gắn với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao, dựa nhiều vào tri thức. Phát huy và sử dụng có hiệu quả nhất nguồn tri thức của con người Việt Nam và khai thác nhiều nhất tri thức của nhân loại. Xây dựng và triển khai lộ trình phát triển kinh tế tri thức đến năm 2020”2.
Với môi trường này, con người Việt Nam nói chung và trí thức Việt Nam nói riêng trở thành trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển, được tôn trọng và phát huy vai trò của mình. Hơn nữa, Đại hội XI khẳng định lại một lần nữa là ở nước ta, phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu. Đại hội XI còn nhấn mạnh đến "thực hiện đồng bộ các giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục đại học..." và phấn đấu đến năm 2020: "số sinh viên đạt 450 trên một vạn dân"3... thì những năm tới, khả năng số lượng trí thức Việt Nam sẽ tăng nhanh và nâng cao được chất lượng đội ngũ của mình.
Sống trong môi trường trí tuệ thuận lợi, con người Việt Nam, nhất là người trí thức phải học tập suốt đời, được đào tạo và đào tạo lại thường xuyên, bằng trường lớp và tự học hỏi để có năng lực chuyên môn tương xứng, lao động giỏi, đáp ứng được đòi hỏi cao về năng suất, chất lượng của kinh tế tri thức.
Ba là, Đại hội XI tiếp tục đổi mới toàn diện đất nước và xác định 3 khâu "đột phá chiến lược”, trong đó khâu đầu tiên là: hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa...4. Hoàn thiện này tạo môi trường kinh tế thuận lợi cho lao động sáng tạo khoa học và lưu thông hàng hóa “chất xám" của người trí thức Việt Nam.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tạo khả năng nhiều và linh hoạt việc làm cho trí thức. Người trí thức có mặt ở mọi thành phần kinh tế, có cơ hội lựa chọn những nơi làm việc phù hợp để được cống hiến nhiều nhất và hưởng thụ xứng đáng, hơn nữa có khả năng vươn lên làm giàu chính đáng.
Hoàn thiện thể chế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn là phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường, trong đó có thị trường khoa học và công nghệ, thị trường lao động…. tác động trực tiếp đến người trí thức. Bởi vì, như Đại hội XI nêu rõ: "Phát triển mạnh kinh tế thị trường, khoa học và công nghệ gắn với việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; có hình thức thông tin giới thiệu các hoạt động và sản phẩm khoa học, công nghệ; hoàn thiện các định chế và mua bán các sản phẩm khoa học, công nghệ trên thị trường” và "Đẩy mạnh phát triển thị trường lao động. Tiền lương, tiền công phải được gọi là giá cả sức lao động, được hình thành theo cơ chế thị trường”5.
Như vậy, hoàn thiện thể chế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đem lại môi trường thuận lợi, bình đẳng, và tạo nên động lực kinh tế mạnh mẽ cho trí thức nước ta trong lao động sáng tạo khoa học. Thế nhưng trong nền kinh tế thị trường, người trí thức cũng phải chịu sức ép cạnh tranh, phải không ngừng học tập, bồi dưỡng để giữ vững "thương hiệu” cho sản phẩm khoa học và giá trị “chất xám” của mình. Nhất là, người trí thức phải biết giữ mình để khỏi tha hóa trước những "cám dỗ" và tiêm nhiễm những tiêu cực của mặt trái nền kinh tế thị trường…
Bốn là, trong môi trường phân công lao động xã hội – nghề nghiệp, như đã nói, trí thức là những người lao động trí óc, trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất tinh thần. Sự ra đời của trí thức mang tính lịch sử và biểu hiện bước phát triển mới của xã hội. Từ đó, lao động trí óc nằm trong chỉnh thể, không thể thiếu của hệ thống lao động xã hội và vai trò ngày càng tăng. Nghị quyết chuyên đề của Đảng ta về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhấn mạnh rằng: "Trong mọi thời đại, tri thức luôn là nền tảng tiến bộ xã hội, đội ngũ trí thức là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức. Ngày nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đội ngũ trí thức trở thành nguồn lực đặc biệt quan trọng, tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia trong chiến lược phát triển”6. Ở nước ta, với mục tiêu sớm đưa đất nước cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, đòi hỏi phải lựa chọn con đường phát triển rút ngắn thì phải: "... phát huy đến mức cao nhất mọi nguồn lực, tiềm năng trí thức của dân tộc, đặc biệt là năng lực sáng tạo của đội ngũ trí thức”7.
Ở Đại hội XI của Đảng, vai trò quan trọng của trí thức càng được khẳng định và nhấn mạnh khi đặt trí thức trong khái niệm khác của phân công lao động xã hội nghề nghiệp là: nguồn nhân lực chất lượng cao. Trí thức là bộ phận đặc trưng nhất của nguồn nhân lực chất lượng cao. Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao cũng được coi là một trong ba "đột phá chiến lược". Đại hội XI còn giải thích cụ thể rằng: "Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trong đó có nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Đặc biệt coi trọng phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia, quản trị doanh nghiệp giỏi, lao động lành nghề và cán bộ khoa học công nghệ đầu đàn"8.
Như vậy Đảng ta quyết tâm cao trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, mà trí thức là một bộ phận. Nhà nước, các ngành, các cấp, các địa phương, tổ chức, doanh nghiệp... tập trung nguồn lực và có những đề án, chương trình hành động... cho nhiệm vụ này. Riêng đối với trí thức, Đảng ta cũng chỉ ra mục tiêu là xây dựng đội ngũ này lớn mạnh, đạt chất lượng cao, số lượng và cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, từng bước tiến lên ngang tầm với trình độ của trí thức các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới. Do đó, xác định trí thức với tính cách là bộ phận của nguồn nhân lực chất lượng cao, một khâu của "đột phá chiến lược", Đại hội XI đã mở ra cơ hội, môi trường thuận lợi cho sự phát triển mới của trí thức, đồng thời cũng đòi hỏi cao đối với việc phát huy vai trò của trí thức và công tác xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam.
Năm là, tinh thần lớn xuyên suốt của Đại hội XI là phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc tạo thành môi trường dân chủ và đồng thuận xã hội cho phát triển của trí thức Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: "Dân chủ xã hội chủ nghĩa" là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước”9; Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2015 nêu rõ: "Nâng cao năng lực và tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ, nhất là dân chủ trực tiếp để phát huy mạnh mẽ mọi khả năng sáng tạo và bảo đảm đồng thuận cao trong xã hội, tạo động lực phát triển đất nước"10; còn Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương chỉ ra rằng: "Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; xóa bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung... để tập hợp, đoàn kết mọi người vào mặt trận chung, tăng cường đồng thuận xã hội”11.
Như vậy, môi trường dân chủ và đồng thuận xã hội là động lực cho phát triển đất nước. Người trí thức với đặc thù lao động trí óc lại càng cần đến tự do tư tưởng để sáng tạo, cần đến bầu không khí đồng tình, đồng chí để nâng cao cảm xúc sáng tạo đưa lại những tác phẩm, công trình có chất lượng cao. Đại hội XI yêu cầu: "Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo của trí thức vì sự phát triển đất nước”12.
Tất nhiên, dân chủ luôn gắn liền với kỷ luật, kỷ cương. Trí thức được tự do tư tưởng, nhưng trên cơ sở tuân thủ pháp luật, tôn trọng những quy định chung của đơn vị, cộng đồng xã hội. Trí thức đoàn kết với các tầng lớp nhân dân, đồng nghiệp, đối tác... trên tinh thần hợp tác lành mạnh, liên kết chính đáng, thẳng thắn phê và tự phê bình, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Sau nữa, môi trường pháp lý thông thoáng tạo thuận lợi cho hoạt động của trí thức nước ta. Đó là hệ thống chính sách và pháp luật của Nhà nước về trí thức. Hệ thống này cụ thể hóa những quan điểm chủ trương cơ bản của Đảng đối với trí thức. Đại hội XI đã nêu một cách khái quát những quan điểm, chủ trương cơ bản của Đảng đối với trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa như sau: "Xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ xứng đáng những cống hiến của trí thức. Có chính sách đặc biệt đối với nhân tài của đất nước. Coi trọng vai trò tư vấn, phản biện, giám định xã hội của các cơ quan nghiên cứu khoa học trong việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng Nhà nước và các dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Gắn bó mật thiết giữa Đảng và Nhà nước với trí thức, giữa trí thức với Đảng và Nhà nước"13.
Những quan điểm, chủ trương trên đang cần có chính sách và luật hóa của Nhà nước để đi vào cuộc sống, trong đó trước hết là: Ban hành quy chế dân chủ trong hoạt động khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hóa và văn nghệ; bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách tạo điều kiện để trí thức tự khẳng định phát triển, cống hiến và được xã hội tôn vinh. Tăng đầu tư từ nhiều nguồn cho hoạt động khoa học, nhất là khuyến khích doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư cho phát triển khoa học. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và tăng cường thực thi việc bảo bộ quyền sở hữu trí tuệ, quyền tác giá đối với các sản phẩm sáng tạo, nhằm bảo đảm lợi ích của trí thức khi chuyển giao phát minh, sáng kiến và khuyến khích đội ngũ trí thức gia tăng sự cống hiến. Ban hành quy định về quyền hạn, điều kiện làm việc để phát huy năng lực và trách nhiệm của trí thức đầu ngành, các nhà khoa học và công nghệ có trình độ cao, các tổng công trình sư trong điều hành chuyên môn, nghiệp vụ. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp quy để khuyến khích và bảo đảm quyền lợi, trách nhiệm của trí thức khi tham gia các hoạt động tư vấn, phản biện và giám định các chủ trương, chính sách các dự án phát triển kinh tế - xã hội. Chính sách đầu tư xây dựng một số khu đô thị khoa học, khu công nghệ cao, tổ hợp khoa học - sản xuất, trường đại học trọng điểm, các trung tâm văn hóa hiện đại để thúc đẩy hoạt động sáng tạo của trí thức trong và ngoài nước. Chính sách mở rộng hợp tác và giao lưu quốc tế về khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hóa và văn nghệ ...
Tóm lại, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng thành công đã mở ra những môi trường thuận lợi cho sự phát triển của trí thức Việt Nam. Tiếp nữa là cần đến trách nhiệm chung của toàn xã hội, của hệ thống chính trị, nhất là trách nhiệm của Nhà nước, đồng thời cần đến sát nỗ lực vươn lên của người trí thức để đội ngũ trí thức Việt Nam thực sự có bước phát triển mới trong môi trường thuận lợi của công cuộc đổi mới hiện nay.
__________
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề “tam nông” trong giai đoạn hiện nay Ths. Trần Thanh Giang
Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị, ĐHQGHN
Nông nghiệp nông dân, nông thôn hay còn gọi là "tam nông" (theo cách nói tắt, phổ biến hiện nay) là vấn đề được Đảng Cộng sản Việt Nam rất quan tâm và coi trọng trong suốt quá trình lãnh đạo đất nước. Bởi lẽ, điểm xuất phát của Việt Nam đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân là lực lượng đông đảo, chiếm đa số trong xã hội. Bước vào thời kỳ đổi mới, sự đột phá về chính sách của Đảng cũng được khởi đầu thực hiện ở lĩnh vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (tháng 4/2006), Đảng ta nhấn mạnh: "Hiện nay và trong nhiều năm tới, vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng”. Hội nghị lần thứ Bảy, Ban Chấp hành Trung ương khóa X (tháng 8/2008), Đảng đã ra Nghị quyết chuyên về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, trong đó khẳng định: "Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước"1. Thực tiễn xây dựng, bảo vệ Tổ quốc cũng như quá trình đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong những năm qua đều khẳng định vị trí quan trọng của nông nghiệp, nông dân, nông thôn, đồng thời khẳng định nhận thức đúng đắn của Đảng ta về tầm chiến lược của vấn đề “tam nông”.
Nông nghiệp, nông dân, nông thôn là một vấn rất đề lớn, luôn mang tính thời sự nóng hổi đối với nước ta. Để giải quyết thành công "đại vấn đề" này, Đảng phải có quan điểm chỉ đạo đúng đắn và những giải pháp, lộ trình thực hiện phù hợp với từng giai đoạn cụ thể. Quan điểm chỉ đạo của Đảng đối với vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn thường xuyên được Đảng ta bổ sung, hoàn thiện dựa trên sự tổng kết thực tiễn tình hình nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở mỗi giai đoạn phát triển của đất nước. Chính vì vậy, việc quán triệt quan điểm của Đảng về vấn đề "tam nông" vào giải quyết các vấn đề thực tiễn của nông nghiệp, nông dân, nông thôn cũng là một nhiệm vụ thường xuyên đối với các cấp, các ngành, các địa phương, đội ngũ cán bộ quản lý có liên quan và chính bản thân nông dân.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng diễn ra vào đầu năm nay (tháng 1/2011) đã thông qua nhiều văn kiện quan trọng, quyết định đối với sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước trong giai đoạn cách mạng mới. Lồng ghép trong các văn kiện đó, Đảng ta tiếp tục đưa ra những quan điểm chỉ đạo đối với vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Để góp phần nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết của Đảng đang được triển khai rộng khắp trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, dưới đây tác giả bài viết phân tích và làm rõ những nội dung quan điểm cơ bản của Đảng về vấn đề "tam nông" cần được quán triệt vận dụng vào giải quyết những vấn đề thực tiễn nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Đại hội XI của Đảng đã khẳng định và đánh giá cao những thành tựu trong phát triển kinh tế - xã hội nói chung, những kết quả đạt được của nông nghiệp, nông dân, nông thôn nói riêng, trong đó nhấn mạnh: "Sự phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là sản xuất lương thực đã đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Kinh tế nông thôn và đời sống nông dân được cải thiện hơn trước. Việc tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, đầu tư phát triển giống mới có năng suất, chất lượng cao, phát triển các cụm công nghiệp, làng nghề, tiểu thủ công nghiệp... đã có tác động tích cực đến việc sản xuất, tạo việc làm và xóa đói, giảm nghèo"2.
Đúng như sự nhận định của Đảng, những kết quả đạt được trong nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta là khá toàn diện và to lớn. Nhìn lại chặng đường 1/4 thế kỷ thực hiện đường lối đổi mới, từ chỗ đất nước đang khủng hoảng lương thực nghiêm trọng, hàng năm phải nhập hàng triệu tấn lương thực của nước ngoài, nhưng chỉ trong hơn một thập niên chúng ta đã vươn lên trở thành quốc gia xuất khẩu gạo đứng vào hàng thứ ba trên thế giới và xuất khẩu các mặt hàng nông sản nhiệt đới đứng hàng đầu thế giới. Năm 1989, lần đầu tiên sản lượng lương thực của Việt Nam vượt mức 20 triệu tấn, xuất khẩu 1,4 triệu tấn gạo, đạt kim ngạch 310 triệu USD. Năm 2007 sản lượng lương thực của nước ta đã là 39 triệu tấn, xuất khẩu gạo 4,5 triệu tấn gạo, đạt kim ngạch xuất khẩu 1,7 tỷ USD3. Năm 2010, tổng sản lượng lương thực của Việt Nam đạt 44,6 triệu tấn, tăng 1,27 triệu tấn và tăng 2,9% so với năm 20094; đạt kỷ lục về số lượng và giá trị xuất khẩu gạo với 6,88 triệu tấn kim ngạch xuất khẩu là 3,23 tỷ USD, tăng 15,4% về lượng, trên 21% về giá trị so cùng kỳ năm 20095.
Những thành tựu trong nông nghiệp, nông dân, nông thôn không chỉ góp phần quan trọng vào việc ổn định chính trị - xã hội nông thôn và nâng cao đời sống nông dân trên phạm vi cả nước, mà còn ngày càng tạo thêm những tiền đề vật chất cần thiết, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Gần 3 năm trước đây, nông nghiệp chính là một yếu tố quan trọng giúp nước ta đứng vững trước những tác động mạnh của cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực và thế giới.
Tuy nhiên, cùng với những thành tựu đạt được, nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta trong giai đoạn hiện nay cũng còn tồn tại nhiều hạn chế và yếu kém như Nghị quyết Trung ương bảy khóa X của Đảng đã nhận định: Nông nghiệp phát triển còn kém bền vững, thiếu quy hoạch; tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần, sức cạnh tranh thấp. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cách thức sản xuất trong nông nghiệp còn chậm, phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ phân tán, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển mạnh sản xuất hàng hóa. Nông thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn yếu kém, năng lực thích ứng, đối phó với thiên tai còn nhiều hạn chế, môi trường ngày càng ô nhiễm. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn còn thấp; chênh lệch giàu, nghèo giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng còn lớn, phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc; tỉ lệ hộ nghèo cao, nhất là vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng tiếp tục chỉ rõ: "chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa chậm”6; "Tình trạng thiếu việc làm còn cao"; "Đời sống của một bộ phận dân cư, nhất là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn. Xóa đói, giảm nghèo chưa bền vững, tình trạng tái nghèo cao. Khoảng cách chênh lệch giàu nghèo còn khá lớn và ngày càng doãng ra. Chất lượng công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe còn thấp, hệ thống y tế và chất lượng dịch vụ y tế chưa đáp ứng được yêu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số”7; "Hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển chậm, thiếu đồng bộ, đặc biệt đối với khu vực đồng bào dân tộc thiếu số"; "Trình độ phát triển giữa các vùng cách biệt lớn và có xu hướng mở rộng”8; Môi trường ở nhiều nơi đang bị ô nhiễm nặng; tài nguyên đất đai chưa được quản lý tốt, khai thác và sử dụng kém hiệu quả, chính sách đất đai có mặt chưa phù hợp"9.
Nguyên nhân của những hạn chế và yếu kém trong nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã được Đảng ta xác định từ Hội nghị lần thứ Bảy, Ban Chấp hành khóa X là do cả chủ quan và khách quan, trong đó chủ yếu là nguyên nhân chủ quản: "nhận thức về vị trí, vai trò của nông nghiệp, nông dân, nông thôn còn bất cập so với thực tiễn; chưa hình thành một cách có hệ thống các quan điểm lý luận về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn; cơ chế, chính sách phát triển các lĩnh vực này thiếu đồng bộ, thiếu tính đột phá; một số chủ trương, chính sách không hợp lý, thiếu tính khả thi những chậm được điều chỉnh, bổ sung kịp thời; đầu tư từ ngân sách nhà nước và các thành phần kinh tế vào nông nghiệp, nông dân, nông thôn còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; tổ chức chỉ đạo thực hiện và công tác quản lý nhà nước còn nhiều bất cập, yếu kém; vai trò của các cấp uỷ, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng trong việc triển khai các chủ trương, chính sách của và Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở nhiều nơi còn hạn chế” 10. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng cũng đã chỉ rõ những hạn chế, khuyết điểm chung trong phát triển kinh tế - xã hội trong 5 năm qua là có nguyên nhân khách quan, "nhưng trực tiếp và quyết định nhất vẫn là nguyên nhân chủ quan”; "Nhận thức trên nhiều vấn đề cụ thể của công cuộc đổi mới còn hạn chế, thiếu thống nhất”; "Năng lực, phẩm chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức còn bất cập"11.
Đứng trước những hạn chế và yếu kém, cũng như thời cơ và thách thức cho sự phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, cùng các vấn đề mang tính toàn cầu như biến đổi khí hậu, khan hiếm năng lượng, gia tăng nhu cầu về lương thực và thực phẩm trên thế giới đã đặt ra những yêu cầu mới đối với chiến lược nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta. Ngay từ Hội nghị Trung ương Đảng khóa X, Đảng ta đã xác định quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp nhằm phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong giai đoạn mới, trong đó có xác định mục tiêu phát triển đến năm 2020: phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng nông, lâm, thuỷ sản đạt 3,5 – 4%/năm; phát triển nông nghiệp kết hợp với phát triển công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề nông thôn, giải quyết cơ bản việc làm, nâng cao thu nhập của dân cư nông thôn gấp trên 2,5 lần so với hiện nay; lao động nông nghiệp còn khoảng 30% lao động xã hội, tỉ lệ lao động nông thôn qua đào tạo đạt trên 50%, số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới khoảng 50%; thực hiện có hiệu quả công cuộc xoá đói, giảm nghèo và nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn, ngăn chặn và xử lý tình trạng ô nhiễm môi trường? phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn; tạo điều kiện để nông dân tham gia đóng góp và hưởng lợi nhiều hơn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Để từng bước hiện thực hóa mục tiêu phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2020 được xác định tại Nghị quyết Trung ương Bảy khóa X Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đặt chỉ tiêu trong 5 năm (giai đoạn 2011- 2015): "Phấn đấu giá trị gia tăng nông nghiệp bình quân 5 năm đạt 2,6 - 3%/năm. Tỉ trọng lao động nông nghiệp năm 2015 chiếm 40 - 41% lao động xã hội. Thu nhập của người dân nông thôn tăng 1,8 - 2 lần so với năm 2010”.12 Quan điểm chỉ đạo thực hiện mục tiêu phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong giai đoạn này cũng được Nghị quyết Đại hội XI của Đảng xác định rõ. Chúng ta có thể nhận thức những quan điểm này trên những nội dung chính sau:
Thứ nhất: Phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả bền vững trên cơ sở phát huy những lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới gắn với giải quyết tốt các vấn đề nông dân, nông thôn
Trong điều kiện hiện nay, "phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững” theo quan điểm của Đảng cần được hiểu đó là nền sản xuất nông nghiệp hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh cao; đảm bảo vững chắc an ninh lương thực, thực phẩm quốc gia cả trước mắt và lâu dài; sản xuất một số sản phẩm nông nghiệp hàng hóa ứng dụng công nghệ cao, có năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng cao; đồng thời, phát triển nông nghiệp cũng tính tới những yếu tố bảo vệ môi trường và các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đảm bảo sự hài hòa về kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn.
Sản xuất các mặt hàng nông sản nhiệt đới từ trước tới nay vẫn là một thế mạnh của Việt Nam. Nghị quyết của Đảng chỉ rõ: "Khai thác lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới để phát triển sản xuất hàng hóa lớn với năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao”13. Theo đó, việc tổ chức và quản lý sản xuất nông nghiệp phải theo các quy hoạch, các chương trình, đề án được phê duyệt; tập trung phát triển vùng sản xuất hàng hóa cho từng cây, con, từng vùng, nhằm mục tiêu nâng tỷ trọng sản phẩm hàng hóa, nhất là hàng hóa xuất khẩu.
Muốn đẩy mạnh phát triển nông nghiệp toàn diện, hiện đại và sản xuất hàng hóa lớn, đất đai là yếu tố quyết định và quan trọng hàng đầu, do đó quan điểm của Đảng là "khuyến khích tập trung ruộng đất, phát triển trang trại, doanh nghiệp nông nghiệp phù hợp về quy mô và điều kiện của từng vùng”14; “Trên cơ sở tích tụ đất đai, đẩy mạnh cơ giới hoá, áp dụng công nghệ hiện đại (nhất là công nghệ sinh học); bố trí lại cơ cấu cây trồng, vật nuôi; phát triển kinh tế hộ, trang trại, tổ hợp tác, hợp tác xã nông nghiệp, vùng chuyên môn hoá, khu nông nghiệp công nghệ cao, các tổ hợp sản xuất lớn”15.
Trong sản xuất nông nghiệp toàn diện, lúa gạo là mặt hàng quan trọng đối với an ninh lương thực quốc gia và đem lại giá trị xuất khẩu cao, quan điểm của Đảng: "giữ vững diện tích đất trồng lúa theo quy hoạch”16; “Kiểm soát chặt chẽ việc chuyển đất nông nghiệp, nhất là đất trồng lúa sang sử dụng vào mục đích khác đi đôi với việc bảo đảm lợi ích của người trồng lúa và địa phương trồng lúa”17. Đối với các loại rau, màu, cây ăn quả, cây công nghiệp có lợi thế khác cũng cần mở rộng diện tích, áp dụng công nghệ cao để tăng năng suất, chất lượng. Đối với ngành chăn nuôi cần mở rộng theo phương thức công nghiệp, bán công nghiệp với công nghệ tiên tiến. Một yếu tố quan trọng khác đối với sản xuất nông nghiệp toàn diện, hiện đại và sản xuất hàng hóa lớn là sự hỗ trợ và đầu tư đối với nông nghiệp, Đảng ta xác định: "thực hiện gắn kết chặt chẽ nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà nước; phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ ở khu vực nông thôn; phát triển các hiệp hội nông dân; tiếp tục đổi mới, xây dựng mô hình tổ chức để phát triển kinh tế hợp tác phù hợp với cơ chế thị trường; phát triển các hình thức bảo hiểm phù hợp trong nông nghiệp; đẩy nhanh áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất”18.
Thứ hai: Xây dựng, phát huy vai trò của giai cấp nông dân, chủ thể của quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn
Trong toàn bộ quá trình phát triển nông nghiệp và nông thôn hiện nay, nông dân giữ vị trí là "chủ thể", đây là sự khẳng định đúng đắn, cần thiết nhằm khơi dậy và phát huy mọi tiềm năng của nông dân trong sự nghiệp xây dựng nông thôn mới trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; đồng thời nhằm bảo đảm những quyền lợi chính đáng của nông dân.
Vai trò chủ thể của nông dân trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn thể hiện ở chỗ: trực tiếp tham gia phát triển kinh tế, tổ chức sản xuất thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; chủ động và sáng tạo trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn; chủ thể tích cực tham gia vào quá trình xây dựng quy hoạch và thực hiện quy hoạch xây dựng nông thôn mới; xây dựng và gìn giữ đời sống văn hoá - xã hội, môi trường ở nông thôn; đảm bảo an ninh trật tự xã hội ở nông thôn, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở.
Để phát huy vai trò của nông dân hiện nay, Nghị quyết Đại hội XI của Đảng nêu rõ: "Nâng cao trình độ giác ngộ của giai cấp nông dân, tạo điều kiện để nông dân tham gia đóng góp và hưởng lợi nhiều hơn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hỗ trợ, khuyến khích nông dân học nghề, chuyển dịch cơ cấu lao động, tiếp nhận và áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi để nông dân chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ. Nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn; thực hiện có hiệu quả bền vững công cuộc xóa đói, giảm nghèo, làm giàu hợp pháp"19. Quan điểm đó của Đảng, thực sự là những giải pháp quan trọng để khơi dậy và phát huy vai trò chủ thể của người nông dân trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới ở nước ta.
Thứ ba: Xây dựng nông thôn mới theo hướng văn minh, giàu đẹp, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nông dân
Nhằm khắc phục những hạn chế và bất cập trong phát triển nông thôn nước ta hiện nay, Đảng ta xác định "xây dựng nông thôn mới theo hướng văn minh, giàu đẹp, đi đôi với nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nông dân”20. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng nêu rõ: "Quy hoạch phát triển nông thôn và phát triển đô thị và bố trí các điểm dân cư. Phát triển mạnh công nghiệp, dịch vụ và làng nghề gắn với bảo vệ môi trường”. Khi triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới, Đảng ta nhấn mạnh: đảm bảo sự phù hợp với đặc điểm từng vùng theo các bước đi cụ thể, vững chắc trong từng giai đoạn; giữ gìn và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của nông thôn Việt Nam; đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn; tạo môi trường thuận lợi để khai thác mọi khả năng đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn, nhất là đầu tư của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, thu hút nhiều lao động.
Mặt khác, xây dựng nông thôn mới văn minh, giàu đẹp phải gắn với việc không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nông dân. Trong giai đoạn hiện nay cần tập trung triển khai có hiệu quả chương trình đào tạo nghề cho 1 triệu lao động nông thôn mỗi năm; thực hiện tốt các chương trình hỗ trợ nhà ở cho người nghèo và các đối tượng chính sách, chương trình nhà ở cho đồng bào vùng bão, lũ; bố trí hợp lý dân cư, bảo đảm an toàn ở những vùng ngập lũ, sạt lở núi, ven sông, ven biển”21.
Như vậy, Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã đề cập đến cả 3 nội dung của vấn đề "tam nông”, đó là nông nghiệp - nông dân - nông thôn. Những quan điểm về vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng là sự khẳng định, bổ sung và tiếp tục phát triển chủ trương, đường lối lãnh đạo đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn được đặt ra từ Nghị quyết Trung ương Bảy khóa X của Đảng. Quán triệt sâu sắc và vận dụng hiệu quả những quan điểm chỉ đạo trên của Đảng là cơ sở vững chắc để nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta có những bước phát triển mới trong những năm tới đây.
_____________
Vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam: Lý luận và thực tiễn Đỗ Mai Thành
Tạp chí Cộng sản
1. Quan điểm của Đảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn
Với khoảng 70% dân số là nông dân, vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở Việt Nam luôn được Đảng và Nhà nước hết sức coi trọng trong các giai đoạn phát triển của cách mạng Việt Nam. Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương và chính sách lớn về vấn đề này như:
- Tại đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III: Đảng xác định ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
- Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV: ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu kinh tế công nông nghiệp.
- Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V: tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp từng bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng, kết hợp nông nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý.
- Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI: bảo đảm cho nông nghiệp, kể cả lâm nghiệp, ngư nghiệp thực sự là mặt trận hàng đầu...
- Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII: phát triển nông - lâm – ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế - xã hội..., phát triển một số ngành công nghiệp nặng trước hết để phục vụ cho sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, ...
- Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII: đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông - lâm - thủy sản,...
- Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX: đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn... Tiếp tục phát triển và đưa nông, lâm, ngư nghiệp lên một trình độ mới...
- Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X: đẩy mạnh hơn nữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân... Phát triển công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.
- Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI: phát triển nông - lâm - ngư nghiệp toàn diện theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với giải quyết tốt vấn đề nông dân, nông thôn.
Như vậy, từ thực tiễn và yêu cầu phát triển của đất nước, nhận thức của Đảng và Nhà nước là ngày càng quan tâm chú ý tới phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong tổng thể sự phát triển chung của đất nước. Vì sao vậy? điều đó không chỉ bởi nông dân là một lực lượng quan trọng của cách mạng và hiện còn đang chiếm tỷ lệ lớn trong dân số, mà chính nông nghiệp, nông dân Việt Nam luôn khẳng định vai trò đóng góp hết sức to lớn trong sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước. Nông nghiệp đã mở đường trong quá trình đổi mới, tạo nền tảng, động lực cho tăng trưởng kinh tế và là nhân tố quan trọng bảo đảm sự ổn định kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Đến nay mặc dù sau 25 đổi mới, kinh tế nước ta đã phát triển khá toàn diện, song sản phẩm nông nghiệp vẫn là những sản phẩm chủ yếu thể hiện sự hội nhập của nền kinh tế Việt Nam với thế giới.
2. Thực tiễn phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam
Nhờ sự quan tâm của Nhà nước thể hiện bằng các chủ trương, chính sách đúng đắn, trong những năm đổi mới, nông nghiệp nước ta đã có bước phát triển vượt bậc, đạt được nhiều thành tựu. Liên tục trong nhiều năm nông nghiệp đạt mức tăng trưởng khá cả về giá trị, sản lượng. Vì vậy, từ chỗ là một nước thường xuyên thiếu lương thực, hàng năm phải nhập hàng triệu tấn lương thực của nước ngoài, hơn thập niên qua Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn (hiện đứng thứ 2 trên thế giới, năm 2011 có thể xuất khẩu tới 7 triệu tấn), đồng thời bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Ngoài gạo, Việt Nam còn chiếm vị thế cao trong số các nước xuất khẩu về cà phê, cao su, hạt điều. Giá trị xuất khẩu những mặt hàng nông sản khác như thủy sản, chế biến gỗ cũng ngày càng cao và trở thành các sản phẩm chủ lực trong cơ cấu xuất khẩu của đất nước. Cơ cấu nông nghiệp cũng chuyển dịch theo hướng tích cực, gia tăng sản phẩm có giá trị kinh tế, có lợi thế cạnh tranh. Trong nông nghiệp đã hình thành được một số vùng sản xuất tập trung quy mô lớn. Bên cạnh đó, kết cấu hạ tầng trong nông nghiệp và nông thôn được tăng cường. Chẳng hạn, công tác thủy lợi hóa đã được thực hiện hết sức mạnh mẽ, đến nay 94% diện tích lúa, 41% diện tích hoa màu trong cả nước được tưới tiêu. Việc áp dụng cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp triển khai khá rộng rãi (70% diện tích lúa được sử dụng máy móc). Công nghệ tiên tiến, nhất là công nghệ sinh học được ứng dụng góp phần tăng chất lượng, hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Nông nghiệp nước ta hiện nay tuy có tỷ trọng giảm đi trong cơ cấu kinh tế của đất nước, song giá trị tuyệt đối ngày càng tăng và đóng góp được 20% GDP cho đất nước... Sự phát triển trong nông nghiệp thực sự là cơ sở quan trọng tạo tiền đề vật chất để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đại bộ phận nông dân, góp phần xóa đói giảm nghèo (Việt Nam được thế giới công nhận là điểm sáng trong thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo) và làm thay đổi bộ mặt nông thôn theo hướng ngày càng văn minh, hiện đại hơn.
Như vậy tư duy lý luận của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông dân và nông thôn thời gian qua đã cởi trói cho lực lượng sản xuất trong lĩnh vực này phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên để phát triển nông - lâm- ngư nghiệp toàn diện theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với giải quyết tốt vấn đề nông dân, nông thôn từ tinh thần của văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI thì vấn để nông nghiệp, nông dân, nông thôn hiện nay còn đang đặt ra nhiều khó khăn, có thể kể ra một số thách thức cơ bản sau:
- Thách thức lớn nhất của nông nghiệp hiện nay là khả năng cạnh tranh, năng suất, chất lượng của sản phẩm nông nghiệp Việt Nam còn thấp. Sở dĩ như vậy do sản xuất nông nghiệp của Việt Nam vẫn chủ yếu là nhỏ lẻ, manh mún, việc ứng dụng khoa học công nghệ, cũng như phát triển công nghiệp chế biến nông sản chưa cao như những nước khác trong khu vực và trên thế giới. Mặc dù thời gian qua nhiều người đã hài lòng và tự hào rằng chúng ta tuy sản xuất nhỏ lẻ nhưng vẫn đạt được những thành tích lớn trong việc bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, lại có nhiều sản phẩm có số lượng xuất khẩu khá, chiếm vị thế cao trên thị trường quốc tế, song thực sự nếu muốn tiến lên sản xuất hàng hóa lớn, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong nông nghiệp theo chủ trương của Đảng và Nhà nước thì kiểu sản xuất manh mún này chắc chắn không thể phù hợp. Bởi, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế cạnh tranh trên thị trường sẽ ngày càng quyết liệt, yêu cầu của người tiêu dùng đối với hàng nông sản ngày càng cao (như chất lượng tốt, giá rẻ, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm, bảo vệ được môi trường sinh thái...).
- Sự gắn kết giữa sản xuất và thị trường trong nông nghiệp còn rất yếu. Nhà nước đã có những chủ trương khuyến khích việc liên kết "4 nhà" trong nông nghiệp nhằm giúp đỡ người nông dân yên tâm sản xuất. Nhưng, trong thực tế việc liên kết này còn rất lỏng lẻo, chưa đạt được kết quả như mong muốn và các "nhà” chưa thực sự giúp ích cho nông dân. "Nhà doanh nghiệp" được người nông dân trông đợi nhất trong việc tiêu thụ sản phẩm chẳng những chưa làm tốt vai trò của mình, mà lại là "nhà” bị coi hưởng lợi nhiều nhất trong quá trình liên kết, không bảo đảm sự công bằng lợi ích cho nông dân. Do đó có thực tế trong nông nghiệp Việt Nam là khi được mùa nông dân không bán được hàng, lúc mất mùa, thiên tai, dịch bệnh thì không được gì. Ở hoàn cảnh nào nông dân cùng là người bị thua thiệt và vì vậy, luôn có tình trạng nông dân thường xuyên thay đổi cây trồng, vật nuôi, không yên tâm tích lũy kinh nghiệm, sản xuất ổn định lâu dài.
- Theo tinh thần Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ XI, nền nông nghiệp của đất nước sẽ phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hiệu quả, bền vững, tuy vậy, để làm được điều này, thách thức lớn đặt ra là người nông dân sẽ được gì, đâu là động lực để duy trì sự phát triển bền vững. Bởi, nông dân là đối tượng, đồng thời cũng là chủ thể của nông nghiệp. Một khi thu nhập của người nông dân quá thấp so với thu nhập chung trong xã hội, khoảng cách đời sống giữa nông thôn và thành thị ngày càng doãng rộng thì sẽ đưa đến kết quả không ai muốn làm nông dân. Thực tế này đã được các nước trên thế giới giải quyết rất tốt và đến nay tuy nhiều nước có số người làm lao động nông nghiệp thấp nhưng vẫn tạo ra được năng suất cao, sản lượng lớn, bảo đảm cung cấp ổn định cho nhu cầu trong nước mà vẫn xuất khẩu. Người nông dân ở những nước này có thu nhập không kém gì những người làm các nghề khác nên họ yên tâm, yêu nghề và có vị thế chính trị trong đất nước. Ở Việt Nam, thu nhập, đời sống, vị thế chính trị của người nông dân đều không bằng những nhóm người khác nên đây sẽ là thách thức lớn trong thời gian tới.
Song để giải quyết được những thách thức trên chúng ta còn phải đối mặt với nhiều sức ép khác, đó là:
- Cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, diện tích đất sản xuất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp. Tính đến thời điểm năm 2011, cả nước chỉ còn hơn 9 triệu ha, trong đó có khoảng 4 triệu ha là đất trồng lúa. Trung bình mỗi năm từ 1996 - 2010 có khoảng 70.000 ha đất nông nghiệp bị lấy để xây dựng đô thị, phát triển công nghiệp. Nhiều thửa ruộng được coi là "bờ xôi ruộng mật" cũng bị trưng dụng. Vì vậy, đất nông nghiệp tính bình quân đầu người đã bị giảm xuống còn 900m2, trong đó đất trồng lúa chỉ còn 465m2. Chưa kể, đất đai nông nghiệp còn bị chia nhỏ rất manh mún, mỗi hộ gia đình có tới 6- 7 mảnh ruộng, rất khó tìm được hộ có diện tích đất tới 3 ha. Đây chính là sức ép lớn cho nông nghiệp một khi muốn tiến lên sản xuất lớn, sử dụng máy móc kỹ thuật hiện đại, ứng dụng khoa học kỹ thuật nhằm đem lại năng suất, chất lượng và hiệu quả cho nông nghiệp.
- Không chỉ vấn đề đất đai, áp lực về lao động trong nông nghiệp cũng ngày càng lớn. Thực tế, ở nhiều địa phương hiện nay tuy có số nông dân đông, nhưng hầu hết những người có sức khỏe đều rời quê ra các đô thị tìm việc kiếm sống. Vì thế vào những ngày mùa cần nhiều lao động các vùng thôn quê rất thiếu nhân lực, phải thuê với giá cao. Do đó vấn đề đặt ra tuy nông thôn thừa lao động, thiếu việc làm nhưng có khi lao động vẫn là sức ép đối với nông nghiệp. Ngoài ra, để tiến lên sản xuất lớn khu vực nông thôn còn thiếu hẳn lực lượng lao động có tay nghề, làm nông nghiệp giỏi.
- Về vấn đề vốn, do sản xuất nhỏ lẻ nên nông dân rất thiếu vốn và dù được ngân hàng, hay các dự án cho vay để sản xuất thì mức tiền cũng rất thấp, thời gian hoàn trả ngắn. Một số hộ gia đình khác tuy có thu nhập nhờ xuất khẩu thủy sản cà phê, cao su... hay được bồi thường đất đai song lại chưa biết sử dụng đầu tư sản xuất mà chủ yếu mua sắm tiêu dùng. Trong khi đó, đầu tư của nước ngoài hầu như không đáng kể do những khó khăn về kết cấu hạ tầng, độ rủi ro cao của lĩnh vực đặc thù này. Còn các chương trình dự án của Nhà nước tuy khá nhiều, số vốn đầu tư không ít song hiệu quả lại rất thấp. Tóm lại, vấn đề vốn đang là một sức ép không nhỏ đối với nông dân, nông nghiệp và nông thôn nước ta.
3. Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI rõ ràng chúng ta còn phải làm rất nhiều việc. Cụ thể:
Trước hết, cần phải có biện pháp, chính sách để bảo vệ đất nông nghiệp, trong đó đặc biệt bảo vệ đất lúa. Cần tạo điều kiện để điều tiết việc sử dụng đất đạt hiệu quả cao theo hướng kéo dài thời gian sử dụng đất, tăng mức hạn điền, chấm dứt tình trạng chênh lệch giá khi chuyển đổi quỹ đất nông nghiệp sang các mục đích khác, tạo điều kiện để tập trung hóa ruộng đất mở rộng quy mô sản xuất. Hiện tại ở một địa phương nhân dân đã có rất nhiều sáng kiến nhằm đạt hiệu quả sản xuất cao như dồn điển đổi thửa, thực hiện “cùng trà khác chủ”... những việc này cần phải được khuyến khích tạo điều kiện để nông dân sản xuất quy mô lớn.
Thứ hai, các ngành các cấp cần nhận thức rõ đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn là sự đầu tư cho phát triển, bảo đảm phát triển kinh tế và ổn định chính trị xã hội của đất nước. Do đó, tăng đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn để phục vụ đời sống và sản xuất ở khu vực này. Trước mắt đầu tư vào kết cấu hạ tầng như: đường xá, mạng điện, thủy lợi, thông tin, các công trình phục vụ sản xuất thủy sản, nghề muối, ...).
Ngoài đầu tư cho kết cấu hạ tầng, rất cần đầu tư cho nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất nông nghiệp, dạy nghề cho nông dân, bởi vì đất nông nghiệp bị thu hẹp luôn là xu hướng tất yếu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhưng nếu chúng ta biết ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất, có những người nông dân giỏi nghề thì nông nghiệp vẫn vượt qua được những hạn chế của việc thu hẹp đất đai (như một số nước Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ixraen... trên thế giới đã từng làm).
Thứ ba, nghiên cứu để có những biện pháp tổ chức các hình thức hợp tác sản xuất và liên kết giữa sản xuất với chế biến, kinh doanh có hiệu quả. Tạo điều kiện để nông dân có thể kết nối trực tiếp với thị trường, tiếp cận nhiều thông tin từ đó không chỉ sản xuất được cái mà thị trường cần, mà còn biết tìm ra những kênh tiêu thụ phù hợp cho sản phẩm của mình một cách phù hợp nhất.
Thứ tư, để nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, đời sống cho nông dân và thay đổi bộ mặt nông thôn hiện nay, cần có chính sách gắn kết công nghiệp với nông nghiệp, công nghiệp phải phục vụ nông nghiệp, đưa dịch vụ vê nông thôn, đa dạng hóa ngành nghề ở nông thôn để một mặt, công nghiệp hóa nông nghiệp (cung cấp máy móc cho nông nghiệp, chế biến sản phẩm của nông nghiệp), giải quyết vấn đề thừa lao động trong nông nghiệp, mặt khác, tăng thêm cơ hội cho người dân nâng cao đời sống của mình. Ngoài ra, cần nhanh chóng phát triển văn hóa, xây dựng các công trình công cộng, mở mang đường xá trên địa bàn nông thôn như: trường học, bệnh viện, siêu thị, khu du lịch, vui chơi giải trí,... nhằm phục vụ bà con nông dân, nâng cao dân trí đời sống tinh thần của họ.
Nông dân, nông nghiệp đã có những đóng góp rất lớn cho sự phát triển của đất nước. Thế nhưng, dường như ngày nay họ là những người ít được hưởng lợi nhất trong công cuộc đổi mới của đất nước. Nếu như không quan tâm đến họ, coi phát triển là vì con người thì chắc chắn sự phát triển ấy sẽ không thể bền vững. Vì vậy phải có nhận thức đúng đắn, hành động đúng đắn thì những lý luận của Đảng và Nhà nước mới đi vào cuộc sống một cách có hiệu quả nhất.
Những điểm mới trong Đại hội XI về tôn giáo PGS, TS. Nguyễn Đức Lữ
Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh
Trên 80 năm, kể từ khi thành lập Đảng (1930-2011) đến nay, Đảng ta đã tiến hành 11 kỳ Đại hội. Những quan điểm về tôn giáo của Đảng đều được thể hiện ở tất cả các kỳ Đại hội, trong đó có quan điểm nhất quán, bất biến xuyên suốt mọi thời kỳ cách mạng, nhưng cũng có quan điểm, chủ trương về tôn giáo được bổ sung, phát triển, trong đó có cả quan điểm mới so với các kỳ Đại hội trước đó. Đại hội XI, Đảng ta nêu lên một số quan điểm mới (hiểu theo nghĩa tương đối ) so với các kỳ Đại hội trước.
Đại hội XI, vấn đề tôn giáo được đề cập ở hai văn kiện quan trọng, đó là: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát triển 2011) và Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
Cương lĩnh ghi: “Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật. Đấu tranh và xử lý nghiêm đối với mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân”1. Còn trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI khẳng định: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng. Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo; động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quan tâm và tạo mọi điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã đựơc Nhà nước công nhận, đúng quy định của pháp luật. Đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc”2.
Như vậy, về tôn giáo và công tác tôn giáo, các văn kiện Đại hội XI đã nêu lên một số quan điểm cơ bản sau:
Một là, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật.
Hai là, chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngữơng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc.
Ba là, tôn trọng và phát huy những giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp của các tôn giáo.
Bốn là, động viên chức sắc, tín đồ, các tổ chức tôn giáo sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Năm là, quan tâm và tạo mọi điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã đựơc Nhà nước công nhận, đúng quy định của pháp luật.
Sáu là, tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng trong giai đoạn mới của đất nước.
Từ những quan điểm cơ bản trên dễ nhận thấy, ở Đại hội XI Đảng ta vẫn tiếp tục khẳng định một số quan điểm đã từng nêu ra trong các kỳ Đại hội trước, nhưng cũng có những điểm mới nhất định được bổ sung, phát triển và làm rõ thêm. Cho dù chưa thật đầy đủ, nhưng bước đầu tác giả bài viết này mạnh dạn nêu mấy điểm mới về tôn giáo trong Đại hội XI.
Vấn đề thứ nhất là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật.
Đây là quan điểm nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam, đựơc nêu ra và tái khẳng định nhiều lần qua các kỳ Đại hội Đảng. Cho đến nay, trải qua 11 kỳ Đại hội, trong đó có 6 kỳ Đại hội của thời kỳ Đổi mới, thì quan điểm trên về cơ bản là nhất quán. Tuy nhiên, nếu nghiên cứu kỹ sẽ thấy có mấy điểm mới nhất định. Ví dụ: từ Đại hội VIII về trước, văn kiện Đại hội chỉ nêu “tôn trọng” nhưng đến 3 kỳ Đại hội (IX, X, XI) không chỉ nêu “tôn trọng”; mà còn “bảo đảm” quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Trên thực tế, để bảo đảm quyền ấy một cách đầy đủ đòi hỏi phải có sự chuyển biến nhận thức và quán triệt sâu sắc quan điểm đổi mới của Đảng trên lĩnh vực tôn giáo.
Cũng cần nói thêm rằng, ngay ở Đại hội II (1951), Đảng ta có nêu: "Tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng"3. Theo tôi, "bảo vệ" và "bảo đảm" không phải là những khái niệm đồng nhất. Sắc lệnh 234 do Hồ Chủ tịch ký năm 1955 ngay ở Điều 1, chương I cũng nêu: Chính phủ đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và tự do thờ cúng của nhân dân. Khái niệm "bảo đảm” và "đảm bảo” là tương đồng, nhưng đây là Sắc lệnh của Chính phủ, chưa phải là quan điểm của Đảng trong Đại hội.
Ở Đại hội XI, khái niệm tín ngưỡng, tôn giáo có sự phân biệt rõ” "tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân"4. Cho đến Đại hội IX vẫn nêu :"Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật”5. Và ngay cả Đại hội X cũng chỉ nêu và nhắc lại: "Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của nhân dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật"6.
Trong ngôn ngữ văn bản thường dùng khái niệm "tự do tín ngưỡng" là theo nghĩa rộng, nghĩa là bao gồm cả tự do tôn giáo, đó là: Tự do tín ngưỡng và tự do thờ cúng tức là đảm bảo quyền tự do về thực hành tôn giáo; quyền theo hoặc không theo một tôn giáo nào; tự do giảng đạo tại các cơ quan tôn giáo; quyền in ấn, phát hành kinh sách, đào tạo giáo sĩ... Nghĩa là tự do tín ngưỡng không phải chỉ trong phạm vi tự do tư tưởng, lựa chọn đức tin mà cả tôn trọng những hoạt động tôn giáo để thể hiện đức tin đó. Tuy nhiên để tránh sự hiểu làm không cần thiết, Đại hội XI lần này nêu rõ, không chỉ tôn trọng và bảo đảm niềm tin tôn giáo (tín ngưỡng) mà cả hoạt động tôn giáo thể hiện niềm tin ấy. Mà theo Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo thì hoạt động tôn giáo là việc truyền bá, thực hành giáo lý, giáo luật, lễ nghi, quản lý tổ chức của tôn giáo.
Vấn đề thứ hai là, chủ động phòng ngừa với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc. Chống lợi dụng tôn giáo được thể hiện ở mọi kỳ Đại hội. Nhưng vấn đề này ở Đại hội XI có hai điểm đáng lưu ý:
Một là, "chủ động phòng ngừa” với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo chứ không phải thụ động đi "chữa cháy” hay "giải quyết tình thế". Các kỳ Đại hội trước, Đảng ta đều nêu rõ cần phải đấu tranh đối với bọn lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo, tuy có cách diễn đạt khác nhau. Ví dụ: Đại hội II nêu "nghiêm trị", Đại hội III nêu "Nhà nước cần trừng trị", Đại hội IV nêu "chống”, Đại hội V nêu "nghiêm trị", Đại hội VI nêu "cảnh giác, kiên quyết và kịp thời chống”, Đại hội VII nêu "nghiêm cấm và ngăn chặn", Đại hội VIII và Đại hội IX đều nêu "nghiêm cấm", Đại hội X nêu "đấu tranh ngăn chặn". Đến Đại hội XI: “đấu tranh và xử lý nghiêm đối với mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng tôn giáo và lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân" (Cương lĩnh bổ sung) và điểm mới ở đây là: "Chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dựng tín ngưỡng, thụ giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc” (Báo cáo Chính trị). Thiết nghĩ việc "Chủ động phòng ngừa” là vấn đề mới được nêu ở Đại hội lần này. Việc "chủ động phòng ngừa không để xảy ra hiện tượng lợi dụng tôn giáo vẫn tốt hơn nhiều so với để sự việc xảy ra buộc phải xử lý. Muốn chủ động phòng ngừa được tốt, trước hết phải quan tâm đến nhu cầu vật chất và tinh thần của người dân có tín ngưỡng, tôn giáo; phải có những quan điểm mới phù hợp, có hệ thống chính sách đồng bộ và ứng xử đúng đắn với tôn giáo.
Hai là, những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc.
Trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội X của Đảng có nêu: "Đấu tranh ngăn chặn các hoạt động mê tín dị đoan, các hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm phương hại đến lợi ích chung của đất nước, vi phạm quyền tự do tôn giáo của nhân dân"7. Ở Đại hội XI thay khái niệm "mê tín dị đoan” bằng "mê hoặc, chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc". Khái niệm "mê tín dị đoan” và "mê hoặc" là có sự khác nhau.
Vấn đề thứ ba là, tôn trọng những giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp của các tôn giáo.
Trong Nghị quyết 24-NQ/TW của Bộ Chính trị năm 1990, lần đầu tiên Đảng ta thừa nhận "đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới". Đến Chỉ thị 37-NQ/TW của Bộ Chính trị năm 1998, công nhận: “Những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo được tôn trọng và khuyến khích phát huy". Ở Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương khoá VIII còn nêu cả mục 8 về "chính sách văn hoá đối với tôn giáo". Và Đại hội IX, Đảng ta chính thức khẳng định trong Báo cáo Chính trị: "Phát huy những giá trị tốt đẹp về văn hoá và đạo đức của tôn giáo"8. Một lần nữa, tại Đại hội X, Đảng Cộng sản Việt Nam lại nhắc lại quan điểm này: "Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo". Điểm mới về vấn đề này là ở chỗ, Đại hội XI Đảng ta không chỉ nêu: "Phát huy những giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp của các tôn giáo" mà còn cần "tôn trọng” (Cương lĩnh) những giá trị ấy.
Đây là cách diễn đạt một quan niệm mới lần đầu tiên được đưa vào văn kiện Đại hội XI, còn trước đó chỉ thấy trong nguyên tắc thứ nhất của Chỉ thị 37-NQ/TW của Bộ Chính trị năm 1998: "Những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo được tôn trọng và khuyến khích phát huy (NĐL nhấn mạnh)”. Muốn phát huy, trước hết cần tôn trọng những giá trị đạo đức và văn hóa vốn có của tôn giáo. Tôn trọng giáo chủ, chức sắc, tín đồ, các tổ chức tôn giáo đã công nhận; tôn trọng cơ sở thờ tự, kinh sách, lễ nghi... và những hoạt động tôn giáo khác.
Vấn đề thứ tư là, động viên ... các tổ chức tôn giáo sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996) có ghi: "Đồng bào theo đạo và các vị chức sắc tôn giáo có nghĩa vụ làm tròn trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc, sống "tốt đời, đẹp đạo"9. Đại hội IX, Đảng ta nhắc lại: Đồng bào theo đạo và chức sắc tôn giáo có nghĩa vụ làm tròn trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc, sống "tốt đời đẹp đạo”. Đến Đại hội X nhấn mạnh trách nhiệm của Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể nhân dân: "Động viên, giúp đỡ đồng bào theo đạo và các chức sắc tôn giáo sống tốt đời, đẹp đạo". Như vậy đến Đại hội X đã xác định rõ chủ thể của công tác tôn giáo vận, nhưng còn khách thể chủ yếu vẫn chỉ trong phạm vi là tín đồ và chức sắc các tôn giáo.
Đến Đại hội XI tái khẳng định quan điểm trên và có bổ sung thêm đối tượng nữa cần động viên là “các tổ chức tôn giáo" đã được Nhà nước công nhận. Tổ chức tôn giáo là tập hợp những người cùng tin theo một hệ thống giáo lý, giáo luật lễ nghi và tổ chức theo một cơ cấu nhất định được Nhà nước công nhận. Trước khi có Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo Nhà nước ta đã công nhận 16 tổ chức tôn giáo của 6 tôn giáo. Từ khi có Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo Nhà nước ta đã tăng cường xem xét công nhận và cấp giấy cho các tổ chức tôn giáo hoạt động thêm 17 tổ chức của 7 tôn giáo nữa. Như vậy, ở Việt Nam cho đến tháng 6 năm 2011 đã có 33 tổ chức của 13 tôn giáo khác nhau được Nhà nước công nhận về tổ chức.
Tổ chức tôn giáo có vai trò quan trọng trong việc lãnh đạo cộng đồng có tôn giáo hành đạo theo hướng "tốt đời đẹp đạo", như "sống phúc âm giữa lòng dân tộc" (Công giáo), "đạo pháp, dân tộc và CNXH” (Phật giáo), "phụng sự Thiên chúa, phụng sự Tổ quốc" (Tin lành)...Những năm qua do được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, số các tổ chức tôn giáo được công nhận ngày một gia tăng. Các tổ chức tôn giáo thực hiện đường hướng hành đạo đúng đắn: ích nước, lợi đạo. Đã có chiều tấm gương của các vị chức sắc, tín đồ các tôn giáo vừa làm trọn bổn phận "dân Chúa” vừa chu toàn trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc. Đồng bào có đạo hăng hái hoạt động xã hội góp phần xứng đáng vào sự nhiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhà nước ta cũng đã ra sức động viên, khuyến khích, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho đồng bào có đạo tham gia ngày một sâu rộng vào những hoạt động: kinh tế, văn hóa, xã hội, nhân đạo ...
Vấn đề thứ năm là, quan tâm và tạo mọi điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã được nhà nước công nhận, đúng quy định của pháp luật.
Về các tổ chức tôn giáo, Đại hội Đảng lần thứ X nêu: "Các tổ chức tôn giáo hợp pháp hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ" 10. Trong Báo cáo Chính trị ở Đại hội lần này nêu rõ: "Quan tâm và tạo mọi điều kiện (NĐL nhấn mạnh) cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, đúng quy định của pháp luật”11.
Nhà nước ta không chỉ công nhận, bảo hộ mà Đảng ta còn quan tâm và tạo mọi điều kiện cho các tổ chức tôn giáo ấy sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo theo đứng quy định của pháp luật. Điều này thể hiện tầm nhìn mới của Đảng đối với các tổ chức tôn giáo hợp pháp.
Vấn đề thứ sáu là, tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng trong giai đoạn mới của đất nước.
Để cho những quan điểm chủ trương của Đảng đi vào cuộc sống, mỗi khi Đảng ta đưa ra những quan điểm về tôn giáo thì Nhà nước kịp thời thể chế hóa bằng những văn bản pháp quy. Ví dụ, ngày 16-10-1990, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 24-NQ/TW thì năm 1991, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 69; ngày 2-7-1998, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 37-CT/TW thì năm 1999, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị đinh 26; ngày 12-3-2003 tại Hội nghị lần thứ Bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá IX, Đảng ta ra Nghị quyết số 25-NQ/TW về công tác tôn giáo, thì ngày 29/6/2004, Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã ký lệnh công bố Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, đã được Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI thông qua ngày 18/6/2004. Ngày 01 tháng 3 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định số: 22/2005/NĐ- CP hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo . . .
Đại hội IX lần đầu nêu, từng bước hoàn thiện luật pháp về tín ngưỡng, tôn giáo. Đại hội XI nêu rõ là "tiếp tục" thay cho "từng bước hoàn thiện” không chỉ luật pháp mà cả chính sách về tín ngưỡng và tôn giáo. Việc tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo được đặt ra thường xuyên, liên tục. Đây là điểm mới quan trọng thể hiện cách tư duy biện chứng về hiện tượng tôn giáo, tín ngưỡng của Đảng ta.
Nhận thức là một quá trình, tư duy mới của Đảng về tôn giáo cũng là một quá trình mà không thể coi ở thời điểm nhất định là hoàn thiện tuyệt đối cho mọi giai đoạn lịch sử. Quá trình đổi mới tư duy tôn giáo để phù hợp với xã hội đương đại cần phải bảo lưu và kế thừa những nhân tố hợp lý đã được đề cập và cao hơn là phải bổ sung, phát triển những điểm mới phủ hợp với hoàn cảnh lịch sử mới. Đó cũng là yêu cầu mới đặt ra cho các nhà lý luận và hoạch định đường lối chính sách đối với tôn giáo, tín ngưỡng thời đương đại. Trải qua 6 kỳ Đại hội của thời kỳ đổi mới đất nước, vừa kế thừa, phát triển, bổ sung quan điểm về tôn giáo trong các văn kiện của Đảng qua các kỳ Đại hội là xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, từ bối cảnh quốc tế và phát triển lý luận mà: "Người mác-xít phải biết chú ý đến toàn bộ tình hình cụ thể”. 12
Vấn đề tôn giáo được nêu trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội XI đã thể hiện một lộ trình đổi mới tư duy của Đảng trên lĩnh vực tôn giáo. Có những quan điểm được tái khẳng định, hoặc bổ sung trong các văn kiện của các kỳ Đại hội trước, nhưng cũng có những điểm đã được nêu ra trong các văn bản của Đảng, nhưng sẽ là "mới" so với Văn kiện của các kỳ Đại hội toàn thể trước đó.
___________
Vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo tinh thần của Đại hội XI PGS, TS. Nguyễn Trọng Tuấn
Học viện Kỹ thuật quân sự
Cùng với sự nghiệp đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, Đảng ta đã từng bước đổi mới về vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo. Trong quá trình đó, tư duy lý luận của Đảng ta về vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng được thể hiện một cách đầy đủ, hoàn thiện hơn theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chính vì vậy, Đại hội lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: "Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng"1.
Thật vậy, sau 25 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, quan điểm đổi mới của Đảng ta về vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng phát triển hoàn thiện và đi vào cuộc sống. Bước ngoặt trong sự đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về vấn đề tôn giáo được đánh dấu bằng sự ra đời Nghị quyết số 24 của Bộ Chính trị ngày 16/10/1990 "Về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới”. Về nhận thức lý luận, Đảng ta đã nêu lên "3 luận đề" có tính đột phá về vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng: Một là, tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài; Hai là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân và Ba là, đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới. Đồng thời nêu lên “3 quan điểm” đổi mới về công tác tôn giáo: Một là, công tác tôn giáo vừa quan tâm giải quyết hợp lý nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng, vừa cảnh giác kịp thời đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo phá hoại cách mạng; Hai là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng và Ba là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị. Để có được những tư tưởng đổi mới có tính "đột phá” nêu trên, Đảng ta tìm tòi, trăn trở trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo vào tình hình tôn giáo ở nước ta. Trong quá trình đổi mới, tư duy lý luận của Đảng ta về vấn đề tôn giáo tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện trong các chỉ thị, nghị quyết tiếp theo. Chỉ thị 37 của Bộ Chính trị (2/7/1998) chỉ rõ: "Những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo được tôn trọng và khuyến khích phát huy"2. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương (khoá VIII) về Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc (16/7/1998), dành quan điểm thứ 8 về “Chính sách văn hóa đối với tôn giáo", khẳng định: "Khuyến khích ý tưởng công bằng, bác ái, hướng thiện ... trong tôn giáo”3.
Nghị quyết số 25 Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 7 (khóa IX) của Đảng ra ngày 12/3/2003, đã tổng kết và phát triển tư duy lý luận đổi mới của Đảng ta về vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Theo đó, nhận thức về vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tập trung vào những nội dung chủ yếu sau đây:
Một là, thừa nhận sự tồn tại của tôn giáo trong chủ nghĩa xã hội và không tính những điểm tương đồng giữa lý tưởng của tôn giáo với lý tưởng của chủ nghĩa xã hội. Đây là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, thể hiện một cách rõ ràng, dứt khoát quan điểm của Đảng ta về vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Từ quan điểm "tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài" do Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị (1990) nêu ra, đến Nghị quyết 25 của Đảng đã phát triển lên một bước mới, khẳng định rõ hơn tôn giáo "đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội". Nhận thức này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, là sự phát triển có tính sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời phản ánh đúng quy luật tồn tại khách quan của tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Luận điểm này đã cụ thể hoá quan điểm "tồn tại lâu dài" của tôn giáo, nhưng phát triển rõ hơn trong mối quan hệ giữa tôn giáo với dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trên phương diện nhận thức, quan điểm này tránh được các cuộc tranh luận không cần thiết về vấn đề tôn giáo sẽ tồn tại đến khi nào. Đồng thời khắc phục được tư tưởng chủ quan, duy ý trí, nóng vội cho rằng tôn giáo sẽ mất đi nhanh chóng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa Mác-Lênin, đã chỉ ra rằng, tôn giáo chỉ mất đi khi những cơ sở kinh tế-xã hội, thậm chí là cả cơ sở tâm lý, nhận thức cho sự tồn tại của nó không còn nữa. Nghĩa là khi nào những cơ sở cho sự tồn tại của tôn giáo "không còn gì để phản ánh nữa, như Ph. Ăngghen đã chỉ ra, thì khi ấy tôn giáo sẽ mất đi. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với thế giới tự nhiên còn nhiều điều chưa thể đạt đến sự hợp lý, đặc biệt mặt trái của cơ chế thị trường, như tội phạm, sự phân hóa giàu nghèo, những rủi ro, bệnh tật, môi trường sinh thái bị hủy hoại,... vẫn còn là cơ sở khách quan cho tôn giáo tồn tại và phát triển trên những phạm vi nhất định. Do đó, tôn giáo vẫn còn tồn tại, khó có thể đoán định được "tuổi thọ” của tôn giáo, song chắc chắn rằng tôn giáo vẫn là một thực thể tồn tại trong chủ nghĩa xã hội4.
Như vậy, với cách nhìn mới, Đảng ta khẳng định tôn giáo còn tồn tại lâu dài, không thể đơn giản cho rằng tôn giáo sẽ mất đi một sớm một chiều khi con người đã khám phá, chinh phục được thiên nhiên, khi đời sống vật chất ngày một tăng, tức là đã giải quyết được nguồn gốc tự nhiên. Đây là một nhận định mang tính khoa học và cách mạng sâu sắc của Đảng, phản ánh đúng tính tất yếu khách quan trong sự tồn tại và phát triển của tín ngưỡng, tôn giáo.
Không dừng lại ở việc thừa nhận sự tồn tại của tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta còn khẳng định những điểm "tương đồng" giữa lý tưởng của tôn giáo với mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết 25 chỉ rõ: "Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với mục tiêu chung"5. Đây là một luận điểm mới có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, thể hiện sự vận dụng nhuần nhuyễn nét đặc sặc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về việc khai thác, phát huy những giá trị tốt đẹp trong văn hoá, đạo đức của các tôn giáo với mục tiêu của công cuộc xây dựng xã hội mới ở nước ta. Một mặt, quan điểm này làm thất bại những âm mưu tuyên truyền xuyên tạc của các thế lực thù địch về chủ nghĩa cộng sản vô thần chống tôn giáo, vi phạm nhân quyền, dân chủ, vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Mặt khác, hạn chế mặt tiêu cực, phát huy mặt tích cực của các tôn giáo tạo cơ sở cho sự đồng thuận xã hội. Mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" chính là điểm tương đồng, là mạch kết nối, nơi gặp gỡ giữa giá trị nhân bản trong tôn giáo với giá trị nhân văn của chủ nghĩa xã hội, có tác dụng huy động sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc trong công cuộc đổi mới đất nước. Tín ngưỡng hay không tín ngưỡng là quyền tự do lựa chọn của mỗi công dân. Phấn đấu cho sự phồn vinh của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân là lý tưởng thiêng liêng chung cho mọi người, là mục tiêu mà công cuộc xây dựng xã hội mới của chúng ta đang hướng tới, đồng thời cũng chính là ước vọng mà các tôn giáo theo đuổi. Đó chính là mẫu số chung để gắn kết đồng bào các tôn giáo với toàn thể nhân dân trong khối đại đoàn kết dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Mục đích cao cả của Phật Thích ca và Chúa Giêsu đều giống nhau: Thích ca và Giêsu đều muốn mọi người có cơm ăn, áo mặc, bình đẳng, tự do và thế giới đại đồng"6. Còn: "Chúng ta kháng chiến cứu nước, thi đua tăng gia sản xuất và tiết kiệm, cải cách ruộng đất làm cho người cày có ruộng, tín ngưỡng tự do. Như thế những việc Chính phủ và nhân dân ta làm, đều hợp với tinh thần Phúc âm"7. Kế thừa tư tưởng ấy, Đảng ta xác định rõ nhiệm vụ: "Giáo dục truyền thống yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất Tổ quốc, làm cho các tôn giáo gắn bó với dân tộc, với đất nước và chủ nghĩa xã hội, hăng hái thi đua xây dựng và bảo vệ Tổ quốc"8.
Mỗi tôn giáo đều có những hạt nhân triết học hợp lý, có giá trị nhân văn sâu sắc, như đức "từ bi" của Phật giáo, lòng "nhân nghĩa" của đạo Cao Đài và Phật giáo Hòa Hảo, tư tưởng "bác ái" của đạo Kitô, truyền thống uống nước nhớ nguồn, lòng tự hào, tự tôn dân tộc của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Đó chính là chân giá trị mà nhân loại cũng như dân tộc ta luôn hướng tới. Hồ Chủ tịch đã đúc kết một cách sâu sắc những giá trị đạo đức của các tôn giáo lớn. Người viết: "Chúa Giêsu dạy: Đạo đức là bác ái. Phật Thích Ca dạy: Đạo đức là từ bi. Khổng tử dạy: Đạo đức là nhân nghĩa”9. Đại đa số đồng bào tôn giáo ở nước ta đều có tinh thần yêu nước, đồng hành cùng dân tộc trong quá trình chống giặc ngoại xâm và xây dựng đất nước, tham gia vào xây dựng và giữ gìn bản sắc dân tộc, đó là chủ nghĩa yêu nước, dân tộc và quốc gia có chủ quyền.
Để phát huy được những điểm tương đồng ấy đòi hỏi phải kết hợp một cách biện chứng giữa lợi ích chung của sự phát triển đất nước với lợi ích cụ thể của đồng bào có đạo trên cả hai mặt đời sống vật chất và đời sống tinh thần, trong đó có nhu cầu về đời sống tâm linh tôn giáo. Đây chính là động lực thúc đẩy phong trào thi đua yêu nước trong đồng bào các tôn giáo nhằm thực hiện nhiệm vụ kinh tế-xã hội và phương châm, định hướng hành đạo gắn bó với dân tộc, tuân thủ pháp luật của các tôn giáo. Phát huy những điểm tương đồng, hướng về mục tiêu chung của công cuộc đổi mới đất nước có tác dụng huy động sức mạnh tiềm năng của đồng bào các tôn giáo, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giúp đồng bào các tôn giáo đấu tranh chống các thế lực lợi dụng tôn giáo gây mất đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo.
Việc Đảng ta chỉ rõ đồng bào các tôn giáo là một bộ phận trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cũng có nghĩa là đã khẳng định đồng bào các tôn giáo là một bộ phận không thể tách rời của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trước khi trở thành tín đồ của một tôn giáo, họ là công dân của nước Việt Nam, cùng chung lo tới vận mệnh của dân tộc. Đảng ta khẳng định thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền được sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật của đồng bào có đạo và sự bình đẳng giữa các tôn giáo. Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trước hết là tạo điều kiện, đảm bảo cho quần chúng có đạo được tham gia sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Mặt khác, phải chăm lo đến lợi ích thiết thân của bộ phận quần chúng đặc thù này. Nghĩa là phải chủ động giải quyết kịp thời những nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng chính đáng của đồng bào có đạo đúng với pháp luật. Trong đó, quan trọng nhất là chăm lo nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho họ.
Hai là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Quan điểm này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về vấn đề tôn giáo. Trước đây, tôn giáo thường tiếp cận từ hai góc độ tư tưởng triết học và chính trị với hai định nghĩa mang tính kinh điển: "tôn giáo là hình thái ý thức xã hội" và "tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân". Đó là hướng tiếp cận đúng, nhưng chưa đủ theo quan điểm mới của Đảng ta về vấn đề tôn giáo. Bởi vì, tôn giáo không chỉ là triết học (một bộ phận của thượng tầng kiến trúc, phản ánh thế giới quan, nhân sinh quan), không chỉ là vấn đề chính trị (bị các thế lực chính trị xấu lợi dụng), mà tôn giáo còn là lịch sử (phản ánh tiến trình lịch sử của nhân loại), là nhận thức (giải thích về thế giới và con người), là văn hóa (góp phần hình thành nên những nền văn minh và nếp sống văn hóa của loài người), là đạo đức (góp phần điều chỉnh hành vi của con người hướng tới những giá trị chân, thiện, mỹ)10, là lối sống (góp phần hình thành lối sống của những người có đạo) và tôn giáo là một thực thể xã hội (có lực lượng tín đồ hùng hậu, có tổ chức giáo hội, tôn giáo chân chính góp phần vào củng cố cộng đồng và sự ổn định xã hội) v.v.
Như vậy, với quan điểm nhìn nhận mới, Đảng ta không chỉ bó hẹp tôn giáo trong khuôn khổ của tư tưởng triết học và chính trị mà đa diện hơn đúng với sự tồn tại và phản ánh của nó. Đây là một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt, thể hiện tầm sâu trong tư duy nhận thức lý luận của Đảng ta về vấn đề tôn giáo. Điều đó đã khẳng định rõ thái độ của những người cộng sản Việt Nam về sự tôn trọng nhu cầu đời sống tâm linh của nhân dân, một nhu cầu đích thực, chính đáng của quần chúng có đạo, thể hiện sự quan tâm và bảo đảm cho những lợi ích thiết thân của đồng bào các tôn giáo. Việc tôn trọng, bảo đảm và thỏa mãn nhu cầu đời sống tín ngưỡng lành mạnh, chính đáng của họ cũng giống như việc bảo đảm các quyền lợi khác của con người như ăn, ở, mặc, bảo vệ sức khoẻ, tự do, nhân quyền, dân chủ v.v.
Ba là, thừa nhận và khuyến khích phát huy những giá trị đạo đức, văn hóa, truyền thống tốt đẹp của tôn giáo trong công cuộc xây dựng xã hội mới. Luận điểm này là sự kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta trong cách mạng dân tộc, dân chủ, nhưng được bổ sung, phát triển làm sâu sắc hơn trong thời kỳ đổi mới. Tôn giáo trong quá trình tồn tại và phát triển luôn bộc lộ hai mặt tích cực và tiêu cực. Trước đây, do yêu cầu của cách mạng cần phải tập trung cho nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc trong điều kiện các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng nên chúng ta thường nhấn mạnh đến mặt tiêu cực, hạn chế của tôn giáo, như tư tưởng yếm thế, ru ngủ con người. Nhưng quan điểm đổi mới của Đảng, bên cạnh mặt hạn chế cần khắc phục, phải trân trọng và phát huy những giá trị tích cực của tôn giáo, trong đó có mặt tích cực về đạo đức, văn hóa tôn giáo. Tôn giáo có chức năng điều chỉnh hành vi xã hội của con người, hướng con người đến cái chân, thiện, mỹ. Tín đồ các tôn giáo với niềm tin vào đấng tối cao và cuộc sống vĩnh hằng sau khi chết, lo sợ bị trừng phạt hoặc bị "quả báo" nếu phạm tội hoặc làm điều ác nên đã có hành vi đạo đức hướng thiện. Giáo lý giáo luật và những lời răn dạy của tôn giáo đã tạo ra những quy phạm đạo đức hướng con người làm các việc thiện lành, tránh điều ác, tu nhân tích đức để được giải thoát (theo quan niệm của Phật giáo), được lên thiên đàng (theo quan niệm của Kitô giáo, Hồi giáo). Các tôn giáo không chỉ "thiêng hóa" các quy phạm đạo đức mà còn tạo ra dư luận xã hội để điều chỉnh hành vi của tín đồ hướng về cái thiện, bài trừ cái ác. Như vậy, đạo đức tôn giáo góp phần điều chỉnh hành vi xã hội của con người. Thực tế cho thấy, ở những nơi tôn giáo ổn định, có đông tín đồ thì các tệ nạn xã hội ít hơn, trật tự ổn định và lối sống đạo đức nền nếp hơn11.
Tôn giáo, tín ngưỡng không đơn thuần chỉ là vấn đề thuộc về đời sống tâm linh, tinh thần, mà còn là vấn đề văn hóa, đạo đức, lối sống có những giá trị tốt đẹp mà công cuộc xây dựng xã hội mới có thể tiếp thu. Điều ấy thể hiện một cách sâu sắc quan điểm thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, giữa tồn tại xã hội với ý thức xã hội của Đảng ta về vấn đề tôn giáo, một lĩnh vực phức tạp và nhạy cảm. Bên cạnh những hạn chế, tôn giáo cũng chứa đựng nhiều yếu tố hợp lý bởi tính nhân bản, nhân văn, hướng thiện của nó, những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới, góp phần bổ sung hoàn thiện cho việc xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Hơn nữa, mọi tôn giáo chân chính đều đều răn dạy tín đồ hướng tới cái chân, thiện, mỹ. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội với chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, các tôn giáo đã và sẽ có sự điều chỉnh để thích ứng với xã hội mới. Đồng bào các tôn giáo ngày càng tham gia tích cực hơn vào phong trào thi đua yêu nước xây dựng cuộc sống "tốt đời, đẹp đạo". Quan điểm nêu trên của Đảng đã góp phần khơi dậy, động viên tín đồ, chức sắc các tôn giáo phát huy những giá trị tốt đẹp, mặt tích cực, điểm tương đồng của tôn giáo với chủ nghĩa xã hội; phát huy tinh thần yêu nước của đồng bào các tôn giáo làm cho họ tự giác đấu tranh chống lại những luận điệu xuyên tạc âm mưu lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng tiếp tục khẳng định: "Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo; động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tô quốc"12.
Bốn là, "giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc và nhân dân". Quan điểm này hoàn toàn mới, có tính sáng tạo trong tư duy lý luận của Đảng ta về vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo. Lần đầu tiên nội hàm của tín ngưỡng được Đảng ta đề cập tới một cách chính thức trong văn kiện của mình. Đây là quan điểm đúng đắn, phản ánh rõ truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với làng, với nước của nhân dân ta. Trong tâm thức của người Việt Nam, thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những có công với dân, với nước không đơn thuần chỉ là một loại hình tín ngưỡng mà cao hơn đó còn là một đạo lý "uống nước nhớ nguồn" của dân tộc. Đó là một truyền thống lâu đời đã ăn sâu trong tiềm thức, đời sống tâm linh, văn hóa, tinh thần của mỗi người dân Việt Nam, trở thành một di sản văn hóa phi vật thể đậm đà bản sắc dân tộc, thể hiện lòng tự tôn, tự hào dân tộc. Chính vì vậy, các tôn giáo ngoại nhập, kể cả những tôn giáo độc thần như Công giáo khi vào Việt Nam cũng phải thừa nhận, tiếp thu loại hình tín ngưỡng truyền thống này.
Việc Đảng ta thừa nhận những giá trị tốt đẹp của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc và nhân dân, có một ý nghĩa hết sức quan trọng có tác dụng to lớn, góp phần định hướng cho các tôn giáo đồng hành, gắn bó với dân tộc. Mặt khác, việc phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên còn là nhân tố để khắc phục sự hẫng hụt, thiếu vắng trong đời sống tâm linh, văn hoá, tinh thần vốn là khoảng trống để các tôn giáo, nhất là các tà đạo phát triển. Đoàn kết đồng bào các tôn giáo, giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc và nhân dân, đồng thời phải nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia. Đó là những quan điểm mang tính biện chứng sâu sắc trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo, giữa xây dựng khối đoàn kết toàn dân với việc chống sự phân biệt, đối xử, chống âm mưu chia rẽ dân tộc, kích động gây rối; giữa giữ gìn, phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp với đấu tranh loại trừ các tệ nạn mê tín hủ tục nhằm bảo đảm cho môi trường sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo lành mạnh.
Từ những nhận thức mới về vấn đề tôn giáo, Đảng ta đã nêu lên những quan điểm mới về công tác tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Một là, công tác tôn giáo vừa phải quan tâm hợp lý nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng, vừa phải kịp thời đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo đế phá hoại cách mạng. Trong quan điểm này, Đảng ta nhấn mạnh đến hai nội dung rất quan trọng của công tác tôn giáo. Đó là chăm lo đến đời sống tôn giáo của nhân dân và đấu tranh chống sự lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch. Trên cơ sở xác định tôn giáo là tình cảm, nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, Đảng ta chủ trương thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Mọi người được tự do theo hoặc không theo một tôn giáo nào, "khắc phục nhận thức thiển cận đối với tôn giáo và thái độ hẹp hòi, thành kiến, phân biệt đối xử với đồng bào có đạo”. Tín đồ các tôn giáo được tự do sinh hoạt tôn giáo tại gia đình và nơi thờ tự theo nghi lễ truyền thống, "có kinh sách để tu học, có chức sắc hướng dẫn việc đạo". Đặc biệt, Nghị quyết 24 đã mở ra việc giải quyết, công nhận về mặt tổ chức các tôn giáo nếu hội đủ các điều kiện: có đường hướng hành đạo gắn bó với dân tộc, có tôn chỉ, mục đích, điều lệ phù hợp và luật pháp, chuẩn bị tốt về mặt nhân sự, . . . Sau khi đã được công nhận, tổ chức tôn giáo được thực hiện đầy đủ theo Hiến chương, Điều lệ (hoặc giáo luật), như tổ chức đại hội, hội nghị, việc đào tạo, phong chức, bổ nhiệm chức sắc, xuất bản kinh sách, sản xuất đồ dùng việc đạo xây sửa cơ sở thờ tự, quan hệ đối ngoại,... Đây là quan điểm có ý nghĩa rất quan trọng để ứng xử cụ thể đối với từng tôn giáo, một mặt tạo điều kiện cho các tôn giáo hợp pháp chăm lo đời sống sinh hoạt của tín đồ, mặt khác đưa sinh hoạt tôn giáo vào khuôn khổ quản lý nhà nước, góp phần loại bỏ các tà đạo nhằm làm lành mạnh hóa sinh hoạt tôn giáo.
Bên cạnh việc chăm lo đời sống mọi mặt của đồng bào các tôn giáo, phải đấu tranh chống âm mưu lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch chống phá sự nghiệp cách mạng. Do đặc điểm của tôn giáo ở Việt Nam, trước đây khi xâm lược nước ta, các thế lực đế quốc đều tìm cách lợi dụng tôn giáo để phục vụ cho mục đích chính trị của chúng. Ngày nay, các thế lực thù địch vẫn không từ bỏ việc lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng nước ta. Vì vậy trong khi tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, Đảng ta chủ trương phải cảnh giác đấu tranh với những hoạt động lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch. Hai nhiệm vụ này có mối quan hệ gắn bó hữu cơ mật thiết với nhau. Giải quyết đúng đắn và đầy đủ nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo chính đáng của quần chúng là làm cho đồng bào có đạo yên tâm, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tin vào chế độ và sự nghiệp đổi mới đất nước, hiểu rõ âm mưu thủ đoạn lợi dụng tôn tạo của các thế lực xấu, từ đó nêu cao cảnh giác để họ "tự giác đấu tranh chống lại chúng, bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng chính đáng của mình, bảo vệ an ninh Tổ quốc". Ngược lại, khi làm tốt công tác đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo sẽ tạo môi trường sinh hoạt tôn giáo lành mạnh, không bị địch lợi dụng để quần chúng yên tâm sinh hoạt tôn giáo.
Khi xác định mối quan hệ hữu cơ giữa hai nhiệm vụ trên, Đảng ta đã đặt vấn đề giải quyết nhu cầu giáo của quần chúng trước việc đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo nhằm khắc phục tình trạng có nơi, có lúc khi tập trung chống địch lợi dụng tôn giáo lại chưa quan tâm đến nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của quần chúng, thậm chí có nơi còn đồng nhất quần chúng có đạo với các phần tử lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng13. Điều đó vô hình chung đã đẩy một bộ phận quần chúng có đạo về phía các thế lực lợi dụng tôn giáo.
Hai là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng. Đây là quan điểm thể hiện tư duy lý luận sâu sắc của Đảng ta về công tác quần chúng nói chung, công tác tôn giáo nói riêng. Khi nói nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng, Đảng ta muốn nhấn mạnh đến bản chất và vai trò quyết định của công tác vận động quần chúng trong công tác tôn giáo; Suy cho cùng, công tác vận động quần chúng có đạo là công tác đối với con người, đó là những con người-công dân-tín đồ. Họ là một đối tượng quần chúng đặc thù, có điểm giống, nhưng cũng có điểm khác với các đối tượng quần chúng khác. Ở họ, giữa con người công dân với con người tín đồ luôn quyện chặt vào nhau, bổ xung cho nhau không thể tách rời và luôn hướng tới "tốt đời, đẹp đạo". Trong họ, quyền lợi và nghĩa vụ song trùng giữa con người công dân có quyền lợi, nghĩa vụ với Tổ quốc và con người tín đồ có quyền lợi, bổn phận với đạo, với giáo hội của mình. Bởi vậy, công tác vận động quần chúng có đạo không đơn thuần chỉ là công tác tuyên truyền giáo dục mà còn là công tác tập hợp tín đồ các tôn giáo trong các đoàn thể quần chúng, công tác xây dựng cốt cán, công tác đối với các chức sắc, nhà tu hành, các nhân sỹ trí thức trong các tôn giáo. Công tác vận động quần chúng còn là "tăng cường công tác giáo dục, y tế văn hóa, khoa học, kỹ thuật, nâng cao dân trí, nhất là ở những vùng đông đồng bào có đạo", tức là phải chăm lo việc ăn, mặc, ở, đi lại, giáo dục, y tế, hưởng thụ văn hóa,... để nâng cao đời sống dân sinh, trình độ dân trí cho quần chúng. Về khía cạnh tôn giáo, công tác vận động quần chúng có đạo phải thực hiện tốt chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, chứ không phải là tuyên truyền thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng để "giải phóng" quần chúng khỏi "đám mây mù” tôn giáo; cũng không phải tốn thời gian vào các cuộc tranh luận vô bổ có hay không có Đấng tối cao, có hay không có Thiên đường mà là vận động quần chúng tín đồ các tôn giáo xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc ngay trên thế gian này. Nói tóm lại, công tác vận động quần chúng có đạo là làm cho đồng bào được "phần xác no ấm, phần hồn thong dong"14) như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy. Làm được điều đó cũng chính là đã tạo điều kiện để đồng bào có đạo tích cực tham gia xây dựng cuộc sống "tốt đời, đẹp đạo", góp phần cùng toàn dân thực hiện thắng lợi mục tiêu: "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Ba là, làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo. Trên cơ sở xác định công tác tôn giáo mang nét đặc thù với sự tinh tế trong nhiều mối quan hệ, không chỉ là giải quyết chính sách đối với tín đồ, ứng xử với chức sắc và tổ chức giáo hội mà còn là công tác đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo, liên quan đến chính sách đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Do vậy, Đảng ta xác định lực lượng làm công tác tôn giáo trong thời kỳ mới là toàn bộ hệ thống chính trị. Gồm Đảng, chính quyền, mặt trận, các đoàn thể chính trị,... Toàn bộ hệ thống chính trị tham gia làm công tác tôn giáo, nhưng mỗi ngành tuỳ theo chức năng có những nhiệm vụ cụ thể: Đảng giữ vai trò lãnh đạo, chỉ đạo công tác tôn giáo thông qua chủ trương, đường lối mang tính định hướng đối với tôn giáo nói chung và đối với từng tôn giáo cụ thể. Đồng thời, thông qua mặt trận và các đoàn thể thực hiện công tác vận động quần chúng xây dựng lực lượng cốt cán trong tín đồ, chức sắc. Các cấp chính quyền có trách nhiệm thể chế hóa chủ trương của Đảng bằng các văn bản quy phạm pháp luật về tôn giáo; thực hiện quản lý các hoạt động tôn giáo, đưa cáo hoạt động tôn giáo vào khuôn khổ của pháp luật. Mặt khác, các cấp chính quyền còn phải chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của tín đồ các tôn giáo bằng các chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và đấu tranh chống các hoạt động lợi dụng tôn giáo nhằm làm lành mạnh hóa các sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng. Mặt trận và các đoàn thể tuyên truyền, vận động quần chúng, đưa quần chúng tín đồ các tôn giáo theo từng giới, từng lứa tuổi tham gia các đoàn thể chính trị-xã hội, các đoàn thể xã hội và các đoàn thể nghề nghiệp khác15.
Bốn là, việc theo đạo, truyền đạo và hoạt động tôn giáo (sinh hoạt động, truyền đạo và quản đạo) phải tuân thủ hiến pháp và pháp luật. Đây là quan điểm có vị trí đặc biệt quan trọng phản ánh rõ đời sống sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta ngày càng được mở rộng cùng với quá trình đổi mới, dân chủ hóa đời sống xã hội. Nhưng đồng thời cũng xuất hiện những vấn đế phức tạp trong đời sống sinh hoạt tôn giáo cần được chấn chỉnh. Cùng với việc khẳng định quyền tự do hoạt động tôn giáo của tín đồ và các tổ chức tôn giáo hợp pháp, cần nghiêm cấm các tổ chức, cá nhân chưa được nhà nước thừa nhận tư cách pháp nhân truyền đạo, nghiêm cấm việc lợi dụng hoạt động tôn giáo để tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, trục lợi cá nhân hay ép buộc người khác theo đạo. Điều đó không chỉ bảo đảm cho hoạt động tôn giáo trong khuôn khổ pháp luật, giữ vững tình hình chính trị-xã hội mà còn bảo vệ các tôn giáo chân chính, chống tà đạo, tà giáo và hiện tượng mê tín dị đoan nhằm làm lành mạnh hoá môi trường sinh hoạt tôn giáo theo nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của quần chúng tín đồ, chức sắc các tôn giáo.
Hoạt động tôn giáo, nhất là hoạt động truyền giáo luôn mang tính xã hội và ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Do đó, nó cũng phải tuân thủ và chịu sự quản lý của nhà nước thế tục. Vì vậy, bất cứ một quốc gia nào dưới những hình thức khác nhau đều có các chính sách hay pháp luật để quản lý các hoạt động tôn giáo, nhất là hoạt động truyền giáo nhằm giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ các giá trị văn hóa truyền thống của mình.
Có thể nói, những quan điểm đổi mới nêu trên đã từng bước được thể chế hóa bằng chính sách, pháp luật của nhà nước, như Nghị định 69/HĐBT năm 1991 của Chủ tịch hội đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ); Nghị định 26 CP năm 1999 của Chính phủ, đặc biệt Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo của UBTV Quốc hội (2004); Nghi định 22 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều trong Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; Chỉ thị số 01 (năm 2005) của Thủ tướng Chính phủ về một số công tác đối với đạo Tin lành. Đó là những văn bản tạo cơ sở pháp lý quan trọng nhằm giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kỳ đổi mới. Theo đó, nhiều vấn đề cơ bản, quan trọng của các tôn giáo đã cơ bản được giải quyết, như sinh hoạt tôn giáo của tín đồ; vấn đề đào tạo chức sắc, in ấn kinh sách, đồ dùng việc đạo; vấn đề đất đai, cơ sở thờ tự; đặc biệt vấn đề thừa nhận tư cách pháp nhân về mặt tổ chức của các tôn giáo (đến nay đã có 12 tôn giáo với 32 tổ chức, hệ phái tôn giáo đã được thừa nhận); vấn đề hoạt động từ thiện, nhân đạo, văn hóa, xã hội, giáo dục y tế, đối ngoại,. . . của tôn giáo. Điều đó đã tạo nên niềm tin tưởng, phấn khởi của đại đa số tín đồ, chức sắc các tôn giáo, có tác dụng động viên, khuyến khích họ tích cực tham gia công cuộc đổi mới đất nước.
Tuy nhiên, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta còn nhiều hạn chế, chưa thể hiện đầy đủ những tư tưởng đổi mới của Đảng về vấn đề tôn giáo cũng như chưa phù hợp với thực tiễn đời sống tôn giáo đang đặt ra ở nước ta trong thời kỳ mở rộng, hội nhập quốc tế. Vì vậy, Đại hội lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: "Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng”16. Đây là vấn đề quan trọng nhất mà thời gian tới chúng ta cần phải tiếp tục bổ sung, hoàn thiện. Trên thực tế, nhất là Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị định 22 của Chính phủ hướng dẫn một số điều trong Pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo sau 6 năm đi vào thực tế đã bộc lộ nhiều vấn đề bất cập, cần phải chinh sửa, bổ sung, hoàn thiện và nâng cao cho phù hợp với tình hình thực tế đời sống tôn giáo đang diễn ra. Do đó, bên cạnh những vấn đề đã được khẳng định, Đại hội lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tôn giáo, động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được nhà nước thừa nhận, đúng quy định của pháp luật. Đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc”17.
Tóm lại, cùng với công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, dân chủ hóa đời sống xã hội, Đảng và Nhà nước ta cũng từng bước xây dựng hoàn thiện chính sách đổi mới về công tác tôn giáo theo quan điểm thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, nhiều vấn đề về chính sách, pháp luật cũng cần được bổ sung, hoàn thiện tạo cơ sở pháp lý cho công tác tôn giáo cũng như phù hợp với tình hình thực tế cũng như tạo điều kiện cho các tôn giáo tích cực tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, góp phần vào sự ổn định và phát triển đất nước trong điều kiện mới./.
___________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, HN, 2011, tr.245.
2. Viện nghiên cứu Tôn giáo và tín ngưỡng: Lý luận về tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam (tài liệu tham khảo), Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2007, tr.323.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành trung ương khóa VIII, Nxb CTQG, HN, 1998, tr.67.
4. Nguyễn Thanh Xuân, “Trở lại những quan điểm đổi mới về công tác tôn giáo của Nghị quyết 24”, tạp chí Công tác Tôn giáo, số 2, 2005, tr.8.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành trung ương khóa IX, Nxb CTQG, HN, 2003, tr.49.
6. Hồ Chí Minh: Về vấn đề tôn giáo tín ngưỡng. Nxb KHXH, HN, 1996, tr. 194.
7. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 7, tr. 197.
8. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ bẩy Ban chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb CTQG, HN, 2003, tr52.
9. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 6, tr. 225.
10. Xem Nguyễn Thanh Xuân: “Trở lại với những quan điểm đổi mới về công tác tôn giáo của Nghị quyết 24”, tạp chí Công tác Tôn giáo, số 2 (10/2005), tr. 7-8.
11. Nguyễn Thanh Xuân: “Trở lại với những quan điểm đổi mới về công tác tôn giáo của Nghị quyết 24”, bài đã dẫn, tr. 8.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, sđd, tr. 245.
13. Nguyễn Thanh Xuân: “Trở lại với những quan điểm đổi mới về công tác tôn giáo của Nghị quyết 24”, bài đã dẫn, tr. 9.
14. Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 10, Nxb CTQG, HN, 1996, tr. 606.
15. Xem Nguyễn Thanh Xuân: “Trở lại với những quan điểm đổi mới về công tác tôn giáo của Nghị quyết 24”, bài đã dẫn, tr. 10.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, sđd, tr. 245.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, sđd, tr. 245.
Đại hội XI về xây dựng gia đình văn hóa ở Việt Nam hiện nay PGS.TS Đỗ Thị Thạch
Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh
1. Quan điểm của Đảng về vai trò của gia đình Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay (về biện pháp xây dựng gia đình văn hóa)
Gia đình phát triển bền vững không chỉ là niềm hạnh phúc cho mỗi người, mỗi nhà mà còn là nhân tố quan trọng góp phần giữ gìn sự phát triển lành mạnh, an toàn của xã hội và sự ổn định dân số của mỗi quốc gia. Vì vậy, gia đình cũng là một trong những vấn đề được Đảng ta đặc biệt quan tâm. Từ khi thành lập và trải qua các thời kỳ lãnh đạo đất nước, Đảng ta có nhiều chủ trương, chính sách để phát triển “các tế bào” của xã hội sao cho thật mạnh khỏe, bền vững để tạo đà cho đất nước phát triển.
Trong bối cảnh hiện nay, quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đang đứng trước nhiều vận hội cũng như thách thức, tác động mạnh mẽ tới vị trí, vai trò của gia đình theo cả chiều hướng tích cực lẫn tiêu cực. Bên cạnh những thành công, tiến bộ, các “tế bào” của xã hội cũng đang chịu nhiều rủi ro, mất mát. Trước những yêu cầu đó, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, vai trò của gia đình và xây dựng gia đình văn hóa trong thời kỳ mới được Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh và làm sâu sắc hơn.
Thứ nhất: Gia đình là nền tảng, tế bào của xã hội
Gia đình là tế bào, là nền tảng của xã hội được chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh khẳng định khi bàn về vai trò của gia đình đối với sự phát triển của xã hội. Ngay từ thế kỷ XIX, Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “...Những trật tự xã hội, trong đó có những con người của một thời đại lịch sử nhất định và của một nước nhất định đang sống, là do hai loại sản xuất quyết định: một mặt là do trình độ phát triển của lao động và mặt khác là do trình độ phát triển của gia đình”. Còn Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Xã hội tốt thì gia đình càng tốt hơn. Hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà phải chú ý hạt nhân cho tốt1.
Kế thừa tư tưởng của các nhà kinh điển, Đảng ta nhận thức sâu sắc về vai trò của gia đình đối với xã hội. Tại Đại hội XI, Đảng ta nhấn mạnh: “Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội”2. Quan điểm của Đảng cho thấy, muốn có một xã hội phát triển lành mạnh thì trước hết từng “tế bào” phải phát triển bền vững. Gia đình không chỉ là “tế bào” tự nhiên mà còn là một đơn vị kinh tế của xã hội. Không có gia đình tái tạo ra con người để xây dựng xã hội thì xã hội cũng không thể tồn tại và phát triển được. Nhất là trong bối cảnh hiện nay, nhiều giá trị mới được tiếp thu, nhưng nhiều giá trị truyền thống của gia đình Việt Nam cũng đang mất đi. Tình trạng ly hôn, bạo hành gia đình gia tăng; chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, hưởng thụ có xu hướng tăng lên… Những hạn chế này đang làm cho nhiều “tế bào” có nguy cơ rơi vào khủng hoảng, làm cho nền tảng xã hội thiếu vững chắc.
Chính vì vậy, trên cơ sở những tiêu chí quan trọng của gia đình văn hóa Việt Nam đã được Đảng đề xuất từ Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định Chiến lược xây dựng gia đình văn hóa Việt Nam, tại Đại hội XI, Đảng ta phát triển mới về nhận thức và xác định: No ấm, tiến bộ, hạnh phúc là những điều kiện cơ bản, quan trọng để gia đình phát triển lành mạnh. Muốn có một “tế bào lành mạnh”, một “nền tảng vững chắc” thì phải xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh phúc.
Thứ hai, Gia đình có vai trò đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ đất nước.
Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ: “Gia đình là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách”(2) góp phần chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân, có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi, sống có văn hóa, nghĩa tình, có tinh thần quốc tế chân chính(3).
Đảng ta nhận thức rõ rằng, con người Việt Nam chỉ có thể được trang bị những phẩm chất tốt đẹp nếu có một môi trường xã hội tốt. Môi trường đó trước hết là từ mỗi gia đình, mỗi tế bào của xã hội. Các gia đình chịu trách nhiệm trước xã hội về sản phẩm của gia đình mình, phải có trách nhiệm nuôi dưỡng và giáo dục con cái, cung cấp cho xã hội những công dân hữu ích. Cùng với nhà trường, gia đình tham gia tích cực nhiệm vụ “dạy người, dạy chữ”, tạo ra lực lượng lao động tương lai có chất lượng cao.
Đây là điểm mới trong tư duy Đại hội XI của Đảng ta về vai trò của gia đình đối với phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao cho đất nước. Gia đình chính là “đơn vị xã hội” đầu tiên cung cấp lực lượng lao động cho xã hội. Từ những người lao động chân tay giản đơn đến những người lao động trí óc… đều được sinh ra, được nuôi dưỡng và chịu sự giáo dục của gia đình.
Đảng ta nhấn mạnh, gia đình không chỉ giữ vai trò nền tảng, tế bào của xã hội, mà còn là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống, hình thành nhân cách. Gia đình giữ vai trò đặc biệt quan trọng tới số lượng, chất lượng dân số và cơ cấu dân cư của quốc gia. Gia đình không chỉ dừng lại ở việc duy trì nòi giống, mà quan trọng hơn gia đình phải trở thành môi trường tốt, đầu tiên để giáo dục nếp sống, hình thành nhân cách cho con người. Theo quan điểm của Đảng, gia đình no ấm, bố mẹ thuận hòa, hạnh phúc là điều kiện, môi trường quan trọng, trực tiếp tạo nên các thế hệ sau có chất lượng cả về thể chất lẫn tinh thần, góp phần đắc lực vào chiến lược phát triển nguồn lực con người có chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước hiện nay.
Thứ ba: Gia đình có vai trò giữ gìn, lưu truyền, phát triển văn hóa dân tộc
Đảng ta nhấn mạnh gia đình là nơi tiếp thu, giữ gìn và lưu truyền các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Thông qua các câu chuyện cổ tích, qua các câu ca dao, tục ngữ, cha mẹ, ông bà là những người thầy đầu tiên dạy dỗ, nuôi dưỡng tâm hồn, phát triển tư duy và từng bước giáo dục hình thành nhân cách cho mỗi con người. Qua lao động, qua việc xử lý các mối quan hệ hằng ngày, gia đình đã truyền thụ cho con trẻ những nét đẹp của truyền thống gia đình, dòng họ, truyền thống văn hóa dân tộc. Từ đó mỗi cá nhân hình thành và bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tình cộng đồng, lòng nhân ái, tinh thần tự lực, tự cường, anh hùng trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình, chăm chỉ cần cù trong lao động sản xuất… Đảng ta chỉ rõ: Trong giai đoạn hiện nay để “xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” cần sự chung tay góp sức của toàn xã hội, mà xét đến cùng, đó là trách nhiệm của mỗi gia đình, mỗi con người cụ thể.
2. Quan điểm của Đảng về biện pháp xây dựng gia đình văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hiện nay
Để đạt được mục tiêu: “Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách”, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong thời gian tới ngoài nhiệm vụ trọng tâm là phát triển kinh tế, chú ý đến kinh tế trang trại và hộ gia đình, Đảng ta chỉ rõ cần tập trung vào một số khâu chủ yếu sau:
Một là: Sớm có chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam, góp phần giữ gìn và phát triển những giá trị truyền thống của văn hóa, con người Việt Nam, nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ(4)
Trên cơ sở tổng kết xây dựng gia đình văn hóa để phát huy những điểm tích cực, tìm cách khắc phục những điểm yếu, Đảng ra chỉ rõ, Chính phủ và các bộ, ngành cần phải hoàn thiện Chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, trong đó cần làm rõ một số nội dung chủ yếu như:
a) Nâng cao nhận thức của toàn xã hội cũng như mỗi cá nhân về vai trò, vị trí đặc biệt của gia đình đối với xã hội và trách nhiệm của gia đình và cộng đồng trong việc thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, pháp luật về hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phòng, chống bạo lực trong gia đình, ngăn chặn sự xâm nhập của các tệ nạn xã hội vào gia đình. Cấp ủy và chính quyền các cấp phải đưa nội dung công tác xây dựng văn hóa gia đình và gia đình văn hóa vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và chương trình kế hoạch công tác hằng năm của các bộ, ngành, địa phương.
b) Xây dựng gia đình Việt Nam phải trên cơ sở kế thừa, phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc các giá trị tiên tiến của thời đại về gia đình. Đề cao trách nhiệm của mỗi gia đình trong việc xây dựng và bồi dưỡng nhân cách cho mỗi thành viên trong gia đình nhằm hướng tới những phẩm chất của con người Việt Nam mà Đại hội XI của Đảng đã chỉ ra.
Hai là: Xây dựng gia đình văn hóa phải gắn với các phong trào khác, như xây dựng khu dân cư văn hóa, làng, xóm văn hóa... Đưa phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả; xây dựng nếp sống văn hóa trong các gia đình, khu dân cư, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp… tạo điều kiện cho mọi người được tiếp cận với các kiến thức kinh tế, văn hóa, y tế, giáo dục, khoa học, kỹ thuật và phúc lợi xã hội, giúp các gia đình có kỹ năng sống, chủ động phòng, chống sự xâm nhập của các tệ nạn xã hội, kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống.
Tại Đại hội XI, Đảng ta chỉ rõ: Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, gia đình, nhà trường, từng tập thể lao động, các đoàn thể và cộng đồng dân cư trong việc chăm lo xây dựng con người Việt Nam(5). Đây là điểm mới trong nhận thức của Đảng ta về nhiệm vụ xây dựng, phát triển nguồn lực con người trong bối cảnh hiện nay. Con người Việt Nam chỉ có thể được trang bị những phẩm chất về lòng yêu nước, ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân, tri thức, sức khỏe, lao động giỏi, sống văn hóa, tình nghĩa… nếu có một môi trường xã hội tốt. Môi trường đó trước hết là từ mỗi gia đình, mỗi tế bào của xã hội. Các gia đình chịu trách nhiệm trước xã hội về sản phẩm của gia đình mình, phải có trách nhiệm nuôi dưỡng và giáo dục con cái, cung cấp cho xã hội những công dân hữu ích. Nhà trường có vai trò rất lớn trong việc đào tạo chiến lược con người. Phải chịu trách nhiệm trước xã hội về nhiệm vụ “dạy chữ, dạy người”, tạo ra lực lượng lao động tương lai có chất lượng cao. Cùng với hai chủ thể chính là gia đình, nhà trường thì các tổ chức đoàn thể khác, cộng đồng dân cư phải chung tay, sát cánh trong chiến lược đào tạo con người, vì bản chất của con người như C.Mác đã chỉ rõ là Tổng hòa các mối quan hệ xã hội.
Ba là: Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân và công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em(6)
Để mỗi tế bào xã hội mạnh khỏe thì công tác chăm sóc sức khỏe, trước hết là sức khỏe của bà mẹ, trẻ em, thực hiện gia đình ít con là biện pháp quan trọng cần được quan tâm. Về vấn đề này, Đảng ta chỉ rõ: Thực hiện nghiêm chính sách và pháp luật về dân số, duy trì mức sinh hợp lý, quy mô gia đình ít con. Có chính sách cụ thể bảo đảm tỷ lệ cân bằng giới tính khi sinh. Tổ chức tuyên truyền nâng cao nhận thức và huy động sự tham gia của toàn xã hội vào công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình. Làm tốt công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe bà mẹ, trẻ em, giảm mạnh tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng, góp phần nâng cao chất lượng dân số…(7).
Đồng thời, phải tiếp tục kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy cán bộ làm công tác dân số, gia đình và trẻ em các cấp; nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về công tác gia đình.
Bốn là: Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật xây dựng gia đình văn hóa
Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chính sách liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến xây dựng gia đình văn hóa như: Luật Hôn nhân và Gia đình (năm 2000); Luật Bình đẳng giới (năm 2007); Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (năm 2008); Pháp lệnh Dân số - Kế hoạch hóa gia đình; Chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020... Tuy nhiên, gia đình luôn vận động và biến đổi theo sự vận động của xã hội, vì vậy, Đảng và Nhà nước cần tiếp tục ban hành, bổ sung một số chính sách mới phù hợp với điều kiện xây dựng gia đình văn hóa Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Đồng thời, phải đổi mới nội dung và giải pháp truyền thông về gia đình, nâng cao hiểu biết về Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, Luật Bình đẳng giới, cùng các kiến thức, kỹ năng về cuộc sống gia đình.
Năm là: Tiếp tục sự nghiệp giải phóng phụ nữ nhằm thực hiện bình đẳng giới
Phụ nữ là một nửa nhân loại, là những người mẹ, người vợ, có vai trò đặc biệt quan trọng trong xây dựng gia đình văn hóa. Hiện nay, phụ nữ còn chịu nhiều thiệt thòi, bất bình đẳng so với nam giới, do vậy, họ chưa phát huy hết vai trò của bản thân trong xây dựng gia đình, đồng thời hạn chế sự đóng góp của họ cho toàn xã hội. Phụ nữ cần tiếp tục được giải phóng, được chia sẻ về công việc gia đình, hỗ trợ về các dịch vụ gia đình để họ có thời gian phát triển sự nghiệp. Phụ nữ không chỉ được hỗ trợ về công việc gia đình mà còn được tạo điều kiện để nâng cao trình độ, phát triển cá nhân. Thực hiện tốt chính sách bình đẳng giới, bồi dưỡng, đào tạo nghềm nâng cao học vấn đối với phụ nữ; có cơ chế, chính sách để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các cơ quan lãnh đạo, quản lý ở các cấp, các ngành; chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em; tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt chức năng thiên chức người mẹ; xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.
Đại hội XI của Đảng chỉ rõ: Xây dựng và triển khai chiến lược quốc gia về bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ, tập trung ở những vùng và khu vực có sự bất bình đẳng và nguy cơ bất bình đẳng cao; ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng buôn bán phụ nữ và bạo lực trong gia đình. Tạo điều kiện để phụ nữ tham gia học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu công việc, nhiệm vụ(8). Đồng thời, phải nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ. Nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện pháp luật, chính sách đối với lao động nữ. Tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò của mình; tăng tỷ lệ phụ nữ tham gia cấp ủy và bộ máy quản lý nhà nước. Kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội và các hành vi bạo lực, buôn bán, xâm hại và xúc phạm nhân phẩm phụ nữ(9).
Dù ở thời đại nào, gia đình luôn là yếu tố quan trọng ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển bền vững của quốc gia – dân tộc. Bởi chúng ta biết rằng gia đình là nền tảng của xã hội. Tuy nhiên, không phải quốc gia nào, giai cấp cầm quyền nào cũng nhận thức được như vậy. Qua hơn 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu và toàn cầu hóa hiện nay, Đảng ta càng nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò của gia đình với tư cách là “tế bào” vững chắc của xã hội, là môi trường lành mạnh để xây dựng nguồn lực con người; coi xây dựng gia đình văn hóa là một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020. Với tinh thần, nhận thức và biện pháp đó, chúng ta hy vọng trong thời gian tới vị trí, vai trò của gia đình ngày càng được khẳng định và các gia đình Việt Nam ngày càng “khỏe mạnh” hơn để giữ vững nền tảng xã hội, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo đà cho Việt Nam “cất cánh” nhanh và bền vững.
___________
(1), (2), (3), (4), (5), (6), (7), (8), (9): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 77, 76 - 77, 223, 76, 231, 243.
Trụ sở: 1A Hùng Vương, Ba Đình, Hà Nội
Email:congdcsvn@vptw.dcs.vn