Năm năm qua, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX lãnh đạo thực hiện Cương lĩnh, Điều lệ và Nghị quyết Đại hội IX của Đảng trong tình hình đất nước đã trải qua 15 năm đổi mới và đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bên cạnh những thuận lợi là cơ bản, chúng ta cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức lớn của tình hình trong nước, khu vực và quốc tế, đặt ra yêu cầu mới đối với sự lãnh đạo của Đảng.
Sau Đại hội IX, Ban Bí thư Trung ương Đảng được lập lại; tiếp đó Quốc hội và Chính phủ cũng được kiện toàn sau cuộc bầu cử Quốc hội khoá XI.
Trong bối cảnh đó, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã kiên định đường lối đổi mới, lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vượt qua khó khăn, thử thách, giành được nhiều thành tựu rất quan trọng, đồng thời cũng còn một số mặt hạn chế, khuyết điểm như đã nêu trong Báo cáo chính trị và các văn kiện khác trình Đại hội X. Dưới đây, Ban Chấp hành Trung ương, bao gồm cả Bộ Chính trị, Ban Bí thư, xin kiểm điểm cụ thể sự lãnh đạo, chỉ đạo trong nhiệm kỳ khoá IX trước Đại hội như sau:
A- KIỂM ĐIỂM NỘI DUNG LÃNH ĐẠO, CHỈ ĐẠO CỦA BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG, BỘ CHÍNH TRỊ, BAN BÍ THƯ
I- BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
Theo Chương trình công tác toàn khoá, Ban Chấp hành Trung ương khoá IX đã họp 15 hội nghị Trung ương để triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội IX và chuẩn bị Đại hội X của Đảng.
1. Ưu điểm
Ban Chấp hành Trung ương là một tập thể đoàn kết, thống nhất, kiên định đường lối đổi mới, giữ vững nguyên tắc, đề cao dân chủ, đã bám sát và sớm cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội IX, giải quyết đúng đắn nhiều vấn đề cơ bản, cấp bách của đất nước, coi trọng công tác kiểm tra, tổng kết tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội, các nghị quyết của Trung ương, đưa sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong nhiệm kỳ qua đạt được những thành tựu rất quan trọng.
- Về cụ thể hoá và lãnh đạo triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội IX
Nhằm phấn đấu đạt các mục tiêu của Đại hội về phát triển kinh tế - xã hội, ngay từ đầu nhiệm kỳ, các hội nghị Trung ương 3, 4, 5, 6 đãcụ thể hoá quan điểm phát triển kinh tế- xã hội của Nghị quyết Đại hội IX về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước; định hướng và chỉ đạo phát triển kinh tế tập thể; khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển; đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 - 2010; đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai... Đồng thời, Ban Chấp hành Trung ương đã đánh giá sát diễn biến tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, đề ra các chủ trương, chính sách, giải pháp đúng đắn về phát huy nội lực, cải thiện môi trường đầu tư, hạn chế những tác động không thuận của giá cả, thời tiết, dịch bệnh... Trước những khó khăn qua hơn hai năm đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội, Hội nghị Trung ương 9 quyết định không điều chỉnh hạ thấp chỉ tiêu phát triển, vẫn kiên trì quyết tâm phấn đấu hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội của cả nhiệm kỳ. Nhờ những chủ trương đúng đắn của Ban Chấp hành Trung ương, sự đổi mới hoạt động của Quốc hội, sự điều hành năng động và có hiệu quả của Chính phủ, sự nỗ lực chung của các cấp, các ngành và của toàn dân, về cơ bản các mục tiêu kinh tế - xã hội của kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 theo Nghị quyết Đại hội IX đã được hoàn thành và hoàn thành vượt mức.
Nhằm thực hiện chủ trương xem phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, Ban Chấp hành Trung ương đã tổng kết, đánh giá việc tổ chức thực hiện các lĩnh vực này; trên cơ sở đó đề ra phương hướng và những giải pháp cụ thể về đổi mới cơ chế quản lý, đẩy mạnh đầu tư và thực hiện xã hội hoá, nhằm tạo điều kiện cho giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ phát triển, để đến năm 2010, một số mặt đạt trình độ tiên tiến so với các nước trong khu vực.
Ban Chấp hành Trung ương đã kiểm điểm sâu sắc việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII về “xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển một số quan điểm và nhận thức mới về văn hoá, khẳng định phát triển văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội; làm rõ nội dung, yêu cầu văn hoá trong lãnh đạo, quản lý kinh tế... nhằm làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đẩy mạnh xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Về quốc phòng và an ninh, Ban Chấp hành Trung ương đã chủ động bàn và ra nghị quyết chuyên đề về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, thể hiện rõ tư duy mới của Đảng ta về bảo vệ Tổ quốc, xác định quan điểm đặt lơi ích cao nhất của đất nước là giữ vững độc lập chủ quyền và môi trường hoà bình, ổn định để phát triển, xác định đúng đắn đối tác, đối tượng trong quan hệ quốc tế. Trên cơ sở đó, tạo sự thống nhất cao về đánh giá tình hình, quan điểm, nhiệm vụ, phương hướng giải quyết các vấn đề quốc phòng, an ninh, đối ngoại trong giai đoạn mới, xử lý đúng đắn những vấn đề cụ thể nảy sinh trên từng địa bàn và trong từng lĩnh vực.
Để tăng cường lãnh đạo, tạochuyển biến trong công tác dân vận của Đảng, Hội nghị Trung ưoơg 7 đã bàn và ra ba nghị quyết quan trọng, làm sáng tỏ quan điểm, chính sách của Đảng về đại đoàn kết toàn dân, về công tác dân tộc, công tác tôn giáo, tạo cơ sở để xử lý đúng đắn những vấn đề nhạy cảm về dân tộc và tôn giáo, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường sự đồng thuận của toàn xã hội trong giai đoạn mới.
Tiếp tục lãnh đạo việc đổi mới, kiện toàn tổ chức, cán bộ trong hệ thống chính trị, nhất là nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của tổ chức bộ máy nhà nước, Ban Chấp hành Trung ương đã lãnh đạo chặt chẽ việc sửa đổi, bôổ sung Hiến pháp 1992, đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan tư pháp. Lần đầu tiên, Ban Chấp hành Trung ương bàn và ra nghị quyết về kiện toàn hệ thống chính trị ở cơ sở; xác định chủ trương, giải pháp thiết thực để xây dựng hệ thống chính trị ở xã, phường, thị trấn, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới.
Ban chấp hành Trung ương đã chú trọng toàn diện hơn công tác xây dựng Đảng, có nhiều chủ trương, quyết sách lớn cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ và kiểm tra. Trung ương đã thảo luận, đề ra nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng lý luận trong tình hình mới,
Có chủ trương để Bộ Chính trị chỉ đạo đấu tranh bác bỏ các quan điểm, tư tưởng sai trái trong Đảng và ngoài xã hội. Đã chỉ đạo chặt chẽ việc nghiên cứu có hệ thống các thông tin về xuất xứ và quá trình xử lý một số vụ việc xảy ra trong nội bộ Đảng từ các nhiệm kỳ trước. Trên cơ sở đó đã thống nhất cao không đặt vấn đề xem xét những vụ việc đã được xử lý nếu không có tình tiết mới làm thay đổi bản chất của sự việc; tạo cơ sở để giải đáp một số thắc mắc và ổn định tư tưởng trong nội bộ Đảng, tập trung lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và chuẩn bị Đại Hội X của Đảng. Thông qua chủ trương tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII, Ban Chấp hành Trung ương đã thể hiện quyết tâm chính trị đẩy mạnh cuộc đấu tranhchống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, nghiêm khắc xem xét và thi hành kỷ luật cán bộ do Trung ương quản lý về trách nhiệm đối với các vụ việc tiêu cực có liên quan (hai Uỷ viên Trung ương và nhiều cán bộ cao cấp bị truy cứu trách nhiệm hình sự), đã có tác dụng nhất định răn đe, ngăn ngừa, kiềm chế tình trạng tha hoá, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên.
- Về lãnh đạo, chỉ đạo chuẩn bị Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng
Ban Chấp hành Trung ương, với tinh thần trách nhiệm cao, đã dành nhiều thời gian, công sức cho việc chuẩn bị Đại hội X của Đảng (kể từ Hội nghị Trung ương 10, tháng 7-2004). Việc chuẩn bị văn kiện và nhân sự cho Đại hội đã được chỉ đạo theo chương trình, kế hoạch chặt chẽ, thống nhất, nghiêm túc với tinh thần đổi mới. Các văn kiện trình Đại hội X được xây dựng trên cơ sở tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX, kết quả Tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới. Đây là cuộc tổng kết có quy mô lớn, quan trọng, nội dung phong phú; vừa đánh giá toàn diện chặng đường đổi mới đã qua, vừa từng bước hình thành cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến hầu hết các vấn đề về quan điểm, đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Các văn kiện đã được chuẩn bị công phu, tập hợp được ý kiến đóng góp rộng rãi của đại hội đảng bộ các cấp, của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, đại biểu Quốc hội, cán bộ, đảng viên, nhân dân trong cả nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Qua nhiều lần bổ sung, sửa đổi, các văn kiện đã được hoàn chỉnh, là kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân.
Công tác giới thiệu, chuẩn bị nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khoá X được thực hiện đúng nguyên tắc, tiến hành chặt chẽ qua từng bước, có đổi mới, mở rộng dân chủ trong Đảng, đề cao tinh thần trách nhiệm của tập thể Ban Chấp hành Trung ương, từng đồng chí Uỷ viên Trung ương, các cấp uỷ và đảng viên; tạo sự nhất trí cao, bảo đảm đoàn kết, thống nhất trong Đảng.
2. Khuyết điểm
Ban Chấp hành Trung ương chậm bàn hoặc bàn chưa triệt để một số vấn đề quan trọng đã nêu ra từ nhiều nhiệm kỳ Đại hội. Do vậy, trên một sô lĩnh vực chưa thực sự có bước tiến quan trọng mới về nhận thức và hành động thực tiễn so với trước Đại hội IX, như các vấn đề về xây dựng giai cấp công nhân, liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức trong giai đoạn mới, về cải cách hành chính, về sở hữu và thành phần kinh tế, về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng..., làm hạn chế việc phát huy các nguồn lực của đất nước để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng quan hệ sản xuất mới và hoàn thiện thể chế chính trị.
Nghị quyết của Trung ương nhiều, nhưng việc tổ chức thực hiện, kiểm tra, tổng kết chưa kịp thời và phù hợp. Một số chủ trương lớn còn chưa thật rõ, thật sát với cuộc sống (như về phát triển kinh tế tập thể; về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn; về đổi mới cơ chế quản lý và cung ứng dịch vụ công cộng; về chủ trương công chức hoá một số chức danh cán bộ cơ sở...). Vì vậy, các chủ trương này, khó đi vào cuộc sống, nhiều việc triển khai chậm, hoặc không triển khai được, hiệu quả thấp, chưa thực sự tạo ra được những chuyển biến tích cực trong thực tiễn.
Lãnh đạo cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực chưa đạt được yêu cầu, đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới và của xã hội; chủ trương, biện pháp đề ra, nhất là những quyết sách để lãnh đạo, đôn đốc, kiểm tra còn chưa đủ mạnh, đồng bộ, kịp thời, chưa tạo được bước chuyển rõ rệt trong nhiệm vụ quan trọng này.
3. Đối với các đồng chí Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Ưu điểm:
Nhìn chung, các đồng chí Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương khoá IX có lập trường tư tưởng vững vàng, có tinh thần trách nhiệm, có tư duy đổi mới, sáng tạo, trình độ học vấn và chuyên môn, nghiệp vụ tương đối cao, có phẩm chất đạo đức tốt, tiêu biểu cho trí tuệ, phẩm chất đạo đức của toàn Đảng. Hầu hết các đồng chí, với cương vị là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các địa phương, các ngành, đã thể hiện được bản lĩnh chính trị vững vàng, ý thức tổ chức kỷ luật, chấp hành tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, có tinh thần đoàn kết, tự phê bình và phê bình; đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, chống lại các quan điểm sai trái, thù địch.
Nhiều đồng chí có tư duy chiến lược, có năng lực lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng, kiên định về nguyên tắc, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị, tạo được sự phát triển của ngành, địa phương do mình phụ trách.
Nhiều đồng chí có phong cách làm việc khoa học, phát huy dân chủ, tôn trọng tập thể, bám sát thực tiễn, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân và tạo điều kiện để nhân dân tham gia xây dựng các chủ trương, quyết sách quan trọng của cấp uỷ đảng, chính quyền; chú trọng kiểm tra, giám sát, chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ, hoặc chủ quan, nóng vội; coi trọng tổng kết thực tiễn, phát hiện, ủng hộ và nhân rộng những nhân tố mới.
Khuyết điểm:
Một số đồng chí Uỷ viên Trung ương chưa thật sự chủ động trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ, nhất là tham gia vào sự lãnh đạo tập thể của Ban Chấp hành Trung ương (ít đề xuất, kiến nghị những vấn đề quan trọng, bức xúc của đất nước trong quá trình đảm đương cương vị công tác được giao hoặc trong các kỳ họp Trung ương). Một số đồng chí chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm ở vị trí công tác, chưa thật sự tích cực, chủ động, sáng tạo trong việc truyền đạt và lãnh đạo triển khai thực hiện nghị quyết của Trung ương. Nhiều đồng chí chưa định kỳ báo cáo kết quả công tác và những vấn đề nổi lên trong lãnh đạo, chỉ đạo thuộc lĩnh vực mình phụ trách để đề xuất với Bộ Chính trị.
Có đồng chí chưa đáp ứng được yêu cầu lãnh đạo ngành và địa phương mình phụ trách; còn để công việc trì trệ hoặc để xảy ra một số vụ việc tiêu cực nổi cộm, gây dư luận không tốt, ảnh hưởng xấu đến uy tín của Đảng. Có đồng chí thiếu gương mẫu về đạo đức cối sống, bản thân hoặc để vợ, con, cấp dưới lợi dụng chức quyền thu vén lợi ích cá nhân, thậm chí có trường hợp vi phạm pháp luật nghiêm trọng.
II- BỘ CHÍNH TRỊ
1. Ưu điểm
Bộ Chính trị là một tập thể đoàn kết, có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định đường lối đổi mới trên cơ sở Cương lĩnh và Nghị quyết Đại hội IX, đã chỉ đạo chuẩn bị tốt các đề án trình Trung ương, góp phần quan trọng để Ban Chấp hành Trung ương hoàn thành chương trình làm việc toàn khoá, phù hợp vời yêu cầu, nhiệm vụ của Đảng, của đất nước. Bộ Chính trị luôn kiên định trên những vấn đề về nguyên tắc, bám sát thực tiễn, tìm tòi, sáng tạo, bàn và quyết định theo thẩm quyền nhiều vấn đề quan trọng, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng trên mọi lĩnh vực; đồng thời, giải quyết linh hoạt, đúng đắn, kịp thời nhiều vấn đề cụ thể phức tạp nảy sinh. Nhìn chung, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị trong nhiệm kỳ qua trên các lĩnh vực là đúng đắn và có hiệu quả; cụ thể là:
Đã chủ động lựa chọn, chuẩn bị để Ban Chấp hành Trung ương cụ thể hoá sớm Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, từ đó tạo sự thống nhất cao về nhận thức, quan điểm, đường lối đổi mới làm cho nhiều nghị quyết nhanh chóng đi vào cuộc sống.
Nhiều đề án đã được chỉ đạo chuẩn bị để trình Trung ương có chất lượng tốt, phản ánh đúng tình hình thực tiễn, cụ thể hoá, phát triển quan điểm Đại hội IX với những tư duy mới, góp phần tạo nên sự thống nhất cao trên một số vấn đề lâu nay còn có ý kiến khác nhau (sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước; phát triển kinh tế tư nhân; cải cách tư pháp; kiện toàn hệ thống chính trị ở cơ sở; chính sách tôn giáo...)
Quán triệt việc lãnh đạo phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; gắn phát triển kinh tế với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc, góp phần tạo nên kết quả quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu kế hoạch kinh tế - xã hội hằng năm và 5 năm 200l - 2005.
Đã coi trọng và tập trung chỉ đạo xây dựng chiến lược phát triển một số vùng, ngành và lĩnh vực quan trọng; xác định phương hướng, giải pháp để các vùng, ngành và địa bàn trọng điểm phát huy tiềm năng, thế mạnh trong chiến lược phát triển chung của đất nước.
Đã chú ý những vấn đề xã hội bức xúc, coi trọng hơn nhiệm vụ phát triển văn hoá. Trước những yếu kém, bất cập trong công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân, sự gia tăng dân số trở lại, tình hình xây nhiễm HIV/AIDS và sự xuống cấp nhanh của môi trường tự nhiên, Bộ Chính trị đã dành thời gian bàn và ra nghị quyết về các vấn đề này. Đã lãnh đạo thực hiện đúng chủ trương của Trung ương về tăng mức đầu tư cho giáo dục; tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các chủ trương về xoá đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm, khắc phục hậu quả thiên tai, tăng cường y tế cơ sở và phòng chống dịch bệnh, phát triển thể dục thể thao... Một số chủ trương đạt kết quả tốt, được quốc tế đánh giá cao.
Đã chỉ đạo chặt chẽ và thường xuyên nhiệm vụ quốc phòng - an ninh; bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với các lực lượng vũ trang nhân dân.
Chỉ đạo quán triệt, triển khai có kết quả bước đầu Nghị quyết Trung ương 8 khoá IX về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là chỉ đạo vận dụng đúng đắn chủ trương, quan điểm mới của Trung ương về đối tác, đối tượng tương quan hệ quốc tế nhằm giữ vững môi trường hoà bình, ổn định vì sự phát triển của đất nước.
Đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng và củng cố lực lượng Quân đội, Công an, như hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính uỷ, chính trị viên trong Quân đội; về nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác công an; về tổ chức Bộ đội biên phòng và củng cố lực lương tình báo chiến lược...
Kịp thời có chủ trương và giải pháp về bảo đảm an ninh - quốc phòng cho các vùng Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và Tây Bắc; xử lý đúng nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh ở một số địa phương và địa bàn trọng điểm về an ninh quốc gia, về tôn giáo, dân tộc; khắc phục hậu quả cuộc bạo loạn tháng 2-2001 và làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch trong cuộc bạo loạn chính trị tháng 4-2004 ở Tây Nguyên, đưa địa bàn Tây Nguyên dần dần ổn định trở lại.
Kiên định chủ trương và nguyên tắc về việc giải quyết vụ “T4” và một số vụ việc liên quan đến nội bộ Đảng, trên cơ sở đó đã trình Trung ương ở ba Hội nghị 10, 11 và 12 khoá IX, được Ban Chấp hành Trung ương tán thành và thống nhất cao.
Đã lãnh đạo, chỉ đạo tăng cường công tác đối ngoại, mở rộng hoạt động đối ngoại Nhà nước, đối ngoại của Đảng và đối ngoại nhân dân, đạt được kêu quả nổi bật.
Nắm vững đường lối độc lập, tự chủ, chính sách đa dạng hoá, đa phương hoá trong quan hệ quốc tế, Bộ Chính trị đã kịp thời đánh giá đúng đắn các sự kiện quốc tế phức tạp (vụ khủng bố 11-9-2001 ở Mỹ, chiến tranh Ápganixtan, chiến tranh Irắc...); đề ra những chủ trương, đối sách phù hợp. Đã chỉ đạo củng cố, giữ vững quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước láng giềng, tăng cường quan hệ với ASEAN; phát triển quan hệ đối với một số nước lớn, với một số nước đối tác chiến lược và giải quyết những vấn đề cần thiết trong quan hệ song phương; đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Chỉ đạo tiếp tục ký kết và triển khai thực hiện những hiệp định quan trọng về biên giới với các nước láng giềng, đặt cơ sở pháp lý vững chắc cho việc xây dựng đường biên giới hoà bình, hữu nghị, ổn định lâu dài; tham gia xây dựng Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông; quyết định chủ trương, chủ động xử lý đúng đắn nhiều vấn đề nhạy cảm về đối ngoại (đàm phán gia nhập WTO, mở rộng ASEM, về thoả thuận với Trung Quốc và Philíppin thăm dò địa chấn trên Biển Đông...).
Đã coi trọng chỉ đạo để nước ta chủ động tham gia tích cực các tổ chức và diễn đàn quốc tế, khu vực; chỉ đạo tổ chức thành công nhiều hội nghị và diễn đàn quốc tế, khu vực, nhất là tổ chức thành công Hội nghị ASEM-5, tích cực chuẩn bị Hội nghị cấp cao APEC tổ chức tại Hà Nội.
Đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác vận động quần chúng, tạo được những chuyển biến mới, quan trọng.
Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổng kết, đánh giá việc tổ chức thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo; chỉ đạo đổi mới tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; xác định rõ và hợp lý hơn chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức và mối quan hệ phối hợp, giúp cho các tổ chức nói trên chủ động hơn trong việc tập hợp lực lượng, thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị, tham gia góp ý kiến và công tác quản lý nhà nước, quản lý xã hội và công tác xây dựng Đảng.
Đã ra nghị quyết về công tác người Việt Nam định cư ở nước ngoài, làm cho kiều bào và cộng đồng thế giới hiểu rõ chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta đối với người Việt Nam sống xa Tổ quốc, động viên, khuyến khích kiều bào tham gia, đóng góp và công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước; đồng thời coi trọng bảo vệ lợi ích chính đáng, tạo điều kiện để kiều bào yên tâm sinh sống, làm ăn ở các nước sở tại.
Lãnh đạo việc đổi mới nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan tư pháp theo hướng phân định rõ hơn về chức năng, nhiệm vụ, tăng cường trách nhiệm, phù hớp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vĩ nhân dân.
Đã ra các nghị quyết về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”, về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, nhằm hoạch định hệ thống pháp luật đồng bộ, khả thi, công khai, minh bạch, phù hợp với tình hình mới; cải cách tư pháp theo hướng đề cao dân chủ, công khai, khách quan, nghiêm minh, nâng cao chất lượng điều tra, truy tố, xét xử, khắc phục tình trạng oan, sai.
Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị đối với các cơ quan nhà nước vừa giữ vững nguyên tắc, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, vừa tạo sự chủ động hơn cho các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình.
Đã dành nhiều thời gian, công sức lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, tạo được một số chuyển biến, tiến bộ nhất định.
Tập trung chỉ đạo có kết quả hơn một số mặt trăng công tác tư tưởng, lý luận, nhất là việc tổng kết lý luận và thực tiễn 20, năm đổi mới, làm sáng tỏ hơn một số vấn đề cơ bản về đường lối đổi mới và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Bàn và quyết định một số chủ trương về tăng cường công tác tư tưởng, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực báo chí, bảo vệ bí mật của Đảng và Nhà nước trong thời gian tới; chỉ đạo đẩy mạnh nghiên cứu, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh; đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước gắn với tổ chức kỷ niệm những ngày lễ lớn trong hai năm 2004 - 2005... Qua đó, uốn nắn những quan điểm, nhận thức lệch lạc, tạo không khí phấn khởi, tin tưởng trong xã hội.
Trong công tác cán bộ, Bộ Chính trị đã tăng cường chỉ đạo tương đối đồng bộ cả về quan điểm, chủ trương và giải pháp, có đổi mới, cải tiến về cách làm, bước đầu mang lại kết quả. Đã quyết định theo thẩm quyền nhiều trường hợp về sắp xếp, luân chuyển, bổ nhiệm cán bộ theo đúng quy chế, quy trình và về cơ bản phù hợp yêu cầu; chỉ đạo rà soát và ra quyết định bổ sung, sửa đổi chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của các ban đảng ở Trung ương.
Tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII và Kết luận Hội nghị Trung ương 4 khoá IX, đưa công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đi vào thường xuyên và chặt chẽ hơn. Đã chú trọng công tác kiểm tra, có định hướng, chương trình và kế hoạch đối với một số lĩnh vực trọng tâm (công tác cán bộ, đầu tư xây dựng cơ bản và quản lý đất đai...). Thông qua cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng và công tác kiểm tra đã phát hiện được nhiều vụ việc tiêu cực, tham nhũng; xử lý một số cá nhân và tập thể có vi phạm theo đúng thẩm quyền, thể hiện sự nghiêm minh trong công tác kỷ luật Đảng.
2. Khuyết điểm
Những thiếu sót, khuyết điểm của Ban Chấp hành Trung ương trong việc chậm bàn hoặc bàn chưa triệt để một số vấn đề quan trọng nêu ra từ nhiều nhiệm kỳ đại hội có trách nhiệm của Bộ Chính trị, với tư cách là cơ quan chủ trì chuẩn bị nội dung cho Ban Chấp hành Trung ương bàn và quyết định.
Trong lãnh đạo kinh tế, chưa tập trung chỉ đạo khắc phục có hiệu quả một số vấn đề yếu kém, nổi cộm, làm giảm lòng tin của nhân dân(vấn đề đầu tư dàn trải, tiến độ chậm, thất thoát, lãng phí và nợ đọng trong xây dựng cơ bản; lãng phí, tiêu cực trong quản lý đất đai, thu, chi ngân sách...). Việc chỉ đạo phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế trong điều kiện đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, tuy có cố gắng, nhưng cũng bộc lộ không ít thiếu sót, khuyết điểm, như có một thời gian, để chậm tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước; chậm định hướng và tạo điều kiện để các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh và tham gia hội nhập; chưa có giải pháp quyết liệt trong chỉ đạo phát triển kinh tế tập thể... Thời kỳ đầu nhiệm kỳ, chưa tập trung lãnh đạo, chỉ đạo đồng bộ việc đàm phán gia nhập WTO.
Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị trên lĩnh vực văn hoá, xã hội, nhìn chung chưa đủ mức, nên nhìn toàn cục kinh tế có bước phát triển, nhưng một số lĩnh vực văn hoá, xã hội tiến bộ chậm và còn nhiều vấn đề tồn tại, bức xúc kéo dài, gây lo lắng, bất bình trong xã hội(tình trạng tham ô, lãng phí, nhũng nhiễu dân của các cơ quan công quyền; yếu kém trong giáo dục và đào tạo, y tế, văn hoá; việc tăng dân số không bình thường; sự gia tăng tệ nạn ma tuý mại dâm và tai nạn giao thông trong những năm gần đây . . . ), làm hạn chế ý nghĩa của những thành tựu đạt được trong sự nghiệp đổi mới và ảnh hưởng đến tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trong lãnh đạo, chỉ đạo về quốc phòng - an ninh, đối ngoại, có lĩnh vực chậm xây dựng quy chế cụ thể về thẩm quyền và trách nhiệm, chưa nắm chắc tình hình, dẫn đến có lúc, có việc còn bị động.
Việc giáo dục ý thức cảnh giác cách mạng chưa được thường xuyên coi trọng. Công tác nắm và dự báo tình hình ở những địa bàn trọng điểm có lúc còn chưa nhanh nhạy và chưa sát. Vì vậy, còn để xảy ra tình trạng bị động trong việc bảo đảm an ninh quốc gia (nhất là để xảy ra cuộc bạo loạn chính trị lần thứ hai ở Tây Nguyên). Tuy đã tập trung đầu tư và bỏ ra nhiều công sức, nhưng nhìn chung, tình hình ở Tây Nguyên và một số vùng trọng điểm khác chưa tạo được những chuyển biến căn bản, vững chắc.
Chậm chỉ đạo khắc phục kịp thời những yếu kém trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng và công tác cán bộ của ngành Công an; đã để xảy ra một số trường hợp sai sót trong công tác đề bạt, bố trí cán bộ và tình trạng nhiều cán bộ vi phạm nghiêm trọng kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước, làm giảm uy tín đối với nhân dân. Chậm bổ sung, kiện toàn cán bộ lãnh đạo công tác đớn ngoại.
Có lúc chưa phát hiện kịp thời và chủ động xử lý những vấn đề phát sinh trong quan hệ đối với các nước, nhất là với các nước lớn. Chưa chủ động chỉ đạo để có phương án tổng thể, biện pháp hữu hiệu chống lại các thế lực thù địch sử dụng chiêu bài “dân chủ, nhân quyền, tôn giáo” chống phá nước ta. Công tác tuyên truyền đối ngoại còn nhiều yếu kém.
Sự lãnh đạo cải cách tổ chức, đổi mới hoạt động của các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân vẫn còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu của tiến trình đổi mới. Cho đến nay, vẫn chưa cụ thể hoá thật rõ một số vấn đề trong thiết chế của hệ thống chính trị, như xây dựng Nhà nước pháp quyền trong điều kiện một đảng lãnh đạo, mở rộng dân chủ, hội nhập quốc tế, về thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ trong một số lĩnh vực, về quyền hạn và trách nhiệm của tập thể và cá nhân người đứng đầu… Chưa quan tâm lãnh đạo đúng mức công tác cải cách hành chính. Hiệu quả cải cách hành chính còn hạn chế cả về thể chế, tổ chức bộ máy và chất lượng đội ngũ cán bộ. Tổ chức bộ máy, biên chế của nhiều cơ quan, ban, ngành có xu hướng tăng lên, nhưng chưa được phân tích, đánh giá, kết luận và chỉ đạo kiên quyết theo yêu cầu của Nghị quyết Trung ương 7 khoá VIII.
Một số vấn đề lý luận cơ bản trong quá trình đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta chưa được chỉ đạo nghiên cứu làm rõ. Do đó, còn có nhận thức khác nhau, làm ảnh hưởng nhất định đến sự thống nhất tư tưởng, hành động trong Đảng. Bộ Chính trị chưa thực hiện được chương trình nghe báo cáo, học tập, nghiên cứu các chuyên đề về lý luận và thực tiễn.
Tuy đã quan tâm hơn và có nhiều cố gắng, nhưng xét về tổng thể, Bộ Chính bị chưa lãnh đạo, chỉ đạo cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng đạt được những chuyển biến căn bản, đáp ứng được đòi hỏi bức xúc của tình hình.
Việc kiện toàn nhân sự chủ chốt và xử lý kỷ luật cán bộ ở một số địa phương và cơ quan Trung ương chưa kịp thời, thiếu kiên quyết, có ảnh hưởng nhất định đến việc thực hiện nhiệm vụ trước mắt và việc chuẩn bị cho nhiệm kỳ tới.
Việc lãnh đạo cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực còn nhiều hạn chế, chưa có giải pháp tổng thể, mạnh mẽ, quyết liệt, phối hợp đồng bộ các mặt hoạt động, phát huy được sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và của cả xã hội để làm chuyển biến tình hình như mục tiêu đã đề ra.
III BAN BÍ THƯ
1. Ưu điểm
Ban Bí thư đã bám sát chức năng, nhiệm vụ đã được quy định trong Điều lệ Đảng và Quy chế làm việc, cùng với việc tham gia một số sinh hoạt của Bộ Chính trị, đã lãnh đạo, chỉ đạo và giải quyết kịp thời, đúng đắn công việc hằng ngày của Đảng theo thẩm quyền; chỉ đạo phối hợp các hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị, xử lý và giải quyết đúng đắn nhiều vấn đề phức tạp mới nảy sinh về đối ngoại, an ninh, quốc phòng và xây dựng Đảng.
Ban Bí thư đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng Đảng, góp phần tạo được những chuyển biến, tiến bộ nhất định trong một số lĩnh vực của nhiệm vụ then chốt này.
Đã tiếp tục đổi mới cách quán triệt, tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng theo hướng thiết thực, hiệu quả. Tăng cường chỉ đạo quản lý báo chí, xuất bản, thực hiện có nền nếp công tác thông tin, thông báo tình hình trong nước, ngoài nước và công việc của Trung ương cho các đồng chí Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương và các cấp uỷ trực thuộc.
Đã xem xét và quyết định cơ bản chính xác, đúng quy định các trường hợp nhân sự thuộc thẩm quyền; chỉ đạo thực hiện nghiêm hơn chế độ nghỉ hưu đối với cán bộ lãnh đạo cao tuổi thuộc diện Ban Bí thư quản lý.
Đã chỉ đạo xây dựng và ban hành nhiều quy định về chức năng, nhiệm vụ của các loại hình tổ chức cơ sở Đảng; ban hành đồng bộ các quy định của Đảng về một số vấn đề có tính đặc thù.
Chủ động định hướng hoạt động của công tác bảo vệ chính trị nội bộ phù hợp với tình hình mới, góp phần nâng cao chất lượng công tác cán bộ, đảm bảo an ninh nội bộ.
Hướng dẫn về nhiệm vụ và quan hệ công tác của bộ phận thường trực tỉnh uỷ, thành uỷ, tạo điều kiện và góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tăng cường đoàn kết nội bộ của các cấp uỷ địa phương.
Coi trọng chỉ đạo thực hiện việc tự phê bình và phê bình hằng năm đối với các cấp uỷ và tổ chức đảng trực thuộc, đưa công tác này trở thành thường xuyên, dần dần đi vào nền nếp; đồng thời, chỉ đạo các ban Trung ương Đảng chủ động nắm chắc tình hình để gợi ý kiểm điểm đối với một số cá nhân, tổ chức đảng trực thuộc.
Đã tăng cường chỉ đạo công tác kiểm tra, tập trung vào những vấn đề trọng tâm, trọng điểm, những lĩnh vực, đia bàn có vấn đề phức tạp.Qua kiểm tra, đã phát hiện và chỉ đạo xử lý kịp thời, nghiêm minh đối với một số tổ chức đảng, một số cán bộ mắc sai phạm và kiến nghị với Chính phủ một số vấn đề cần thiết trong chỉ đạo, điều hành.
Đã chỉ đạo, tạo được một số chuyển biến tích cực trong công tác quần chúng, việc thực hiện dân chủ trong Đảng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân và thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc.
Chỉ đạo tổng kết thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng về công tác quần chúng (Chỉ thị 37 về công tác cán bộ nữ, Chỉ thị 30 về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, chủ trương của Bộ Chính trị khoá VIII về công tác đối với đạo Tin Lành...). Chỉ đạo công tác dân vận ở Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây Bắc và một số tỉnh miền Trung có những diễn biến phức tạp mới nảy sinh về các vấn đề dân tộc, tôn giáo. Chỉ đạo thành công Đại hội VI Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đại hội của các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp khác.
Đã thường xuyên chỉ đạo giải quyết tình hình khiếu kiện đông người vượt cấp, góp phần tạo được chuyển biến bước đầu về vấn đề này, giải toả được nhiều “điểm nóng” kéo dài đã lâu.
Trên cơ sở chủ trương của Bộ Chính trị, đã chỉ đạo xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc; đấu tranh, xử lý, ngăn chặn hoạt động lợi dụng các vấn đề tôn giáo, dân tộc để gây rối, tạo cớ chống chế độ, chống Đảng và Nhà nước ta.
Tăng cường chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại, chủ động hơn trong công tác thông tin để cộng đồng quốc tế, nhất là các nước láng giềng, các nước lớn, các tổ chức quốc tế hiểu đúng về tình hình đất nước ta cũng như các chủ trương, chính sách lớn của Đảng, Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay.
2. Khuyết điểm
Chỉ đạo công tác giáo dục chính trị tư tưởng nhiều lúc còn kém nhạy bén, không kịp thời; còn thiếu những hình thức sinh động, có sức thuyết phục, có hiệu quả cao để giải đáp những băn khoăn, vướng mắc, mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình đổi mới, xây dựng và củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là đối với thanh niên.
Chậm chỉ đạo, định hướng nhận thức trước những diễn biến phức tạp của tình hình tư tưởng, cũng như trước những vụ việc lớn. Đấu tranh bác bỏ các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc của các phần tử cơ hội và các thế lực thù địch còn thiếu chủ động và sắc bén, nhất là ở cơ sở và trên mạng thông tin điện tử. Việc chỉ đạo bác bỏ những thông tin thất thiệt, có hại, phân tích, phản bác những ý kiến và quan điểm sai trái cũng như uốn nắn những biểu hiện lệch lạc trong hoạt động báo chí, xuất bản còn chậm; chưa có đối sách thích hợp để quản lý mạng Intemet, trong khi các phần tử xấu đang lợi dụng phương tiện này để chống phá ta rất quyết liệt.
Chưa chỉ đạo nghiên cứu làm rõ mô hình và đề xuất bổ sung, sửa đổi chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ của các đảng đoàn, ban cán sự đảng trong hệ thống các cơ quan nhà nước, nhất là trong các cơ quan hành pháp. Chưa quan tâm đúng mức việc kiện toàn các ban Trung ương Đảng và đảng uỷ khối các cơ quan Trung ương về tổ chức, bộ máy và đội ngũ cán bộ tương xứng với vai trò, vị trí và yêu cầu nhiệm vụ của các cơ quan này trong tình hình mới.
Việc chỉ đạo thể chế hoá một số quan điểm, chủ trương của Đảng về các vấn đề dân tộc, tôn giáo thành pháp luật, chính sách của Nhà nước còn chậm so với đòi hỏi bức xúc của thực tiễn, dẫn đến việc thực thi ở địa phương, cơ sở còn nhiều vướng mắc. Nội dung và phương pháp vận động quần chúng, nắm tình hình nhân dân chưa tốt, nhất là trên một số địa bàn trọng yếu.
Chỉ đạo công tác kiểm tra chưa thật toàn diện, kiên quyết; chất lượng, hiệu quả chương trình kiểm tra hàng năm còn thấp; chỉ đạo xử lý những sai phạm được phát hiện qua kiểm tra vẫn chưa thật kịp thời, dứt khoát.
Công tác bảo vệ chính trị nội bộ còn nhiều hạn chế, nhất là trong việc chỉ đạo xem xét, giải quyết những vấn đề chính trị hiện nay của cán bộ; chậm bổ sung và sửa đổi một số điểm không còn phù hợp trong Quy định 75-QĐ/TW về công tác bảo vệ chính trị nội bộ.
Cơ chế về phân công và trách nhiệm giải quyết công việc giữa các cơ quan Đảng, Nhà nước chưa đủ rõ dẫn đến có việc xử lý chậm. Chỉ đạo phối hợp giữa các cơ quan, ban, ngành trong khối đối ngoại và giữa khối đối ngoại với các khối an ninh, quốc phòng, kinh tế... trong xử lý một số trường hợp cụ thể chưa thật chặt chẽ, thống nhất.
Chỉ đạo triển khai hoặc kiểm tra việc thực hiện một số chủ trương lớn trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh còn chậm; có lĩnh vực, có việc nắm tình hình chưa sâu, chỉ đạo khắc phục, uốn nắn không kịp thời (vấn đề tổ chức đảng và cán bộ chính trị trong công an; tình trạng lộ bí mật, công khai tán phát tài liệu chống đối và gây rối nội bộ...).
B- KIỂM ĐIỂM VỀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO, PHONG CÁCH VÀ LỀ LỐI LÀM VIỆC
I- BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
1. Ưu điểm
Ban Chấp hành Trung ương đã hoạt động theo đúng quy chế, làm việc theo chương trình toàn khoá. Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương khoá IX có kế thừa các khoá trước và có đổi mới, đã phân định rõ ràng hơn, cụ thể hơn nhiệm vụ, quyền hạn, lề lối làm việc của tổ chức và cơ quan lãnh đạo cấp cao của Đảng. Chương trình làm việc toàn khoá thể hiện sự chỉ đạo toàn diện, nhưng có trọng tâm, trọng điểm; coi trọng hơn việc tổng kết và kiểm tra thực hiện; đồng thời đã được điều chỉnh và bổ sung kịp thời cho phù hợp với tình hình thực tế.
Hoạt động của Ban Chấp hành Trung ương bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ; các vấn đề đều được thảo luận và quyết định theo hướng tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, nhưng không bao biện, làm thay, phát huy vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước, nhưng không làm suy giảm vai trò lãnh đạo của Đảng.
Việc ra nghị quyết bước đầu có sự đổi mới theo hướng ngắn gọn, cụ thể, thiết thực hơn.
Bước đầu đã có đổi mới trong việc huy động trí tuệ của các đồng chí Uỷ viên Trung ương tham gia vào việc chuẩn bị các đề án cho hội nghị Trung ương, tổng kết lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới và chuẩn bị các văn kiện Đại hội X.
2. Khuyết điểm
Nhìn chung, Ban Chấp hành Trung ương chưa đổi mới được nhiều về phương thức lãnh đạo, phong cách và lề lối làm việc. Các hội nghị Trung ương chưa có nhiều cải tiến về tổ chức điều hành; một số phiên họp thảo luận, tranh luận chưa sôi nổi.
Vẫn còn một số nghị quyết, kết luận dài, nội dung trùng lặp vời các văn bản khác. Trung ương ban hành nhiều nghị quyết, nhưng việc chỉ đạo quán triệt chưa đồng bộ; có tình trạng làm lướt, hình thức. Việc chỉ đạo cụ thể hoá và tổ chức thực hiện chưa tương xứng, nên có nhiều nghị quyết có nội dung tốt, nhưng kết quả thực hiện còn hạn chế, chậm đi vào cuộc sống.
Ban Chấp hành Trung ương chưa có nhiều hình thức để phát huy trí tuệ, nâng cao trách nhiệm của các đồng chí Uỷ viên Trung ương đóng góp vào các quyết định quan trọng của Đảng, của đất nước; chưa thực hiện được việc phê bình, chất vấn theo quy chế.
II- BỘ CHÍNH TRỊ, BAN BÍ THƯ
1. Ưu điểm
Về cơ bản, Bộ Chính trị, Ban Bí thư hoạt động đúng quy chế và chương trình làm việc đã đề ra; kịp thời có sự Điều chỉnh chương trình để đáp ứng yêu cầu của diễn biến tình hình trong và ngoài nước; những quyết định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư là đúng thẩm quyền, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
Nhìn chung, hoạt động của Bộ Chính trị đã tập trung vào những vấn đề mang tính chất định hướng ở tầm chiến lược về đường lối, chủ trương, chính sách lớn. Ngày càng phân định rõ hơn những vấn đề mà Bộ Chính trị cần ra quyết định và những vấn đề Nhà nước và các cơ quan chức năng chủ động giải quyết, xử lý. Việc phân công, phân cấp xử lý công việc giữa Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Thường trực Ban Bí thư và các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng phụ trách từng lĩnh vực đã cụ thể hơn.
Phương pháp công tác, lề lối làm việc có cải tiến, có sự đổi mới. Sinh hoạt dân chủ, thẳng thắn, cởi mở, phát biểu ngắn gọn, tỏ rõ chính kiến. Đối với một số đề án, vấn đề quan trọng, phức tạp, Bộ Chính trị đã chỉ đạo lấy ý kiến được nhiều đối tượng trước khi thảo luận, quyết định. Các nghị quyết, kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư có bước cải tiến, thiết thực, ngắn gọn.
Việc lập lại Ban Bí thư đã giúp cho việc xử lý công việc hằng ngày của Đảng được kịp thời hơn, Bộ Chính trị và các đồng chí lãnh đạo chủ chốt có điều kiện, thời gian đầu tư nhiều hơn cho những vấn đề chiến lược. Ban Bí thư đã tạo Điều kiện và phát huy tốt hơn vai trò, trách nhiệm của các cơ quan tham mưu, giúp việc.
Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã dành thời gian làm việc trực tiếp với nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng trực thuộc, kiểm tra và tìm hiểu thực tế ở cơ sở, bước đầu giảm bớt thủ tục, hình thức, tăng hiệu quả của các chuyến đi.
Việc phân định công việc giữa Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ và các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị phụ trách một số lĩnh vực đã cụ thể, rõ ràng hơn, phát huy tốt hơn vai trò lãnh đạo của Đảng, sự chủ động trong quản lý, điều hành của Nhà nước. Đối với một số vấn đề hệ trọng, trong quá trình chuẩn bị, đồng chí Tổng Bí thư đã tham khảo ý kiến của các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước, sau đó trình Bộ Chính trị thảo luận, quyết định theo đa số.
Bộ Chính trị đã thực hiện đúng quy định việc báo cáo Ban Chấp hành Trung ương những công việc đã giải quyết trong thời gian giữa hai kỳ họp Trung ương.
Thường trực Ban Bí thư thông qua hình thức định kỳ giao ban với các văn phòng, các ban đảng, với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội để nắm tình hình và nhắc nhở, chỉ đạo phối hợp xử lý các vấn đề mới nảy sinh, là cách làm có tác dụng tốt.
Các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư luôn đề cao tinh thần trách nhiệm trong việc thực hiện các nhiệm vụ được phân công, cũng như việc đóng góp ý kiến vào các quyết định của tập thể; gương mẫu giữ gìn đạo đức cách mạng, tác phong giản dị, gần gũi cán bộ.
2. Khuyết điểm
Bộ Chính trị, Ban Bí thư chưa dành thời gian và đầu tư thoả đáng cho việc nghiên cứu, chỉ đạo đổi mới, cụ thể hoá phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện một đảng cầm quyền, lề lối làm việc trong các cơ quan đảng, trước hết là ở các cơ quan lãnh đạo cấp cao.Chưa khẩn trương chỉ đạo nghiên cứu, xây dựng hoàn thiện hệ thống văn bản quy định cụ thể về nguyên tắc, nội dung và cơ chế thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trên các lĩnh vực: lập pháp, hành pháp, tư pháp và đối với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân. Chưa xây dựng được quy chế về mối quan hệ làm việc của Bộ Chính trị, Ban Bí thư với Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ.
Bộ Chính trị vẫn phải họp nhiều, một số ít phiên họp của Bộ Chính trị, Ban Bí thư chất lượng chưa cao. Một số vấn đề quan trọng đã xác định trong chương trình làm việc hằng năm, nhưng chưa thực hiện được hoặc thực hiện chậm.
Trong cơ chế làm việc và sinh hoạt, vai trò lãnh đạo tập thể được thể hiện tốt, nhưng trách nhiệm cá nhân trong một số lĩnh vực chưa đủ rõ, nên giải quyết một số công việc còn chậm. Nhiều đồng chí Bộ Chính trị, Ban Bí thư phải đảm nhiệm nhiều công việc khác nhau, mất thời gian vào việc họp hành, điều hành, xử lý cụ thể nên ít có thời gian tự học tập, nghiên cứu, tự tổng kết các vấn đề thực tiễn thuộc lĩnh vực phụ trách.
Chậm đổi mới quy trình giải quyết công việc của Đảng, nhất là việc xem xét, bổ nhiệm nhân sự và kỷ luật cán bộ còn phải qua nhiều khâu, nhiều công đoạn, mất nhiều thời gian; phần nào còn nặng về xem xét ý kiến thăm dò, chờ đợi sự đồng thuận của đương sự, thiếu sự chủ động, quyết đoán kịp thời của cơ quan lãnh đạo; chưa phát huy đúng mức trách nhiệm và quyền hạn của người phụ trách trong công tác cán bộ, để ảnh hưởng đến việc kiện toàn bộ máy lãnh đạo của một số cấp uỷ, tổ chức đảng trực thuộc. Một số vấn đề các cấp, các ngành xin ý kiến chỉ đạo của Ban Bí thư, nhưng trả lời còn chậm, để cấp dưới chờ đợi lâu.
Chỉ đạo việc điều phối hoạt động của bộ máy đảng chưa thành nền nếp, hiệu quả một số chuyến đi cơ sở của các đồng chí Bộ Chính trị, Ban Bí thư chưa cao.
*
* *
Tóm lại, nhiệm kỳ qua, trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước diễn biến phức tạp, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới; sớm cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội IX của Đảng; vừa bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, vừa tập trung hơn cho những ngành, lĩnh vực và địa bàn trọng tâm, trọng điểm; coi trọng hơn công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội IX và các nghị quyết của Trung ương; đã xử lý đúng đắn, kịp thời nhiều vấn đề nhạy cảm, phức tạp; đẩy mạnh được đà phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, củng cố được quốc phòng, an ninh, tăng cường và mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao được vị thế và uy tín quốc tế của đất nước; chăm lo công tác xây dựng Đảng, củng cố hệ thống chính trị, nhất là cơ sở; tiếp tục phát huy dân chủ trong Đảng và trong nhân dân, giữ gìn kỷ cương trong Đảng và trong xã hội. Nhìn chung, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khoá IX đã lãnh đạo hoàn thành cơ bản các mục tiêu, nhiệm vụ do Nghị quyết Đại hội IX đề ra.
Tuy nhiên, trong lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư còn một số khuyết điểm, hạn chế: việc quán triệt, tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng vẫn là khâu yếu; chưa tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt để khắc phục một số khuyết điểm, yếu kém kéo đài trong kinh tế - xã hội; lãnh đạo cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, cải cách hành chính còn chậm, chưa đạt yêu cầu đề ra; lãnh đạo, chỉ đạo quốc phòng, an ninh, đối ngoại có lúc, có việc còn bị động, lúng túng; chưa tập trung đúng mức để lạo sự chuyển biến mạnh mẽ, rõ nét trong xây dựng, đổi mới, chỉnh đốn Đảng, đặc biệt là trong đấu tranh phòng, chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; còn ít đổi mới, cải tiến phương thức lãnh đạo và lề lối làm việc, v.v.. Những khuyết điểm, thiếu sót nói trên đã hạn chế hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo chung của Đảng, ảnh hưởng nhất định tới tình hình chung của đất nước.
Ban Chấp hành Trung ương, trước hết là Bộ Chính trị, Ban Bí thư xin nghiêm túc tự phê bình trước toàn Đảng, toàn dân về những khuyết điểm, thiếu sót nói trên.
Từ thực tiễn lãnh đạo chỉ đạo nhiệm kỳ vừa qua, Ban Chấp hành Trung ương thấy rằng, để lãnh đạo thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, trong thời gian tới cần phải coi trọng và tập trung giải quyết tốt những vấn đề hết sức quan trọng sau đây:
Một là, trong bối cảnh tình hình chính trị, an ninh, kinh tế khu vực và thế giới luôn biến động hết sức nhanh chóng, phức tạp, tình hình trong nước đang đặt ra nhiều vấn đề mới, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư phải thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng; tăng cường cảnh giác và nâng cao ý thức đấu tranh bảo vệ Đảng, bảo vệ nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng; tăng cường đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh, Điều lệ, đường lối, nguyên tắc hoạt động của Đảng; thật sự coi trọng hơn nữa công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, có kế hoạch tự học tập, nâng cao năng lực nhận thức để tiếp tục tìm tòi, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới, đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ mới, tranh thủ cơ hội, vượt qua thách thức, tiếp tục đẩy mạnh đổi mới toàn diện đồng bộ để giành được những thành tựu mới to lớn, vững chắc hơn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, việc đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng, đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị trong điều kiện một Đảng lãnh đạo, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, có vị trí đặc biệt quan trọng đòi hỏi Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư phải dành thời gian và tâm sức nhiều hơn nữa, thoả đáng hơn nữa cho những nhiệm vụ này; phải rất coi trọng việc xây dựng và thực hiện đúng quy chế làm việc, đề cao và phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng và trong đời sống xã hội đi đôi với tăng cường trách nhiệm, thực hiện nghiêm kỷ luật của Đảng và kỷ cương phép nước. Không ngừng đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo, từng bước quy chế hoá sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước; đồng thời tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, đổi mới và kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và phát huy hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước và cả hệ thống chính trị.
Ba là, để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, vấn đề có tính chất quyết định là xây dựng được đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng, tiêu biểu về trí tuệ, năng động, sáng tạo, có phẩm chất đạo đức cách mạng, có trách nhiệm, luôn gắn bó với nhân dân, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, của nhân dân. Muốn vậy, phải tiếp tục đổi mới công tác cán bộ cả về tư duy, nội dung và phương pháp; đổi mới đồng bộ hệ thống các quy chế cụ thể về đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, đề bạt, bổ nhiệm để bố trí đúng cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn tài năng ở tất cả các ngành, các cấp, các lĩnh vực. Phải giao nhiệm vụ rõ ràng và quyền hạn tương ứng cho từng chức danh; xây dựng cho được cơ chế cụ thể về trách nhiệm của cán bộ đối với công việc được giao, xử lý kịp thời việc biểu dương, khen thưởng, cũng như việc phê bình, kỷ luật, thay thế những cán bộ không hoàn thành nhiệm vụ, để công việc trì trệ hoặc có sai phạm, khuyết điểm.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, công tác xây dựng Đảng nói chung và công tác cán bộ nói riêng, phải tiến hành thường xuyên và kiên trì cuộc đấu tranh không khoan nhượng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi bằng được các tệ nạn này.
Bốn là, sau khi có đường lối đúng, sự nghiệp đổi mới có thành công hay không phụ thuộc một phần lớn vào năng lực tổ chức thực hiệncủa Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các đồng chí Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương, của các cấp, các ngành. Thời gian qua, tuy vấn đề này đã được coi trọng hơn trước, nhưng vẫn là khâu yếu, có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả thực hiện nhiều chủ trương, nghị quyết đúng đắn của Đảng. Trong đó, đáng lưu ý nhất là tình trạng thiếu kiên quyết, nể nang, né tránh; kỷ luật không nghiêm; chưa phát huy đúng mức quyền hạn và trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Vì vậy, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khoá X và cấp uỷ các cấp cần đặc biệt coi trọng và tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện thắng lợi nghị quyết của Đảng và phát triển đường lối của Đảng thông qua tổng kết thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trên đây là Báo cáo kiểm điểm của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khoá IX. Xin kính trình Đại hội.
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG KHOÁ IX