Phát biểu của đồng chí Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, bế mạc Hội nghị lần thứ lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X)

Thưa các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương,

Thưa các đồng chí tham dự Hội nghị,

Sau một tuần làm việc khẩn trương, Hội nghị toàn thể lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương Ðảng (khóa X) đã hoàn thành chương trình đề ra. Hội nghị đã tập trung trí tuệ, thảo luận sôi nổi, thẳng thắn, dân chủ, với tinh thần trách nhiệm cao, đóng góp nhiều ý kiến phong phú và sâu sắc; đánh giá cao công tác chuẩn bị, hoan nghênh các ý kiến đóng góp tâm huyết của các tổ chức, tập thể và cá nhân trong quá trình chuẩn bị các đề án. Hội nghị biểu thị sự đồng tình cao với các nội dung tiếp thu và giải trình của Bộ Chính trị về Ðề cương chi tiết Báo cáo tổng kết, bổ sung và phát triển Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991); Ðề cương chi tiết Báo cáo tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 và xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020; thông qua định hướng chuẩn bị Ðại hội XI của Ðảng và đại hội đảng các cấp.

Những nội dung thảo luận và quyết định tại Hội nghị Trung ương lần này có ý nghĩa hết sức quan trọng, là một bước rất cơ bản chuẩn bị cho Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Ðảng, đáp ứng những đòi hỏi của toàn Ðảng, toàn dân và toàn quân ta.

Thưa các đồng chí,

Cương lĩnh là tuyên ngôn chính trị của Ðảng, là ngọn cờ chiến đấu của Ðảng và của dân tộc, là nền tảng lý luận, nền tảng tư tưởng và chính trị định hướng cho mọi hoạt động của toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân ta trong từng thời kỳ cách mạng. Thực hiện Cương lĩnh năm 1930, Ðảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ và giành được những thắng lợi vĩ đại: Làm cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nay là nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam; đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xóa bỏ chế độ thực dân, phong kiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh năm 1991 đến nay tuy mới thực hiện gần được 20 năm nhưng chúng ta cũng có đủ cơ sở để khẳng định giá trị lịch sử to lớn cả về lý luận, chính trị, tư tưởng và chỉ đạo hoạt động thực tiễn của nó. Ra đời trong bối cảnh mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Ðông Âu sụp đổ, nhiều đảng cộng sản bế tắc, mất phương hướng, các thế lực thù địch tấn công quyết liệt; ở trong nước, kinh tế - xã hội khủng hoảng, một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân dao động niềm tin. Cương lĩnh năm 1991 và các nghị quyết của Ðảng theo tinh thần của Cương lĩnh đã định hướng cho toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân ta vững bước đi lên giành được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữ vững vai trò lãnh đạo của Ðảng. Ðặc biệt là trong Cương lĩnh năm 1991, lần đầu tiên Ðảng ta nêu lên tư tưởng Hồ Chí Minh, "lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Ðảng". Ðây là một nguyên lý, một bước phát triển mới về lý luận mà Ðảng ta đã tổng kết từ lịch sử và được thực tiễn chứng minh là hoàn toàn đúng đắn, sáng tạo và đầy sức sống. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là di sản tư tưởng và lý luận vô cùng to lớn, quý giá, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Ðảng và dân tộc ta.

Trong quá trình tổ chức thực hiện Cương lĩnh, trên cơ sở giữ vững mục tiêu và những định hướng cơ bản, Ðảng ta đã có những bổ sung, phát triển nhận thức trên nhiều vấn đề, từ những vấn đề chung về chủ nghĩa xã hội, xây dựng chủ nghĩa xã hội, đến các vấn đề về kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, hệ thống chính trị và về Ðảng. Ðã từng bước hình thành được những nét cơ bản một hệ thống quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, góp phần bổ sung và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về những vấn đề này. Ðây cũng là quá trình Ðảng ta tự nâng cao trình độ lý luận của mình thông qua thực tiễn lãnh đạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng, rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế. Ðó là lý luận chân chính". Theo tinh thần đó, trong các nhiệm kỳ Ðại hội từ Ðại hội VII đến nay, Ðảng ta đã bám sát thực tiễn, phát hiện, tìm tòi, nghiên cứu, tổng kết, thử nghiệm, trên cơ sở tôn trọng quy luật khách quan, bảo đảm phù hợp với ý chí, nguyện vọng của nhân dân và lợi ích của cách mạng để giải đáp những vấn đề mới nảy sinh, đồng thời xây dựng nên những nhận thức mới làm giàu cho trí tuệ của Ðảng trong giai đoạn cách mạng mới. Những nhận thức mới đó cùng với kết quả nghiên cứu, tổng kết việc tổ chức thực hiện Cương lĩnh năm 1991 cần được sử dụng làm căn cứ, chất liệu để chọn lọc, cân nhắc biên tập, bổ sung vào dự thảo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển) đưa ra đại hội các cấp để thảo luận, công bố để nhân dân góp ý trước khi trình Ðại hội XI của Ðảng. "Ðảng ta là một Ðảng cách mạng, một Ðảng vì dân, vì nước". Cách mạng nghĩa là hành động, là đổi mới và phát triển sáng tạo không ngừng. Cương lĩnh bổ sung, phát triển sắp tới phải hướng đến mục tiêu tổng quát là xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.

Có thể nói, trong hơn 20 năm lãnh đạo công cuộc đổi mới, Ðảng ta đã chú trọng tổng kết thực tiễn, đẩy mạnh công tác lý luận, do đó đã từng bước xác định rõ thêm con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thời kỳ quá độ. Lý luận về cách mạng xã hội chủ nghĩa của Việt Namđã từng bước hình thành và không ngừng phát triển. Ðiều đó không chỉ có ý nghĩa đối với thắng lợi của công cuộc đổi mới mà còn quan hệ đến vấn đề nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng, bảo đảm cho Ðảng ta thực sự là đảng cách mạng chân chính, là đội tiền phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc.

Thưa các đồng chí,

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 do Ðại hội lần thứ IX của Ðảng đề ra được chúng ta triển khai trong hai kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 và 2006 - 2010. Ðại hội X của Ðảng đã đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch 5 năm 2001 - 2005. Hội nghị Trung ương 9 (khóa X) đã kiểm điểm nửa nhiệm kỳ thực hiện kế hoạch 2006 - 2010. Ðiều đặc biệt nổi lên trong thời kỳ này là những khó khăn, cản trở do tác động to lớn và sâu sắc của cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu bắt đầu từ những tháng cuối năm 2007 đối với nước ta, buộc chúng ta phải điều chỉnh một số chỉ tiêu kế hoạch, đồng thời phải tiến hành các giải pháp tình thế đi đôi với các giải pháp cơ bản để bảo đảm cho kinh tế - xã hội nước ta tiếp tục ổn định và phát triển.

Còn một năm rưỡi nữa mới kết thúc kế hoạch 5 năm 2006 - 2010, nhưng với những kết quả đã giành được, với xu thế vận động và phát triển của tình hình, với quyết tâm, nỗ lực và sức sáng tạo của toàn Ðảng, toàn dân và toàn quân ta, chúng ta có đủ cơ sở để tin tưởng vào việc hoàn thành cơ bản các mục tiêu nhiệm vụ đã đề ra trong kế hoạch 5 năm 2006 - 2010. Từ đó, có thể đánh giá tổng quát: Trong 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010, chúng ta đã tận dụng thời cơ, thuận lợi, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng. Ðất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển. Nhiều mục tiêu chủ yếu của Chiến lược được thực hiện; diện mạo của đất nước có nhiều thay đổi. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần được hình thành; quan hệ sản xuất phù hợp hơn. Hội nhập kinh tế quốc tế và hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực đạt nhiều thành tựu. Chính trị - xã hội ổn định; độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững. Thế và lực của đất nước vững mạnh thêm nhiều, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Ðã tạo ra môi trường thuận lợi và những tiền đề quan trọng để tiếp tục đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.

Tuy nhiên, những thành tựu đạt được còn chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước. Chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh và tính bền vững của nền kinh tế còn thấp và chậm được cải thiện. Huy động và sử dụng các nguồn lực phát triển còn hạn chế. Ðời sống xã hội còn nhiều vấn đề bức xúc. Nền tảng để Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa được hình thành đầy đủ. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng vẫn còn là điểm yếu cản trở tăng trưởng. Khoảng cách phát triển so với một số nước trong khu vực chậm được thu hẹp.

Với cách nhìn nhận khách quan, đánh giá đúng cả hai mặt thành tựu và hạn chế, khuyết điểm, những việc làm đúng, làm được và chưa đúng, chưa được, chúng ta có thể rút ra nhiều bài học thiết thực trên nhiều lĩnh vực, trong đó có bài học xuyên suốt là luôn luôn coi trọng tính bền vững của sự phát triển.

Phương hướng, mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020 bước đầu được xác định là: Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững để đến năm 2020 nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện, độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề để phát triển cao hơn trong các thời kỳ chiến lược sau. Ðể đạt mục tiêu đó, chúng ta phải thực hiện đồng bộ nhiều nhiệm vụ, giải pháp, phải xác định rõ các định hướng phát triển cho các lĩnh vực, các ngành và các vùng, trong đó cần tập trung sức để từng bước hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tập trung vào việc tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính để giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất, huy động và sử dụng tốt nhất mọi nguồn lực; phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục quốc dân; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông, hạ tầng đô thị.

Tại Hội nghị này, Trung ương đã thảo luận, nhất trí với nhiều nội dung Ðề cương dự thảo, đồng thời cũng nêu lên nhiều ý kiến phong phú đề nghị tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, sửa đổi, làm rõ. Ðây là cơ sở cho việc chỉ đạo chỉnh lý, biên tập dự thảo các văn kiện trình Hội nghị Trung ương XI thông qua để đưa ra lấy ý kiến đại hội đảng các cấp và lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân.

Thưa các đồng chí,

Hội nghị Trung ương lần này đã thảo luận và thông qua định hướng đại hội đảng các cấp tiến tới Ðại hội toàn quốc lần thứ XI của Ðảng, trong đó làm rõ bối cảnh, mục tiêu, yêu cầu, chủ đề, nội dung Ðại hội, quyết định thành lập các tiểu ban chuẩn bị cho Ðại hội. Ðại hội XI của Ðảng được tiến hành trong bối cảnh đất nước ta trải qua 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991 - 2011) và 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới (1986 - 2011). Ðại hội sẽ tiến hành tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Ðại hội X, 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (2001 - 2010), 20 năm thực hiện Cương lĩnh; tổng kết, bổ sung và phát triển Cương lĩnh trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991), xác định Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong 10 năm tới; phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong 5 năm 2011 - 2015; bầu Ban Chấp hành Trung ương Ðảng nhiệm kỳ khóa XI.

Hội nghị Trung ương đã cho ý kiến về định hướng chủ đề Ðại hội XI và các vấn đề trọng tâm cần đề cập trong các văn kiện, nhất là trong Báo cáo chính trị : Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng, gắn với việc thực hiện có chiều sâu Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh". Tiếp tục đổi mới toàn diện, tạo chuyển biến về chất lượng và hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển bền vững; tạo thuận lợi cho việc thực hiện mục tiêu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 như Ðại hội X của Ðảng đã xác định. Chăm lo xây dựng, tạo chuyển biến đồng bộ để văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần của xã hội. Giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo đảm vững chắc an ninh, quốc phòng, tiếp tục nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế. Phát huy dân chủ, tăng cường kỷ cương và sự đồng thuận xã hội, phát huy hơn nữa sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để vượt qua khó khăn, thách thức, tiếp tục đưa đất nước phát triển theo con đường và mục tiêu nêu trong Cương lĩnh, Chiến lược.

Hội nghị Trung ương đã quyết định các văn kiện sẽ trình Ðại hội XI và thành lập các tiểu ban chuẩn bị Ðại hội toàn quốc của Ðảng. Ðể tiếp tục chuẩn bị nội dung và tổ chức Ðại hội toàn quốc, Hội nghị Trung ương lần này đã quyết định thành lập tiếp 3 tiểu ban: Tiểu ban Nhân sự; Tiểu ban Tổng kết việc thực hiện Ðiều lệ Ðảng và bổ sung, sửa đổi Ðiều lệ Ðảng; Tiểu ban Tổ chức phục vụ Ðại hội XI. Thời gian để chuẩn bị các văn kiện và các công tác phục vụ Ðại hội không còn nhiều, vì vậy, các tiểu ban Ðại hội cần có kế hoạch triển khai hoạt động để đáp ứng yêu cầu đã được Trung ương thông qua, bảo đảm cho Ðại hội toàn quốc của Ðảng thực hiện đúng kế hoạch đề ra.

Theo chủ trương đã được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua, ngay sau Ðại hội lần thứ XI của Ðảng kết thúc, chúng ta sẽ tổ chức bầu cử hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân các cấp và bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII. Ðể tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuẩn bị bầu cử các cơ quan nhà nước, Hội nghị Trung ương nhất trí tổ chức Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Ðảng vào nửa đầu tháng 1-2011. Như vậy, sắp tới Trung ương cần có một chương trình làm việc hợp lý, khoa học, định hướng thời gian đại hội đảng các cấp một cách phù hợp nhằm bảo đảm chuẩn bị tốt nhất cho việc tổ chức thành công Ðại hội XI của Ðảng.

Trên cơ sở góp ý kiến của Trung ương, sau Hội nghị này, Bộ Chính trị sẽ ra Chỉ thị về đại hội đảng các cấp tiến tới Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Ðảng. Chủ trương của Trung ương là việc chuẩn bị và tiến hành đại hội đảng các cấp phải theo tinh thần đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng; phát huy dân chủ, tăng cường đoàn kết, giữ vững kỷ cương; coi trọng chất lượng, hiệu quả, không phô trương, hình thức; bảo đảm an toàn, tiết kiệm, nhằm chuẩn bị tốt nội dung văn kiện Ðại hội và chuẩn bị nhân sự cấp ủy các cấp nhiệm kỳ mới.

Thưa các đồng chí,

Ðại hội XI của Ðảng là sự kiện có ý nghĩa trọng đại của đất nước; đại hội đảng các cấp tiến tới Ðại hội XI của Ðảng là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Ðảng, toàn dân và toàn quân ta.

Từ nay đến Ðại hội XI, tình hình còn nhiều diễn biến phức tạp, nhất là diễn biến của cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế thế giới sẽ còn tác động nhiều mặt đến nước ta, đến quá trình chuẩn bị đại hội các cấp. Thời gian từ nay đến Ðại hội XI của Ðảng chỉ còn hơn một năm, trong đó những công việc tập trung nhất đều dồn vào cuối năm 2009 và năm 2010. Ðây là thời gian cuối thực hiện những nhiệm vụ của Ðại hội X, thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010, cũng là thời gian Ðảng ta tiến hành đại hội đảng các cấp đồng thời chuẩn bị tiến tới Ðại hội toàn quốc lần thứ XI của Ðảng, năm có nhiều ngày kỷ niệm lớn của đất nước.

Quá trình chuẩn bị đại hội đảng các cấp và chuẩn bị Ðại hội XI của Ðảng phải kết hợp chặt chẽ với quá trình thực hiện các nhiệm vụ của Ðại hội X, coi việc hoàn thành các nhiệm vụ của Ðại hội X và nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010 là nội dung quan trọng nhất, chỉ có làm tốt điều đó thì chúng ta mới có thể tổ chức tốt đại hội đảng các cấp, hoàn thành nhiệm vụ đề ra.

Thưa các đồng chí,

Những nội dung thảo luận và kết luận tại Hội nghị Trung ương lần này là cơ sở rất quan trọng để triển khai chuẩn bị đại hội các cấp tiến tới Ðại hội toàn quốc lần thứ XI của Ðảng. Tôi đề nghị các đồng chí Ủy viên Trung ương và các cấp ủy đảng từ Trung ương đến cơ sở quán triệt tinh thần này để tổ chức thực hiện theo đúng tinh thần chỉ thị của Bộ Chính trị. Không vì lý do chuẩn bị và tiến hành đại hội đảng bộ mà lơi lỏng các nhiệm vụ trước mắt, cả về kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng và các lĩnh vực khác. Từ Ban Chấp hành Trung ương đến lãnh đạo các ngành, các cấp phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, chủ động trong mọi hoàn cảnh, mọi điều kiện để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Phải khắc phục tình trạng có những cán bộ càng gần đến Ðại hội càng né tránh, ngại va chạm, không dám chịu trách nhiệm trước công việc được giao. Chính trong lúc này, cán bộ, đảng viên càng phải tỏ rõ tinh thần trách nhiệm trước Ðảng, trước nhân dân. Ðây cũng là dịp để cán bộ, đảng viên và nhân dân có thêm cơ sở để đánh giá, lựa chọn đội ngũ cán bộ của mình. Phải coi việc tiến hành đại hội các cấp là một cơ hội, một động lực để thúc đẩy các nhiệm vụ trước mắt và lấy kết quả thực hiện các nhiệm vụ này để góp phần bảo đảm thành công của đại hội các cấp cũng như Ðại hội toàn quốc của Ðảng.

Với tinh thần đó, tôi xin tuyên bố bế mạc Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương khóa X.

Xin trân trọng cảm ơn.

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Các tin khác

Ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng

(ĐCSVN) - Ngày 10/10, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký Quyết định số 190-QĐ/TW về việc ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng.

Kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công

(ĐCSVN) - Bộ Chính trị vừa ban hành Quy định số 189-QĐ/TW ngày 08/10/2024 về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công.

Bộ Chính trị ban hành quy định phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong điều tra, xét xử

(ĐCSVN) – Ngày 27/10/2023, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 132-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Tập trung tuyên truyền những chủ đề lớn, trọng tâm từ nay đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng

(ĐCSVN) - Ban Tuyên giáo Trung ương yêu cầu thông tin chính xác, kịp thời với nhiều hình thức linh hoạt, sáng tạo, phong phú, sinh động gắn với tuyên truyền đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và tuyên truyền kỷ niệm các ngày lễ lớn, sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước trong năm 2024, 2025.

Quy trình kỷ luật đảng viên thuộc thẩm quyền của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư

(ĐCSVN) - Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường vừa ký Quyết định số 165-QĐ/TW ngày 6/6/2024 của Bộ Chính trị ban hành Quy trình xem xét, thi hành kỷ luật đối với tổ chức Đảng, đảng viên thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Liên kết website