Các đồng chí thân mến,
Trong 30 nǎm qua, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng ta đã lãnh đạo giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam trải qua những đoạn đường cách mạng đầy khó khǎn gian khổ nhưng cũng đầy thắng lợi vẻ vang. Cách mạng Tháng Tám thành công và kháng chiến thắng lợi đã phá bỏ xiềng xích nô lệ ở một nước thuộc địa và nửa phong kiến đầu tiên trên thế giới, đã thay đổi về cǎn bản bộ mặt chính trị và xã hội nước ta, và hiện nay trên bước đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, Đảng ta đang lãnh đạo nhân dân toàn quốc tiến tới những thắng lợi vĩ đại, huy hoàng hơn nữa.
Sự nghiệp cách mạng vẻ vang mà Đảng ta đã và đang thực hiện tỏ rõ nǎng lực dồi dào, lòng trung thành tuyệt đối của Đảng đối với sự nghiệp giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc, tỏ rõ ý chí kiên cường bất khuất trước kẻ thù và tinh thần phấn đấu không mệt mỏi vì lợi ích nhân dân của toàn thể đảng viên. Các đồng chí Trần Phú, Ngô Gia Tự, Lê Hồng Phong, Nguyễn Vǎn Cừ, Hoàng Vǎn Thụ, Nguyễn Thị Minh Khai và biết bao người con ưu tú nữa của Đảng đã anh dũng hy sinh cho độc lập, tự do của dân tộc, cho lý tưởng cộng sản chủ nghĩa quang vinh.
Rõ ràng là mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong 30 nǎm qua đều không thể tách rời sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta, đứng đầu là đồng chí Hồ Chí Minh kính mến, không thể tách rời sự nghiệp xây dựng và củng cố Đảng ta, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam.
Bước vào giai đoạn cách mạng mới ngày nay, Đảng ta càng phải quan tâm hơn nữa tới việc xây dựng và củng cố hàng ngũ, chuẩn bị đầy đủ điều kiện để Đảng có thể hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ lịch sử nặng nề của mình.
Vì vậy, Đại hội lần này, ngoài nhiệm vụ thảo luận và phê chuẩn bản Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành trung ương, còn có nhiệm vụ thảo luận và phê chuẩn bản Điều lệ sửa đổi của Đảng, nhằm làm cho Đảng ta, về mặt tổ chức, có thể bảo đảm chấp hành đúng đắn đường lối và nhiệm vụ chính trị do Đại hội đề ra.
Được sự uỷ nhiệm của Ban Chấp hành Trung ương, tôi xin trình bày trước Đại hội bản báo cáo về việc sửa đổi điều lệ Đảng.
Các đồng chí thân mến,
Từ Đại hội lần thứ II của Đảng đến nay đã hơn 9 nǎm.
Trong thời gian đó, tình hình chính trị và xã hội nước ta có những biến đổi cǎn bản.
Kháng chiến thắng lợi, hoà bình được lập lại. Nước ta bị tạm thời chia cắt làm hai miền. Nhân dân miền Nam đang đấu tranh anh dũng chống chế độ Mỹ - Diệm, đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Trong khi đó, miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng khỏi ách đế quốc và phong kiến, đã bước vào giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa. Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa về nông nghiệp, thủ công nghiệp và công thương nghiệp tư bản tư doanh ở cấp thấp sắp hoàn thành về cơ bản. Sự nghiệp phát triển kinh tế và vǎn hoá bước đầu đã đạt nhiều thành tích. Mối quan hệ giai cấp trong xã hội do đó đang có những biến đổi sâu sắc.
Quá trình chuyển biến cách mạng đó của nước ta là một thắng lợi lớn của sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời trong quá trình đó, Đảng ta cũng không ngừng được rèn luyện và lớn mạnh lên. Qua đấu tranh cách mạng gian khổ, phức tạp, hàng ngũ cán bộ, đảng viên đã được sàng lọc, tôi luyện; lập trường tư tưởng của họ đã tiến bộ thêm một bước. Cơ sở Đảng ở miền Bắc chẳng những chỉ có ở nông thôn mà đã bắt đầu lan rộng, ǎn sâu vào khắp các ngành hoạt động, khắp các thành thị và vùng công nghiệp. Uy tín của Đảng trong nhân dân ngày càng cao, vai trò lãnh đạo của Đảng ngày càng được củng cố.
Song tình hình và nhiệm vụ cách mạng lúc này cũng đang đặt ra cho công tác xây dựng Đảng những yêu cầu mới, cao hơn.
Để nâng cao hơn nữa sức chiến đấu và nǎng lực lãnh đạo của Đảng, để Đảng ta làm tròn nhiệm vụ lãnh đạo cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà và có đầy đủ khả nǎng quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế và vǎn hoá, xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, chúng ta phải ra sức củng cố Đảng vững mạnh về tư tưởng và tổ chức, phải giữ vững và không ngừng tǎng cường tính chất giai cấp và tính chất tiên phong của Đảng. Đó là một yêu cầu cơ bản của nhiệm vụ xây dựng Đảng lúc này. Đảng phải chǎm lo củng cố lập trường giai cấp công nhân, nâng cao hơn nữa trình độ lý luận Mác - Lênin của cán bộ, đảng viên, đấu tranh khắc phục mọi biểu hiện của tư tưởng không vô sản; lại phải mau chóng nâng cao trình độ của cán bộ, đảng viên về vǎn hoá, nghiệp vụ, khoa học, kỹ thuật. Đồng thời Đảng phải phấn đấu đề cao tiêu chuẩn đảng viên, quy định những yêu cầu chặt chẽ, cao hơn đối với đảng viên, phải chǎm lo tǎng cường thành phần công nhân trong Đảng.
Trước đây do hoàn cảnh hoạt động bí mật và kháng chiến có những khó khǎn, việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng phải chịu những sự hạn chế nhất định. Đồng thời chúng ta cũng phạm phải một số khuyết điểm làm cho sinh hoạt dân chủ trong Đảng chưa được mở rộng đầy đủ và sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Đảng chưa cao. Trong điều kiện mới ở miền Bắc hiện nay, chúng ta đã có thể và cần thiết phải mở rộng sinh hoạt dân chủ trong Đảng hơn nữa để phát huy tính tích cực và óc sáng tạo của toàn thể cán bộ, đảng viên. Mặt khác, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải củng cố sự lãnh đạo tập trung và thống nhất của Đảng, chống mọi khuynh hướng tản mạn, phân tán, tǎng cường tính tổ chức và tính kỷ luật trong Đảng. Bộ máy các cấp của Đảng phải được kiện toàn; chế độ tổ chức, lề lối làm việc phải có những sửa đổi nhằm tǎng cường nguyên tắc tập trung dân chủ và thích ứng với đòi hỏi của nhiệm vụ chính trị.
Đảng ta nắm chính quyền trong nửa nước và trong hoàn cảnh hoà bình xây dựng, bệnh quan liêu, mệnh lệnh trong Đảng có phần phát triển hơn trước. Chúng ta phải chǎm lo giữ vững và phát huy truyền thống liên hệ với quần chúng của Đảng, đấu tranh khắc phục mọi biểu hiện xa rời quần chúng để có thể phát động đông đảo quần chúng dốc hết sức lực, tài nǎng cống hiến vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà.
Trước sự chuyển biến của giai đoạn cách mạng, chúng ta phải chǎm lo tǎng cường khối đoàn kết thống nhất trong Đảng về tư tưởng, chính trị và tổ chức trên một cơ sở mới cao hơn trước, kịp thời ngǎn ngừa mọi biểu hiện làm yếu khối đoàn kết thống nhất đó.
Trên đây là những yêu cầu chủ yếu của việc xây dựng Đảng hiện nay.
Việc sửa đổi Điều lệ lần này phải xuất phát từ tình hình và những yêu cầu nói trên, đồng thời phải cǎn cứ vào những kinh nghiệm phong phú về xây dựng Đảng mà chúng ta đã tích lũy được từ trước đến nay.
Việc sửa đổi Điều lệ Đảng không có nghĩa là sửa đổi những nguyên tắc cơ bản về xây dựng Đảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, những nguyên tắc đó là không hề thay đổi. Song, trong tình hình mới và qua những kinh nghiệm đã thu được, chúng ta cần phấn đấu để quán triệt hơn nữa những nguyên tắc đó trong công tác xây dựng Đảng, và dựa vào đó mà đề ra những quy định cụ thể, linh hoạt, thích hợp với thời kỳ hiện nay. Vì vậy, trước khi đi vào giải thích những quy định cụ thể trong điều lệ sửa đổi lần này, cần rút ra những bài học kinh nghiệm của thời kỳ vừa qua, nói rõ một số vấn đề cơ bản để soi sáng cho công tác xây dựng Đảng từ nay về sau và chiếu theo những vấn đề cơ bản đó, chúng ta có thể dễ dàng nhận rõ tinh thần của những điều sửa đổi trong Điều lệ Đảng lần này.
Phần thứ nhất
Mấy vấn đề về xây dựng Đảng
trong cương lĩnh chung
của điều lệ Đảng
I- Nhận rõ và tǎng cường hơn nữa tính chất
giai cấp và tính chất tiên phong của Đảng
Trong cương lĩnh chung của Điều lệ lần này, vấn đề tính chất của Đảng đã được nêu rõ. Nhận thức cho đúng và không ngừng phấn đấu để giữ gìn và nâng cao tính chất của Đảng là phương hướng chủ yếu đối với công tác xây dựng Đảng về các mặt tư tưởng và tổ chức.
1. Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn luôn noi theo những nguyên lý cơ bản về xây dựng Đảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và nói chung, đã biết vận dụng một cách có sáng tạo những nguyên lý đó vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam, bảo đảm cho Đảng ta có đầy đủ tính chất một đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.
Đảng ta ra đời sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất trên cơ sở giai cấp công nhân ở trong nước đã hình thành và phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân đang phát triển. Đảng ta ra đời dưới ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, và trong khi, trên thế giới, chủ nghĩa Lênin đã giành được toàn thắng trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội Đệ nhị Quốc tế. Nhờ sự dìu dắt của Quốc tế Cộng sản và sự giúp đỡ của các Đảng Cộng sản Liên Xô, Trung Quốc, Pháp, giai cấp công nhân nước ta sớm tiếp thụ được chủ nghĩa Mác - Lênin, mau chóng trưởng thành về chính trị.
Đảng ta lại ra đời và lớn lên trên cơ sở phong trào yêu nước rộng rãi, sâu sắc của quần chúng đông đảo, trong điều kiện đấu tranh lâu dài của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến và nông nghiệp lạc hậu.
Trong hoàn cảnh nước ta, giai cấp công nhân tuy nhỏ bé nhưng là giai cấp duy nhất có đầy đủ khả nǎng lãnh đạo cách mạng và trên thực tế đã luôn luôn giữ vững quyền lãnh đạo đó suốt 30 nǎm nay; các giai cấp khác, hoặc đã hết vai trò lịch sử tiến bộ, hoặc không đủ khả nǎng lãnh đạo cách mạng.
Mặt khác, các tầng lớp nông dân và tiểu tư sản rất đông đảo, dưới ách áp bức bóc lột hà khắc của đế quốc và phong kiến, họ có lòng yêu nước nồng nàn, có tinh thần cách mạng cao. Qua kinh nghiệm bản thân, các tầng lớp đó thấy rõ chỉ có đi theo sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, giai cấp tiên tiến nhất được vũ trang bằng học thuyết Mác - Lênin, thì mới giành được độc lập dân tộc và đời sống tự do hạnh phúc.
Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân về thực chất là cuộc cách mạng của nông dân do giai cấp công nhân lãnh đạo. Dưới chế độ thuộc địa và trong kháng chiến, sự hoạt động của Đảng ở thành thị lại gặp nhiều khó khǎn. Vì vậy, bên cạnh việc hoạt động trong quần chúng công nhân, Đảng ta đã hướng sự hoạt động của mình vào nông thôn, tổ chức và lãnh đạo phong trào nông dân.
Đảng ta là người đại biểu trung thành và kiên quyết nhất cho lợi ích của nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng ta chẳng những hấp thụ được những truyền thống tốt đẹp của phong trào công nhân trong nước và trên thế giới, mà còn hấp thụ và phát huy truyền thống anh dũng, quật cường chống ngoại xâm của dân tộc. Là người duy nhất giương cao ngọn cờ yêu nước và dân chủ, Đảng ta trở thành trung tâm đoàn kết và lãnh đạo mọi lực lượng chống đế quốc, chống phong kiến trong một Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, lấy liên minh công nông làm nền tảng. Có những phần tử ưu tú trong các giai cấp cách mạng, chủ yếu là trong nhân dân lao động, tự nguyện gia nhập hàng ngũ Đảng mà chiến đấu, trước hết cũng là vì họ thấy rõ lập trường của Đảng là lập trường yêu nước nhất. Trên thực tế có rất nhiều người đã đi từ giác ngộ dân tộc mà chuyển dần qua giác ngộ giai cấp.
Trong những điều kiện cụ thể của cách mạng nước ta như trên, Đảng đã khéo vận dụng có sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng Đảng.
Trước hết chúng ta rất coi trọng việc xây dựng Đảng về mặt tư tưởng và chính trị.
Đảng ta luôn luôn trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của mình. Cương lĩnh, chính sách của Đảng qua các thời kỳ đều thấm nhuần tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Chẳng những Đảng ta chỉ vạch ra các cương lĩnh và chính sách đó một cách đúng đắn trên nghị quyết mà suốt 30 nǎm nay, trong hoạt động thực tiễn của Đảng ta, lời nói bao giờ cũng đi đôi với việc làm, dù khó khǎn gian khổ đến mấy, Đảng ta vẫn không xa rời mục đích của mình, vẫn một lòng một dạ trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân và của dân tộc. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã từng đấu tranh không điều hoà và đã đập tan ảnh hưởng của những khuynh hướng cải lương tư sản, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi tiểu tư sản, khuynh hướng tơrốtkít phản động và chủ nghĩa xét lại, để giữ vững và giành toàn thắng cho đường lối của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong sinh hoạt nội bộ của mình, Đảng ta đặt công tác giáo dục và lãnh đạo tư tưởng lên hàng đầu. Bằng tổ chức học tập, chỉnh huấn, phê bình tự phê bình, rèn luyện trong đấu tranh thực tế và trong lao động sản xuất, Đảng ta thường xuyên quan tâm đến việc nâng cao trình độ giác ngộ về tư tưởng và chính trị của đảng viên, đấu tranh chống mọi quan điểm tư tưởng không vô sản. Số đông đảng viên, tuy trình độ lý luận còn thấp, song nói chung, đều tuyệt đối trung thành với đường lối Mác - Lênin của Đảng, có ý chí chiến đấu kiên cường, có tinh thần yêu nước nồng nàn, và có tinh thần quốc tế vô sản cao quý. Chính nhờ chú trọng tới việc xây dựng về tư tưởng cho nên, mặc dù sinh trưởng trong một nước thuộc địa, nông nghiệp lạc hậu, mặc dù đảng viên xuất thân từ thành phần không vô sản chiếm số đông, Đảng ta vẫn luôn luôn đoàn kết thống nhất, giữ vững được đường lối, tư tưởng vô sản và lãnh đạo cách mạng đi tới thắng lợi. Rõ ràng thắng lợi của sự nghiệp xây dựng Đảng ta trước hết là thắng lợi của công tác giáo dục, cải tạo tư tưởng trong Đảng. Đó là một ưu điểm lớn, chứng minh Đảng ta đã vận dụng đúng đắn những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Lênin về xây dựng Đảng.
Trong khi đặt việc xây dựng về tư tưởng và chính trị lên hàng đầu, Đảng ta đồng thời rất coi trọng việc xây dựng Đảng về mặt tổ chức. Đảng chú trọng phát triển đội ngũ của mình trong giai cấp công nhân đồng thời, cǎn cứ vào đặc điểm của cách mạng nước ta, Đảng lại tích cực phát triển đảng viên vào các phần tử cách mạng trong nông dân, nhất là bần cố nông và trung nông lớp dưới, và cũng chú ý phát triển Đảng vào tầng lớp tiểu tư sản, trí thức cách mạng. Đảng ta luôn luôn trung thành với những nguyên tắc tổ chức của một đảng theo chủ nghĩa Lênin: lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, lấy phê bình tự phê bình làm quy luật phát triển, chǎm lo giữ gìn khối đoàn kết thống nhất, đề cao kỷ luật trong Đảng.
Về mặt tổ chức, việc kết nạp nhiều người xuất thân ở những thành phần nông dân, tiểu tư sản, trí thức vào Đảng tất nhiên có làm cho tư tưởng không vô sản ảnh hưởng vào Đảng khá nặng và do đó, cuộc đấu tranh tư tưởng để thống nhất hàng ngũ, để giữ vững tính chất vô sản của Đảng thêm phần khó khǎn phức tạp. Nhưng lịch sử xây dựng Đảng ta cũng chứng tỏ việc kết nạp đó là cần thiết và không vì vậy mà làm mất tính chất giai cấp của Đảng. Rất nhiều phần tử cách mạng xuất thân từ nông dân, tiểu tư sản, thậm chí có số ít người xuất thân từ các giai cấp bóc lột, đã trở thành những chiến sĩ tích cực đấu tranh cho sự nghiệp của giai cấp công nhân. Đó là vì, sống trong hoàn cảnh của một nước thuộc địa và nửa phong kiến, bị áp bức bóc lột nặng nề, họ vốn có tinh thần yêu nước, lại được sự giáo dục và rèn luyện của Đảng, họ có thể tiếp thụ chân lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, dần dần gột bỏ được ý thức tư tưởng giai cấp gốc rễ của họ. Tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin có sức hấp dẫn mạnh mẽ, có sức thuyết phục rất lớn đối với nhân dân lao động, kể cả tầng lớp trí thức tiến bộ ở các nước thuộc địa, vì họ tìm thấy đó là con đường duy nhất đem lại độc lập, tự do và hạnh phúc. Cuộc đấu tranh cách mạng ở nước ta lại vô cùng gian khổ, quyết liệt; Đảng phải đương đầu với kẻ thù đế quốc và phong kiến rất hung bạo, tàn ác. Hoàn cảnh hoạt động bất hợp pháp trước Cách mạng Tháng Tám, hoàn cảnh kháng chiến trường kỳ suốt 9 nǎm là những thử thách lớn lao, những lò lửa cách mạng vĩ đại rèn luyện cán bộ, đảng viên.
Nếu như chúng ta phát triển Đảng một cách bừa bãi, không chú ý xây dựng cơ sở vào công nhân và bần cố nông, hoặc nếu trọng số hơn chất, thì không thể xây dựng nổi một đảng có tổ chức chặt chẽ, có sức chiến đấu cao. Ngược lại, nếu như Đảng ta có thái độ hẹp hòi, không chú ý phát triển Đảng vào các tầng lớp nhân dân lao động khác và trí thức cách mạng thì cũng không thể xây dựng nổi một đảng có tính chất quần chúng mạnh mẽ, thích hợp với đặc điểm tình hình xã hội nước ta, không thể đoàn kết, lãnh đạo nhân dân cả nước đưa cách mạng đi tới thắng lợi. Đường lối tổ chức đó là một điều nữa chứng minh rằng, Đảng ta đã vận dụng đúng đắn những nguyên lý phổ biến về xây dựng Đảng vào điều kiện cụ thể của cách mạng nước ta.
Nhờ có đường lối, phương châm xây dựng Đảng như trên cho nên, mặc dù giai cấp công nhân Việt Nam nhỏ bé nhưng vẫn có được một chính đảng lớn mạnh, già dặn và thông qua chính đảng đó, đã thực hiện được quyền lãnh đạo cách mạng của mình; cho nên mặc dù đảng viên xuất thân từ thành phần công nhân chiếm số ít, trong Đảng phải kể thêm cả bần cố nông nữa mới chiếm được đa số, mặc dù có lúc đội ngũ của Đảng lại đông đảo hơn đội ngũ giai cấp, nhưng Đảng vẫn có đầy đủ tính chất đảng của giai cấp công nhân; cho nên Đảng ta, đảng của giai cấp công nhân, đồng thời lại là đảng của dân tộc, có liên hệ rộng rãi và có uy tín rất cao trong các tầng lớp nhân dân, lãnh tụ của Đảng và của giai cấp công nhân đồng thời là lãnh tụ của dân tộc.
Không còn nghi ngờ gì nữa, đường lối phương châm xây dựng Đảng ta là đúng đắn, thành tích công tác xây dựng Đảng ta là to lớn, cǎn bản, tính chất Đảng ta rõ ràng là tính chất một đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.
2. Trong khi khẳng định thành tích như trên, chúng ta đồng thời nhận rằng công tác xây dựng Đảng không phải lúc nào cũng quán triệt những nguyên tắc và phương châm đúng đắn. Trái lại, từng thời kỳ, bên cạnh những ưu điểm, chúng ta cũng đã phạm phải một số khuyết điểm sai lầm, gây ảnh hưởng không tốt trong một chừng mực nhất định đến tính chất giai cấp và tính chất tiên phong của Đảng ta.
Sau Cách mạng Tháng Tám và bước vào kháng chiến, một ưu điểm cǎn bản là chúng ta đã kịp thời đề ra chủ trương xây dựng Đảng thành một đảng có tính chất quần chúng mạnh mẽ, tích cực phát triển đảng viên đồng thời mạnh dạn đào tạo, đề bạt cán bộ. Trong có mấy nǎm, số lượng đảng viên từ chỗ chưa đầy một vạn đã lên tới hàng chục vạn người, cơ sở Đảng được xây dựng hầu khắp mọi nơi. Đội ngũ cán bộ cũng phát triển nhanh chóng; dựa vào số cán bộ cũ làm nòng cốt, chúng ta mạnh dạn đào tạo, đề bạt cán bộ từ những thanh niên công nhân, nông dân, tiểu tư sản học sinh trong phong trào cứu quốc. Nếu không chuyển hướng về tổ chức mạnh mẽ và kịp thời như vậy thì Đảng ta không thể đáp ứng nổi nhiệm vụ mới, rộng lớn của cách mạng khi đó.
Nhưng cũng trong quá trình này, chúng ta đã phạm một số khuyết điểm.
Trong khi ảnh hưởng và cơ sở của Đảng lan rộng mau chóng thì việc xây dựng Đảng phần nào lại không được tiến hành một cách chặt chẽ cả về tư tưởng và tổ chức.
Trong khi tích cực phát triển Đảng, chúng ta đã không chú ý nhấn mạnh về phương hướng giai cấp và tiêu chuẩn đảng viên, có nhiều nơi đã thi đua phát triển Đảng, phạm thiên hướng hình thức chủ nghĩa, đơn thuần chạy theo số lượng. Do đó, bên cạnh việc kết nạp được những phần tử tốt, chúng ta đã phạm lệch lạc, ít phát triển vào bần cố nông mà phát triển nhiều vào trung nông, thậm chí đã kết nạp cả một số địa chủ, phú nông, phần tử xu thời; phát triển nhanh nhưng củng cố kém, công tác tổ chức không kết hợp chặt chẽ với công tác tư tưởng, chú ý giáo dục về tinh thần yêu nước nhưng ít chú ý giáo dục về giai cấp, làm cho trình độ tư tưởng và chính trị của nhiều đảng viên rất thấp.
Trong lúc mạnh dạn mở rộng đội ngũ cán bộ, chúng ta đã phần nào không nắm vững đường lối giai cấp trong công tác cán bộ và không đề ra tiêu chuẩn lựa chọn cán bộ một cách rõ ràng. Một mặt chúng ta không thấy hết ưu điểm cǎn bản của cán bộ công nông, không tích cực bồi dưỡng và đào tạo cán bộ công nông; mặt khác chúng ta lại thiếu biện pháp tích cực giáo dục cải tạo cán bộ tiểu tư sản, trí thức.
Từ nǎm 1951, đi đôi với việc Đảng ta uốn nắn những lệch lạc trên một số vấn đề về lãnh đạo chính trị và trước yêu cầu của cuộc kháng chiến chuyển vào giai đoạn gay go quyết liệt, Đảng đã nhận ra và kiên quyết sửa chữa những sai lệch trên đây trong công tác xây dựng Đảng và đã đem lại kết quả tốt. Công tác tư tưởng trong Đảng được đặc biệt chú ý. Việc tiến hành chỉnh Đảng, chỉnh huấn đã đem lại kết quả lớn, củng cố được lập trường giai cấp, uốn nắn được tư tưởng hữu khuynh của cán bộ, đảng viên, thiết thực góp phần đẩy mạnh kháng chiến và chuẩn bị điều kiện cho việc tiến lên thực hiện cải cách ruộng đất. Trong công tác tổ chức, do lập trường, quan điểm giai cấp rõ ràng hơn, chúng ta đã chú ý đào tạo, đề bạt cán bộ xuất thân từ công nông, và qua cải cách ruộng đất, đã khai trừ những phần tử bóc lột và đã chú ý phát triển Đảng vào bần cố nông.
Nhưng trong quá trình phê phán, sửa chữa những lệch lạc hữu khuynh, chúng ta lại mắc phải một số lệch lạc "tả" khuynh. Trong chỉnh huấn, khi đánh giá công tác và kiểm thảo tư tưởng cán bộ, đã thiếu phân tích toàn diện, coi nhẹ ưu điểm, nhấn mạnh khuyết điểm, lại không xem xét đầy đủ đến nguyên nhân và hoàn cảnh phạm khuyết điểm; phương pháp kiểm thảo thì có phần gò ép, chụp mũ; việc kết hợp với xử trí về mặt tổ chức lại làm cho chỉnh huấn thêm nặng nề, giảm mất ý nghĩa giáo dục, nâng cao tư tưởng.
Bắt nguồn từ trong chỉnh huấn về ngày một phát triển thêm trong quá trình cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, chúng ta đã đi tới những nhận định lệch lạc nghiêm trọng về tình hình cán bộ, đảng viên, dẫn đến xử trí sai lầm nhiều về mặt tổ chức. Những sai lầm đó đã gây tổn thất một phần lớn lực lượng và uy tín của Đảng và cơ quan Nhà nước, gây không khí cǎng thẳng trong nội bộ Đảng, ảnh hưởng không tốt cả đến tình hình chính trị chung.
Trong công tác cán bộ, trên một chừng mực nhất định, chúng ta đã phạm phải lệch lạc của chủ nghĩa thành phần. Có nơi, có lúc đã đem thành phần giai cấp xuất thân coi là một tiêu chuẩn để đánh giá và sắp xếp, đề bạt cán bộ.
Trong công tác phát triển Đảng cũng có khuynh hướng hẹp hòi: việc đóng cửa Đảng tiến hành nhất loạt và kéo quá dài, trong lúc cuộc kháng chiến đang quyết liệt, quần chúng được thử thách rèn luyện một cách rộng rãi và sâu sắc.
Tuy nhiên, trong công tác xây dựng Đảng lúc này, bên cạnh một số lệch lạc "tả" khuynh nói trên vẫn tồn tại những lệch lạc hữu khuynh. Trong cải cách ruộng đất, việc phát triển Đảng vào bần cố nông đã được xem trọng, nhưng có nhiều nơi chỉ chú ý đến mặt thành phần tốt, lịch sử trong sạch mà chưa xem kỹ về mặt trình độ giác ngộ tư tưởng, chính trị của họ và sau khi kết nạp thì ít chú ý giúp đỡ bồi dưỡng họ. Trong công tác cán bộ, tuy đã chú ý hơn trước đến việc đề bạt cán bộ xuất thân từ công nông nhưng nói chung, chính sách của ta vẫn còn thiếu sót, nhất là thiếu kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng một cách cụ thể, toàn diện và lâu dài.
Những khuyết điểm sai lầm hữu hoặc "tả" trong công tác xây dựng Đảng không tách rời những lệch lạc hữu hoặc "tả" trên một số vấn đề về lãnh đạo chính trị của Đảng trong thời gian đó.
Đứng riêng trong phạm vi công tác xây dựng Đảng mà nói thì những khuyết điểm trên đây đều là do không kết hợp được đầy đủ những nguyên lý cơ bản về xây dựng Đảng của chủ nghĩa Mác-Lênin với thực tiễn cách mạng nước ta và thực tiễn công tác xây dựng Đảng ta, do nhận thức lệch lạc, khi mơ hồ, khi máy móc, về tính chất giai cấp và tính chất tiên phong của Đảng.
Nguyên nhân cǎn bản của những lệch lạch hữu khuynh trên đây chính là ở chỗ không quán triệt đầy đủ những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng Đảng, không giữ vững nguyên tắc, thiếu lập trường, quan điểm giai cấp vững vàng, không thấy được ảnh hưởng của thành phần giai cấp xuất thân đối với tư tưởng, ý thức con người.
Nguyên nhân cǎn bản của những lệch lạc "tả" khuynh trên đây là do lập trường giai cấp không vững, không xuất phát đầy đủ từ thực tiễn cách mạng nước ta và thực tiễn xây dựng Đảng ta, không nắm vững những đặc điểm của quá trình ra đời và trưởng thành của Đảng ta.
Những nǎm qua, Đảng ta đã kiên quyết sửa chữa một cách có hiệu quả những lệch lạc đó. Từ những bài học đã qua, đường lối, phương châm xây dựng Đảng ngày một rõ ràng chính xác và được chấp hành quán triệt hơn, do đó đã đem lại nhiều kết quả tốt.
Song, một phần do ảnh hưởng của những khuyết điểm trên mà hiện nay, bước vào giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, trong Đảng ta đã bộc lộ rõ một số nhược điểm: trình độ tư tưởng và lý luận trong Đảng nói chung còn thấp, trong nhiều cán bộ, đảng viên, lập trường giai cấp còn mơ hồ, phương pháp tư tưởng còn chủ quan, một chiều; thành phần đảng viên xuất thân công nhân còn quá ít; bên cạnh số đông đảng viên tốt còn có một số đảng viên chây lười, thiếu tích cực gương mẫu, kém ý thức Đảng.
3. Cǎn cứ vào tình hình Đảng ta, cǎn cứ vào yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng, lúc này hơn bao giờ hết, chúng ta phải nhận rõ và ra sức phấn đấu để nâng cao hơn nữa tính chất giai cấp và tính chất tiên phong của Đảng.
Về vấn đề tính chất của Đảng, Cương lĩnh chung của Điều lệ đã nhấn mạnh "Đảng Lao động Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, là đội tiên phong có tổ chức và là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân".
Sở dĩ Đảng ta là đảng của giai cấp công nhân, trước hết vì Đảng ta đứng vững trên lập trường tư tưởng của giai cấp công nhân chứ không phải lập trường tư tưởng của một giai cấp nào khác, vì giai cấp công nhân là giai cấp xã hội tiên tiến nhất, có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng của quần chúng nhân dân. Sau nữa, Đảng ta không phải là một tổ chức thông thường mà là bộ tham mưu, đội tiên phong của giai cấp công nhân, bao gồm những phần tử ưu tú nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, gắn bó mật thiết với giai cấp và quần chúng nhân dân, Đảng ta là bộ phận có tổ chức thống nhất chặt chẽ và là tổ chức cao nhất trong các tổ chức của giai cấp công nhân, nghĩa là Đảng ta có những đặc điểm cơ bản của một đảng theo chủ nghĩa Mác-Lênin.
Chúng ta cần có lập trường quan điểm giai cấp vững vàng trong công tác xây dựng Đảng, khắc phục những nhận thức mơ hồ về tính chất của Đảng trong một số đồng chí đã vô tình hạ thấp tính chất Đảng gần như tính chất những tổ chức quần chúng thông thường khác, làm cho Đảng bị lỏng lẻo một phần về tư tưởng và tổ chức và bị giảm sút về sức chiến đấu cũng như về nǎng lực lãnh đạo. Đồng thời, chúng ta cũng khắc phục những nhận thức máy móc, một chiều về tính chất của Đảng, như chỉ đơn thuần cǎn cứ về mặt thành phần xã hội của đảng viên mà không nhận rõ là tính chất của Đảng, thể hiện chủ yếu ở tư tưởng và hoạt động chính trị của Đảng; hoặc ngược lại, không nhận thấy vấn đề thành phần xã hội của đảng viên cũng có ảnh hưởng đến việc giữ vững và tǎng cường tính chất của Đảng.
Chúng ta cần có nhận thức đúng đắn, sâu sắc, toàn diện về tính chất của Đảng. Đồng thời chúng ta ra sức phấn đấu để tǎng cường tính chất của Đảng, nhất là về tính chất giai cấp và tính chất tiên phong của Đảng. Đó là mục tiêu phấn đấu cơ bản của mọi mặt công tác xây dựng Đảng về tư tưởng và tổ chức. Để đạt mục tiêu đó, chúng ta cần chú trọng tổng kết những kinh nghiệm quý báu về xây dựng Đảng ta, không ngừng đấu tranh khắc phục mọi khuynh hướng lệch lạc, nhằm vận dụng đúng đắn những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin vào công tác xây dựng Đảng ta; chúng ta phải tiếp tục giữ vững phương châm xây dựng Đảng duy nhất đúng đắn là lấy việc xây dựng về tư tưởng và chính trị làm chủ yếu, đồng thời rất coi trọng việc xây dựng về tổ chức và tác phong công tác.
Việc tǎng cường tính chất giai cấp và tính chất tiên phong của Đảng đòi hỏi trước hết, về mặt tư tưởng, phải đặc biệt coi trọng việc xác định và củng cố lập trường giai cấp công nhân, bồi dưỡng tư tưởng vô sản, bồi dưỡng đạo đức cộng sản chủ nghĩa, nâng cao trình độ lý luận Mác - Lênin của cán bộ, đảng viên, đấu tranh không điều hoà với những khuynh hướng tư tưởng không vô sản. Về mặt này, so với tình hình trước kia, chúng ta đang đứng trước những yêu cầu mới, cao hơn. Lúc này cán bộ, đảng viên ta không thể chỉ thoả mãn với lập trường phản đế và phản phong kiến mà còn cần phải có giác ngộ xã hội chủ nghĩa cao, phân rõ bạn thù trong cuộc cách mạng mới, phân rõ ranh giới giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, giữa lao động và bóc lột, giữa chủ nghĩa tập thể và chủ nghĩa cá nhân. Nhiệm vụ cách mạng lúc này đang gấp rút đòi hỏi Đảng ta phải được vũ trang đầy đủ bằng lý luận Mác-Lênin về những quy luật phổ biến của cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội; đồng thời cũng đòi hỏi phải mau chóng nâng cao trình độ vǎn hoá, kỹ thuật của cán bộ, đảng viên. Rõ ràng những hiểu biết và kinh nghiệm cũ của Đảng ta trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là không đủ. Chỉ có nâng cao trình độ về mọi mặt, trước hết là về tư tưởng và lý luận, thì Đảng ta mới làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong, mới hoàn thành thắng lợi sứ mệnh lịch sử nặng nề của mình.
Đồng thời, việc tǎng cường tính chất giai cấp và tính chất tiên phong của Đảng còn đòi hỏi, về mặt tổ chức, phải chǎm lo nâng cao tiêu chuẩn đảng viên, thanh trừ những phần tử xấu và quá kém ra khỏi Đảng, thu hút vào Đảng những phần tử ưu tú, tiên tiến trong công nhân, nông dân xã viên, trí thức cách mạng. Chúng ta phải chǎm lo cải thiện thành phần xã hội của đảng viên, trước hết là chú trọng tǎng cường thành phần công nhân, đồng thời, do đặc điểm xã hội nước ta, cũng phải chú trọng tǎng cường thêm thành phần bần nông trong Đảng. Đó là một bộ phận trọng yếu của công tác xây dựng Đảng về mặt tổ chức, là một vấn đề thuộc về nguyên tắc cần giữ vững; trong tình hình Đảng ta hiện nay, điều đó càng có ý nghĩa to lớn, nó có quan hệ đến việc củng cố và nâng cao tính chất của Đảng. Chúng ta cần khắc phục những nhận thức lệch lạc, mơ hồ, đánh giá quá thấp ý nghĩa của vấn đề thành phần xuất thân ở trong Đảng, không chú ý phát triển Đảng vào công nhân và bần nông, không chú ý bồi dưỡng, đề bạt cán bộ xuất thân công nông; đó là những biểu hiện về lập trường giai cấp không vững vàng trong công tác xây dựng Đảng. Mặt khác, chúng ta cũng ngǎn ngừa những khuynh hướng lệch lạc của chủ nghĩa thành phần như hẹp hòi trong việc phát triển Đảng cũng như trong công tác cán bộ.
Sau nữa, việc tǎng cường tính chất giai cấp và tính chất tiên phong của Đảng cũng đòi hỏi phải giữ vững chế độ tập trung dân chủ, tác phong phê bình tự phê bình, đi đường lối quần chúng và nâng cao việc thực hiện những nguyên tắc đó lên một bước cho thích hợp với yêu cầu và điều kiện của tình hình mới.
Phấn đấu để tǎng cường tính chất giai cấp và tính chất tiên phong của Đảng, đó chính là phương hướng chung của các phần sau đây của bản báo cáo nói về các mặt của công tác xây dựng Đảng.
II- Nâng cao trình độ lý luận
và tư tưởng trong Đảng
Cương lĩnh chung của Điều lệ Đảng, một lần nữa, xác nhận "Đảng Lao động Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của đảng", nhấn mạnh việc học tập và vận dụng có sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
1. Thật vậy, thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong 30 nǎm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng, chính là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin vận dụng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Ngay từ khi mới ra đời, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng ta đã phân tích tình hình giai cấp và các mâu thuẫn của xã hội Việt Nam, đề ra cương lĩnh cách mạng đúng đắn. Trong suốt quá trình cách mạng, trước mọi tình thế phức tạp, khi cao trào lúc thoái trào, khi bí mật lúc công khai, khi đấu tranh chính trị lúc đấu tranh vũ trang, nhờ có chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng ta nói chung đã đề ra đường lối, phương châm, chính sách của mình một cách đúng đắn, không ngừng đưa cách mạng Việt Nam tiến lên những bước mới, giành những thắng lợi mới. Điều đó chứng tỏ sức sống mạnh mẽ của học thuyết Mác-Lênin, chứng tỏ Đảng ta tuyệt đối trung thành với học thuyết đó và đã biết vận dụng nó một cách sáng tạo vào điều kiện của Việt Nam.
Nhưng để đi đến thắng lợi vĩ đại ngày nay, Đảng ta đã trải qua những vấp váp và thất bại tạm thời. Đường lối chung của Đảng cǎn bản là đúng, nhưng trên một số vấn đề, trong một chừng mực nhất định, Đảng ta đã phạm thiếu sót, sai lầm. Trước đây, có lúc do nhận thức không đầy đủ về mối quan hệ giữa nhiệm vụ dân tộc và nhiệm vụ dân chủ, không biết kết hợp hai nhiệm vụ đó một cách đúng mức, chúng ta đã phạm phải một số lệch lạc hữu hoặc "tả" như trong chính sách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức và chính sách mặt trận. Sau khi hoà bình lập lại thì nhận thức hơi chậm về sự chuyển biến giai đoạn cách mạng ở miền Bắc, do đó, chậm đề ra đường lối chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, thiếu sự chuẩn bị cần thiết về vật chất và cán bộ cho công cuộc phát triển kinh tế và vǎn hoá theo chủ nghĩa xã hội.
Điều đó cũng nói lên rằng, tuy Đảng ta, nói chung, đã nắm được vũ khí lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhưng có lúc chưa khéo kết hợp lý luận đó với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Quá trình trưởng thành của Đảng ta cũng chính là quá trình không ngừng đấu tranh khắc phục những biểu hiện hữu hoặc "tả" trong Đảng, quá trình học tập dần dần nắm vững và vận dụng đúng đắn những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Hữu hay là "tả" đều đã gây những tổn thất cho sự nghiệp cách mạng của Đảng. Hai mặt đó thường dính líu với nhau, như có những biểu hiện "tả" mà gốc là hữu. Trong khi tiến hành đấu tranh tư tưởng, có những lúc chúng ta không thấy hết sự diễn biến phức tạp của nó, chỉ nhấn mạnh một chiều như trong cải cách ruộng đất thì một chiều chống hữu, trong quá trình phát hiện và sửa chữa sai lầm của cải cách ruộng đất, khi phê phán "tả" lại thiếu đề phòng chạy sang hữu một cách đầy đủ, làm cho đường lối chính sách của Đảng không được quán triệt, tư tưởng và hành động của nhiều cán bộ, đảng viên lệch lạc từ phía này qua phía khác. Cho nên Đảng phải không ngừng tiến hành đấu tranh trên hai mặt trận chống hữu và chống "tả" để giữ vững đường lối đúng đắn của mình. Tùy tình hình cụ thể từng lúc, từng nơi, có thể và cần nhấn mạnh khắc phục một mặt nào đó là chính, song đồng thời phải phê phán mặt kia, phòng lệch từ mặt này sang mặt khác.
Để sửa chữa khuyết điểm sai lầm một cách có hiệu quả, chúng ta cần tìm đến nguồn gốc của những khuyết điểm sai lầm ấy.
Đảng ta sinh trưởng trong một nước nông nghiệp lạc hậu, nền sản xuất nhỏ chiếm ưu thế, số đông đảng viên xuất thân từ các thành phần tiểu tư sản, được rèn luyện trong cách mạng dân tộc dân chủ, cho nên ý thức dân tộc và dân chủ khá cao, song ý thức giai cấp còn ít được bồi dưỡng. Vì vậy bên cạnh tư tưởng vô sản là tư tưởng chỉ đạo, tư tưởng tiểu tư sản còn tồn tại khá sâu trong Đảng.
Sau khi hoà bình lập lại, phạm vi hoạt động của Đảng ta ở thành thị được mở rộng, cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản diễn ra gay go, phức tạp, tư tưởng tư sản không ngừng ảnh hưởng tới Đảng ta. Trong hoàn cảnh cách mạng mới, mấy nǎm đầu, chúng ta lại chậm giáo dục một cách sâu sắc về chủ nghĩa xã hội, củng cố lập trường giai cấp công nhân cho cán bộ, đảng viên.
Ngoài ra, những tàn tích tư tưởng phong kiến trong một nước nông nghiệp lạc hậu cũng còn tồn tại trong nhiều đảng viên.
Vì vậy, sai lầm ở trong Đảng về lập trường, tư tưởng, trước hết là có nguồn gốc giai cấp sâu xa. Từ trước đến nay, nhất là mấy nǎm qua, Đảng ta đã chú ý đến việc củng cố lập trường quan điểm giai cấp công nhân cho cán bộ, đảng viên, phê phán lập trường, tư tưởng không vô sản và công tác đó đã có kết quả tốt. Nhưng chưa thể coi thế là đủ. Lúc này, trên những mức độ khác nhau, ở nhiều đồng chí, trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa chưa cao, lập trường giai cấp công nhân chưa vững, ranh giới giữa quan điểm vô sản và quan điểm không vô sản trên một số công tác không phân rõ, những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa quan liêu, mệnh lệnh, tác phong gia trưởng còn khá phổ biến.
Do đó, chúng ta phải tiếp tục bồi dưỡng tư tưởng vô sản trên cơ sở giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin một cách có hệ thống cho cán bộ, đảng viên, đấu tranh chống ảnh hưởng tư tưởng tư sản, chống tư tưởng tiểu tư sản, tiếp tục xoá bỏ tàn tích của tư tưởng phong kiến và tư tưởng không vô sản khác để tǎng cường đoàn kết nhất trí trong Đảng và nâng cao sức chiến đấu của Đảng.
Song, những khuyết điểm sai lầm trong Đảng, ngoài nguồn gốc về giai cấp còn có nguồn gốc về nhận thức. Trên cơ sở lập trường tốt, ý thức tốt, còn cần có phương pháp tư tưởng đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin, giữa hai cái đó có mối liên hệ chặt chẽ, không thể tách rời.
Trong Đảng ta, phương pháp tư tưởng chủ quan còn khá nặng biểu hiện ở chỗ không biết kết hợp đúng đắn lý luận với thực tiễn, dễ phạm sai lầm giáo điều chủ nghĩa hoặc kinh nghiệm chủ nghĩa.
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là công việc mới mẻ, kinh nghiệm của chúng ta còn thiếu, cho nên việc học tập kinh nghiệm của các Đảng anh em là rất quan trọng và cần thiết. Chúng ta cần động viên và tổ chức cho tốt việc học tập kinh nghiệm của Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em khác. Đồng thời chúng ta cần khắc phục bệnh giáo điều trong cán bộ lãnh đạo các cấp, biểu hiện trong việc học tập và áp dụng máy móc những kinh nghiệm của các nước anh em. Có những cán bộ đã không xem xét những kinh nghiệm đó một cách toàn diện, không xuất phát từ đặc điểm và điều kiện cụ thể của nước ta, trong nhiều trường hợp cứ đem những kinh nghiệm đó lắp nguyên vào nước ta một cách máy móc. Có những cán bộ xem thường kinh nghiệm của quần chúng, cho thực tiễn nước ta là nghèo nàn, họ chỉ thích đi học kinh nghiệm bên ngoài mà không chịu đi sâu nghiên cứu tình hình nước mình, không nǎng đi xuống cơ sở để học tập và tổng kết kinh nghiệm. Bệnh giáo điều đã hạn chế sức sáng tạo của Đảng và quần chúng, không phát huy được trí tuệ và kinh nghiệm của toàn Đảng. Bệnh giáo điều chẳng những chỉ do thiếu điều tra, nghiên cứu thực tế, không xuất phát từ đặc điểm tình hình của nước mình, mà còn do không học tập lý luận một cách cǎn bản và có hệ thống, vì vậy không phân tích được kinh nghiệm của các nước anh em, dễ đi tới bắt chước một cách mù quáng.
Mặt khác, nhiều cán bộ ít chịu học tập, tầm con mắt bị hạn chế bởi những kinh nghiệm cũ của mình, đã biến thành những người sự vụ tầm thường. Trong công tác, họ thiếu dự kiến, chỉ thấy việc trước mắt mà không thấy việc đằng xa, thấy cục bộ mà không thấy toàn cục, nắm việc nhỏ bỏ việc lớn, chấp hành chỉ thị nghị quyết của cấp trên một cách máy móc, thiếu chủ động, sáng tạo; đối với sự vật mới mẻ, họ chậm nhìn ra, tình hình đã biến đổi nhưng họ vẫn giữ những nhận thức cũ, do đó, dễ bảo thủ, hoặc lúng túng, mất phương hướng. Chủ nghĩa kinh nghiệm tồn tại khá phổ biến và ǎn sâu trong nhiều cán bộ, đảng viên, gây ra nhiều tác hại làm chậm bước tiến của cách mạng, song vì những tác hại đó thường không biểu hiện một cách đột xuất, cho nên có một số đồng chí chưa thấy hết tính chất nghiêm trọng của nó.
Chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa kinh nghiệm là biểu hiện của chủ nghĩa chủ quan, không biết kết hợp đúng đắn lý luận với thực tiễn, đều là do kém lý luận và không tổng kết nổi thực tiễn cách mạng của mình. Trước đây chúng ta chưa chú trọng phê phán và khắc phục nó một cách đầy đủ. Từ nay, để nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng, đi đôi với việc củng cố lập trường, quan điểm giai cấp của cán bộ, đảng viên, cần phải hết sức chú trọng khắc phục cả chủ nghĩa kinh nghiệm lẫn chủ nghĩa giáo điều, cần phải đem phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp lý luận với thực tiễn mà giáo dục sâu sắc trong toàn Đảng, nhất là trong cán bộ trung, cao cấp.
Ngoài ra, chúng ta phải đấu tranh chống chủ nghĩa xét lại và phải đề phòng ngǎn ngừa ảnh hưởng của nó vào trong Đảng. Trong những nǎm 1956-1957, khi chủ nghĩa xét lại đang tấn công vào phong trào cộng sản quốc tế, ở trong nước, nhân cơ hội Đảng ta tự phê bình về những sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, một số phần tử theo chủ nghĩa xét lại và một số phần tử tư sản phản động mà đại biểu là bọn Nhân vǎn giai phẩm đã đả kích vào sự lãnh đạo của Đảng trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, vǎn hoá, trong bọn này có cả một vài đảng viên. Một số đảng viên lập trường không vững, không phân biệt nổi đúng sai, ít nhiều chịu ảnh hưởng của chúng, hoài nghi, thậm chí có người cũng vào hùa, đả kích các cơ quan lãnh đạo và đường lối của Đảng.
2. Qua tình hình trên đây, chúng ta thấy rõ một vấn đề lớn và nổi bật lúc này là mâu thuẫn giữa nhu cầu công tác lãnh đạo với trình độ lý luận Mác - Lênin còn thấp, giữa tư tưởng vô sản và các tư tưởng không vô sản trong Đảng. Đấu tranh khắc phục mâu thuẫn đó, nâng cao trình độ lý luận và tư tưởng Mác - Lênin trong Đảng là một yêu cầu cơ bản của tình hình hiện nay nhằm bảo đảm và tǎng cường tính chất giai cấp, tính chất tiên phong và nâng cao sự lãnh đạo của Đảng. Sự lãnh đạo của Đảng chính xác hay không, khả nǎng tránh được và giảm bớt sai lầm có nhiều hay ít, điều quyết định trước hết là ở chỗ Đảng, mà chủ yếu là cán bộ cao cấp của Đảng, có nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin và có biết vận dụng vào điều kiện cụ thể của cách mạng nước mình hay không.
Mấy nǎm nay, chúng ta đã cố gắng kiện toàn hệ thống trường Đảng, chấn chỉnh việc học tập tại chức, đưa cán bộ lần lượt đi học lý luận dài hạn,... và đã thu được những kết quả tốt. Nhưng chưa đủ, chúng ta còn phải gắng công nhiều nữa.
Trong cán bộ, trước hết là cán bộ cao cấp và trung cấp, cần tǎng cường việc học tập chủ nghĩa Mác - Lênin một cách có hệ thống để họ có thể vận dụng vào việc xem xét và giải quyết những vấn đề trong công tác, vào việc nghiên cứu tình hình, tổng kết kinh nghiệm. Đồng thời phải có kế hoạch giáo dục từng bước cho đông đảo đảng viên, giúp họ có được những tri thức cơ bản về chủ nghĩa Mác - Lênin, chỉ rõ Đảng ta đã vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta thế nào.
Phải kết hợp học tập ở trường với học tập tại chức. Phải củng cố hệ thống trường Đảng, phải có kế hoạch trong 5, 6 nǎm tới bảo đảm hầu hết cán bộ cao cấp và trung cấp đều qua trường Đảng để được học tập có hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản. Mặt khác, phải cải tiến học tập tại chức cho thích hợp và có hiệu quả. Điều chủ yếu là mỗi cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần học tập, coi đó là một nghĩa vụ, một nhu cầu không thể thiếu, khắc phục mọi khó khǎn, tranh thủ mọi cơ hội mà học tập.
Trong các trường đại học và trung cấp của Nhà nước và các trường của các đoàn thể quần chúng cũng phải giảng dạy lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin một cách thích hợp. Cần cải tiến và nâng cao công tác xuất bản để giới thiệu và tuyên truyền rộng rãi chủ nghĩa Mác - Lênin trong Đảng và trong nhân dân.
Phải coi trọng việc đào tạo và tǎng cường đội ngũ cán bộ lý luận và cán bộ giảng dạy của Đảng, phải thành lập và kiện toàn các cơ quan nghiên cứu lý luận.
Mục đích của việc học tập chủ nghĩa Mác - Lênin và kinh nghiệm của các đảng anh em là nhằm vận dụng đúng đắn và có sáng tạo lý luận và kinh nghiệm đó vào việc giải quyết những nhiệm vụ cách mạng trong nước, để có thể nghiên cứu tình hình thực tế của nước mình, tổng kết kinh nghiệm của mình mà định ra đường lối phương châm, chính sách cho thích hợp. Cho nên phải chống lối học lý luận một cách giáo điều, lối tiếp thụ kinh nghiệm một cách mù quáng, phải đề cao phương pháp học tập lý luận liên hệ với thực tiễn, học tập kinh nghiệm một cách có phân tích; gắn liền việc học tập lý luận và kinh nghiệm của các nước anh em với việc điều tra nghiên cứu thực tế Việt Nam.
Về mặt này, việc tổng kết kinh nghiệm là một phương pháp có ý nghĩa trọng yếu. Tổng kết công tác chính là kết hợp lý luận với thực tiễn một cách chặt chẽ và sinh động nhất, vừa có tác dụng nâng cao trình độ lý luận, vừa nâng cao hiểu biết về thực tiễn cách mạng do đó, khắc phục có hiệu quả chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa kinh nghiệm. Một khâu yếu hiện nay trong công tác lãnh đạo của các cấp, các ngành là lối làm việc sự vụ, ít chú trọng tổng kết kinh nghiệm, hoặc có làm nhưng thường chất lượng chưa cao. Vì vậy đã ảnh hưởng một phần đến việc nâng cao chất lượng lãnh đạo, đến sự đoàn kết nhất trí trong Đảng, đến việc đẩy mạnh giáo dục và đấu tranh tư tưởng để quán triệt đường lối, chính sách của Đảng. Lịch sử đấu tranh 30 nǎm qua của Đảng ta có những kinh nghiệm rất phong phú, cần xúc tiến việc nghiên cứu và tổng kết lịch sử Đảng; điều đó có tác dụng lớn đối với việc nâng cao trình độ lý luận, tư tưởng trong Đảng và giúp ích thiết thực cho công tác lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Đồng thời, từ nay việc tổng kết kinh nghiệm công tác phải cố gắng đi dần vào nền nếp, phải coi đó là trách nhiệm của các cấp uỷ và cán bộ lãnh đạo. Phải phấn đấu nâng cao chất lượng tổng kết, không phải chỉ dừng lại ở mức kinh nghiệm cụ thể, rời rạc mà phải đem chủ nghĩa Mác - Lênin soi rọi vào thực tế, nâng cao những kinh nghiệm cụ thể lên trình độ lý luận và tư tưởng, do đó rút ra những bài học sâu sắc, sinh động để giáo dục cho toàn Đảng.
Sau nữa, học tập muốn sâu sắc và thiết thực phải đi đôi với phê bình tự phê bình, phát hiện và đấu tranh chống những khuynh hướng tư tưởng và chính trị sai lầm, thông qua việc đó mà củng cố thêm một bước lập trường tư tưởng, phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Chỉnh huấn chính là một hình thức kết hợp học tập với phê bình tự phê bình mà kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng như của Đảng ta đã chứng tỏ là tốt. Có một số đồng chí không nhận rõ kết quả cǎn bản tốt của cuộc vận động chỉnh huấn nǎm 1952-1953, chỉ thấy khuyết điểm và không phân tích đúng đắn về nguyên nhân của những khuyết điểm đó, đi tới cho rằng từ nay không nên áp dụng biện pháp chỉnh huấn nữa. Như vậy là không đúng. Trong điều kiện mà ảnh hưởng tư tưởng không vô sản trong Đảng tồn tại khá nghiêm trọng, tinh thần phê bình tự phê bình chưa cao và chưa được thường xuyên, thì từng thời gian nhất định, trước những tư tưởng, tác phong lệch lạc có tính chất phổ biến, cản trở nhiều cho sự nghiệp cách mạng, việc tiến hành chỉnh huấn để đi sâu giáo dục và phê phán một cách tập trung những khuyết điểm đó là điều cần thiết và có lợi. Song chỉnh huấn phải dựa trên cơ sở tổng kết công tác một cách rõ ràng; phải theo phương châm trị bệnh cứu người, lấy nâng cao tư tưởng làm chính và không kết hợp với xử trí về tổ chức; phải đi theo đường lối quần chúng, phát huy tự do tư tưởng, đề cao tính tự nguyện, tự giác của cán bộ, đảng viên. Trong chỉnh huấn trước đây, chủ yếu chúng ta nhằm củng cố lập trường giai cấp, gột rửa ý thức tư tưởng sai lầm, điều đó là đúng; rồi đây chúng ta cần phải chú trọng thêm nữa đến vấn đề chỉnh đốn phương pháp tư tưởng và tác phong công tác. Tất nhiên, không thể lạm dụng hình thức chỉnh huấn vì tự công tác chỉnh huấn chưa đủ giải quyết mọi vấn đề, nó không thể thay thế cho việc phê bình tự phê bình thường xuyên ở trong Đảng, cũng không thể thay thế cho việc học tập lý luận tại trường hoặc tại chức được.
Để cải tạo tư tưởng, củng cố lập trường, để việc học lý luận kết hợp được với thực tiễn sinh động, thì một phương pháp trọng yếu nữa là phải tạo mọi điều kiện cho cán bộ, đảng viên được học tập rèn luyện trong thực tế sinh hoạt và đấu tranh của quần chúng.
Chúng ta đã từng đưa cán bộ đi tham gia những cuộc vận động quần chúng rộng lớn như cải cách ruộng đất, hợp tác hoá nông nghiệp, cải tiến quản lý xí nghiệp, cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh... và bước đầu tổ chức cho cán bộ tham gia lao động chân tay. Kết quả đã chứng tỏ đó là những trường học lớn rèn luyện cán bộ rất tốt. Trong tương lai, chúng ta cần tiếp tục có kế hoạch đưa cán bộ đi tham gia các phong trào cách mạng của quần chúng. Cần đặt thành chế độ cán bộ tham gia lao động chân tay; cần đặt chế độ cán bộ các cấp mỗi nǎm phải xuống hẳn cơ sở sinh hoạt và công tác trong một thời gian nhất định. Đó là phương pháp thiết thực để củng cố lập trường giai cấp, khắc phục tệ quan liêu, đồng thời cũng giúp cán bộ kết hợp lý luận với thực tiễn
III- Mở rộng dân chủ và tǎng cường tập trung trong sinh hoạt của đảng
Tập trung dân chủ luôn luôn là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng. Nó bảo đảm cho sự thống nhất về tư tưởng và chính trị của Đảng được củng cố bằng sự thống nhất về tổ chức; nó làm cho Đảng thành một đội ngũ có kỷ luật chặt chẽ, có sức chiến đấu cao, đồng thời phát huy cao độ tính chủ động và sáng tạo của đông đảo đảng viên. Nhờ đó, Đảng ta đã vượt qua muôn vàn khó khǎn nguy hiểm, không ngừng lớn mạnh và hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị của mình.
Tuy nhiên, trước đây do điều kiện hoạt động bí mật và kháng chiến lâu dài ở một nước thuộc địa và nông nghiệp lạc hậu và do công tác giáo dục của Đảng chưa đầy đủ, cho nên ý thức tập trung và dân chủ của đảng viên chưa cao; mặt khác trình độ và hình thức áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trước đây cũng không còn thích hợp với điều kiện ngày nay nữa.
Ngày nay, trên miền Bắc hoàn toàn giải phóng, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển kinh tế và vǎn hoá được tiến hành một cách có kế hoạch và cân đối, theo quy mô ngày càng lớn. Trong những mối quan hệ giữa cá nhân với tổ chức, giữa trung ương với địa phương, giữa cấp uỷ Đảng với các ngành, giữa các địa phương, các ngành với nhau, đang đặt ra nhiều yêu cầu mới phải giải quyết. Việc kiện toàn chế độ sinh hoạt tập trung dân chủ trong Đảng đã được đề ra một cách cấp thiết.
Vì vậy, cương lĩnh chung của Điều lệ một lần nữa xác nhận tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức của Đảng, vạch ra những phương hướng chính, nêu lên những lệch lạc phải khắc phục để tǎng cường việc thực hiện nguyên tắc đó. Chương II của Điều lệ lại đề ra những quy định cụ thể, trong đó có những điểm bổ sung quan trọng nhằm kiện toàn chế độ tập trung dân chủ.
1. Để mở rộng dân chủ và tǎng cường tập trung, một vấn đề quan trọng bậc nhất hiện nay là phải tǎng cường lãnh đạo tập thể hơn nữa.Cương lĩnh chung của Điều lệ đã ghi rõ đó là nguyên tắc lãnh đạo cao nhất của Đảng. Sự lãnh đạo tập thể bảo đảm cho các chủ trương, chính sách của Đảng được đúng đắn trên cơ sở tập trung được kinh nghiệm, ý kiến của đảng viên và quần chúng, giảm được những sai lầm chủ quan, phiến diện, lại phát huy được tinh thần trách nhiệm, tính tích cực và sáng tạo của đảng viên, củng cố được sự thống nhất trong Đảng. Trước đây, mặc dù bị nhiều khó khǎn khách quan hạn chế, Đảng ta vẫn cố gắng bảo đảm những chủ trương chính sách lớn đều do một tập thể thích đáng bàn bạc và quyết định. Từ hoà bình lập lại, nhất là sau khi Hội nghị Trung ương lần thứ mười nǎm 1956 phê phán nghiêm khắc những hiện tượng độc đoán, mệnh lệnh, thì sinh hoạt dân chủ, tập thể trong Đảng đã có nhiều tiến bộ. Nhưng sự lãnh đạo tập thể trong Đảng vẫn còn có những thiếu sót.
Đại hội đại biểu toàn quốc và Đại hội đại biểu các cấp là sinh hoạt tập thể lớn nhất trong Đảng. Nó phát huy tính sáng tạo của đông đảo đảng viên tham gia thảo luận và quyết định những vấn đề trọng yếu của Đảng, nâng cao tinh thần trách nhiệm của đảng viên đối với vận mệnh và công tác của Đảng, lại có tác dụng tǎng cường tập trung thống nhất trong Đảng. Thế nhưng, đã 10 nǎm nay, trừ Đại hội ở các đảng bộ cơ sở và các đảng bộ trong quân đội, chúng ta mới triệu tập lại Đại hội đại biểu toàn quốc và Đại hội đại biểu các cấp từ huyện trở lên. Điều đó một phần là do tình hình khách quan có những khó khǎn. Để bù đắp vào việc chậm triệu tập Đại hội chúng ta đã mở Hội nghị toàn quốc, những cuộc hội nghị cấp uỷ mở rộng, hội nghị cán bộ và hội nghị toàn đảng bộ. Nhưng những cuộc hội nghị đó cũng không thể có tác dụng đầy đủ như Đại hội đại biểu. Vả lại, trước sự chuyển biến của tình hình, nếu Trung ương không triệu tập được Đại hội toàn quốc thì ít ra cũng cần triệu tập Hội nghị toàn quốc. Không làm được như vậy là một thiếu sót. Trong điều kiện ở miền Bắc ngày nay, cần phải triệu tập đều đặn Đại hội đại biểu toàn quốc và các cấp, và phải phát huy hơn nữa vai trò của Đại hội trong sinh hoạt nội bộ của Đảng.
Giữa hai Đại hội, cơ quan lãnh đạo cao nhất ở các cấp là Ban Chấp hành các cấp. Ban Chấp hành phải lãnh đạo tập thể một cách nghiêm chỉnh. Ở các cấp, nói chung hội nghị các ban chấp hành được triệu tập đều đặn nhưng chất lượng thường chưa cao, tác dụng của lãnh đạo tập thể chưa được phát huy đầy đủ. Hội nghị nhiều, nhưng thiếu chuẩn bị chu đáo, có những vấn đề quan trọng mà có khi chưa trải qua điều tra nghiên cứu, chưa thu thập, lắng nghe ý kiến, kinh nghiệm của đảng viên và quần chúng, lại cũng chưa tạo điều kiện cho mỗi cấp uỷ viên nắm vững vấn đề, suy nghĩ chuẩn bị trước, cho nên cuộc họp kéo dài mà thảo luận không sâu và không quyết nghị dứt khoát được hoặc phải quyết nghị một cách miễn cưỡng. Trong hội nghị, có những ý kiến trái nhau nhưng không nêu lên để thảo luận cho rõ đúng sai, hoặc thảo luận xong nhưng không có kết luận dứt khoát, không có biểu quyết rõ ràng. Sau hội nghị, có trường hợp mỗi cấp uỷ viên hiểu và làm mỗi cách. Có khi đối với vấn đề đã có quyết nghị mà nhận thức cũng không thống nhất. ở các ban chuyên môn và đảng đoàn, trong lề lối làm việc tập thể cũng có những thiếu sót tương tự như ở các ban chấp hành. Vì vậy, để cho lãnh đạo tập thể khỏi sa vào hình thức, chỉ họp hội nghị đều đặn chưa đủ mà trọng yếu hơn là phải phấn đấu nâng cao chất lượng các cuộc hội nghị.
Trong Đảng ta, lãnh đạo tập thể chưa được phát huy đầy đủ là do nhiều nguyên nhân. ý thức dân chủ, quan điểm quần chúng trong một số trường hợp còn thiếu sót; bệnh gia trưởng trong một số cán bộ phụ trách còn khá nặng. Có một số đồng chí bí thư cấp uỷ hoặc cấp uỷ viên phụ trách các ngành không thấy rằng mình phải đứng trong tổ chức mà làm việc, trái lại họ đã thoát ly và đứng lên trên tổ chức. Có những việc quan trọng, họ cũng theo lối cá nhân quyết định mà không đưa ra một tập thể thảo luận. Hoặc về hình thức cũng triệu tập hội nghị đều đặn nhưng vì ý thức tôn trọng tập thể không đầy đủ cho nên không chuẩn bị chu đáo mọi điều kiện bảo đảm cho hội nghị đạt kết quả tốt; trong hội nghị lại đả thông, giải thích nhiều mà ít chịu bàn bạc, lắng nghe ý kiến của các uỷ viên. Mặt khác, có những cấp uỷ viên không thấy hết trách nhiệm của mình, chỉ chǎm chú đến phần công việc mình phụ trách mà thiếu ý thức chǎm lo đến việc lãnh đạo chung của cấp uỷ. Một số cấp uỷ viên lại thiếu độc lập suy nghĩ hoặc có thái độ nể nang, không thẳng thắn phát biểu ý kiến của mình.
Ngoài nguyên nhân về tư tưởng thì còn do trình độ lý luận, chính trị của các cấp uỷ viên chưa được nâng cao đúng mức so với đòi hỏi của nhiệm vụ, làm cho chất lượng của hội nghị bị hạn chế. Sau nữa cũng do chế độ tổ chức, lề lối làm việc còn thiếu kinh nghiệm và chưa có những quy định rõ ràng.
Vì vậy, để thiết thực tǎng cường lãnh đạo tập thể, trước hết chúng ta chú trọng giải quyết về tư tưởng, khắc phục đầu óc cá nhân gia trưởng cũng như tình trạng thiếu trách nhiệm, đồng thời phải coi trọng cải tiến lề lối làm việc, nâng cao trình độ của cán bộ, đảng viên về mọi mặt.
Trong khi đề cao vai trò của tập thể, quyết không thể hạ thấp vai trò của cá nhân, của bộ phận. Lãnh đạo tập thể phải kết hợp chặt chẽ với phân công phụ trách. Lãnh đạo tập thể không đi đôi với phân công phụ trách thì dễ sa vào tình trạng bàn suông, nói mà không làm; ngược lại, phân công phụ trách không dựa trên cơ sở lãnh đạo tập thể thì sẽ đi tới phân tán và độc đoán, chuyên quyền. Thời gian gần đây, khi nhấn mạnh lãnh đạo tập thể, có những nơi đã hạ thấp trách nhiệm của cá nhân, của bộ phận chuyên trách. Sau khi quyết nghị, không phân công rõ ràng, không định trách nhiệm dứt khoát. Đối với việc thuộc quyền hạn của mình, cán bộ hoặc bộ phận chuyên trách cũng không có thái độ dũng cảm phụ trách, mà lại ỷ lại, chờ đợi tập thể quyết định, làm cho công việc bị chậm trễ. Cá nhân phụ trách không đầy đủ đã làm cho lãnh đạo tập thể bị hạ thấp, đi vào sự vụ, vụn vặt. Vì vậy, chúng ta phải đề cao tinh thần trách nhiệm của cá nhân, của bộ phận chuyên trách, phải kết hợp đúng đắn lãnh đạo tập thể với phân công phụ trách.
2. Tuân theo nguyên tắc tập trung dân chủ, chúng ta còn phải giải quyết đúng đắn quan hệ giữa đảng viên và tổ chức của Đảng, làm chosinh hoạt trong Đảng vừa dân chủ, vừa có kỷ luật. Người đảng viên là người chủ trong Đảng, Đảng ta luôn luôn tôn trọng mọi quyền dân chủ của đảng viên. Ngày nay, chúng ta đã có điều kiện để mở rộng hơn nữa quyền dân chủ của đảng viên và bảo đảm cho đảng viên có thể sử dụng đầy đủ những quyền đó. Chúng ta cần khắc phục thói độc đoán, mệnh lệnh của một số cán bộ và cơ quan lãnh đạo không chịu lắng nghe ý kiến và nghiên cứu kinh nghiệm của đảng viên, và cán bộ cấp dưới, không khuyến khích đảng viên, cán bộ phê bình và kiểm tra công tác của mình, do đó mà nội bộ kém đoàn kết thống nhất, cán bộ, đảng viên kém phấn khởi công tác. Mặt khác, hiện tượng tự do tản mạn, vô tổ chức, vô kỷ luật còn khá nặng. Đối với chỉ thị, nghị quyết của cấp trên, có những đồng chí chưa có thái độ chấp hành vô điều kiện. Bộ phận hoặc cá nhân mình chưa đồng ý thì không tích cực chấp hành, hay thậm chí không chấp hành nếu lợi ích bộ phận hoặc cá nhân không được thỏa mãn. Có những đồng chí và cấp uỷ bên dưới không thực hiện đúng chế độ báo cáo và xin chỉ thị, có nơi đã tự động đặt ra chính sách. Có những đồng chí nói nǎng vô trách nhiệm, phê bình lãnh đạo một cách vô nguyên tắc, gặp những vấn đề thuộc về đường lối chính sách mà cấp trên chưa quyết nghị cũng tự tiện phát biểu trước cấp dưới và quần chúng. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, việc khắc phục những lệch lạc này lại càng cấp thiết hơn bao giờ hết. Vì vậy, để nâng cao sức chiến đấu của Đảng, củng cố sự thống nhất trong Đảng, chúng ta phải đấu tranh trên hai mặt, vừa phải mở rộng dân chủ nội bộ, vừa phải tǎng cường kỷ luật trong Đảng, kiên quyết khắc phục mọi biểu hiện của chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa cá nhân.
3. Đối với Đảng ta hiện nay, để kiện toàn chế độ tập trung dân chủ, còn cần phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới, giữa cấp uỷ Đảng và các ngành. Vấn đề đặt ra là phải tǎng cường hơn nữa sự lãnh đạo tập trung thống nhất vào Trung ương Đảng trong phạm vi toàn quốc và tập trung thống nhất vào các cấp uỷ Đảng trong những công việc thuộc phạm vi địa phương; ra sức khắc phục tình trạng phân tán và tập trung quan liêu.
Những nǎm vừa qua, chúng ta đã đấu tranh khắc phục tình trạng phân tán do ảnh hưởng của thời kỳ kháng chiến, nhưng trong một thời gian khá dài lại đã tập trung quyền hạn vào các ngành dọc ở trung ương một cách quá đáng dẫn tới vừa tập trung quan liêu vừa phân tán khá nặng. Có việc thuộc phương châm, chính sách lớn không được tập trung vào sự lãnh đạo của Trung ương Đảng; một số ngành tự ý ra chỉ thị cho cấp dưới thi hành những vấn đề thuộc chủ trương chính sách có quan hệ đến đông đảo quần chúng và cán bộ, đảng viên. ở địa phương, nhiều cấp uỷ không thực hiện được sự lãnh đạo toàn diện và thống nhất đối với các ngành; có ngành thành gần như một hệ thống riêng, không tôn trọng đầy đủ sự lãnh đạo của cấp uỷ. Các cấp uỷ Đảng gần như chịu nhiều đầu mối lãnh đạo làm cho công tác của địa phương có lúc lúng túng, bị động; hoặc bị bó tay bởi một số chế độ, thủ tục không hợp lý của các cơ quan ngành dọc cấp trên. Ngược lại, cũng có tình trạng cấp uỷ địa phương không có ý thức tôn trọng các quyết định của ngành dọc cấp trên trong phạm vi quyền hạn đã được Trung ương giao cho, hoặc có ý kiến trái lại mà không bàn bạc với ngành dọc.
Tình trạng phân tán và tập trung quan liêu đã gây nhiều tác hại. Nó làm yếu sự lãnh đạo thống nhất và toàn diện của Đảng, hạn chế tính chủ động và tính sáng tạo của địa phương và của cấp dưới. Nó làm cho tệ quan liêu, bao biện, sự vụ, giấy tờ thêm phát triển.
Trung ương Đảng đã từng phê phán nghiêm khắc tình trạng đó. Qua kiện toàn tổ chức, chúng ta đã bắt đầu tiến hành phân cấp quản lý, định rõ trách nhiệm, quyền hạn của các cấp, các ngành; qua cải tiến quản lý xí nghiệp, chúng ta đã bước đầu sửa đổi một số chế độ. Các cấp uỷ Đảng dần dần đã đi sâu vào lãnh đạo kinh tế và vǎn hoá, sự lãnh đạo mỗi ngày một toàn diện hơn. Song để thích ứng với đòi hỏi của nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta cần phải tiếp tục phấn đấu cải tiến công tác lãnh đạo, cải tiến tổ chức và lề lối làm việc theo phương hướng tǎng cường tập trung và mở rộng dân chủ hơn nữa. Chúng ta phải ra sức chống mọi biểu hiện phân tán, cục bộ, địa phương chủ nghĩa và mọi biểu hiện tập trung quan liêu như Cương lĩnh chung của Điều lệ Đảng đã chỉ ra. Chúng ta phải thực hiện đúng đắn mối quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới, giữa các địa phương và các ngành với nhau như đã ghi trong chương II của Điều lệ. Chúng ta phải thực hiện sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Trung ương Đảng trong phạm vi toàn quốc, đồng thời tôn trọng và mở rộng quyền hạn cho các tổ chức Đảng ở địa phương, phát huy tính tích cực của họ. Dưới điều kiện lãnh đạo tập trung thống nhất của Trung ương trong phạm vi toàn quốc và của các cấp uỷ địa phương trong phạm vi địa phương, chúng ta phải phát huy khả nǎng của các ngành; cấp uỷ Đảng địa phương và ngành dọc cấp trên cần lắng nghe ý kiến của nhau, tôn trọng quyền hạn của nhau, cần thực hiện sự hợp tác giúp đỡ lẫn nhau theo tinh thần đồng chí. Dựa theo những tinh thần trên đây của bản Điều lệ, cần có những quy định cụ thể cho thích hợp với yêu cầu của từng thời kỳ phát triển kinh tế và vǎn hoá.
Để khắc phục tình trạng phân tán và tập trung quan liêu, một mặt phải nâng cao trình độ lãnh đạo, trình độ tổ chức của cán bộ, đảng viên; mặt khác phải ra sức chống chủ nghĩa cá nhân cục bộ và bản vị. Những tư tưởng sai lầm đó đã làm cho một số đồng chí có lúc chỉ biết đòi quyền hạn cho mình, vun xới lợi ích hẹp hòi của ngành mình, địa phương mình mà không thấy lợi ích toàn cục, không tôn trọng sự lãnh đạo thống nhất của cấp trên, không tôn trọng quyền hạn của cấp dưới, thiếu hợp tác giúp đỡ các ngành, các địa phương khác. Nếu không chú trọng khắc phục những tư tưởng sai lầm ấy, thì khi nền kinh tế phát triển hơn nữa, phân cấp quản lý rộng rãi hơn nữa, tác hại sẽ rất lớn.
Đó là mấy vấn đề cần giải quyết để kiện toàn chế độ sinh hoạt tập trung dân chủ trong Đảng, làm cho Đảng tǎng cường đoàn kết thống nhất và không ngừng phát huy sức mạnh lãnh đạo của mình.
IV- thấu suốt đường lối quần chúng của Đảng
Cương lĩnh chung của Điều lệ Đảng, một lần nữa, nhấn mạnh về đường lối quần chúng của Đảng. Dựa vào những kinh nghiệm đã qua, làm rõ vấn đề đó trong toàn Đảng là một điều bức thiết, nhất là trong hoàn cảnh Đảng lãnh đạo chính quyền như ngày nay.
1. Đảng ta là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời phải là một bộ phận của giai cấp công nhân, ǎn sâu bám chắc trong giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Sức mạnh của nhân dân là ở chỗ có Đảng tiên phong lãnh đạo; sức mạnh vô địch của Đảng là ở chỗ liên hệ mật thiết với quần chúng đông đảo.
Đảng ta có truyền thống tốt đẹp liên hệ với quần chúng. Mọi chủ trương chính sách của Đảng ta đều xuất phát từ yêu cầu nguyện vọng của quần chúng, khéo kết hợp lợi ích trước mắt với lợi ích lâu dài của quần chúng. Trong mọi công tác, Đảng ta đều quán triệt tinh thần tin tưởng và dựa chắc vào lực lượng quần chúng, đều nhằm phát động quần chúng lên, nâng cao tính tích cực và tính sáng tạo của họ trong cuộc đấu tranh giành giải phóng và xây dựng cuộc sống mới. Nhờ vậy, Đảng ta được quần chúng hết lòng tín nhiệm và ủng hộ.
Từ sau khi phát hiện sai lầm trong cải cách ruộng đất, có những đồng chí không muốn phát động quần chúng nữa, cho rằng phát động quần chúng lên thì sẽ dẫn tới những sai lầm quá trớn, "tả" khuynh; họ tỏ thái độ miệt thị hoặc giội nước lạnh vào quần chúng cơ bản khi phong trào gặp phải những vấp váp, khuyết điểm nhất thời. Thật ra, sai lầm của cải cách ruộng đất không phải do việc phát động quần chúng gây nên mà trái lại, chính vì trong nhiều trường hợp cán bộ ta đã không phát động quần chúng một cách đầy đủ, phạm quan liêu, mệnh lệnh khá nặng. Nếu chỉ đơn thuần dựa vào biện pháp hành chính, không phát động hàng triệu nông dân đứng lên đấu tranh thì cải cách ruộng đất đã không thể có kết quả tốt.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng; toàn bộ cuộc cách mạng do Đảng ta lãnh đạo chính là một cuộc phát động quần chúng rộng lớn, liên tục. Cách mạng Tháng Tám, kháng chiến trường kỳ, cải cách ruộng đất đều là những cuộc phát động quần chúng vĩ đại; không có phát động quần chúng thì không có bất cứ một cuộc cách mạng nhân dân chân chính nào. Một phong trào quần chúng rộng lớn khó tránh khỏi có những khuyết điểm cục bộ và tạm thời; chỉ có tiếp tục dựa hẳn vào quần chúng cơ bản nhất thì mọi khuyết điểm đó mới được khắc phục một cách mau chóng và triệt để.
Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay, có đồng chí nhấn mạnh vai trò của khoa học kỹ thuật, điều đó là đúng, nhưng lại đi tới xem thường vai trò của quần chúng, đem hai cái đó tách rời nhau hoặc đối lập nhau. Khoa học kỹ thuật là do tổng kết từ kinh nghiệm lao động sản xuất và đấu tranh xã hội của quần chúng mà có và xét đến cùng cũng do quần chúng sáng tạo nên. Khoa học kỹ thuật phải phục vụ thực tiễn sản xuất và đấu tranh của quần chúng, và qua đó mà được phát triển không ngừng. Cho nên chúng ta rất xem trọng khoa học và kỹ thuật nhưng phải trên cơ sở phát huy đầy đủ nhiệt tình cách mạng của quần chúng và kết hợp chặt chẽ phát động quần chúng với phát triển khoa học kỹ thuật.
Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể thực hiện thắng lợi bằng hoạt động tự giác của hàng triệu người lao động. Công cuộc hợp tác hoá nông nghiệp tiến triển nhanh chóng và lành mạnh, việc phát triển sản xuất nông nghiệp mấy nǎm nay có những thành tích lớn, chủ yếu là do phát động được nông dân trên cơ sở nâng cao giác ngộ về tư tưởng, đã phát huy được nhiệt tình và óc sáng tạo của họ. Cải tiến quản lý xí nghiệp thực chất cũng là cuộc phát động quần chúng công nhân tham gia quản lý xí nghiệp, nhờ đó, đã có tác dụng rõ rệt thúc đẩy sản xuất phát triển.
Chúng ta đang sống trong một thời đại mà quần chúng nhân dân nước ta, hơn bao giờ hết, có ý thức sâu sắc làm chủ nước nhà, làm chủ vận mệnh của mình và, bằng những hành động tự giác, dồi dào sức sáng tạo, đang thúc đẩy lịch sử tiến lên mau chóng. Đó chính là thắng lợi to lớn của đường lối quần chúng của Đảng.
2. Từ nay về sau, cần phải phát động quần chúng mỗi ngày một rộng rãi và tiến lên những bước cao hơn nữa để đẩy tới sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước mắt là hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất. Muốn thế, phải kiên quyết khắc phục những tư tưởng, tác phong trái ngược với đường lối quần chúng còn khá nặng trong Đảng.
Bệnh quan liêu đang tồn tại trong khá nhiều cán bộ, nhân viên các cơ quan của Đảng và của Nhà nước.
Có những đồng chí không có đầy đủ tinh thần trách nhiệm đối với quần chúng, thiếu ý thức phục vụ quần chúng một cách vô điều kiện. Họ vì cấp trên hơn là vì quần chúng mà làm việc. Họ không thông cảm với yêu cầu, nguyện vọng của quần chúng, thiếu quan tâm đến đời sống của quần chúng; thái độ làm việc thì uể oải, quan dạng.
Có những đồng chí, tuy không phải là không muốn phục vụ quần chúng, nhưng lại xem thường trí tuệ và kinh nghiệm của quần chúng, họ đứng lên trên mà lãnh đạo quần chúng chứ không hoà mình với quần chúng và học tập quần chúng để lãnh đạo quần chúng. Vì vậy mà chủ trương, quyết định của họ thường không phù hợp với tình hình khách quan, không phản ánh nguyện vọng và tập trung kinh nghiệm của quần chúng, thậm chí phạm sai lầm nghiêm trọng. Đã có những nơi, việc xây dựng chỉ tiêu kế hoạch, việc đề ra biện pháp này hoặc là biện pháp khác chỉ cǎn cứ theo cảm giác và nguyện vọng chủ quan của cán bộ lãnh đạo, bất chấp ý kiến và kinh nghiệm của quần chúng và điều kiện cụ thể từng nơi khác nhau. Vì không đi sát học hỏi quần chúng, nghe ý kiến quần chúng, cho nên sự lãnh đạo của họ thường thiếu cụ thể, không kịp thời phát hiện và giải quyết những vấn đề mới trong phong trào. Cũng vì không tin vào lực lượng quần chúng, cho nên trong công tác, họ thường phạm phải bao biện, làm thay, ban ơn cho quần chúng, rốt cuộc là nếu không thất bại thì kết quả cũng không tốt.
Trong hoàn cảnh Đảng nắm chính quyền và lãnh đạo công cuộc xây dựng trong hoà bình, một khuynh hướng nữa của chủ nghĩa quan liêu là bệnh giấy tờ, bệnh hình thức có phần phát triển hơn trước. Có những đồng chí suốt ngày loanh quanh ở bàn giấy, bận rộn vào công việc giấy tờ và hội nghị quá nhiều. Vì không sát với thực tiễn sinh động của phong trào quần chúng, nhiều chỉ thị, nghị quyết của các cấp chỉ là những lời kêu gọi chung chung, không giúp đỡ thiết thực cho công tác của cấp dưới. Sau khi đã ra chỉ thị thì không kiểm tra đôn đốc, không tìm hiểu tình hình chấp hành và rút kinh nghiệm. Bộ máy tổ chức thì cồng kềnh, nhiều tầng nhiều nấc, có việc thì dẫm chân lên nhau, có việc thì chẳng ai phụ trách, gây ra lãng phí sức người sức của, chậm trễ công việc.
Bệnh quan liêu lại đi liền với mệnh lệnh. Một số cán bộ, đảng viên thường dựa vào uy tín của Đảng, vào quyền lực của Nhà nước, thúc ép quần chúng phải làm theo ý muốn của mình; trước những khó khǎn trong công tác, họ thiên về dùng biện pháp mệnh lệnh mà không biết kiên nhẫn tuyên truyền, thuyết phục quần chúng, không biết cách khéo biến chính sách, khẩu hiệu của Đảng thành của quần chúng. Vì vậy, nhiều khi chính sách của Đảng rất đúng, nhưng thực hiện không thành công hoặc kết quả bị hạn chế. Họ chỉ cǎn cứ vào trình độ của một số ít phần tử tiên tiến, vượt quá trình độ thực tế của số đông quần chúng trung gian và quần chúng lạc hậu, mắc phải thói chủ quan nóng vội. Như trong vận động hợp tác hoá nông nghiệp và cải tiến kỹ thuật canh tác, đối với những người chậm hưởng ứng, một số cán bộ đã không hiểu nỗi bǎn khoǎn thắc mắc của những người này, không biết kiên nhẫn thuyết phục, chờ đợi quần chúng, không biết xây dựng điển hình tốt, lấy thực tế để giáo dục quần chúng, lại cứ gò ép thúc bách, thậm chí có thái độ khinh rẻ, đả kích số quần chúng đó.
Cũng có những đồng chí, về hình thức thì có giáo dục tuyên truyền quần chúng, nhưng thực ra chỉ là lối "đả thông" một chiều, không thành tâm bàn bạc, lắng nghe mọi ý kiến của quần chúng, qua thực tiễn mà khảo nghiệm chính sách của ta, để sửa chữa sai lầm hoặc kịp thời thay đổi chủ trương khi tình hình đã biến đổi. Họ không chịu bình tĩnh suy xét những ý kiến phản đối, coi những người này là "bảo thủ", "lạc hậu" làm cho quần chúng e ngại, không dám nói thật ý nghĩ của mình. Vì vậy, trong công tác chúng ta đã từng phạm phải những sai lầm đáng lẽ có thể tránh được, phát hiện và sửa chữa chậm những sai lầm đáng lẽ có thể phát hiện và sửa chữa sớm hơn.
Quan liêu mệnh lệnh đều là những tác phong rất xấu, phá hoại mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng, đã từng gây nhiều tác hại cho sự nghiệp cách mạng của chúng ta.
Trong những đồng chí mắc phải bệnh quan liêu, mệnh lệnh, có một số thì do trình độ tổ chức và lề lối làm việc của họ không tiến kịp trước phạm vi công tác ngày một rộng lớn phức tạp cho nên sinh ra ôm đồm sự vụ, quan liêu vất vả, bao biện làm thay; nhưng cũng có một số thì do chịu ảnh hưởng tư tưởng và tác phong xấu của giai cấp bóc lột; sau khi trở về thành thị thì những ảnh hưởng đó trong một số đồng chí lại càng nặng.
Gần đây, trong Đảng đã chú ý phê phán bệnh quan liêu mệnh lệnh. Qua chỉnh huấn và kiện toàn tổ chức, lề lối làm việc và tác phong lãnh đạo của các cấp đã có những tiến bộ. Nhưng chưa đủ. Khắc phục bệnh quan liêu, mệnh lệnh vẫn là một vấn đề cấp bách trong Đảng.
Trong khi ra sức khắc phục bệnh quan liêu, mệnh lệnh, chúng ta phải đồng thời phê phán bệnh theo đuôi quần chúng vì đó cũng là một biểu hiện xa rời đường lối quần chúng của Đảng. Nếu chủ nghĩa quan liêu mệnh lệnh hạ thấp vai trò của quần chúng trong cách mạng thì bệnh theo đuôi, ngược lại, hạ thấp vai trò tiên phong lãnh đạo của Đảng, và vì vậy đều phá hoại mối quan hệ đúng đắn giữa Đảng lãnh đạo với quần chúng nhân dân.
ý kiến và kinh nghiệm của quần chúng vô cùng phong phú, song vì quần chúng gồm nhiều tầng lớp khác nhau, trình độ giác ngộ chênh lệch, cho nên ý kiến thường tản mạn, phân tán, phiến diện; vai trò lãnh đạo của Đảng chính là ở chỗ vận dụng lập trường quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin mà nghiên cứu, chỉnh lý, hệ thống hoá những ý kiến đó, rồi đề ra chủ trương chính sách đúng.
Nhưng có những cán bộ, đảng viên tiếp thụ ý kiến của quần chúng mà không qua phân tích phê phán, có khi họ chỉ cǎn cứ vào yêu cầu của một số quần chúng lạc hậu mà không thấy yêu cầu của số đông quần chúng, hoặc chỉ thấy lợi ích bộ phận, trước mắt mà không thấy lợi ích toàn bộ, lâu dài của quần chúng. Họ bỏ mất vai trò lãnh đạo của Đảng, giảm nhẹ tác dụng giáo dục thuyết phục của Đảng đối với quần chúng. Như sau khi phát hiện sai lầm của cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, chúng ta đấu tranh khắc phục những hiện tượng mệnh lệnh, thiếu dân chủ với quần chúng thì một số cán bộ, đảng viên đã có những lệch lạc khác: họ không giữ vững cương vị tiên phong của mình, không dám bảo vệ chân lý, đấu tranh với những tư tưởng lạc hậu. Có đồng chí đã lầm lẫn những luận điệu phản động của những phần tử xấu, bao gồm những phần tử tư sản phản động, với ý kiến và yêu cầu của quần chúng; thậm chí, trước những luận điệu và hoạt động phá hoại của địch, một số nơi cũng rụt rè không dám trấn áp. Hiện nay, trong công tác thu mua, thu nợ, sản xuất nông nghiệp... bên cạnh hiện tượng quan liêu, mệnh lệnh, những hiện tượng theo đuôi quần chúng, không tích cực vận động, thuyết phục, khắc phục những tư tưởng lạc hậu, bảo thủ trong quần chúng cũng khá phổ biến.
Chúng ta không thể vượt quá xa trước quần chúng nhưng cũng không được tụt lại sau quần chúng mà phải cǎn cứ vào trình độ của số đông tích cực dẫn dắt quần chúng tiến lên phía trước. Đi đường lối quần chúng với tǎng cường vai trò lãnh đạo của Đảng là một, tách rời hoặc đối lập hai cái đó là phạm sai lầm.
Sau nữa, đi đường lối quần chúng với quán triệt đường lối giai cấp của Đảng là nhất trí. Phải đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân mới hiểu nổi và vận dụng đúng đắn đường lối quần chúng của Đảng. Hiện nay có đồng chí còn những nhận thức và thái độ đối xử không đúng với các tầng lớp quần chúng. Đối với công nhân, có những đồng chí còn chưa thật tin và dựa vào họ, thiếu quan tâm bồi dưỡng họ về tinh thần và vật chất, không thiết thực đề cao vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân. Đối với nông dân lao động, có đồng chí nhấn mạnh vào mặt tiêu cực, không thấy mặt tích cực của họ là chủ yếu và không chấp hành thấu suốt đường lối "dựa hẳn vào bần nông và trung nông lớp dưới, đoàn kết chặt chẽ với trung nông". Đối với tiểu thương, có đồng chí không thấy mặt chủ yếu của họ là người lao động, không quan tâm đến công ǎn việc làm và đời sống của họ. Đó đều là những biểu hiện không quán triệt đường lối giai cấp mà cũng là không quán triệt đường lối quần chúng của Đảng trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
3. Từ nay về sau, để chấp hành thấu suốt đường lối quần chúng của Đảng, chúng ta cần thiết thực tǎng cường một loạt biện pháp về tư tưởng và tổ chức.
Phải tǎng cường giáo dục đường lối quần chúng một cách sâu sắc trong toàn Đảng, phê phán nghiêm khắc mọi khuynh hướng xa rời đường lối đó của Đảng.
Phải cải tiến lề lối làm việc và tác phong lãnh đạo: đặt thành nền nếp và chế độ cán bộ lãnh đạo đi xuống cơ sở; mọi công tác (ít nhất là những công tác quan trọng) đều phải điều tra nghiên cứu, có chỉ đạo riêng, làm thí điểm để rút kinh nghiệm lãnh đạo chung; triệu tập những hội nghị tại chỗ để trực tiếp tổng kết và học tập kinh nghiệm của quần chúng.
Phải tǎng cường mối liên hệ giữa các cơ quan của Đảng và của Nhà nước với quần chúng: tinh giản tổ chức cơ quan; mở rộng sinh hoạt dân chủ và sử dụng những hình thức thích hợp để quần chúng có thể dễ dàng tiếp xúc, phản ánh ý kiến, giám đốc và thẳng thắn phê bình cán bộ và các cơ quan. Phát huy tác dụng của Hội đồng nhân dân các cấp, Đại hội công nhân viên chức trong xí nghiệp, v.v..
Phải tǎng cường kiểm tra và giám sát của Đảng đối với cán bộ và cơ quan Nhà nước, giữ gìn kỷ luật nghiêm minh, xử lý thích đáng đối với những phần tử quan liêu gây tác hại nghiêm trọng cho Đảng và cho Nhà nước.
Cần chú trọng phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng, làm cho những tổ chức ấy thành nơi thật sự tập hợp và phản ánh ý kiến của quần chúng cho Đảng và các cơ quan Nhà nước.
V- Tǎng cường đoàn kết và thống nhất trong đảng trên cơ sở đẩy mạnh phê bình và tự phê bình
1. Đảng phải là một khối đoàn kết thống nhất về tư tưởng, chính trị và tổ chức. Đó là sinh mệnh của Đảng. Đó là cơ sở để thống nhất giai cấp, đoàn kết nhân dân, đánh đổ quân thù.
Đảng ta có truyền thống đoàn kết thống nhất tốt đẹp. Lúc thuận lợi cũng như lúc khó khǎn, lúc bình thường cũng như lúc cách mạng chuyển biến, toàn Đảng cǎn bản đều giữ vững lòng tin tưởng và đoàn kết nhất trí chung quanh Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch. Khối đoàn kết thống nhất đó dựa trên cơ sở tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin và ngày càng được củng cố qua cuộc đấu tranh chống kẻ thù và qua cuộc đấu tranh khắc phục những khuynh hướng sai lầm trong Đảng.
Song, Đảng ta có nhược điểm là trình độ lý luận và tư tưởng của đảng viên còn kém, tác phong phê bình tự phê bình còn yếu, lại hoạt động lâu dài trong hoàn cảnh bí mật và nước nhà bị chia cắt, một số vấn đề trong lịch sử Đảng chưa có điều kiện tổng kết rõ ràng; những điều đó đã ảnh hưởng một phần đến sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng.
Hiện nay, cách mạng nước ta bước vào một giai đoạn mới, cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội đang diễn ra gay go phức tạp, thêm nữa, tình hình thế giới và trong nước có nhiều phát triển mới, điều đó không thể không ảnh hưởng vào trong Đảng. Cho nên chúng ta phải đề phòng, ngǎn ngừa những hiện tượng kém đoàn kết thống nhất có thể xảy ra ở trong Đảng. Ngoài ra, trong lúc Đảng nắm chính quyền, kẻ thù càng tǎng cường mọi thủ đoạn chia rẽ, mua chuộc, hủ hoá cán bộ, đảng viên, có khi còn luồn tay chân của chúng vào Đảng để phá hoại.
Cho nên Cương lĩnh chung của Điều lệ Đảng, xuất phát từ tình hình và yêu cầu mới, nhấn mạnh vấn đề tǎng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng là hoàn toàn cần thiết.
2. Sự đoàn kết trong Đảng chỉ có thể dựa trên cơ sở chủ yếu là sự nhất trí về tư tuởng và chính trị đi đôi với sự thống nhất về tổ chức. Vì vậy, việc tǎng cường giáo dục tư tưởng và chính trị cho cán bộ, đảng viên, việc kiện toàn chế độ tập trung dân chủ trong Đảng là điều có ý nghĩa quyết định. Những vấn đề này đã được nói tới trong các phần trên.
Điều cần nêu ở đây là vấn đề đấu tranh nội bộ, phê bình và tự phê bình trong Đảng, là vấn đề quan hệ giữa đoàn kết thống nhất và đấu tranh trong Đảng.
Đoàn kết thống nhất không phủ nhận đấu tranh, trái lại, phải luôn luôn đấu tranh khắc phục mâu thuẫn thì mới đạt tới đoàn kết thống nhất ngày càng cao hơn. Chỉ có trải qua đấu tranh với những khuynh hướng tư tưởng chính trị sai lầm thì mới bảo vệ được sự nhất trí và củng cố kỷ luật trong Đảng. Nhưng có một số đồng chí tỏ ra rất ngại khi nói đến đấu tranh trong Đảng, họ sợ như thế sẽ phá vỡ đoàn kết. Những quan điểm trái nhau thường không được tranh luận đến cùng cho rõ trắng đen, phải trái, những khuyết điểm trong công tác thường không được đem ra phê phán thẳng thắn, nghiêm chỉnh; trong nhiều cấp uỷ và tổ chức có không khí xuề xoà, "dĩ hoà vi quý". Đó chỉ là sự đoàn kết thống nhất giả tạo, hình thức, vì nó xây dựng trên những quan hệ cá nhân chứ không xuất phát từ tư tưởng Mác - Lênin, từ đường lối chính sách của Đảng. Đó là một khuynh hướng của chủ nghĩa tự do tiểu tư sản mà chúng ta phải kiên quyết khắc phục.
Ngược lại, một tình trạng khá phổ biến khác là đấu tranh phê bình không nhằm vào những vấn đề nguyên tắc của Đảng, của cách mạng. Do trình độ lý luận thấp mà bỏ qua không đấu tranh những vấn đề về tư tưởng, về nguyên tắc nhưng lại đấu tranh gay gắt về những việc vụn vặt, không thuộc về nguyên tắc; thậm chí thái độ phê bình thiếu thiện ý, có những động cơ cá nhân không tốt. Đó là một thứ đấu tranh không cần thiết và có hại cho sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Đó là hạ thấp và tầm thường hoá việc phê bình và tự phê bình trong Đảng.
Đấu tranh trong Đảng là đấu tranh trên những vấn đề thuộc về nguyên tắc. Đảng yêu cầu mọi đảng viên phải nhất trí trên những vấn đề thuộc về nguyên tắc cơ bản. Chúng ta phải kiên quyết giữ vững chân lý, phải đấu tranh không điều hoà với mọi khuynh hướng sai lầm. Còn đối với những vấn đề lặt vặt, không thuộc về nguyên tắc thì có thể có những ý kiến khác nhau, đó là điều khó tránh khỏi và cũng không có hại mấy. Đối với những vấn đề này, không nên đấu tranh bừa bãi để có thể gây ra chia rẽ về mặt tổ chức.
Hình thức đấu tranh tư tưởng trong Đảng là phê bình và tự phê bình. Chúng ta phải phân biệt rõ ràng phương thức đấu tranh chống kẻ thù giai cấp ngoài xã hội với phương thức đấu tranh trong nội bộ Đảng. Trừ một số rất ít những phần tử phản cách mạng và những phần tử đầu cơ mà Đảng phải thẳng tay vạch mặt và đuổi ra khỏi hàng ngũ mình, còn đối với những đồng chí phạm sai lầm mà không tự giác, chỉ cần họ sẵn sàng tiếp thụ lẽ phải và cố gắng sửa chữa thì việc phê bình họ phải tiến hành với tinh thần đồng chí, theo phương châm trị bệnh cứu người, nhằm mục đích giáo dục và đoàn kết đồng chí. Việc thi hành kỷ luật với những đồng chí phạm sai lầm nghiêm trọng là cần thiết để giữ gìn kỷ luật nghiêm minh của Đảng, song kỷ luật cũng là nhằm giáo dục đồng chí đó và làm bài học giáo dục các đồng chí khác. Tuyệt đối không thể lạm dụng hình thức kỷ luật, áp dụng bừa bãi các biện pháp xử trí về tổ chức, vì phương pháp thô bạo đó không thể giải quyết đến tận gốc những vấn đề tư tưởng. Đối với những đồng chí phạm sai lầm, phải có thái độ thực sự cầu thị, phải phân tích cụ thể bản chất và nguyên nhân đẻ ra sai lầm thì mới nâng cao giác ngộ về tư tưởng của đồng chí đó và rút ra những bài học bổ ích giáo dục cho các đồng chí khác.
Trong Đảng ta, có những đồng chí chưa hiểu hết mục đích và phương châm của phê bình và tự phê bình. Họ phê bình không nhằm vào việc mà cốt nhằm vào người, không làm rõ vấn đề tư tưởng đúng sai ra sao mà lại nhằm đả kích con người cho hả giận. Về thái độ phê bình thì không thực sự cầu thị, thiếu điều tra nghiên cứu, chỉ thấy khuyết điểm, không thấy ưu điểm của người khác. Đối với đồng chí phạm sai lầm thì khinh rẻ, ghét bỏ, thiên về trừng trị mà không có tinh thần giúp đỡ đồng chí, không tin vào sức cải tạo, tiến bộ của đồng chí. Người được phê bình vì vậy mà sinh ra bi quan, mất hết lòng hǎng hái và nhuệ khí trong công tác. Đó là một lệch lạc nữa cần khắc phục.
Đảng ta giàu tính chiến đấu cách mạng chính là ở chỗ Đảng luôn luôn phát huy phê bình và tự phê bình, không ngại vạch trần những thiếu sót trong công tác của mình, luôn luôn đấu tranh với những cái lạc hậu, lỗi thời để đẩy sự nghiệp cách mạng tiến tới không ngừng. Trong hoàn cảnh Đảng nắm chính quyền, chúng ta lại càng có điều kiện mở rộng phê bình, thu hút đông đảo quần chúng tham gia đấu tranh phát hiện và sửa chữa những khuyết điểm của Đảng, làm cho cuộc đấu tranh đó có hiệu quả hơn và nhằm củng cố thêm mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng. Mấy nǎm qua, đi đôi với mở rộng sinh hoạt dân chủ trong Đảng và trong nhân dân, việc phê bình và tự phê bình đã có những tiến bộ. Việc động viên quần chúng tiến hành phê bình công khai trên báo chí, trong các đại hội quần chúng bước đầu đã có những kết quả tốt. Song, hoàn cảnh Đảng nắm chính quyền cũng đang làm cho một số đồng chí sinh ra quan liêu, kiêu ngạo, không tiếp thụ nổi sự phê bình của đồng chí và của quần chúng.
Giữa phê bình và tự phê bình, thì tự phê bình còn yếu. Giữa phê bình từ trên xuống và phê bình từ dưới lên thì phê bình từ dưới lên còn rất yếu. Có tình trạng đó chủ yếu là do nhiều cán bộ lãnh đạo các cấp đã nhiễm phải bệnh quan liêu và tác phong gia trưởng, thích được ca tụng hơn là phê bình, nghiêm khắc với người, dễ dãi với mình, còn nặng tính toán cá nhân, sợ mất thể diện, mất địa vị do đó, không khuyến khích được cấp dưới và quần chúng mạnh dạn phê bình lãnh đạo. Trước những ý kiến của bên dưới trái với ý kiến mình, lãnh đạo thường không bình tĩnh suy sét, cân nhắc kỹ càng, có khi lại quy kết cho cấp dưới một cách thiếu thận trọng là "quan điểm mơ hồ", "lập trường không vững"; nếu những ý kiến phê bình đụng chạm đến cá nhân mình thì có khi còn thành kiến, trù người đã phê bình. Hoặc có cán bộ và cơ quan lãnh đạo tiếp thụ phê bình một cách chiếu lệ, không thiết thực sửa chữa. Thái độ không tốt đó đã hạn chế rất nhiều việc phê bình từ dưới lên, đã không động viên được đông đảo cán bộ đảng viên góp phần tích cực và sáng tạo vào sự nghiệp của Đảng. Quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới, giữa lãnh đạo và bị lãnh đạo vì vậy, có chỗ không được tốt.
Chúng ta phải chú trọng khuyến khích phê bình từ dưới lên. Đó chính là biểu hiện của phương pháp lãnh đạo đi đường lối quần chúng, là biểu hiện chủ yếu của việc mở rộng sinh hoạt dân chủ trong Đảng. Đảng viên và quần chúng bên dưới tham gia càng đông đảo vào sinh hoạt chính trị của Đảng và của Nhà nước thì lãnh đạo càng bớt chủ quan, các khuyết điểm trong công tác càng mau chóng được phát hiện và khắc phục, tính tích cực và tính sáng tạo của đông đảo đảng viên và quần chúng càng được phát huy, quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới, giữa Đảng và quần chúng càng đoàn kết nhất trí.
Để phát huy phê bình từ dưới lên, chúng ta phải giáo dục cho mỗi cán bộ, đảng viên có ý thức về quyền lợi và trách nhiệm của mình là đóng góp vào sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời chúng ta yêu cầu mọi cán bộ và cơ quan lãnh đạo phải gương mẫu tự phê bình, phải khuyến khích và ủng hộ việc phê bình từ dưới lên. Cán bộ và cơ quan lãnh đạo phải khiêm tốn, bình tĩnh lắng nghe, suy xét mọi ý kiến phê bình của đảng viên và quần chúng, kể cả những ý kiến phản đối, miễn là người phê bình có ý định tốt và đề đạt ý kiến trong phạm vi tổ chức. Đảng ta nghiêm khắc phê phán và khi cần thiết, phải có kỷ luật thích đáng với những phần tử lợi dụng quyền lực của mình để trấn áp sự phê bình của cấp dưới. Chúng ta phải quy định thành chế độ nền nếp phê bình và tự phê bình trong Đảng và phải có những hình thức, biện pháp thích hợp để thu hút quần chúng ngoài Đảng tham gia ý kiến phê bình công tác của Đảng và đảng viên; tất nhiên phải đề phòng kẻ địch và phần tử xấu lợi dụng phê bình để chia rẽ, phá hoại.
Nếu chúng ta biết mở rộng đấu tranh, phê bình và tự phê bình trong Đảng một cách đúng đắn thì sự đoàn kết thống nhất trong Đảng ngày càng được củng cố vững chắc, không có một khó khǎn trở ngại nào mà Đảng không vượt qua được.
VI- Tǎng cường hơn nữa vai trò lãnh đạo
của đảng
1. Vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng, điều đó đã được lịch sử đấu tranh cách mạng 30 nǎm qua của nhân dân ta chứng minh rõ ràng. Nhiệm vụ cách mạng khó khǎn phức tạp ngày nay càng đòi hỏi phải củng cố hơn nữa vai trò lãnh đạo của Đảng.
Bọn thù địch của chủ nghĩa xã hội biết rõ như vậy cho nên, một trong những mục tiêu chính của chúng là nhằm tấn công vào sự lãnh đạo của Đảng ta. Chúng ta thấy rõ điều đó trong những hoạt động phá hoại của bọn Nhân vǎn giai phẩm nǎm 1956-1957. Những lúc Đảng gặp khó khǎn như hồi đó chính là những dịp thử thách lớn về lập trường tư tưởng của mỗi cán bộ, đảng viên. Số rất đông đã nêu cao lòng trung thành với Đảng, đoàn kết chặt chẽ chung quanh Trung ương, kiên quyết bảo vệ sự lãnh đạo của Đảng. Song, có những cán bộ, đảng viên đã tỏ ra không vững vàng trước cơn thử thách đó. Nhiều đồng chí kém cảnh giác chính trị, chậm nhận ra âm mưu của kẻ thù, hoặc tỏ ra nhu nhược yếu đuối trước sự tấn công của chúng và trước những tư tưởng sai lầm trong Đảng, không dũng cảm bảo vệ chân lý, bảo vệ Đảng. Một số ít đồng chí thì hoang mang dao động đến cao độ, không phân biệt nổi đúng sai, phải trái, hoài nghi sự lãnh đạo của Đảng, thậm chí, có đồng chí vào hùa với bọn Nhân vǎn giai phẩm đả kích lại Đảng, hoặc nhân cơ hội đề cao cá nhân, bài xích các cơ quan lãnh đạo của Đảng.
Cuộc đấu tranh giữa nhân dân ta với đế quốc và bè lũ tay sai, giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản còn diễn ra lâu dài và phức tạp. Bất cứ trong tình hình nào, nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi đảng viên là phải bảo vệ Đảng, bảo vệ vai trò lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện của Đảng, tỉnh táo đề phòng và kiên quyết đấu tranh chống mọi mưu đồ đả kích hoặc làm suy yếu sự lãnh đạo của Đảng bất kỳ trên lĩnh vực nào, và núp dưới hình thức nào.
2. Đảng là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân, là công cụ chủ yếu của nền chuyên chính vô sản, đó là một nguyên lý cơ bản trong học thuyết Lênin về xây dựng Đảng. Trong hoàn cảnh Đảng nắm chính quyền, nhất là trong thời kỳ chuyên chính vô sản, việc nhận rõ và nắm vững nguyên lý đó, việc nhận thức cho rõ và giải quyết đúng đắn mối quan hệ lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức khác trong hệ thống chuyên chính vô sản có ý nghĩa rất quan trọng.
Củng cố sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Đảng đối với mọi ngành, mọi mặt công tác của Nhà nước và của quần chúng là điều không thể thiếu để phối hợp chặt chẽ và đẩy mạnh công tác của các ngành theo đúng đường lối của Đảng. Hạ thấp, làm yếu vai trò lãnh đạo của Đảng thì không thể giữ vững và củng cố chuyên chính vô sản, không thể xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội và thực hiện thống nhất nước nhà.
Mặt khác, bộ máy Nhà nước và các tổ chức quần chúng là những bộ phận không thể thiếu trong hệ thống chuyên chính vô sản, là những sợi dây chuyền nối liền Đảng với quần chúng trên lĩnh vực này hoặc lĩnh vực khác. Vì vậy, coi thường vai trò của các tổ chức này, lầm lẫn Đảng với cơ quan chính quyền Nhà nước là một, đem Đảng bao biện làm thay cho các tổ chức chính quyền và tổ chức quần chúng đều là sai lầm.
Do nhận thức vấn đề này không rõ cho nên, trong quan hệ giữa một số cơ quan của Đảng với các tổ chức quần chúng, đã từng phát sinh những lệch lạc.
Đối với các đoàn thể quần chúng, một số cấp uỷ Đảng không chú ý lãnh đạo chặt chẽ để phát huy và tận dụng khả nǎng của các đoàn thể đó trong việc tổ chức, động viên quần chúng thực hiện các chính sách của Đảng. Ngược lại, có đoàn thể quần chúng thiên về chỉ đạo công tác theo ngành dọc, không chú ý đầy đủ đến việc lãnh đạo tập trung thống nhất của Trung ương và lãnh đạo phối hợp công tác của cấp uỷ Đảng bên dưới.
Song, vấn đề cần nói nhiều hơn là về quan hệ lãnh đạo giữa Đảng với các cơ quan Nhà nước.
Vì hiểu rằng vấn đề chính quyền là vấn đề cơ bản của cách mạng, Đảng ta chǎm lo củng cố chính quyền và giữ vững sự lãnh đạo của Đảng để chính quyền luôn luôn là một công cụ trung thành với giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đảng ta đã từng đấu tranh chống mọi âm mưu chia sẻ quyền lãnh đạo đó. Bộ máy chính quyền đã làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của mình vì nó luôn luôn được đặt dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.
Song hiện nay, đứng trước nhiệm vụ nặng nề của chính quyền trong giai đoạn cách mạng mới, để kiện toàn sự lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền, chúng ta còn phải tiếp tục đấu tranh khắc phục một số khuynh hướng lệch lạc.
Một là, có những cấp uỷ Đảng buông lỏng lãnh đạo đối với một số cơ quan Nhà nước, không nắm vững tình hình, không kiểm tra đôn đốc, không chỉ đạo chặt chẽ về mặt chấp hành phương châm, chính sách của Trung ương. Có những Đảng đoàn hoặc những đảng viên sau khi được Đảng giao cho phụ trách một ngành nào đó, đã không có ý thức tôn trọng đầy đủ sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, không giữ vững chế độ báo cáo và xin chỉ thị, coi ngành dọc của mình gần như một hệ thống biệt lập. Đó là khuynh hướng của chủ nghĩa phân tán, làm cho sự lãnh đạo của Đảng không thống nhất và toàn diện.
Hai là, có những cấp uỷ Đảng bao biện làm thay, can thiệp vụn vặt vào công việc của cơ quan Nhà nước, không biết sử dụng và phát huy vai trò của cơ quan Nhà nước. Có những cấp uỷ và cán bộ, đảng viên coi thường chính quyền Nhà nước, không nghiêm chỉnh chấp hành chỉ thị nghị quyết của cơ quan chính quyền cấp trên. Có những đảng viên phụ trách ở các ngành đã không chân thành hợp tác đoàn kết với các nhân sĩ và cán bộ ngoài Đảng, không bàn bạc thuyết phục những người ngoài Đảng làm cho họ tự giác tiếp thụ đường lối chính sách của Đảng. Đó là một khuynh hướng sai lầm của chủ nghĩa bè phái và chủ nghĩa mệnh lệnh.
Chúng ta phải khắc phục cả hai loại khuynh hướng sai lầm trên đây, xây dựng đúng đắn quan hệ lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan Nhà nước. Đảng phải nắm vững lãnh đạo các cơ quan Nhà nước làm cho ý chí của giai cấp công nhân và của nhân dân, làm cho đường lối chính sách của Đảng được thể hiện đầy đủ trong công tác của các cơ quan đó. Đảng lãnh đạo Nhà nước có nghĩa là: một mặt, các cấp uỷ Đảng phải đi sâu tìm hiểu tình hình, nghiên cứu đường lối chính sách trong công tác của các cơ quan đó, rồi thông qua Đảng đoàn hoặc bằng những thủ tục nhất định mà đưa đường lối chính sách đó vào thực hiện trong các cơ quan Nhà nước; mặt khác, các cấp uỷ Đảng phải cử cán bộ cốt cán vào trong các cơ quan Nhà nước, làm cho bộ phận lãnh đạo của Đảng trong một mức độ cần thiết lồng vào làm một với bộ phận lãnh đạo của chính quyền; những Đảng đoàn hoặc đảng viên phụ trách ở đó phải nghiêm khắc phục tùng sự lãnh đạo của cấp uỷ, đồng thời phải hợp tác đầy đủ với các nhân sĩ và cán bộ ngoài Đảng, tôn trọng chức vụ và quyền hạn của họ.
Trong các cơ quan Nhà nước, người đảng viên phải nêu gương hợp tác, đoàn kết tốt với các nhân sĩ và cán bộ ngoài Đảng. Họ đã có chức thì phải có quyền. Tất nhiên trong khi hợp tác và đoàn kết, phải đấu tranh khắc phục những quan điểm sai trái với đường lối của Đảng, có như thế mới đạt tới đoàn kết chặt chẽ và thực sự. Song, mọi thái độ hẹp hòi mệnh lệnh đều là sai lầm. Những nhân sĩ và cán bộ ngoài Đảng qua nhiều nǎm đi theo sự lãnh đạo và chịu sự giáo dục của Đảng, đã được cải tạo tư tưởng một phần, lập trường của họ ngày càng gần gũi với lập trường của Đảng. Về những mặt nào đó, họ có những ý kiến giúp ích cho sự lãnh đạo của Đảng. Ta biết học tập họ, thành thật bàn bạc với họ thì công tác của chúng ta có thể bớt chủ quan, phiến diện.
3. Bước vào giai đoạn cách mạng mới, mọi mặt công tác của chúng ta đều phát triển rất rộng và phức tạp. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đòi hỏi Đảng phải có sự lãnh đạo toàn diện và trước hết phải ra sức học tập, đi sâu vào lãnh đạo kinh tế và vǎn hoá. Một số cán bộ và tổ chức Đảng chậm nhận rõ bước ngoặt trong công tác lãnh đạo của Đảng, còn tách rời, đối lập hoạt động chính trị với hoạt động kinh tế, vǎn hoá, coi công tác Đảng chỉ là công tác đảng vụ thuần túy hoặc lãnh đạo chính trị chung chung.
Lúc này, xem xét và đánh giá hoạt động của mỗi tổ chức Đảng, mỗi cấp uỷ trước hết phải cǎn cứ vào kết quả đạt được về mặt lãnh đạo phát triển kinh tế và vǎn hoá. Quần chúng lúc này không những chỉ cần chúng ta tuyên truyền chính trị nâng cao giác ngộ cho họ, mà điều quan trọng là họ đang chờ đợi và đòi hỏi chúng ta đem lại cho họ những sự giúp đỡ thiết thực, những sự hướng dẫn cụ thể trong cuộc đấu tranh hàng ngày nhằm phát triển sản xuất và nâng cao đời sống.
Trong một số người còn lưu hành những quan điểm của bọn Nhân vǎn giai phẩm cho rằng Đảng chỉ có thể lãnh đạo chính trị, chứ không thể lãnh đạo vǎn hoá, khoa học, kỹ thuật được, vì Đảng không am hiểu những cái đó. Có những cán bộ, đảng viên cũng coi vǎn hoá, khoa học, kỹ thuật là thần bí, e ngại không dám đi sâu học tập và lãnh đạo những mặt công tác đó, thậm chí coi đó không thuộc phạm vi trách nhiệm lãnh đạo của mình.
Chúng ta đã từng phê phán những quan điểm sai lầm đó. Nói "chuyên môn thuần túy không cần chính trị lãnh đạo", đó chỉ là luận điệu lừa bịp của giai cấp tư sản. Chuyên môn không thể tách rời chính trị, bất cứ dưới chế độ xã hội nào, chuyên môn cũng phải đi theo đường lối của giai cấp thống trị, nhằm phục vụ lợi ích của giai cấp đó. Đảng cần phải lãnh đạo và hoàn toàn có thể lãnh đạo chuyên môn và kỹ thuật. Lãnh đạo chuyên môn không phải chỉ là lãnh đạo những vấn đề thuần túy nghiệp vụ mà trước hết và chủ yếu là lãnh đạo tư tưởng và chính trị, lãnh đạo về đường lối, phương châm, chính sách và về tổ chức trên lĩnh vực chuyên môn. Không có sự lãnh đạo đó của Đảng thì chuyên môn không thể phát triển lành mạnh, không thể phục vụ đắc lực cho chủ nghĩa xã hội. Kinh nghiệm thực tế đã chứng tỏ ở đâu và lúc nào mà Đảng buông lỏng lãnh đạo thì ở đó những đường lối quan điểm không vô sản nảy nở mau chóng và gây nhiều tác hại cho sự nghiệp cách mạng.
Song mặt khác, Đảng ta quyết không thể thỏa mãn với trình độ lãnh đạo hiện nay của mình. Nhiệm vụ cách mạng mới đòi hỏi Đảng ta phải ra sức cải tiến và nâng cao sự lãnh đạo của Đảng. Muốn thế, trước hết phải nâng cao nǎng lực lãnh đạo của cán bộ, đảng viên. Phần đông cán bộ đảng viên, trải qua rèn luyện trong cách mạng và kháng chiến, đã tích lũy được những hiểu biết về đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, song những hiểu biết về công tác quản lý kinh tế, vǎn hoá còn thiếu thốn. Chúng ta đang phải phấn đấu để cải biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có vǎn hoá và khoa học tiên tiến. Trước yêu cầu mới của cách mạng, cán bộ, đảng viên lúc này không những phải có trình độ tư tưởng chính trị vững mà lại còn phải có trình độ vǎn hoá, kỹ thuật, phải thông thạo nghiệp vụ của mình. Trình độ vǎn hoá, kỹ thuật của cán bộ, đảng viên chậm được nâng cao đang cản trở lớn tới việc tổ chức thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng. Nhiều cán bộ đảng viên đã có chuyển biến tốt về nhận thức, đang hǎng hái và bền bỉ học tập vǎn hoá, kỹ thuật nghiệp vụ, thiết thực phấn đấu nâng cao nǎng lực công tác của mình. Nhưng cũng có một số đồng chí thoả mãn với lối lãnh đạo tư tưởng và chính trị chung chung, chưa chịu khó đi sâu học tập vǎn hoá, khoa học kỹ thuật. Nếu chúng ta không mau chóng khắc phục tình trạng lạc hậu trong Đảng về công tác kinh tế, về vǎn hoá, khoa học, kỹ thuật thì công tác lãnh đạo không thể tốt và đi sâu, thì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội không thể đạt kết quả tốt. Cần tổ chức cao trào học tập trong Đảng và động viên đảng viên cán bộ trong Đảng cũng như cán bộ ngoài Đảng ra sức học tập, mạnh mẽ tiến vào mặt trận kinh tế, vǎn hoá, khoa học và kỹ thuật.
Đi đôi với tǎng cường lãnh đạo tư tưởng và chính trị, Đảng phải rất xem trọng lãnh đạo tổ chức, đó là một khâu yếu trong công tác lãnh đạo lúc này. Phải nhận rằng công tác tổ chức của chúng ta còn nhiều thiếu sót, chưa tiến kịp và có khi còn tách rời nhiệm vụ chính trị, chưa bảo đảm hoàn thành tốt đẹp nhiệm vụ chính trị. Việc tổ chức bộ máy cũng như việc đào tạo, bố trí cán bộ chưa được chuyển mạnh kịp với đòi hỏi của nhiệm vụ chính trị, kinh tế. Công tác kiểm tra, đôn đốc làm rất yếu; lề lối làm việc, tác phong công tác của nhiều cán bộ và cấp uỷ chưa vươn lên khỏi tình trạng phân tán, thủ công nghiệp, đại khái, sự vụ giấy tờ, không thích ứng với việc lãnh đạo kinh tế có kế hoạch.
Vì vậy, nâng cao trình độ lãnh đạo tổ chức lên ngang trình độ lãnh đạo chính trị để công tác tổ chức hoàn toàn bảo đảm thực hiện khẩu hiệu, nghị quyết của Đảng là một mặt trọng yếu của việc nâng cao sự lãnh đạo của Đảng lúc này.
Phần thứ hai
Những vấn đề cụ thể về điều lệ Đảng
I- Vấn đề đảng viên
Đây là một vấn đề chủ yếu trong công tác xây dựng Đảng, một trong những vấn đề cơ bản quyết định chất lượng và sức chiến đấu của Đảng.
Lúc Cách mạng Tháng Tám, Đảng ta chỉ có trên 5.000 đảng viên; ngày nay, ở miền Bắc đã có gần nửa triệu đảng viên (chiếm 3% dân số). Số lượng đảng viên như vậy không phải là quá ít, nhưng lực lượng phân phối không đều: đảng viên ở nhiều vùng tự do cũ chiếm tỷ lệ khá cao so với dân số; cơ sở của Đảng ở các thành phố, khu công nghiệp, vùng mới giải phóng và miền núi còn yếu. Tỷ lệ thành phần đảng viên xuất thân từ công nhân và bần cố nông tuy đã chiếm 54,54% nhưng chưa được nâng lên mức cần thiết; thành phần công nhân, nhất là công nhân trực tiếp sản xuất lại càng quá ít.
Đại đa số đảng viên về cǎn bản rất tốt; trải qua rèn luyện thử thách trong kháng chiến cứu nước và trong đấu tranh chống phong kiến, đã tỏ ra trung thành tận tụy với Đảng và đã đáp ứng yêu cầu của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Ngày nay đông đảo đảng viên đang ra sức phấn đấu để đáp ứng yêu cầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa và đã thu được nhiều kết quả. Những thành tích lớn lao của Đảng trước hết là do sự cố gắng của toàn thể đảng viên. Nhưng ngày nay đông đảo đảng viên về trình độ lý luận và chính trị chưa được nâng lên mức độ cần thiết. Trình độ vǎn hoá của 85,85% đảng viên còn ở cấp I; sự hiểu biết về khoa học, kỹ thuật của nhiều đồng chí lại quá thấp. Tác dụng của đảng viên nói chung chưa được nâng cao đầy đủ. Bên cạnh đó, còn có một số ít quá kém, chây lười, bỏ công tác, bỏ sinh hoạt. Đảng tạm đóng cửa một thời gian khá lâu. Việc đó chẳng những ảnh hưởng đến số lượng đảng viên mà còn bộc lộ những nhược điểm mới về chất lượng của Đảng. Số đảng viên trẻ tỷ lệ quá thấp. Những lực lượng trẻ, mới lớn lên qua các phong trào, một thời gian dài không được kịp thời bổ sung vào Đảng làm cho tổ chức của Đảng chưa phản ánh được sinh động những giá trị mới trong đời sống của quần chúng và phần nào đã hạn chế việc tǎng cường sức chiến đấu của Đảng.
Tình hình trên đây đòi hỏi Đảng phải ra sức phát huy hơn nữa những ưu điểm, kiên quyết khắc phục những khuyết điểm và nhược điểm trong vấn đề đảng viên. Một mặt phải nâng cao hơn nữa chất lượng của Đảng, mặt khác phải tiến hành phát triển Đảng một cách thường xuyên. Yêu cầu đó lại càng cấp thiết trong giai đoạn mà Đảng ta đang lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, một cuộc cách mạng vĩ đại, sâu sắc và triệt để nhất từ xưa đến nay, đồng thời lại phải lãnh đạo nhân dân cả nước đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Bởi vậy, trước nhiệm vụ nặng nề của cách mạng, trước tình hình thực tế của Đảng ta, với những kinh nghiệm quý báu về vấn đề đảng viên mà Đảng đã thu thập được, nhất thiết Đảng phải nâng cao hơn nữa tiêu chuẩn của đảng viên, trên cơ sở đó mà củng cố Đảng, tǎng cường và cải tiến hơn nữa công tác phát triển Đảng, làm cho Đảng ngày càng vững mạnh.
1. Nâng cao tiêu chuẩn của đảng viên là một yêu cầu cấp thiết và cũng là một thắng lợi của Đảng, đánh dấu sự trưởng thành của Đảng.
Đảng ta đang lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhằm xoá bỏ vĩnh viễn giai cấp bóc lột, xây dựng một xã hội mới. Người vào Đảng phải là người "có lao động, không bóc lột". Đó là điểm sửa đổi mấu chốt trong điều 1 nói về điều kiện đảng viên. Điều đó là rất cần thiết bởi vì lao động là quang vinh, là bản chất của giai cấp công nhân; bóc lột là xấu xa, là trái với bản chất của Đảng ta, trái với nhiệm vụ cách mạng mà Đảng đang lãnh đạo toàn dân ra sức phấn đấu để thực hiện. Điều kiện trên đây của đảng viên chỉ rõ Đảng ta chẳng những không kết nạp những người bản thân thuộc thành phần bóc lột, mà còn chỉ rõ Đảng không thể kết nạp những người tuy thuộc thành phần lao động nhưng còn có hành vi bóc lột người khác. Điều kiện đó còn đòi hỏi mọi đảng viên phải biết phân biệt ranh giới giữa lao động và bóc lột, chẳng những trên hành động thực tế hàng ngày mà còn cả trên nhận thức tư tưởng. Người đảng viên nào không làm như vậy thì sẽ không thể là đảng viên.
Danh nghĩa cao quý của người đảng viên biểu hiện ở nhiệm vụ đảng viên ghi trong Điều lệ Đảng. Nâng cao danh nghĩa và tiêu chuẩn người đảng viên phải thể hiện chủ yếu trong việc nâng cao yêu cầu về nhiệm vụ của đảng viên. Phải cǎn cứ vào nhiệm vụ chính trị của Đảng, cǎn cứ vào tình hình hiện nay của đảng viên, mà nâng cao một cách thích đáng và bổ sung thêm những nhiệm vụ ghi trong Điều lệ cũ.
Đảng ta là một đảng chiến đấu. Chúng ta xây dựng Đảng chẳng những trên cơ sở thống nhất tư tưởng mà cả trên cơ sở phấn đấu cho việc thực hiện đường lối cách mạng của Đảng. Đảng viên chẳng những phải tích cực phấn đấu mà còn phải biết cách phấn đấu cho có kết quả tốt. Điều đó biểu hiện tính chất tiên phong chiến đấu của Đảng ta. Trong thực tế, đông đảo đảng viên đã vượt mọi khó khǎn, chịu đựng gian khổ, phát huy sáng kiến, hoàn thành nhiệm vụ của mình một cách vẻ vang. Nhưng còn những đảng viên thi hành chính sách và nghị quyết của Đảng một cách hình thức, bị động, có khi còn làm trái lại. Có những đồng chí không tham gia sinh hoạt Đảng đều đặn, thiếu nghiên cứu chỉ thị, nghị quyết của Đảng, ít quan tâm đến tình hình thực tế, thiếu nghị lực trước những khó khǎn trong công tác. Một số chẳng những không gương mẫu trước quần chúng mà còn theo sau quần chúng, coi nhẹ danh hiệu người chiến sĩ tiên phong của mình.
Chúng ta phải làm cho tất cả đảng viên nêu cao ý chí phấn đấu, quan tâm đầy đủ đến việc chấp hành nghị quyết và chỉ thị của Đảng; chẳng những thế, còn phải yêu cầu đảng viên nâng trình độ chấp hành đó lên một mức cao hơn nữa. Bởi vậy nhiệm vụ thứ nhất của người đảng viên là phải "tích cực phấn đấu để thực hiện mọi nghị quyết và chỉ thị của Đảng, tham gia sinh hoạt Đảng đều đặn, luôn luôn tìm cách hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ Đảng giao cho". Làm như vậy cũng tức là phấn đấu cho sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và của công cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà, phấn đấu cho Cương lĩnh và Điều lệ của Đảng được thực hiện.
Đảng viên phải "giữ gìn và củng cố sự đoàn kết thống nhất của Đảng" vì, như phần cương lĩnh đã chỉ rõ, đoàn kết thống nhất là sinh mệnh của Đảng. Bảo vệ nó như "giữ gìn con ngươi của mắt" là biểu hiện lòng trung thành vô hạn đối với Đảng.
Mỗi đảng viên, bất kỳ ở cương vị nào, dù có thành tích đến đâu, đều phải "phục tùng nghiêm chỉnh kỷ luật của Đảng", phải "gương mẫu chấp hành pháp luật của Nhà nước và kỷ luật của các đoàn thể cách mạng của quần chúng mà mình tham gia". Tính tổ chức và kỷ luật là bản chất của Đảng ta, là ưu điểm của đông đảo đảng viên. Nhưng cũng có một số không ít đồng chí tự do vô kỷ luật, coi thường chi bộ và tổ chức Đảng, coi thường kỷ luật công tác và chỉ thị, nghị quyết của cấp trên. Một số đồng chí thường hay kêu gọi cấp dưới phải giữ gìn kỷ luật nhưng tự mình lại hành động tự do, vì tự cho là mình có công lao, địa vị, có đặc quyền. Lại còn một số đồng chí hình như coi pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của các đoàn thể quần chúng chỉ đặt ra đối với quần chúng nhân dân, còn mình thì đứng trên nhân dân mà ra lệnh. Đó là thái độ hoàn toàn không đúng, coi thường Nhà nước, coi thường quần chúng. Trong giai đoạn mới, để tǎng cường sự thống nhất ý chí và hành động của Đảng, để bảo đảm cho trật tự xã hội chủ nghĩa được tôn trọng, cho nền chuyên chính vô sản được vững chắc, mỗi đảng viên càng phải ra sức trau dồi ý thức tổ chức và kỷ luật của mình.
Để tǎng cường sự đoàn kết thống nhất và nǎng lực lãnh đạo của Đảng, để hoàn thành công tác được tốt, mỗi đảng viên phải "ra sức học tập chủ nghĩa Mác-Lênin và đường lối chính sách của Đảng, học tập vǎn hoá, kỹ thuật và nghiệp vụ...". Phải vì sự nghiệp cách mạng mà tự giác học tập. Người cách mạng chỉ có nhiệt tình thôi không đủ; cần phải có tri thức cách mạng, vả lại nếu không học tập thì không thể có nhiệt tình cao được.
Vấn đề đề ra cho mỗi đảng viên là phải ra sức khắc phục tình trạng thấp kém về chính trị, lạc hậu về vǎn hoá, kỹ thuật. Nhiều đồng chí chúng ta đã nhận thấy điều đó và đã cố gắng vượt mọi khó khǎn, quyết tâm học tập để "nâng cao không ngừng trình độ chính trị, tư tưởng và nǎng lực công tác của mình". Nhưng một số đồng chí chưa thấy nhiệt tình học tập là nhiệt tình cách mạng, đối với bản thân còn dễ dãi, lười biếng, hoặc ỷ lại vào hoàn cảnh khách quan, vin vào điều kiện thời giờ, tuổi tác, thiếu chí tiến thủ. Một số nữa lại tự túc tự mãn, không chịu học tập. Các đồng chí đó không nhận thấy rằng, trong đà tiến lên của cách mạng, quần chúng đang tiến nhanh vùn vụt, còn mình thì bị đẩy lùi dần về phía sau. Như vậy không khỏi một ngày kia những đồng chí đó sẽ trở thành lạc hậu, không đủ sức làm tròn nhiệm vụ cách mạng của Đảng giao cho.
Đảng viên phải "gương mẫu trong lao động sản xuất, trong công tác, trong việc chấp hành chính sách của Đảng và của Chính phủ, trong việc bảo vệ tài sản của Nhà nước và của tập thể, thực hành tiết kiệm, tích cực chống lãng phí, tham ô". Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay là mơ ước hàng bao nǎm nay của đông đảo quần chúng, bởi vì chủ nghĩa xã hội là đời sống hạnh phúc của mọi người lao động. Chỉ có thể xây dựng chủ nghĩa xã hội với một tinh thần lao động hǎng say, với một ý thức chấp hành triệt để mọi chính sách của Đảng và của Chính phủ, với một ý thức bảo vệ của công và của tập thể rất cao nhằm tǎng cường của cải vật chất, cải thiện không ngừng đời sống của quần chúng. Thấm nhuần điều đó, đông đảo đảng viên đang lao động quên mình với quần chúng nhân dân trên mọi lĩnh vực để xây dựng nước nhà. Các đồng chí đó đang tiết kiệm từng cái đinh, từng tờ giấy với một ý thức cao quý. Nhưng một số đảng viên vẫn chưa thấy vinh quang trong lao động, không chǎm sóc của cải của Nhà nước, của hợp tác xã, không thấy đau xót trước những hiện tượng lãng phí, tham ô rất nghiêm trọng. Những đồng chí đó chưa nhận thấy rằng, nếu trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ, chúng ta đánh giá nhiệt tình cách mạng của đảng viên qua thái độ của họ đối với đế quốc và phong kiến, thì ngày nay, chúng ta phải đánh giá nhiệt tình đó qua ý thức và thành tích của họ đối với nền kinh tế quốc dân, đối với lao động sản xuất và việc bảo vệ tài sản của Nhà nước và của tập thể.
Bản Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) còn yêu cầu mỗi đảng viên phải "hết lòng hết sức phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân", lấy đó làm nguyên tắc tối cao của mọi hành động; khi lợi ích cá nhân xung đột với lợi ích của Đảng, của nhân dân thì phải "đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân". Mỗi đảng viên phải liên hệ chặt chẽ với quần chúng vì đó là nguồn gốc sức mạnh của Đảng. Mỗi đảng viên lại phải "thực hành tự phê bình và phê bình"; đối với người đảng viên, tự phê bình và phê bình cần thiết như không khí, thức ǎn và nước uống. Những nhiệm vụ đó đã được nói kỹ trong phần giải thích về Cương lĩnh chung.
Ngoài ra, bản Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) còn yêu cầu đảng viên phải "trung thành và thật thà đối với Đảng"; hy sinh phấn đấu cho lợi ích của Đảng chưa đủ, còn phải thật thà với Đảng trong mọi trường hợp. Che giấu khuyết điểm, báo cáo sai sự thật, thổi phồng thành tích là hoàn toàn trái với lòng trung thực của người đảng viên. Đảng viên lại còn "phải giữ gìn bí mật của Đảng và Nhà nước và luôn luôn cảnh giác với âm mưu phá hoại của kẻ địch" để bảo vệ Đảng, bảo vệ cách mạng. Điều đó cần được đặc biệt chú ý, nhất là trong hoàn cảnh nước nhà còn tạm bị chia làm hai miền, kẻ địch luôn tìm cách phá hoại Đảng, phá hoại thành tựu mà Đảng và nhân dân ta đã đạt được. Mọi hiện tượng thiếu cảnh giác, tiết lộ bí mật, đánh mất tài liệu của Đảng và Nhà nước thường xảy ra hiện nay phải được đấu tranh nghiêm khắc và kiên quyết chấm dứt.
Những nhiệm vụ trên đây nhìn qua thì hình như nhiều, nhưng không thể thiếu điểm nào. Phải giáo dục cho tất cả các đảng viên nhận thức đầy đủ và ra sức thực hiện. Song, chỉ giáo dục thôi không đủ. Vì vậy, Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) đề nghị quy định: "... Ai không thực hiện hoặc làm trái lại thì tổ chức của Đảng cần phê bình giáo dục hoặc thi hành kỷ luật".
Đảng ta, theo nguyên tắc tập trung dân chủ, luôn luôn chú ý nâng cao tính tích cực và sáng tạo của toàn Đảng, bảo đảm cho đảng viên phát huy hết khả nǎng và trí tuệ để làm tròn nhiệm vụ của mình tới mức cao nhất. Bởi vậy, đi đôi với việc nâng cao yêu cầu đối với nhiệm vụ đảng viên, bản Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) đã nói rõ và bổ sung một số điểm nhằm mở rộng quyền dân chủ của đảng viên.
Trước hết, đảng viên có quyền "thảo luận một cách tự do và nghiêm chỉnh các vấn đề về đường lối, chính sách và công tác của Đảng trong các cuộc hội nghị của Đảng". Điều đó xuất phát từ nhận thức sự nghiệp của Đảng là sự nghiệp của toàn thể đảng viên, thể hiện đường lối quần chúng của Đảng.
Thảo luận tự do là nói rõ ý kiến của mình, không ai được ngǎn cấm. Nghiêm chỉnh tức là nói với ý thức xây dựng, không xuyên qua động cơ cá nhân mà xuyên tạc sự thật, cũng không phải là lợi dụng quyền tự do để tuyên truyền những tư tưởng chống lại Đảng, chống lại chủ nghĩa Mác – Lênin, gây chia rẽ bè phái trong Đảng. Bởi vậy, khi nói nghiêm chỉnh hoàn toàn không có nghĩa là hạn chế quyền tự do thảo luận mà là để bảo đảm cho quyền đó được sử dụng đầy đủ vì lợi ích của Đảng.
Ngoài quyền biểu quyết, quyền tuyển cử và ứng cử vào các cơ quan lãnh đạo của Đảng mà chỉ có đảng viên chính thức mới được hưởng như chúng ta đều rõ, "trong hội nghị của Đảng, đảng viên được phê bình, chất vấn về công tác của cán bộ, đảng viên và tổ chức của Đảng". Phê bình không những là nhiệm vụ mà còn là quyền hạn của đảng viên. E dè nể nang, thủ tiêu phê bình, đàn áp hoặc không tôn trọng phê bình đều là hoàn toàn trái với nguyên tắc và quy luật phát triển của Đảng. Dĩ nhiên phê bình phải thực sự cầu thị, có tổ chức, có ý thức xây dựng để có thể thực hiện đoàn kết thống nhất của Đảng trên cơ sở mới. Chẳng những đảng viên được quyền phê bình chất vấn như trên, mà "đối với những vấn đề xét thấy cần, đều có thể báo cáo, đề đạt ý kiến hoặc khiếu nại lên các cơ quan lãnh đạo của Đảng".
Đối với các nghị quyết của Đảng, đảng viên phải chấp hành vô điều kiện, nhưng "nếu có chỗ không đồng ý thì vẫn có thể đề đạt ý kiến của mình lên cơ quan lãnh đạo của Đảng cho tới Đại hội toàn quốc". Quyền đó của đảng viên là rất chính đáng. Chân lý thường thuộc về đa số, nhưng không phải nhất thiết lúc nào cũng thuộc về đa số. Cho nên, những ý kiến của thiểu số, có khi chỉ là ý kiến của cá nhân đều cần được xem xét và chú ý đưa lên cấp trên để xét. Nếu ý kiến đó đúng thì chỉ có lợi, nếu là sai thì không phải là ra lệnh phải bỏ ý kiến mà giải quyết được tư tưởng. Vấn đề là phải thuyết phục và chóng hoặc muộn, thực tế sẽ chứng minh.
Cuối cùng, khi tổ chức của Đảng thảo luận để quyết định kỷ luật đối với mình, hoặc nhận xét có ra nghị quyết về hoạt động hoặc đạo đức của mình thì đảng viên được yêu cầu tổ chức của Đảng triệu tập mình đến để trình bày ý kiến. Quyền đó của đảng viên bảo đảm cho việc thi hành kỷ luật và nhận xét đảng viên được thận trọng và dân chủ. Chi bộ hoặc tổ chức khác của Đảng, khi nhận xét hoặc thi hành kỷ luật đảng viên, trừ trường hợp đặc biệt còn thì cần triệu tập đảng viên đến để trình bày ý kiến. Như vậy sẽ nghe được đầy đủ nhiều mặt và nghị quyết mới được chính xác.
Những điều trên đây chẳng những tạo điều kiện cho đảng viên phát huy tính tích cực và tính sáng tạo trong công tác mà còn là một vũ khí giúp cho đảng viên đấu tranh chống tất cả mọi trở lực trong sinh hoạt của Đảng, chống lại bệnh quan liêu, độc đoán, mệnh lệnh của những cán bộ, đảng viên hoặc tổ chức của Đảng. Tất cả đảng viên cần hiểu rõ và sử dụng đúng đắn quyền hạn của mình và không ai được xâm phạm đến quyền hạn đó. Trong thực tế còn có một số đồng chí tự cho là "lép vế", sợ cấp trên "trù", bi quan tiêu cực trước những hành động sai trái trong Đảng. Trái lại, một số đồng chí sử dụng quyền dân chủ một cách lệch lạc, tự do vô nguyên tắc. Lại có một số đồng chí và tổ chức của Đảng không tôn trọng quyền của đảng viên và nghiêm trọng hơn, có khi còn xâm phạm đến quyền đó một cách thô bạo: trấn áp phê bình, ngǎn cản đảng viên không được báo cáo, đề đạt ý kiến hoặc khiếu nại lên cấp trên, v.v.. Đối với những hành động đó, từ trước đến nay chúng ta ít có phê bình, giáo dục hoặc thi hành kỷ luật cần thiết. Để bảo đảm quyền dân chủ của đảng viên, từ nay về sau, nếu đảng viên hoặc người phụ trách tổ chức nào của Đảng không tôn trọng hoặc xâm phạm đến những quyền đó thì tổ chức có thẩm quyền của Đảng cần phê bình, giáo dục hoặc thi hành kỷ luật thích đáng.
2. Đi đôi với việc nâng cao tiêu chuẩn của đảng viên chúng ta phải quan tâm đúng mức đến vấn đề phát triển Đảng và cải tiến thủ tục kết nạp đảng viên để bảo đảm yêu cầu mới về chất lượng của Đảng.
Phát triển Đảng phải được coi là một nhiệm vụ quan trọng và thường xuyên trong toàn Đảng.
Muốn làm tốt công tác phát triển Đảng trước hết cần xác định đúng đắn phương hướng phát triển Đảng trong giai đoạn mới. Trước kia, trong cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng trường kỳ hoạt động ở nông thôn, việc phát triển Đảng trong công nhân rất bị hạn chế. Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, công cuộc công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa đang trở thành nhiệm vụ trung tâm của Đảng và Nhà nước. Hàng chục vạn người sẽ được bổ sung vào đội ngũ giai cấp công nhân. Vì yêu cầu của nhiệm vụ chính trị, vì yêu cầu phải nâng cao hơn nữa tính chất giai cấp và tính chất tiên phong của Đảng, một vấn đề rất trọng yếu là phải cải thiện thành phần của Đảng. Bởi vậy, phát triển Đảng vào giai cấp công nhân phải là phương hướng chủ yếu trong công tác phát triển Đảng. Chúng ta nhất thiết phải quán triệt phương hướng đó, làm sao cho thành phần xuất thân từ công nhân, nhất là công nhân chuyên nghiệp, kỹ thuật, công nhân đang trực tiếp sản xuất, tǎng lên nhanh hơn nữa trong tỷ lệ thành phần đảng viên.
Song trong khi coi rất trọng việc phát triển Đảng vào công nhân, chúng ta không thể có thái độ hẹp hòi đối với các thành phần khác có đủ điều kiện vào Đảng. Chúng ta phải tǎng cường việc phát triển Đảng vào nông dân tập thể, nhất là trong tầng lớp bần nông và trung nông lớp dưới. Chúng ta lại phải tǎng cường phát triển Đảng trong trí thức cách mạng, nhất là trong cán bộ khoa học, kỹ thuật, trong trí thức cao cấp qua thử thách đã tỏ ra vững vàng. Ngoài ra, cũng không nên quên những người thuộc các thành phần lao động khác có đủ điều kiện vào Đảng.
Trong khi nắm vững phương hướng giai cấp trên đây, chúng ta phải rất chú ý đến việc phát triển Đảng trong thanh niên, phụ nữ và ở các vùng dân tộc thiểu số.
Để bảo đảm cho công tác phát triển Đảng được tốt, cần rút bài học kinh nghiệm phong phú của Đảng trong công tác đó từ Cách mạng Tháng Tám đến đợt phát triển Đảng lớp 6-1 vừa qua.
Bài học đó trước hết là: công tác phát triển Đảng phải bảo đảm đầy đủ tính chất giai cấp và tính chất tiên phong của Đảng. Muốn vậy, cần phải học những kinh nghiệm tốt và chống lại những biểu hiện khuynh hữu, hoặc khuynh "tả" trong công tác phát triển Đảng như phần tính chất Đảng đã chỉ rõ. Bài học đó nhắc chúng ta rằng, phải nắm phương hướng chính trong công tác phát triển Đảng, nhưng khi nắm phương hướng chính thì tuyệt đối không nên hẹp hòi hoặc đóng cửa Đảng đối với các thành phần khác có đủ điều kiện vào Đảng. Trong kháng chiến, trong đấu tranh chống phong kiến, khi lấy thái độ chống đế quốc, chống địa chủ làm tiêu chuẩn chính để xem xét người vào Đảng, chúng ta đã có nơi, có lúc coi nhẹ việc xem xét các mặt khác. Ngày nay, trong khi chú trọng kết nạp những công nhân, nông dân đạt chỉ tiêu sản xuất cao, có nhiều thành tích lao động, những trí thức có trình độ khoa học kỹ thuật, có nhiều thành tích trong công tác, chúng ta nhất thiết phải xem xét họ một cách toàn diện. Phải xem xét cả về phẩm chất chính trị, mức độ giác ngộ và động cơ vào Đảng của họ như thế nào để có kế hoạch giáo dục và lựa chọn cho chính xác.
Bài học thứ hai là: để bảo đảm tính chất giai cấp và tính chất tiên phong của Đảng, phải nắm vững phương châm trọng chất hơn lượng, phải nhằm vào những người đã được thử thách qua các phong trào và công tác thực tế mà phát triển Đảng. Đảng ta là một thành trì; cửa Đảng chỉ mở cho những người đã được thử thách. Những bài học kinh nghiệm về phát triển Đảng đã chỉ rõ rằng: phải theo đúng những điều kiện và thủ tục kết nạp người vào Đảng, không thể phát triển Đảng theo lối cảm tình, hoặc chỉ chạy theo số lượng. Phải phát triển Đảng một cách thường xuyên; qua từng phong trào, phải kịp thời phát hiện những phần tử ưu tú có đủ điều kiện mà giáo dục và kết nạp vào Đảng và chỉ có qua các phong trào và công tác thực tế mới có thể phát hiện được những người như vậy.
Bài học thứ ba là: muốn bảo đảm tính chất giai cấp và tính chất tiên phong của Đảng, phát triển Đảng phải đi đôi với củng cố. Hai mặt đó của công tác xây dựng Đảng liên quan chặt chẽ với nhau. Chẳng những chúng ta phải chỉ đạo nhịp độ phát triển Đảng cho phù hợp với yêu cầu khách quan và khả nǎng củng cố của Đảng, mà sau khi phát triển Đảng, còn phải chú trọng giáo dục lý luận và tư tưởng, giáo dục đường lối chính sách và nhất là giáo dục, rèn luyện đảng viên trong công tác thực tế, trong lao động sản xuất. Đồng thời, trải qua những cuộc thử thách của phong trào, phải kịp thời thanh trừ những phần tử xấu ra khỏi Đảng.
Muốn làm công tác phát triển Đảng được tốt, còn phải quan tâm đến thủ tục phát triển Đảng. Thủ tục phát triển Đảng là để bảo đảm việc lựa chọn đảng viên có đầy đủ chất lượng và đề phòng những phần tử xấu, những kẻ đầu cơ lợi dụng chui vào Đảng.
Có những chi bộ và cấp uỷ Đảng chưa nhận thức đầy đủ điều đó. Việc giáo dục người xin vào Đảng nhiều khi chưa được chú ý đúng mức. Việc nghiên cứu, điều tra, xem xét lý lịch, phẩm chất của họ trong một số trường hợp chưa được kỹ lưỡng, việc chuẩn y có khi còn làm chiếu lệ. Bản Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) trong chương II đã có những quy định bổ sung nhằm nhắc nhở tổ chức của Đảng tránh những khuyết điểm đó. Bản Dự thảo Điều lệ (sửa đổi), xuất phát từ tính chất của Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam là đội hậu bị của Đảng, đề nghị quy định: "nếu Đoàn viên Thanh niên Lao động Việt Nam được Ban Chấp hành của Đoàn ở đơn vị cơ sở giới thiệu vào Đảng thì người đoàn viên đó chỉ cần có thêm một đảng viên chính thức nữa có đủ điều kiện đã quy định, giới thiệu". Bản Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) còn có những quy định chặt chẽ hơn trước về thủ tục kết nạp đảng viên như yêu cầu người giới thiệu phải cùng công tác một nǎm trở lên với người được giới thiệu, yêu cầu những thanh niên từ 18 đến 26 tuổi phải là đoàn viên thanh niên lao động (ở những nơi đã có chi đoàn) thì mới được kết nạp vào Đảng. Ngoài ra còn đặc biệt chú trọng đến vấn đề thời kỳ dự bị của đảng viên dự bị.
ở miền Bắc nước ta, trong thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, sự chuyển biến nhanh chóng và phức tạp về thành phần xã hội trong công nhân, nông dân, trí thức, tiểu tư sản, v.v. đề ra vấn đề khó mà quy định từng loại thời kỳ dự bị cho từng loại thành phần. Bởi vậy, Dự thảo Điều lệ đề nghị chỉ quy định hai loại thời kỳ dự bị: công nhân 9 tháng, các thành phần khác một nǎm. Việc quy định riêng cho công nhân một thời kỳ dự bị thực tế cũng có những điều khá phức tạp. Song, vì thành phần đảng viên xuất thân công nhân trong Đảng còn quá ít, để đề cao ý thức đối với việc phát triển Đảng vào giai cấp công nhân, quy định như vậy là cần thiết và sẽ có tác dụng tốt. Đại hội sẽ giao cho Ban Chấp hành Trung ương cǎn cứ vào việc quy định thành phần ngoài xã hội mà định rõ những người như thế nào thì, khi vào Đảng, được hưởng thời kỳ dự bị của công nhân.
Việc quy định thời kỳ dự bị có ý nghĩa quan trọng là bảo đảm chất lượng đảng viên và giữ gìn tính chất trong sạch và tính chất tiên phong của Đảng. Nhiều tổ chức Đảng trước đây chưa nhận rõ thời kỳ dự bị là "trường giáo dục và rèn luyện chính trị" như Lênin đã chỉ rõ, trái lại biến nó thành một thứ hình thức tầm thường, một thứ thủ tục giản đơn. Một số chi bộ và cấp uỷ Đảng coi như tuyên bố kết nạp vào Đảng rồi là xong, hoặc có chú ý hơn nữa thì mở cho một lớp huấn luyện ngắn ngày; còn như đảng viên dự bị tiến bộ thế nào, phẩm chất ra sao, gặp khó khǎn gì trong công tác, có mắc mứu gì về tư tưởng thì nhiều khi không chú ý tới. Trong nhiều trường hợp lại quên không chuyển đảng viên dự bị lên chính thức, để kéo dài thời kỳ dự bị có khi hàng nǎm, hoặc ngược lại, chuyển đảng viên dự bị lên chính thức một cách hình thức trong khi việc giáo dục chưa làm được đầy đủ. Bởi vậy Dự thảo Điều lệ quy định: "Trong thời kỳ dự bị, chi bộ cần giáo dục cho người đảng viên dự bị những điều tối thiểu cần thiết về chủ nghĩa cộng sản, về đường lối chính sách và nguyên tắc tổ chức của Đảng và dìu dắt, giúp đỡ các đảng viên đó tiến bộ". Khi hết thời kỳ dự bị, người đảng viên dự bị phải được xét để chuyển thành chính thức. Nếu vì một lý do gì mà thấy chưa thể chuyển thành chính thức được thì chi bộ có thể quyết định kéo dài thêm thời kỳ dự bị nhưng không quá một nǎm nữa. Nếu đã xét thấy không đủ tư cách đảng viên thì đưa ra khỏi Đảng, v.v..
Những điều quy định trên đây về vấn đề đảng viên, sau khi được Đại hội bổ sung và thông qua, nhất định sẽ có tác dụng lớn lao đối với việc xây dựng và củng cố Đảng, làm cho Đảng ngày càng lớn mạnh hơn nữa để có thể hoàn thành nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn cách mạng mới.
II- Bộ máy tổ chức của Đảng
Song song với sự biến đổi của tình hình và nhiệm vụ chính trị, bộ máy tổ chức của Đảng, dựa trên nguyên tắc tập trung dân chủ mà lập nên, cần được xem xét lại và quy định cho thích hợp với điều kiện và hoàn cảnh mới, nhằm bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng được tǎng cường, nhiệm vụ chính trị của Đảng được hoàn thành tốt đẹp.
Trong những nǎm vừa qua, chúng ta đã có nhiều cố gắng làm cho tổ chức các cấp của Đảng đáp ứng, trên một mức độ nhất định, với những yêu cầu của nhiệm vụ chính trị mới. Song, phần vì những thiếu sót của chúng ta, phần vì một số vấn đề phải chờ Đại hội toàn quốc quyết định cho nên bộ máy tổ chức của Đảng còn có những khuyết điểm và nhược điểm cần ra sức khắc phục.
1. Hệ thống tổ chức
Về hệ thống tổ chức của Đảng, chúng ta đã giải thể cấp khu ở vùng đồng bằng. Việc đó đã được thực tế chứng minh là đúng và đã có tác dụng tích cực làm cho quan hệ giữa trung ương và địa phương được sát và nhanh chóng hơn trước. Bởi vậy, bản Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) đề nghị chia hệ thống tổ chức hiện nay của Đảng ra làm bốn cấp: trong toàn Đảng có tổ chức trung ương của Đảng; tiếp đó là tổ chức của Đảng ở cấp khu tự trị, tỉnh và thành phố trực thuộc; rồi đến tổ chức của Đảng ở huyện, quận, khu phố (thuộc thành phố trực thuộc), thị xã và các thành phố khác; cuối cùng là tổ chức cơ sở của Đảng. Quy định đó là phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh mới, phù hợp với nguyên tắc "tổ chức của Đảng được lập ra theo đơn vị hành chính, đơn vị sản xuất hoặc công tác".
Trong hệ thống tổ chức của Đảng hiện nay còn có tình trạng phân tán. Một số tổ chức của Đảng, trong trường hợp không cần thiết, cũng đã được lập ra theo hệ thống ngành dọc không đặt dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng ở địa phương. Tình hình đó gần đây đã được Trung ương uốn nắn song việc sửa chữa đang gặp những khó khǎn về mặt tổ chức cũng như về tư tưởng. Việc giao một số tổ chức cơ sở của Đảng về các cấp uỷ địa phương cố nhiên là phải tiến hành song song với việc kiện toàn các cấp uỷ đó cho nên không thể ngay một lúc mà giao về hết được. Cũng không nhất thiết bất kỳ tổ chức cơ sở nào cũng đều phải giao về các cấp uỷ huyện, quận, v.v. là những cấp uỷ cấp trên trực tiếp của các tổ chức cơ sở nói chung. Những tổ chức cơ sở lớn, nếu cần thiết, vẫn có thể trực tiếp đặt dưới sự lãnh đạo của khu uỷ, tỉnh uỷ, thành uỷ, v.v.. Nhưng trong một số cán bộ phụ trách ngành dọc hiện nay còn nặng tư tưởng cho rằng, muốn chỉ đạo công tác chuyên môn thì phải trực tiếp chỉ đạo cả về mặt công tác Đảng, theo hệ thống dọc từ trên xuống. Tư tưởng đó phần nào đã ảnh hưởng đến việc khắc phục tình trạng phân tán hiện nay trong hệ thống tổ chức của Đảng. Việc lập tổ chức của Đảng theo hệ thống ngành dọc là một việc bất đắc dĩ khi không có cách tổ chức nào khác thích hợp hơn. Bởi vậy, chỉ có tổ chức của Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam và một số "trường hợp đặc biệt và hạn chế khác được Trung ương ra quyết nghị" là có thể thành lập tổ chức của Đảng theo hệ thống ngành dọc.
2. Bộ máy tổ chức của các cấp uỷ từ Trung ương đến huyện
Bộ máy tổ chức của các cấp uỷ Đảng từ Trung ương đến cấp huyện cần được kiện toàn đúng mức để đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ chính trị và để bảo đảm đầy đủ vai trò lãnh đạo của Đảng, bảo đảm cho nghị quyết, chỉ thị của Đảng thấu triệt đến tổ chức cơ sở của Đảng một cách nhanh chóng và được thực hiện đầy đủ.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng do Đại hội toàn quốc lần thứ II cử ra đã lãnh đạo toàn Đảng hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ khó khǎn và phức tạp trong gần 10 nǎm nay. Thế nhưng, so với yêu cầu của nhiệm vụ mới, số lượng uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương còn quá ít. Điều đó đã ảnh hưởng đến việc lãnh đạo công tác của toàn Đảng trong hoàn cảnh mới. Bởi vậy, một nhiệm vụ của Đại hội lần này là phải kiện toàn Ban Chấp hành Trung ương về số lượng và chất lượng để có thể tập trung được trí tuệ của toàn Đảng một cách đầy đủ hơn nữa. Trên cơ sở đó, cần chỉnh đốn lại tổ chức và lề lối làm việc của Ban Chấp hành Trung ương cho phù hợp với nhiệm vụ mới, đặc biệt là nhiệm vụ lãnh đạo kinh tế và vǎn hoá và đấu tranh thống nhất nước nhà. Phải bảo đảm có đủ đồng chí công tác ở các ngành quan trọng của Đảng và Nhà nước để giải quyết công việc hàng ngày một cách nhanh chóng. Phải có một số đồng chí công tác ở các địa phương và cơ sở sản xuất để sát với thực tế sinh động ở bên dưới. Đồng thời, phải bảo đảm cho công tác lý luận của Đảng được phát triển và việc nghiên cứu những vấn đề về đường lối, phương châm công tác lâu dài được chú ý đúng mức.
Việc kiện toàn các ban chấp hành các cấp khu tự trị, tỉnh, thành phố trực thuộc, huyện, thị, v.v. cho phù hợp với yêu cầu của sự lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn mới là rất cần thiết. Song, việc đó chỉ có thể thực hiện được tốt trên cơ sở củng cố các tổ chức cơ sở của Đảng. Nhìn chung hiện nay các cấp uỷ đã được kiện toàn về số lượng và chất lượng, nhưng còn phải chú ý rất nhiều về mặt cải tiến lề lối làm việc và về mặt phân phối các cấp uỷ viên cho phù hợp với nhiệm vụ chính trị. Một số cấp uỷ gần đây có khuynh hướng muốn tǎng số lượng cấp uỷ viên lên một cách quá đáng để rải đều ở các ngành mà không chú ý đầy đủ đến việc cải tiến công tác lãnh đạo. Vì vậy, trên thực tế đã có một số cấp uỷ vô tình đã lãnh đạo các ngành theo lối liên hiệp, khoán trắng công việc cho các cấp uỷ viên ở các ngành, dẫn đến tình trạng phân tán, không bảo đảm đầy đủ sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Đảng. Cố nhiên số lượng cấp uỷ không nên quá ít; phải có đủ đồng chí công tác ở các ngành quan trọng và ở một số địa phương cấp dưới và đơn vị cơ sở nhưng không nhất thiết ngành nào cũng đều phải có cấp uỷ viên. Vả lại, cũng cần thống nhất nhận định rằng: các cấp uỷ viên khi công tác trong một ngành nào không có nghĩa là lấy tư cách cấp uỷ viên mà phụ trách ngành đó; các đồng chí đó đều phải đứng trên cương vị công tác của mình ở trong ngành mà giải quyết công việc như các cán bộ phụ trách ở ngành khác không phải là cấp uỷ viên. Để bảo đảm cho công việc thường xuyên được giải quyết nhanh, gọn và tốt, Ban Thường vụ của mỗi cấp uỷ cần giữ vững nếp sinh hoạt đều đặn, có chuẩn bị chu đáo. Cần tǎng cường việc hội ý giữa bí thư và các phó bí thư, giữa bí thư, các phó bí thư và các đồng chí phụ trách ngành để kịp thời giải quyết công việc hàng ngày, không cần phải thành lập Ban Bí thư như ở Trung ương. Phải coi trọng việc bồi dưỡng nǎng lực lãnh đạo cho các cấp uỷ viên và trên cơ sở đó cải tiến lề lối làm việc của các cấp uỷ Đảng. Việc đó có liên quan đến việc sửa đổi lề lối làm việc và giải quyết tốt bộ máy tổ chức của toàn Đảng từ Trung ương đến tổ chức cơ sở, song mỗi cấp uỷ Đảng phải có tính chủ động cải tiến công tác của mình, tránh ỷ lại vào Trung ương hoặc cấp trên.
Trong các cấp uỷ Đảng từ Trung ương đến cấp huyện, Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) chú trọng đến việc thành lập Uỷ ban kiểm tra. Uỷ ban kiểm tra do cấp uỷ bầu cử ra, làm việc dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ có những quyền hạn nhất định đối với việc kiểm tra kỷ luật và dân chủ trong Đảng và đối với việc thi hành kỷ luật đảng viên, đồng thời phụ trách cả việc kiểm tra tài chính của Đảng. Những quy định về quyền hạn, nhiệm vụ và cách làm việc của Uỷ ban Kiểm tra ghi trong chương VII (Uỷ ban Kiểm tra các cấp) và chương X (kỷ luật trong Đảng) là cần thiết. Việc thi hành kỷ luật trong Đảng cần phải bảo đảm hết sức thận trọng và chính xác; nếu không có một cơ quan chuyên trách có đủ uy tín, có đủ thời giờ để suy nghĩ kỹ lưỡng, biết nắm vững đường lối, phương châm thi hành kỷ luật và có đủ cán bộ để kịp thời kiểm tra và giải quyết các vụ kỷ luật thì không thể tránh khỏi những hiện tượng thiếu chính xác hoặc chậm trễ như trước đây thường mắc phải.
Để giúp việc các cấp uỷ Đảng, Điều lệ Đảng quy định thành lập các ban chuyên môn và các đảng đoàn. Các ban chuyên môn và các đảng đoàn đã đóng góp phần quan trọng trong công tác lãnh đạo của các cấp uỷ đảng. Nhưng về tổ chức và lề lối làm việc hiện nay còn có nhiều điểm không hợp lý cần phải sửa đổi cho thích hợp.
Đối với các ban chuyên môn, chúng ta cần kiện toàn về mặt chất lượng. Cần chú trọng đưa những cán bộ vừa vững về chính trị, vừa am hiểu về chuyên môn vào các ban. Cần nghiên cứu để thực hiện việc cải tiến tổ chức và lề lối làm việc của các ban chuyên môn nhằm bảo đảm vừa phát triển được trí tuệ của tập thể, vừa đề cao được trách nhiệm của cá nhân, vừa làm cho công việc giúp cấp uỷ của ban được nhanh gọn và chính xác. Các ban chuyên môn cần tận dụng khả nǎng của cán bộ giúp việc, phát huy đầy đủ sáng kiến và nǎng lực của cán bộ, làm cho bộ máy tổ chức của ban vừa gọn nhẹ vừa có đầy đủ tác dụng cần có.
Nói chung trong các ban chấp hành các đoàn thể quần chúng (trừ Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam) và các cơ quan Nhà nước do dân cử như Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp đều phải thành lập đảng đoàn. Ở các Bộ hiện nay vẫn nên lập đảng đoàn. Tuy nhiên, ở đó tổ chức đảng đoàn phải gọn nhẹ, coi trọng chất lượng, không nên mở rộng quá làm cho sinh hoạt tập thể gặp khó khǎn, công việc không được giải quyết kịp thời và mau chóng. ở các sở, ty, tùy theo tính chất quan trọng, khối lượng công tác và khả nǎng cán bộ của từng cơ quan mà quy định nên lập đảng đoàn hay là nên chỉ định một đồng chí chịu trách nhiệm trước cấp uỷ. Trách nhiệm và cách làm việc của các đảng đoàn, Điều lệ Đảng đã ghi rõ. ở những nơi không lập đảng đoàn, các đồng chí chịu trách nhiệm trước cấp uỷ cần chú ý phát huy đầy đủ sinh hoạt tập thể dân chủ trong cơ quan, không nên dựa vào quyền hạn cá nhân mà làm việc một cách độc đoán, mệnh lệnh.
Các cấp uỷ đảng cần chấn chỉnh lại các ban, đảng đoàn theo phương hướng trên đây. Phải tận dụng khả nǎng của các ban, đảng đoàn, phát huy đầy đủ tính chủ động và sáng tạo của các tổ chức đó và tǎng cường kiểm tra đôn đốc, tránh buông trôi khoán trắng.
3. Tổ chức cơ sở của Đảng
Tổ chức cơ sở của Đảng, tức là tổ chức của Đảng ở đơn vị cơ sở, đóng vai trò hết sức quan trọng. Các tổ chức cơ sở của Đảng lập thành nền tảng của Đảng và nối liền Đảng và các cơ quan lãnh đạo của Đảng với quần chúng công nhân, nông dân, trí thức và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Tổ chức cơ sở là nơi tập thể lãnh đạo, giám đốc, giáo dục và rèn luyện tất cả các đảng viên; nó là xuất phát điểm bầu ra các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ dưới lên; là đơn vị lãnh đạo và chiến đấu thống nhất nằm trong quần chúng, tổ chức cơ sở có nhiệm vụ cùng với quần chúng trực tiếp phấn đấu cho đường lối chính sách của Đảng được thực hiện. Quan hệ giữa Đảng và quần chúng tốt hay là xấu, chủ trương chính sách của Đảng có thực hiện được tốt hay là không, phần quan trọng là do tổ chức cơ sở của Đảng thông qua các chi bộ là tế bào đầu tiên của Đảng, quyết định.
a) Trước đây, nói chung chi bộ là tổ chức cơ sở của Đảng vì ở mỗi đơn vị cơ sở thường chỉ thành lập một chi bộ. Nhưng trong tình hình hiện nay, bên cạnh những tổ chức cơ sở có ít nhất là ba đảng viên chính thức, còn có những tổ chức cơ sở có hàng trǎm và có nơi đã có trên một nghìn đảng viên. Bởi vậy cần quy định lại hình thức tổ chức của tổ chức cơ sở, sao cho thích hợp với sinh hoạt tập thể và dân chủ trong Đảng, thích hợp với yêu cầu về công tác lãnh đạo của các tổ chức cơ sở, đặc biệt là về lãnh đạo kinh tế. Theo yêu cầu đó, Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) đề nghị chia hình thức tổ chức cơ sở của Đảng chủ yếu làm hai loại: ở những đơn vị cơ sở có dưới 50 đảng viên thì nói chung chỉ thành lập một chi bộ; chi bộ ở đó chính là tổ chức cơ sở của Đảng. ở những đơn vị cơ sở có từ 50 đảng viên trở lên thì nói chung sẽ cǎn cứ vào đơn vị sản xuất, đơn vị công tác mà thành lập một số chi bộ (chi bộ ở phân xưởng, ca, vụ, phòng, khoa, v.v.), trên các chi bộ có ban chấp hành của tổ chức cơ sở gọi tắt là đảng uỷ cơ sở; ở những nơi đó, chi bộ là một bộ phận của tổ chức cơ sở.
Trong thực tế còn có một loại tổ chức cơ sở có quá đông đảng viên, nếu chỉ thành lập đảng uỷ cơ sở và các chi bộ thì sẽ có trở ngại trong công tác lãnh đạo và sinh hoạt. ở những nơi đó, Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) đề nghị, nếu được Ban Chấp hành Trung ương hoặc một cấp uỷ do Trung ương uỷ nhiệm ra quyết nghị thì trong một bộ phận của đơn vị cơ sở (như phân xưởng ở xí nghiệp, cục ở cơ quan, khoa ở trường học, v.v.), nếu có đông đảng viên phải chia ra làm nhiều chi bộ thì ở bộ phận đó có thể thành lập một liên chi. Liên chi sẽ họp Đại hội đại biểu hay là Đại hội đảng viên để bầu ra liên chi uỷ. Liên chi uỷ làm việc dưới sự lãnh đạo của Đảng uỷ cơ sở và trực tiếp lãnh đạo các chi bộ trong liên chi. Đảng uỷ cơ sở, liên chi uỷ, các chi bộ đều là những bộ phận tổ chức của tổ chức cơ sở vì tổ chức cơ sở của Đảng là đơn vị lãnh đạo và chiến đấu thống nhất của Đảng ở mỗi xí nghiệp, xã, trường học, cơ quan, v.v.. Những tổ chức cơ sở có số lượng đảng viên như thế nào mới được thành lập liên chi, quyền hạn, nhiệm vụ cụ thể của liên chi uỷ sẽ do Trung ương cǎn cứ vào tình hình thực tế mà có một quy định chung. Tuy nhiên, việc thành lập liên chi cần phải hạn chế để tránh làm cho tổ chức cơ sở phải chia làm nhiều tầng nấc khi không cần thiết.
Việc chia các tổ chức cơ sở lớn ra nhiều chi bộ là hợp lý. Nhưng khi đã chia, Đảng uỷ cơ sở cần coi trọng và phát huy đầy đủ vai trò và tác dụng tích cực của các chi bộ, mặt khác các chi bộ phải phát huy tính chủ động của mình, lãnh đạo các mặt công tác trong đơn vị mình phụ trách, bàn bạc góp ý kiến với Đảng uỷ cơ sở về công việc chung của tổ chức cơ sở khi cần thiết, đồng thời phải tôn trọng đầy đủ sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Đảng uỷ cơ sở.
b) Tổ chức cơ sở của Đảng về cǎn bản là rất tốt và đã được củng cố nhiều lần. Nhưng trước yêu cầu của nhiệm vụ mới, chúng ta không thể thoả mãn với những ưu điểm sẵn có. Hơn nữa, trong các tổ chức cơ sở không khỏi không có những khuyết điểm và nhược điểm. Bởi vậy, song song với việc quy định hình thức của tổ chức cơ sở, phải ra sức củng cố và nâng cao chi bộ, củng cố và nâng cao tổ chức cơ sở nói chung để củng cố và nâng cao toàn Đảng. Vấn đề này có liên quan đến vấn đề đảng viên. ở đây chỉ đề cập tới một số vấn đề khác.
Trước hết, phải nâng cao yêu cầu về nhiệm vụ của tổ chức cơ sở.
Là đơn vị trực tiếp chiến đấu của Đảng, tổ chức cơ sở, như trước đây đã quy định, có nhiệm vụ "thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của cấp trên, tuyên truyền, tổ chức quần chúng thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và của Nhà nước".
Song vì chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước không có gì khác là nhằm nâng cao đời sống của quần chúng, lề lối lãnh đạo của Đảng là lãnh đạo theo đường lối quần chúng, và vì tổ chức cơ sở của Đảng nối liền Đảng với quần chúng, cho nên, trong quá trình làm công tác, tổ chức cơ sở phải thường xuyên "phản ánh lên cấp trên yêu cầu, nguyện vọng của quần chúng, hết sức chǎm lo đến việc nâng cao mức sống vật chất và vǎn hoá của quần chúng".
Tổ chức cơ sở của Đảng còn phải biết "lãnh đạo quần chúng phát huy tính sáng tạo, tích cực tham gia sinh hoạt chính trị của Nhà nước, củng cố kỷ luật lao động, ra sức thi đua yêu nước, bảo đảm hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch sản xuất và kế hoạch công tác". Đó là nhiệm vụ cơ bản của tổ chức cơ sở, bởi vì, chỉ có trên cơ sở đó mới có thể có điều kiện cải thiện đời sống của quần chúng một cách toàn diện và lâu dài. Trong giai đoạn cách mạng mới, đánh giá thành tích của tổ chức cơ sở của Đảng trước hết là phải xem xét việc thực hiện kế hoạch sản xuất và công tác tốt hay là xấu. Chẳng những phải xem xét chỉ tiêu kế hoạch có đạt hoặc vượt mức không mà còn phải xem xét thực chất kết quả đó như thế nào. Phải xem xét cả những biện pháp thực hiện, tác phong lãnh đạo, v.v.. Đó tức là những vấn đề quyết định, chẳng những về số lượng mà cả về mặt chất lượng của kế hoạch, quyết định chẳng những kết quả về mặt kinh tế mà còn cả về mặt chính trị và tư tưởng.
Muốn đạt kết quả tốt về mặt lãnh đạo kinh tế, chính trị trên đây phải quan tâm đến công tác nội bộ Đảng. Về điểm này, ngoài nhiệm vụ "phân phối và kiểm tra công tác của đảng viên, làm công tác kết nạp đảng viên mới, thu đảng phí, thi hành kỷ luật đảng viên, v.v.", Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) đề nghị giao cho tổ chức cơ sở thêm nhiệm vụ "tổ chức cho đảng viên học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, học tập đường lối chính sách, nâng cao trình độ chính trị và nǎng lực công tác của đảng viên, tǎng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng". Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) còn yêu cầu tổ chức cơ sở phải "mở rộng phê bình, tự phê bình, phát huy ưu điểm, vạch trần khuyết điểm sai lầm trong công tác, đấu tranh chống tất cả những hiện tượng phạm pháp, trái kỷ luật, quan liêu, lãng phí, tham ô" và "bồi dưỡng chí khí phấn đấu, nâng cao tinh thần cảnh giác cho đảng viên và quần chúng".
Có làm tròn các nhiệm vụ đó thì tổ chức cơ sở của Đảng mới thật sự là pháo đài chiến đấu xã hội chủ nghĩa của Đảng và của quần chúng, được quần chúng tín nhiệm và bảo vệ.
Cǎn cứ vào những nhiệm vụ trên đây, nói chung, tổ chức cơ sở của Đảng đều phải lãnh đạo toàn diện. Chẳng những phải làm công tác nội bộ Đảng, lãnh đạo các tổ chức quần chúng, mà còn phải biết lãnh đạo kinh tế, lãnh đạo sản xuất và công tác chuyên môn. Trước đây đã có lúc chúng ta hạ thấp vai trò của một số tổ chức cơ sở, chỉ giao cho tổ chức cơ sở lãnh đạo chính trị và tư tưởng chung chung, thoát ly sản xuất, tách rời chính trị với chuyên môn. Thiếu sót đó đã được sửa chữa.
Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) đề nghị ghi rõ: "Tổ chức cơ sở của Đảng ở xí nghiệp, xã, thị trấn, khu phố, bệnh viện, trường học, đơn vị đại đội trong Quân đội nhân dân, v.v. phải lãnh đạo và kiểm tra tổ chức chính quyền và tổ chức quần chúng trong đơn vị mình tích cực thực hiện tốt các nghị quyết, chỉ thị của tổ chức Đảng cấp trên và cơ quan Nhà nước cấp trên, đồng thời phải tích cực cải tiến công tác của đơn vị mình".
Sự lãnh đạo toàn diện của Đảng là một vấn đề về nguyên tắc. Các tổ chức cơ sở của Đảng ở xí nghiệp, xã, bệnh viện, trường học, v.v. phải ra sức cố gắng học tập, đi đúng đường lối quần chúng để tǎng cường sự lãnh đạo toàn diện của Đảng trong đơn vị. Song, Đảng lãnh đạo không có nghĩa là Đảng bao biện, làm thay công tác của tổ chức chính quyền và của các đoàn thể quần chúng. Tǎng cường sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở của Đảng phải đi đôi với việc phát huy vai trò và trách nhiệm của tổ chức chính quyền, phát huy vai trò và tác dụng của các tổ chức quần chúng. Hai mặt đó phải gắn liền với nhau, coi nhẹ hoặc buông lỏng mặt nào cũng sẽ dẫn đến sai lầm, khuyết điểm.
Trong công tác lãnh đạo, tổ chức cơ sở của Đảng phải luôn luôn kết hợp chặt chẽ công tác chính trị và tư tưởng với công tác kinh tế, sản xuất, chuyên môn, lấy công tác chính trị và tư tưởng làm gốc, đi đầu để đẩy mạnh mọi mặt công tác của đơn vị.
Muốn lãnh đạo tốt, tổ chức cơ sở của Đảng còn phải tǎng cường việc kiểm tra, xem xét công tác của tổ chức chính quyền và của tổ chức quần chúng trong mọi mặt công tác của đơn vị cơ sở, đặc biệt là trong công tác sản xuất và chuyên môn, để kịp thời phát hiện những khuyết điểm và khó khǎn mà có chủ trương uốn nắn và khắc phục, kịp thời phát hiện những kinh nghiệm thành công hoặc thất bại mà bồi bổ cho công tác lãnh đạo của mình. Lãnh đạo mà không kiểm tra thì lãnh đạo sẽ trở thành quan liêu.
Trong các loại tổ chức cơ sở như Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) đã chỉ rõ, thì "tổ chức cơ sở ở các cơ quan không lãnh đạo và kiểm tra công tác chuyên môn của cơ quan được", vì đó là trách nhiệm của các ban, đảng đoàn hoặc các đồng chí chịu trách nhiệm trước cấp uỷ. Nhưng tổ chức cơ sở của Đảng ở các cơ quan vẫn phải "lãnh đạo tình hình tư tưởng và chính trị của đảng viên trong cơ quan, tǎng cường kỷ luật công tác, động viên cải tiến công tác cơ quan, chống bệnh quan liêu. Khi thấy công tác của cơ quan có khuyết điểm, cần kịp thời phản ánh cho người phụ trách cơ quan và báo cáo lên tổ chức Đảng cấp trên". Còn các mặt công tác khác như lãnh đạo các tổ chức quần chúng, quan tâm đến đời sống của quần chúng, công tác nội bộ Đảng, v.v. đều phải cǎn cứ vào các nhiệm vụ của tổ chức cơ sở mà thực hiện. Đối với tổ chức cơ sở ở cơ quan, công tác chính trị và tư tưởng giữ vị trí chủ yếu; công tác đó không thể chỉ làm một cách chung chung mà trái lại phải rất thiết thực, gắn liền với công tác chuyên môn. Giữa các ban, đảng đoàn với tổ chức cơ sở ở cơ quan không có quan hệ lãnh đạo và bị lãnh đạo, nhưng cần có sự phối hợp mật thiết. Các ban, đảng đoàn và đồng chí thủ trưởng cơ quan cần trao đổi với các đồng chí trong Ban chấp hành của tổ chức cơ sở những nét lớn về chương trình công tác của cơ quan trong từng thời kỳ, về những khó khǎn thuận lợi sẽ có. Ngược lại, các đồng chí trong Ban chấp hành của tổ chức cơ sở cần thường xuyên phản ánh cho ban, đảng đoàn hoặc đồng chí phụ trách cơ quan về công tác của mình, nhất là về tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên và quần chúng trong cơ quan. Trên cơ sở đó sẽ cùng nhau bàn bạc góp ý kiến làm cho công tác của tổ chức cơ sở được tốt. Các đồng chí phụ trách cơ quan cần tham gia sinh hoạt chi bộ, làm trách nhiệm của mình đối với tổ chức cơ sở và trong điều kiện có thể, nên có một số đồng chí ứng cử vào Ban chấp hành của tổ chức cơ sở để sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở được vững và sát với công tác chuyên môn hơn.
Hiện nay, đảng viên trong các xí nghiệp ở những khu công nghiệp tập trung và trong các cơ quan có hiện tượng tách rời với sinh hoạt chính trị và xã hội nơi mình ở. Điều đó không phải chỉ do những nguyên nhân về tư tưởng mà còn có những nguyên nhân về mặt tổ chức. Ban Chấp hành Trung ương cần nghiên cứu rút kinh nghiệm và có những quy định cụ thể về mặt tổ chức để tǎng cường mối quan hệ giữa đảng viên trong các xí nghiệp và cơ quan với quần chúng ở địa phương nơi ở của các đảng viên đó.
c) Để củng cố và nâng cao vai trò của tổ chức cơ sở, hiện nay còn phải chú ý rất nhiều đến việc cải tiến sinh hoạt của các chi bộ, kiện toàn các chi uỷ và đảng uỷ cơ sở, giải quyết tốt vấn đề đảng viên quá kém và quản lý đảng viên cho tốt.
Cải tiến sinh hoạt của chi bộ là một khâu quan trọng để đẩy mạnh công tác của tổ chức cơ sở. Sinh hoạt chi bộ là trường học giáo dục của đảng viên, phải chú ý đến nội dung tư tưởng và chính sách; phải bảo đảm chẳng những làm cho đảng viên quán triệt chủ trương chính sách của Đảng để ra sức thực hiện mà còn phải phát huy được sáng kiến của đảng viên, làm cho họ đóng góp được phần tích cực vào công tác của tổ chức cơ sở và của toàn Đảng nói chung. Phải lồng phê bình tự phê bình vào nội dung các vấn đề thảo luận làm cho sinh hoạt được phong phú, sôi nổi. Chương trình bàn bạc phải có trọng tâm. Đảng viên phải có chuẩn bị ý kiến trước khi họp. Tránh tình trạng gặp việc gì bàn việc ấy, bàn tràn lan, ít có nội dung tư tưởng và chính trị, như nhiều nơi đã mắc phải.
Một số đảng uỷ cơ sở và chi uỷ chưa được thật sự kiện toàn, nhất là về mặt chất lượng. Một số chi uỷ viên ở xã, nhất là trong một số đồng chí xuất thân từ thành phần trung nông lớp trên, chưa chịu tiếp thụ giáo dục của Đảng, đã thiếu gương mẫu trong việc chấp hành chính sách của Đảng và Nhà nước, nhất là trong chính sách thu mua, thu thuế và chính sách hợp tác hoá. Trong một số cấp ủy ở xí nghiệp, còn có một số đồng chí thiếu gương mẫu trong lao động sản xuất, không quan tâm đến đời sống của công nhân, quan liêu, hống hách. Trong số đó, có những đồng chí tuy hiện nay là công nhân nhưng còn mang theo tư tưởng của thành phần giai cấp cũ. Tổ chức cơ sở của Đảng khi đưa họ vào cấp uỷ đã không xét kỹ xem bản chất giai cấp cũ còn tồn tại trong tư tưởng họ như thế nào mà thường chỉ cǎn cứ vào thành tích đã qua hoặc những biểu hiện tích cực nhất thời.
Đối với những đồng chí nói trên, một mặt chúng ta phải ra sức giáo dục, mặt khác, nếu họ phạm khuyết điểm nặng hoặc không chịu sửa chữa thì phải kiên quyết đưa ra khỏi cấp uỷ hoặc thi hành kỷ luật thích đáng. Chúng ta phải chú ý kiện toàn các đảng uỷ và chi uỷ, nhất là về chất lượng, chú ý hơn nữa việc đưa những đồng chí công nhân tốt và những đồng chí bần cố nông và trung nông lớp dưới có đủ tiêu chuẩn vào các cơ quan lãnh đạo ở tổ chức cơ sở làm cho sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở có thể đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong nhiều chi bộ, nhất là ở chi bộ nông thôn, còn có một số đảng viên rất ít tham gia sinh hoạt Đảng, không đóng đảng phí, chây lười trong công tác, thiếu gương mẫu trong việc chấp hành các chính sách của Đảng và Chính phủ, hoặc quá kém; trải qua giáo dục và dìu dắt trong thực tế đấu tranh, nhiều đồng chí nói trên đã có chuyển biến tốt. Chúng ta phải đặc biệt coi trọng việc giáo dục các đảng viên đó. Sau Đại hội Đảng cần tổ chức cho họ cùng với các đảng viên khác học tập Điều lệ mới của Đảng và trên cơ sở đó mà dìu dắt họ tiến lên trong công tác thực tế. Đối với người không tiến bộ được thì cǎn cứ vào Điều lệ mà đưa ra khỏi Đảng. Đó là một biện pháp tích cực nhưng không phải là một vấn đề đơn giản vì nó có quan hệ đến nhiều đồng chí ở trong những hoàn cảnh và trường hợp khác nhau. Trung ương cần có kế hoạch chu đáo, các địa phương phải tích cực tiến hành để bảo đảm đầy đủ tính chất tiên phong của Đảng.
Vấn đề quản lý đảng viên hiện nay còn có nhiều thiếu sót. Việc giới thiệu đảng viên khi thay đổi công tác, có nơi làm không đúng thủ tục; việc kê khai lý lịch, nhận xét, giúp đỡ đảng viên trong quá trình công tác còn chưa được chu đáo. Vì vậy, có phần tử đầu cơ đã lợi dụng chui vào Đảng, có đảng viên đã khai man lý lịch, có những đồng chí bị mất liên lạc với Đảng, v.v.. Để tránh những khuyết điểm trên đây, chế độ quản lý đảng viên cần phải đi vào nền nếp chặt chẽ.
Chúng ta cần ra sức củng cố và nâng cao hơn nữa tổ chức cơ sở của Đảng. Việc đó đòi hỏi chẳng những sự cố gắng chủ quan của các tổ chức cơ sở, mà còn đòi hỏi các cấp uỷ cấp trên phải ra sức cải tiến công tác lãnh đạo của mình, tǎng cường đi sát, giúp đỡ tổ chức cơ sở và có kế hoạch chu đáo trong công tác giáo dục, bồi dưỡng từng loại cán bộ, đảng viên của tổ chức cơ sở.
4. Cuối cùng có vấn đề Đảng đối với Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam
Đảng ta từ trước đến nay rất quan tâm đến phong trào thanh niên. Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam hiện nay có nguồn gốc lịch sử từ khi Đảng mới thành lập, đã đóng góp phần quan trọng trong sự nghiệp cách mạng. Bởi vậy, trong Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về Đoàn Thanh niên Lao động đã ghi rõ: "Đoàn Thanh niên Lao động là tổ chức gần Đảng hơn hết, là tổ chức cánh tay và đội hậu bị của Đảng". Xuất phát từ quan điểm đó, bản Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) đề nghị một chương dành riêng nói về "Đảng đối với Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam". Bản Dự thảo đã quy định rõ: Đảng coi Đoàn Thanh niên Lao động là cánh tay đắc lực và đội hậu bị của Đảng. Đoàn có nhiệm vụ góp phần tích cực vào việc tuyên truyền và thực hiện các chính sách của Đảng và đề nghị ý kiến và kinh nghiệm của mình với tổ chức Đảng. Đoàn hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương Đoàn chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, không phải thông qua hình thức Đảng đoàn. Tổ chức Đoàn thanh niên các cấp địa phương cũng chịu sự lãnh đạo trực tiếp của tổ chức Đảng cùng cấp, đồng thời chịu sự lãnh đạo của tổ chức Đoàn Thanh niên cấp trên... Bản dự thảo còn yêu cầu tổ chức các cấp của Đảng lãnh đạo và giúp đỡ tổ chức Đoàn Thanh niên các cấp trong công tác tư tưởng và công tác tổ chức. Những điều quy định đó được chấp hành đầy đủ, chẳng những sẽ có tác động mạnh mẽ đối với phong trào thanh niên là lực lượng tương lai của nước nhà, mà còn có tác dụng thúc đẩy phong trào quần chúng nói chung trong sự nghiệp cách mạng; đồng thời còn có tác dụng rất lớn đến việc củng cố và xây dựng Đảng ta bởi vì, Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam cũng là nơi để Đảng đào tạo và lựa chọn những phần tử ưu tú trong công nhân, nông dân, lao động trí óc nhằm bổ sung vào đội ngũ của Đảng những thanh niên tích cực, hǎng hái, đầy sức sống. Các cấp bộ của Đảng và tổ chức của Đảng cần nhận rõ ý nghĩa quan trọng của vấn đề để thực hiện một cách đầy đủ.
III- Vấn đề cán bộ
Vấn đề cán bộ có tầm quan trọng đặc biệt đối với toàn bộ công tác của Đảng. "Cán bộ quyết định hết thảy", điều đó chúng ta đã rõ.
1. Lịch sử chứng minh rằng, mỗi chính đảng đại biểu quyền lợi của một giai cấp, phải đào tạo, lựa chọn và đề bạt cán bộ theo yêu cầu và phương hướng của giai cấp mình và giáo dục cán bộ đứng vững trên lập trường của giai cấp mình. Đó là nội dung chủ yếu của đường lối cán bộ.
Đảng ta là chính đảng của giai cấp công nhân. Sự hình thành đội ngũ cán bộ của Đảng trong điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam có những đặc điểm riêng, nhưng về cǎn bản phải theo đúng đường lối cán bộ của giai cấp công nhân. Muốn có một nhận định đúng đắn về vấn đề đường lối cán bộ của Đảng, trước hết cần đánh giá đúng đội ngũ cán bộ đó.
Quá trình xây dựng Đảng ta cũng là quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng ngày càng lớn mạnh. Trước những chuyển biến của cách mạng, Đảng ta luôn luôn có ưu điểm là kịp thời mở rộng đội ngũ cán bộ của mình trong công nhân, nông dân và trong tiểu tư sản, trí thức, kịp thời đề bạt những cán bộ cũ đã được thử thách và những cán bộ ưu tú mới xuất hiện trong phong trào lên các cương vị lãnh đạo để kịp thời đáp ứng yêu cầu của cách mạng. So với hồi Tổng khởi nghĩa Tháng Tám nǎm 1945 thì số lượng cán bộ ngày nay đã tǎng lên gấp bội. Chưa kể hàng chục vạn cán bộ nửa thoát ly và không thoát ly ở các đơn vị cơ sở, hiện nay, đội ngũ cán bộ thoát ly của Đảng và Nhà nước (chưa kể trong quân đội) đã lên tới trên 11 vạn, trong số đó quá nửa là đảng viên.
Trong đội ngũ cán bộ đó, có nhiều đồng chí xuất thân từ công nhân và nông dân (59,44%), cũng có rất nhiều đồng chí xuất thân là trí thức và tiểu tư sản khác (39,02%). Việc cấu tạo thành phần của đội ngũ cán bộ trên về cǎn bản là đúng; nó phản ánh quá trình xây dựng Đảng ta, phản ánh điều kiện và đặc điểm của cách mạng Việt Nam. Song, sự cấu tạo của đội ngũ cán bộ đó không khỏi có nhược điểm và khuyết điểm. Tỷ lệ thành phần công nhân và bần cố nông còn thấp (32,70%)1).
Khuyết điểm và nhược điểm đó một mặt khá quan trọng là do chúng ta chưa quan tâm đầy đủ đến vấn đề cán bộ công nông, cho nên đã thiếu một kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng cán bộ xuất thân từ các tầng lớp đó một cách lâu dài và toàn diện và mặt khác, phần nào cũng do hoàn cảnh khách quan trước đây hạn chế như phần tính chất Đảng đã nói kỹ.
Tuy nhiên khi đánh giá đội ngũ cán bộ của Đảng, không thể chỉ xem xét về mặt thành phần mà điều quan trọng là phải xem xét cả về mặt tư tưởng. Trong hàng ngũ cán bộ của Đảng từ trước đến nay, trước sự khủng bố, tàn sát của quân thù trong thời kỳ Đảng hoạt động bí mật và trải qua thử thách của cuộc kháng chiến gian khổ, cũng có một số cán bộ, nhất là trong số xuất thân từ thành phần trí thức tiểu tư sản và giai cấp bóc lột, do được lựa chọn không đúng hoặc do chỗ họ chưa được giáo dục đầy đủ, đã dao động, cầu an, nửa chừng rời bỏ hàng ngũ chiến đấu, hoặc thậm chí, có người phản bội Đảng, phản bội Tổ quốc. Từ hoà bình lập lại, trong cuộc đấu tranh với giai cấp địa chủ và giai cấp tư sản, một số ít cũng đã bị hủ hoá về mặt sinh hoạt hoặc đã theo nhóm Nhân vǎn Giai phẩm chống lại sự lãnh đạo của Đảng. Nhưng số cán bộ trên đây so với đội ngũ cán bộ nói chung, chỉ là số rất ít. Tuyệt đại đa số cán bộ của Đảng đã tỏ ra rất xứng đáng với truyền thống đấu tranh anh dũng và bất khuất của Đảng và của dân tộc. Hàng vạn cán bộ ưu tú đã hy sinh tính mạng cho sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân và giải phóng dân tộc. Đại đa số cán bộ còn lại đã phấn đấu bền bỉ vượt qua mọi thử thách của kháng chiến và tiếp đó được rèn luyện trong đấu tranh chống phong kiến, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng hòa bình, đã giữ vững bản chất cách mạng, trung thành với sự nghiệp xã hội chủ nghĩa và thống nhất Tổ quốc. Nếu không có một đội ngũ cán bộ được giáo dục theo chủ nghĩa Mác - Lênin trung thành với sự nghiệp của Đảng và của dân tộc, biết phát huy tính tích cực của đông đảo đảng viên và quần chúng thì không thể giải thích được tại sao, khi lệnh Tổng khởi nghĩa được ban hành, các đảng bộ đã lãnh đạo quần chúng nhân dân nổi dậy giành chính quyền, và Cách mạng Tháng Tám đã thành công trong toàn quốc; khi Chỉ thị kháng chiến trường kỳ đưa xuống, toàn Đảng đã nhất tề đứng dậy lãnh đạo quần chúng hy sinh phấn đấu lâu dài, đưa kháng chiến đến thắng lợi. Ngày nay, đội ngũ cán bộ đó, mặc dù trình độ vǎn hoá, khoa học, kỹ thuật còn thấp kém, trong tình hình công tác có nhiều khó khǎn, phức tạp, vẫn có những cố gắng vượt bậc, đưa công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội tiến lên những bước lớn. Những điều đó nói lên bản chất tốt đẹp của đội ngũ cán bộ của Đảng ta. Đó là một thành công của Đảng, một thành công quyết định những thành công khác của cách mạng. Bởi vậy có thể khẳng định rằng về cǎn bản Đảng ta đã theo đúng đường lối cán bộ của giai cấp công nhân.
Có đồng chí không nhìn thấy hết khuyết điểm và nhược điểm trong công tác cán bộ của Đảng, quá nhấn mạnh đến đặc điểm và hoàn cảnh khách quan, hoặc do ý thức giai cấp còn kém, đã đi đến coi nhẹ việc đào tạo, lựa chọn và đề bạt cán bộ xuất thân từ những thành phần công nhân và bần cố nông, không thấy hết tầm quan trọng của vấn đề cán bộ công nông, lại không thấy hết nhược điểm và khuyết điểm của cán bộ xuất thân từ thành phần trí thức, tiểu tư sản, đi đến coi nhẹ rèn luyện và cải tạo họ. Điều đó đương nhiên là không đúng và chính đó là nguồn gốc của những sai lầm hữu khuynh trong công tác cán bộ. Lại có những đồng chí không nhìn thấy hết đặc điểm và tình hình cấu tạo của đội ngũ cán bộ của Đảng, hoặc chỉ nhìn đến thành phần xuất thân, không xét kỹ lập trường, tư tưởng của cán bộ và khả nǎng giáo dục, cải tạo của Đảng đối với họ, hoặc chỉ nặng nhìn về mặt khuyết điểm, không nhìn thấy mặt ưu điểm nên đã hoài nghi tính chất vô sản của đội ngũ cán bộ của Đảng. Do đó, đã có những quan điểm phiến diện hẹp hòi trong công tác cán bộ.
Chúng ta kiên quyết chống lại mọi quan điểm lệch lạc trên đây về đường lối cán bộ của Đảng. Dựa vào tình hình thực tế của Đảng ta và theo đúng những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng Đảng, chúng ta cần có một nhận định tổng quát về đường lối cán bộ đó.
Từ trước đến nay, Đảng ta đã đào tạo, lựa chọn cán bộ trong công nhân, nông dân ưu tú, đồng thời cũng đã đào tạo và lựa chọn cán bộ cả trong những phần tử trí thức, tiểu tư sản ưu tú. Đó là những nguồn cán bộ của Đảng ta. Nhưng cũng cần nhận rõ rằng: Vì Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân và thành phần công nông, nhất là công nhân và bần cố nông, là lực lượng chủ yếu và kiên quyết nhất của cách mạng cho nên Đảng phải đặc biệt chú trọng đào tạo, lựa chọn và đề bạt cán bộ công nhân và bần cố nông. Hoàn cảnh khách quan và nhất là khuyết điểm chủ quan của ta trước đây đã hạn chế đến một mức độ nhất định tỷ lệ thành phần cơ bản đó trong hàng ngũ cán bộ. Ngày nay, bước vào giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, công nông, đặc biệt là công nhân, đang đóng một vai trò quyết định trong nền sản xuất tiên tiến. Chúng ta có đủ điều kiện và nhất định phải làm cho các thành phần cơ bản đó dần dần chiếm số đông trong đội ngũ cán bộ. Đó chẳng những là một vấn đề thuộc về lập trường giai cấp và quan điểm quần chúng mà còn là một vấn đề thực tế. Có thể khẳng định rằng, nếu ngày nay không giải quyết tốt vấn đề cán bộ công nông, không tích cực đào tạo, đề bạt được nhiều cán bộ xuất thân từ công nhân, bần cố nông và trung nông lớp dưới, nhất là công nhân, thì không thể giải quyết được tốt vấn đề cán bộ và như vậy, sẽ không hoàn thành được tốt nhiệm vụ chính trị của Đảng. Tuy nhiên, Đảng cũng không thể vì vậy mà coi nhẹ vấn đề cán bộ xuất thân từ thành phần trí thức, tiểu tư sản. ở nước ta, những thành phần đó cũng bị đế quốc, phong kiến áp bức, bóc lột, họ cũng quyết tâm làm cách mạng. Phần đông các cán bộ đó ít nhiều đã được rèn luyện trong kháng chiến. Chúng ta đã coi trọng tác dụng của cán bộ xuất thân từ trí thức, tiểu tư sản trong cách mạng dân tộc dân chủ, chúng ta càng không thể không thấy rằng tác dụng của các cán bộ đó ngày nay lại có điều kiện phát huy hơn nữa, nhất là đối với công cuộc xây dựng kinh tế và phát triển vǎn hoá.
Kinh nghiệm thực tế đấu tranh của Đảng ta cũng chỉ rõ rằng mỗi loại cán bộ đều có những ưu điểm và nhược điểm khác nhau. Cán bộ xuất thân công nông, nhất là công nhân và bần cố nông, nói chung, có ưu điểm rất lớn là rất kiên quyết cách mạng, tư tưởng và lập trường nói chung là vững vàng, hiểu rõ đời sống và nguyện vọng của quần chúng, có liên hệ tốt với quần chúng và am hiểu về sản xuất, nhưng trình độ vǎn hoá và lý luận thường lại thấp. Cán bộ xuất thân từ trí thức, tiểu tư sản cũng rất tích cực và tương đối có trình độ vǎn hoá và lý luận, có khả nǎng tiếp thu mau, nhưng nói chung, khi chưa được giáo dục và thử thách đầy đủ thì thường lập trường không vững, dễ dao động, ít thực tế, xa quần chúng. Cho nên chúng ta cần phải khéo phối hợp hai loại cán bộ đó lại để bổ sung ưu điểm cho nhau, cùng nhau khắc phục khuyết điểm và nhược điểm. Quyết không thể coi khinh hoặc chỉ coi trọng một loại cán bộ nào. Tuy nhiên, vì mỗi loại cán bộ có những đặc điểm khác nhau cho nên Đảng phải hết sức chú trọng bồi dưỡng cán bộ công nông về mặt vǎn hoá, lý luận và trong việc lựa chọn, đề bạt, tiến tới yêu cầu họ có một trình độ vǎn hóa nhất định, lúc đầu có thể thấp, nhưng dần dần phải nâng cao lên. Đối với cán bộ xuất thân từ trí thức, tiểu tư sản, Đảng lại phải chú trọng giáo dục tư tưởng, rèn luyện họ trong thực tế đấu tranh ở cơ sở và trong lao động sản xuất; khi lựa chọn, đề bạt lại phải rất chú ý xem xét sự liên hệ của họ với quần chúng như thế nào, xem họ đã hết lòng, hết sức phục vụ công nông chưa. Phương hướng giáo dục và lựa chọn, đề bạt đó là xuất phát từ lập trường giai cấp của Đảng, từ tinh thần quý mến cán bộ và chính sách đoàn kết cán bộ, muốn cho cán bộ cống hiến được nhiều nhất cho cách mạng. Đó chính là thực hiện khẩu hiệu "công nông hoá trí thức, trí thức hoá công nông" mà Đảng đã đề ra.
Trong việc lựa chọn, đề bạt cán bộ, Đảng còn đề ra tiêu chuẩn đạo đức cách mạng và tài nǎng đều phải có. Đức chủ yếu là trung thành với cách mạng, liên hệ tốt với quần chúng, vì quần chúng mà phục vụ. Tài tức là có một nǎng lực công tác nhất định có thể gánh vác được nhiệm vụ mà Đảng giao cho. Cán bộ dù xuất thân thành phần nào, cũng phải có đủ tiêu chuẩn đó. Trong thực tế trước đây, có nơi, có lúc chúng ta đã coi trọng tài, coi nhẹ đức hoặc ngược lại, lấy đức làm chủ yếu, coi tài chỉ là thứ yếu. Đảng ta chống mọi thiên hướng lệch lạc đó. Đảng nhận định rằng, nếu có đạo đức cách mạng cao thì dễ có điều kiện phát triển tài nǎng; nếu có "tài" mà thiếu đạo đức thì "tài" đó cũng không thể đem phục vụ cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Bởi vậy, khi nói đức là cơ bản, chính là theo nghĩa đó, chứ không phải là coi nhẹ tài nǎng. Việc đề ra tiêu chuẩn trên đây chứng tỏ rằng Đảng không lấy thành phần xuất thân để phân biệt đối xử với cán bộ nhưng cũng nói lên rằng, tất cả cán bộ của Đảng, nhất là cán bộ xuất thân thành phần không vô sản, muốn xứng đáng là cán bộ ưu tú của giai cấp công nhân, thì phải ra sức trau dồi đạo đức cách mạng để có thể đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân. Điều đó còn thể hiện phương châm xây dựng Đảng ta, lấy xây dựng tư tưởng là chủ yếu trong khi vẫn coi trọng mặt tổ chức.
Những điều trên đây thể hiện nội dung của đường lối cán bộ của Đảng ta. Đường lối cán bộ đó phải là chú trọng lựa chọn, bồi dưỡng và đề bạt cán bộ trong những người ưu tú xuất thân từ công nhân và nông dân, đồng thời lựa chọn, bồi dưỡng, và đề bạt cán bộ trong những người ưu tú xuất thân từ trí thức có liên hệ chặt chẽ với công nông, một lòng một dạ phục vụ công nông. Trong khi thực hiện đường lối cán bộ đó, phải coi trọng việc bồi dưỡng và đề bạt cán bộ cũ đã qua thử thách, nhưng cũng phải rất chú ý đến những phần tử ưu tú trẻ tuổi mới xuất hiện qua các phong trào quần chúng. Trước kia, chúng ta theo đường lối công tác cán bộ đó, nhưng có lúc chưa nắm vững phương hướng và quan điểm giai cấp trong công tác cán bộ, nhất là chưa chú trọng đầy đủ đến cán bộ công nông. Từ nay về sau, chúng ta nhất thiết phải quán triệt hơn nữa đường lối công tác cán bộ của Đảng, đặc biệt phải sửa chữa những khuyết điểm trong công tác đối với cán bộ công nông.
2. Trên cơ sở quán triệt hơn nữa đường lối công tác cán bộ của Đảng, phải có kế hoạch tích cực bồi dưỡng, đào tạo, đề bạt, sử dụng cán bộ cho đúng.
a) Bồi dưỡng, đào tạo cán bộ là một nhiệm vụ cấp bách của toàn Đảng. Sự cố gắng của chúng ta, nhất là gần đây, về phương diện đó, đã đem lại kết quả nhất định tuy chưa đạt được yêu cầu cần thiết. Do thiếu nhìn xa thấy rộng cho nên kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng cán bộ của chúng ta thiếu toàn diện, thiếu gắn liền với nhiệm vụ chính trị lâu dài và còn nhiều tính chất chắp vá, thủ công nghiệp. Hiện nay, chúng ta đang đứng trước một mâu thuẫn lớn giữa số lượng và chất lượng của cán bộ và yêu cầu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trình độ lý luận, trình độ vǎn hoá và kỹ thuật của cán bộ và số lượng cán bộ kỹ thuật hết sức nghèo nàn hiện nay đang trở ngại đến công tác của Đảng và của Nhà nước. Sự cố gắng gần đây của chúng ta đã có kết quả, nhưng hoàn toàn chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của cách mạng.
Trong giai đoạn hiện nay, người cán bộ nếu chỉ hiểu biết về chính trị chung chung thì không thể lãnh đạo tốt kinh tế và vǎn hoá, hoặc nếu chỉ có kỹ thuật, nghiệp vụ đơn thuần thì nhất định không thể làm tốt công tác chuyên môn. Bởi vậy, chúng ta phải có một đội ngũ cán bộ đông đảo vừa am hiểu về chính trị, vừa thông thạo về chuyên môn, đặc biệt là phải có một đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật rất lớn, tuyệt đối trung thành với giai cấp công nhân. Trong đội ngũ cán bộ ấy, cán bộ là đảng viên phải có mặt ở khắp các lĩnh vực công tác để cùng với cán bộ ngoài Đảng hoàn thành nhiệm vụ lớn lao của Đảng. Muốn như vậy, phải tổ chức cho cán bộ học tập lý luận một cách có hệ thống, và rèn luyện cán bộ trong thực tế đấu tranh, đồng thời phải coi trọng việc đào tạo cán bộ về mặt kỹ thuật và nghiệp vụ. Vấn đề đó đòi hỏi trước hết phải ra sức nâng cao trình độ vǎn hoá của cán bộ, nhất là đối với cán bộ công nông. Phải ra sức đào tạo một đội ngũ cán bộ trí thức xuất thân từ công nông thật đông đảo, đồng thời phải chú ý cải tạo những trí thức cũ chưa được rèn luyện thử thách đầy đủ để họ có thể trở thành những cán bộ chân chính của giai cấp công nhân.
Chúng ta phải ra sức thực hiện những điều đã quy định về học tập lý luận trong Đảng. Mỗi ngành, mỗi cấp phải mở rộng trường hoặc lớp học để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho ngành mình, cấp mình. Phải mở rộng hơn nữa các trường phổ thông, chuyên nghiệp và đại học. Phải cử nhiều cán bộ sang học tập ở các nước anh em, đồng thời phải ra sức đào tạo cán bộ trong thực tế sản xuất. Phải bồi dưỡng bằng mọi biện pháp cho những chiến sĩ thi đua, những tổ trưởng sản xuất, những công nhân, những uỷ viên quản trị và xã viên hợp tác xã, v.v. có nhiệt tình lao động và cầu tiến bộ; phải bồi dưỡng hơn nữa cho những đảng uỷ viên, chi uỷ viên, những đảng viên, những cán bộ và Đoàn viên Thanh niên Lao động xuất sắc ở cơ sở; phải mạnh dạn giao việc cho họ, đưa họ dần dần từ dưới lên. Qua công tác thực tế, cần tổ chức cho cán bộ, công nhân và nhân viên công tác học tập chuyên gia các nước anh em một cách thường xuyên và có hệ thống để họ nhanh chóng tiếp thụ được những kinh nghiệm quý báu của các nước anh em.
Kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo cán bộ phải toàn diện, nhưng có trọng tâm, phải chủ động và lâu dài, phải nhìn thấy yêu cầu của công cuộc xây dựng miền Bắc, đồng thời phải thấy cả yêu cầu của sự nghiệp thống nhất nước nhà. Phải coi trọng hơn nữa việc đào tạo cán bộ phụ nữ, cán bộ người thiểu số và cán bộ người miền Nam. Chúng ta không thể tiếc thì giờ, sức lực trong việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ nói chung, đặc biệt là các loại cán bộ trên đây. Đó là nhiệm vụ mà toàn Đảng phải ra sức thực hiện. Dựa vào kế hoạch chung, mỗi ngành, mỗi cấp phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng riêng, quyết không thể ỷ lại vào việc đào tạo, bồi dưỡng của Trung ương.
b) Song song với việc bồi dưỡng, đào tạo cán bộ, phải chú ý đề bạt cán bộ. Phải đề bạt chẳng những để có đủ người phụ trách công việc trước mắt mà còn để đào tạo cán bộ cho công tác sau này.
Công tác đề bạt cán bộ của chúng ta ngày càng tiến bộ và cǎn bản là tốt. Thế nhưng vẫn còn một số không ít cán bộ và tổ chức của Đảng chưa thật mạnh dạn đề bạt cán bộ hoặc còn có quan niệm lệch lạc khi đề bạt cán bộ.
Trong thực tế, có những đồng chí mất ǎn, mất ngủ, ôm đồm, bao biện, quan liêu, vất vả, không có thì giờ học tập, nhưng không tin ở khả nǎng cán bộ, không tìm ra cán bộ để đề bạt. Các đồng chí đó không thấy rằng đông đảo cán bộ hiện nay đã trải qua ít nhất là 10, 15 nǎm đấu tranh cách mạng hoặc phần đông đã có trên 10 tuổi Đảng; được Đảng giáo dục và tiếp thụ được kinh nghiệm phong phú của Đảng, họ đã trưởng thành. Chỉ có mạnh dạn giao trách nhiệm cho họ, tích cực bồi dưỡng và đề bạt họ lên những cương vị xứng đáng thì công việc của Đảng mới có thể hoàn thành tốt. Tất nhiên không phải vì vậy mà đề bạt một cách gượng ép, bừa bãi.
Nhiều đồng chí còn vận dụng hoặc quan niệm tiêu chuẩn đề bạt cán bộ một cách phiến diện. Có đồng chí đã lấy tuổi Đảng, quá trình tham gia cách mạng và việc tham gia cấp uỷ, v.v. làm tiêu chuẩn chính để đề bạt cán bộ. Trong nhiều trường hợp, họ đã đề bạt cán bộ theo lối "tôn ti, trật tự", "sống lâu lên lão làng". Ngược lại, có đồng chí chỉ nhìn đến mặt nói hay viết thạo, nhanh nhẹn tháo vát bề ngoài của cán bộ, còn khả nǎng thực tế và đạo đức ra sao thì coi nhẹ. Có đồng chí nhìn cán bộ một cách cầu toàn, thành kiến với cán bộ phạm sai lầm, không xem xét họ đã tiến bộ ra sao mà chỉ cǎn cứ một mặt vào những sai lầm đã qua. Những đồng chí đó không thấy rằng trong nhiều trường hợp có những đồng chí đã phạm sai lầm, có khi bị thi hành kỷ luật, một khi đã cố gắng sửa chữa, không hề kém hơn một số đồng chí khác chưa từng bị thi hành kỷ luật. Trái lại, có đồng chí hoàn toàn không xem xét những khuyết điểm, sai lầm đã qua của cán bộ để hiểu cán bộ một cách sâu sắc hơn, chỉ tìm hiểu cán bộ đơn thuần qua khả nǎng và thái độ hiện tại. Đó cũng là một lệch lạc nữa cần phải tránh.
Một số đồng chí lại đem cảm tình cá nhân thay thế cho tiêu chuẩn đề bạt cán bộ, như đề bạt người thân thích của mình không đủ tiêu chuẩn, có khi còn xem ai hẩu với mình thì đề bạt, thành kiến, ác cảm với ai thì dìm xuống. Ngoài ra, không ít đồng chí nhìn cán bộ một cách thành kiến, phiến diện: thường chỉ nhìn thấy những việc đã qua, không nhìn thấy những việc hiện nay, chỉ nhìn thấy một mặt ưu điểm hoặc khuyết điểm, không nhìn thấy mặt khác, không phân biệt mặt nào là chính, mặt nào chỉ là phụ, hoặc nhiều khi lại nhận xét theo cảm tính hoặc chỉ nhìn thấy hiện tượng bên ngoài, không nhìn đúng bản chất của cán bộ.
Những quan điểm trên đây đã dẫn đến sai lầm bảo thủ và phiến diện trong việc đề bạt cán bộ. Những quan điểm đó chẳng những có trong một số đồng chí phụ trách hoặc một số cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước mà còn có trong nhiều cán bộ và đảng viên khác. Những quan điểm đó cộng với những động cơ cá nhân không chính đáng đã dẫn đến tình trạng suy bì, so sánh giữa cá nhân này với cá nhân khác trong các dịp đề bạt cán bộ. Các đồng chí đó không thấy rằng đề bạt cán bộ chỉ là vấn đề phân công trong công tác của Đảng theo yêu cầu của nhiệm vụ chính trị, mà lại coi việc đề bạt cán bộ là một vấn đề "thǎng quan tiến chức", do đó có đồng chí đã hết so sánh dọc lại so sánh ngang, không yên tâm phục vụ, hoặc thắc mắc về tiền đồ, địa vị, làm tổn thương đến đoàn kết nội bộ và ảnh hưởng không tốt đến việc hoàn thành nhiệm vụ của Đảng và của Nhà nước.
Cần phải mạnh dạn đề bạt cán bộ hơn nữa, nhất là cán bộ công nông và cán bộ trẻ, lựa chọn trong những phần tử ưu tú xuất hiện qua các phong trào. Đồng thời, vẫn phải tiếp tục chú ý đề bạt cán bộ cũ đã được rèn luyện thử thách và có nǎng lực; việc đó là hoàn toàn đúng và cần thiết. Cán bộ cũ nói chung thường chắc chắn, vững vàng, có nhiều kinh nghiệm, nhưng một số không ít đồng chí thường hay bảo thủ, tiếp thụ không kịp những cái mới; cán bộ trẻ nói chung không được từng trải và vững vàng bằng cán bộ cũ nhưng thường hay dễ nhạy cảm với cái mới, tiếp thụ lý luận, khoa học, kỹ thuật nhanh. Chỉ có biết kết hợp cán bộ trẻ, cán bộ mới với cán bộ già, cán bộ cũ, cũng như kết hợp cán bộ xuất thân từ công nông và xuất thân từ trí thức, tiểu tư sản thì công tác cán bộ mới có thể thành công và nhiệm vụ chính trị của Đảng mới có thể được hoàn thành tốt đẹp.
Trong khi đề bạt cán bộ, phải nắm vững tiêu chuẩn một cách toàn diện. Xem xét lịch sử, quá trình công tác trước kia và hiện nay, những khuyết điểm, nhược điểm hoặc ưu điểm, v.v. là hoàn toàn đúng nhưng nếu chỉ nhìn một mặt nào đó đi đến nhận xét, đánh giá cán bộ không toàn diện thì nhất định sẽ phạm khuyết điểm trong việc đề bạt và sử dụng cán bộ.
c) Muốn làm tốt công tác cán bộ, còn phải biết tập trung lực lượng cán bộ của Đảng vào các ngành công tác trọng yếu nhất; phải tiếp tục bổ sung nhiều cán bộ ưu tú hơn nữa cho công tác kinh tế và vǎn hoá, nhất là kinh tế, và cho các cơ sở sản xuất. Việc phân phối và điều chỉnh cán bộ phải cǎn cứ vào yêu cầu của nhiệm vụ chính trị, theo một kế hoạch chung, toàn diện. Tránh điều động xáo trộn cán bộ một cách không cần thiết để có thể ổn định công tác của cán bộ và giúp họ tích lũy kinh nghiệm; nhưng đồng thời cũng phải tích cực chống tư tưởng bản vị, cục bộ, địa phương chủ nghĩa thiếu ý thức tổ chức và kỷ luật đã làm trở ngại không ít đến việc điều động cán bộ.
Chúng ta còn phải có chính sách đãi ngộ cán bộ cho đúng. Cán bộ là vốn quý nhất của Đảng, phải yêu quý và chǎm sóc cán bộ, làm cho cán bộ có thể đem hết khả nǎng và sức lực phục vụ nhân dân. Phải nghiên cứu và bổ sung các chính sách đối với cán bộ xã, cán bộ miền núi, cán bộ phụ nữ, v.v. nhằm bồi dưỡng nǎng lực công tác về mọi mặt, đồng thời chú ý chǎm sóc đời sống tinh thần và vật chất để giảm bớt những khó khǎn hiện đang cản trở đến sự tiến bộ và công tác của anh chị em. Đối với cán bộ già yếu, cần có chế độ nghỉ ngơi và bồi dưỡng về tinh thần và vật chất cho chu đáo. Việc bổ sung các chính sách là cần thiết, song điều quan trọng nữa là phải tích cực kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các chính sách ấy một cách đầy đủ.
Phải có một chế độ phân cấp quản lý cán bộ cho rõ ràng; chống quản lý cán bộ một cách quan liêu, hời hợt trên giấy tờ.
Phải chǎm nom đến vấn đề đoàn kết cán bộ. Phải gìn giữ sự đoàn kết giữa cán bộ cũ và cán bộ mới, giữa cán bộ xuất thân từ công nông và cán bộ xuất thân từ trí thức, tiểu tư sản, giữa cán bộ người Kinh và cán bộ các dân tộc ít người, giữa cán bộ người ở địa phương và cán bộ ở địa phương khác đến. Cần phải nhận rõ rằng: sự nghiệp cách mạng là của quần chúng nhân dân do Đảng ta lãnh đạo, không phải là của riêng Đảng và cán bộ trong Đảng. Phải đoàn kết cán bộ trong Đảng và cán bộ ngoài Đảng, mạnh dạn đào tạo, đề bạt, sử dụng cán bộ ngoài Đảng, thực hiện đúng khẩu hiệu có chức phải có quyền. Cán bộ ngoài Đảng chiếm số khá đông, có đoàn kết thật sự với cán bộ ngoài Đảng mới làm tròn được nhiệm vụ cách mạng.
Đường lối, chính sách cán bộ trên đây đều áp dụng chung cho cả cán bộ trong Đảng và cán bộ ngoài Đảng; các cấp uỷ Đảng phải chú ý lãnh đạo việc thực hiện cho chặt chẽ. Cần tránh tình trạng khoán trắng cho ban tổ chức các cấp hoặc cho các cơ quan giúp việc quản lý cán bộ của các đơn vị, các ngành. Coi nhẹ công tác cán bộ của Đảng là một sai lầm nguy hiểm trong sự nghiệp xây dựng và củng cố Đảng, cũng như trong việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị của Đảng.
IV- vấn đề kỷ luật và khen thưởng trong đảng
Đảng ta là một tổ chức chiến đấu, đoàn kết, thống nhất. Mọi đảng viên và tổ chức của Đảng liên kết với nhau theo một kỷ luật chung dựa trên những nguyên tắc thống nhất về tư tưởng và tổ chức, thể hiện trong Điều lệ Đảng. Kỷ luật đó nhằm bảo đảm sự thống nhất và tập trung cao độ trong Đảng, đồng thời cũng là để phát huy dân chủ nội bộ, phát huy tính tích cực và sáng tạo của toàn thể đảng viên và tổ chức của Đảng. Kỷ luật của Đảng là kỷ luật sắt. Nếu không có một kỷ luật nghiêm minh mà toàn Đảng tự nguyện, tự giác tuân theo thì Đảng không thể là một đảng chân chính của giai cấp công nhân, không thể lãnh đạo cách mạng thắng lợi được. Bởi vậy, tǎng cường kỷ luật của Đảng là một nhiệm vụ thường xuyên; nhiệm vụ đó đối với giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa hiện nay lại càng cấp thiết.
Nhưng tǎng cường kỷ luật của Đảng tuyệt nhiên không phải là để thi hành kỷ luật cho nhiều mà chủ yếu là phải nâng cao được tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức, tinh thần chấp hành chỉ thị, nghị quyết của đông đảo đảng viên và cán bộ của Đảng. Như vậy, sự đoàn kết, thống nhất của Đảng mới được bảo đảm, đường lối, chính sách của Đảng mới được triệt để chấp hành. Do đó, cán bộ, đảng viên càng phát huy được nhiều ưu điểm, càng ít phạm sai lầm và ít bị thi hành kỷ luật.
Nhưng mặt khác, để bảo đảm kỷ luật của Đảng được nghiêm minh, nếu đảng viên hoặc tổ chức của Đảng phạm sai lầm đến mức độ cần phải thi hành kỷ luật thì cần xử trí đúng mức, không nhân nhượng, nể nang, cũng không cường điệu sai lầm, xử trí quá mức. Thi hành kỷ luật như thế nào cho đúng là vấn đề ở đây chúng ta cần quan niệm cho thống nhất.
1. Trước hết, cần nắm vững ý nghĩa giáo dục của việc thi hành kỷ luật trong Đảng. ý nghĩa đó đã được ghi trong Điều lệ cũ của Đảng, không phải bây giờ Đảng ta mới đề ra. Việc thi hành kỷ luật trong Đảng bởi vậy, nói chung đã có tác dụng tích cực. Thế nhưng, không phải mọi nơi, mọi lúc đều không có những lệch lạc này hay lệch lạc khác.
Một số đồng chí trong các cấp uỷ khi thi hành kỷ luật đảng viên, không chú ý làm công tác tư tưởng một cách sâu sắc và tỷ mỷ, thiếu nhẫn nại, kiên trì thuyết phục, thiếu phân tích tính chất sai lầm, làm rõ nguồn gốc sai lầm và vạch rõ phương pháp sửa chữa, sau đó lại không theo dõi, giúp đỡ, tạo điều kiện cho đảng viên phạm lỗi tiến bộ. Trái lại, trong nhiều trường hợp đã tỏ thái độ lãnh đạm, xa lánh, hắt hủi, coi khinh đồng chí đã mắc sai lầm, hoặc có thành kiến với sai lầm của đồng chí đó rất lâu. Thái độ đó chẳng những làm tổn thương đến tình đồng chí, không giúp cho đồng chí phạm sai lầm có cơ hội sửa chữa mà còn làm cho đồng chí phạm sai lầm đó sinh bi quan, tiêu cực, không nhìn thấy phương hướng tiến lên. Chỉ có tình thương yêu đồng chí một cách thiết tha, nắm vững ý nghĩa "trị bệnh cứu người" của việc thi hành kỷ luật thì mới có thể hết lòng hết sức giúp đỡ đồng chí sửa chữa sai lầm. Không làm như vậy là biểu hiện tính đảng chưa thuần, ý thức xây dựng Đảng chưa cao. Chẳng những đối với đồng chí phạm sai lầm còn ở trong Đảng chúng ta phải có thái độ như thế, mà ngay cả với những người đã bị khai trừ ra khỏi Đảng, chúng ta cũng cần phải gần gũi giúp đỡ họ tiến bộ.
Vì ý nghĩa của việc thi hành kỷ luật là để giáo dục đồng chí, giáo dục quần chúng, tǎng cường sức chiến đấu của Đảng, cho nên Đảng ta phản đối mọi khuynh hướng muốn dùng kỷ luật thay cho việc giáo dục, dùng kỷ luật một cách quá đáng để trừng trị đảng viên. Chỉ có kỷ luật đúng mức mới có thể là kỷ luật nghiêm minh. Đấu tranh trong Đảng chủ yếu là đấu tranh tư tưởng trên tình đồng chí, không phải là thổi phồng khuyết điểm, phủ nhận ưu điểm, đấu tranh không thương tiếc, có tính cách để trừng trị đảng viên. Thi hành kỷ luật theo tinh thần đó chỉ có nghĩa là uy hiếp đồng chí phạm sai lầm, uy hiếp các đồng chí khác và quần chúng, dẫn đến thủ tiêu phê bình và tự phê bình, biến kỷ luật tự giác của Đảng thành một thứ hình phạt máy móc, cứng đờ. Như vậy sẽ tổn thương đến đoàn kết trong Đảng, gây tác hại cho sự nghiệp cách mạng. Trong Đảng ta, trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, nhiều nơi đã mắc phải sai lầm đó. Đảng đã ra sức sửa chữa và kỷ luật của Đảng đã được hướng theo ý nghĩa đúng đắn và có tác dụng tốt trong việc giáo dục đảng viên và đoàn kết toàn Đảng. Thế nhưng vẫn có một số đồng chí còn muốn dùng kỷ luật quá mức, có tính cách trừng trị đối với một số đồng chí phạm sai lầm, với ý định để ngǎn ngừa các đồng chí khác không phạm lỗi. Làm như vậy là trái với tinh thần kỷ luật của Đảng, trái với tính chất tự giác gìn giữ kỷ luật của người đảng viên.
Cũng vì ý nghĩa của việc thi hành kỷ luật là để giáo dục đảng viên và quần chúng, tǎng cường sức chiến đấu của Đảng, cho nên Đảng ta phản đối mọi thiên hướng muốn buông lỏng kỷ luật. Trong Đảng hiện nay có một số đồng chí đã phạm sai lầm đến mức độ nghiêm trọng cần phải thi hành kỷ luật, nhưng một số cán bộ và tổ chức của Đảng lại có thái độ nuông chiều; hoặc e ngại, sợ mất đoàn kết, sợ bị thù oán, sợ phạm khuyết điểm trong việc xử lý cán bộ, cho nên không thi hành kỷ luật và không có thái độ đấu tranh cần thiết. Một số đồng chí lại cố vin vào phương châm giáo dục của Đảng, hiểu phương châm đó một cách phiến diện, cho nên đã không kiên quyết dùng những biện pháp kỷ luật về mặt tổ chức trong những trường hợp cần thiết. Nơi nào đã làm như vậy thì chẳng những kỷ luật của Đảng bị lỏng lẻo, đoàn kết nội bộ bị giảm sút mà đồng chí phạm sai lầm lại càng dễ đi sâu vào tội lỗi, làm gương xấu cho đảng viên khác và quần chúng, và đến một lúc nào đó họ đã phải chịu kỷ luật nặng nề hơn. Như vậy vừa không lợi cho đồng chí, vừa có hại cho Đảng. Đó là thái độ tự do, vô trách nhiệm, phủ nhận nhân tố tích cực của việc thi hành kỷ luật, trái với tính tổ chức của Đảng ta. Chúng ta nhất định phải đề cao hơn nữa kỷ luật nghiêm minh của Đảng.
2. Quán triệt mục đích, ý nghĩa của việc thi hành kỷ luật chưa đủ, phải theo phương hướng đúng đắn và bảo đảm đầy đủ tính nghiêm túc và thận trọng trong việc thi hành kỷ luật
Đảng ta đã nhiều lần chỉ rõ phương hướng thi hành kỷ luật song, trong nhiều tổ chức của Đảng còn có hiện tượng thi hành kỷ luật nặng nề, khắt khe đối với những khuyết điểm nhỏ, những khuyết điểm về sinh hoạt, trái lại lại lỏng lẻo đối với những sai lầm thuộc về nguyên tắc và đường lối, chính sách. Phương hướng thi hành kỷ luật như vậy hoàn toàn là không đúng. Bởi vậy, phải nhằm vào những sai lầm lớn thuộc về nguyên tắc và đường lối, chính sách mà thi hành kỷ luật, không nên chỉ nhằm vào những vấn đề vụn vặt trong sinh hoạt, làm cho ý thức của đảng viên đối với tính tổ chức và kỷ luật của Đảng bị ảnh hưởng lệch lạc, người đảng viên sẽ không nhận thức đầy đủ đâu là những vấn đề nguyên tắc cần coi trọng, đâu là những khuyết điểm có tính chất thông thường về sinh hoạt. Cố nhiên những vấn đề thuộc về sinh hoạt thông thường cũng thuộc về đạo đức của người cộng sản, chúng ta không nên bỏ qua. Nhưng đó không phải là những vấn đề cǎn bản, chỉ cần giáo dục, giúp đỡ đồng chí phạm khuyết điểm sửa chữa. Nếu họ không ǎn nǎn hối lỗi đi đến trụy lạc, hủ hoá nghiêm trọng thì việc đó không còn thuộc phạm vi sinh hoạt thông thường nữa, cần có kỷ luật nghiêm khắc, cho đến khai trừ ra khỏi Đảng.
Việc thi hành kỷ luật của Đảng phải cứng rắn về nguyên tắc nhưng về hình thức thì phải hết sức linh hoạt. Đối với những đảng viên phạm sai lầm nghiêm trọng, đã biến chất, không còn có phẩm chất tối thiểu của người đảng viên nữa thì khai trừ đảng tịch. Tuy nhiên đối với những đồng chí tuy phạm sai lầm nghiêm trọng nhưng xét còn có thể để lại trong Đảng để giáo dục, giúp đỡ sửa chữa, đồng thời họ cũng tự nguyện và tích cực sửa chữa thì thi hành kỷ luật đúng mức, nhưng vẫn có thể giữ lại trong Đảng. Còn đối với những phần tử xấu chui vào Đảng để phá hoại, nếu qua điều tra, nghiên cứu đã có cǎn cứ xác đáng thì phải đuổi chúng ra khỏi Đảng. Đó không phải thuộc phạm vi thi hành kỷ luật đảng viên.
Sai lầm trong Đảng có nguồn gốc sâu xa ngoài xã hội, có những cǎn nguyên tư tưởng khác nhau; những hoàn cảnh, mức độ, tính chất của sai lầm và ảnh hưởng của nó trong Đảng và ngoài Đảng cũng khác nhau. Bởi vậy, phải xét rõ hoàn cảnh phạm lỗi, tính chất của sai lầm mà có cách xử trí thích đáng. Chẳng những vì tính chất phức tạp của vấn đề đòi hỏi phải nghiêm túc và thận trọng mà sinh mệnh chính trị của đảng viên cũng đòi hỏi chúng ta phải làm như thế. Bởi vậy, trước khi quyết định kỷ luật, tổ chức của Đảng phải điều tra, nghiên cứu tại chỗ cho rõ ràng sự thực, tập hợp đầy đủ chứng cớ mọi mặt; trên cơ sở đó mà phân tích một cách cụ thể, toàn diện và khách quan, xác định đúng mức độ, tính chất, nguyên nhân, v.v. đồng thời phải phân biệt rõ trách nhiệm của cá nhân hay là trách nhiệm của một tập thể; trong trách nhiệm của tập thể, nhiều trường hợp cũng có trách nhiệm của cá nhân, tuy nhiên, trong những trường hợp đó không nên nhấn mạnh quá đáng đến trách nhiệm của cá nhân. Phải xem xét việc đã qua hay là việc hiện nay, sai lầm khuyết điểm do trình độ hiểu biết thấp kém hay là có ý thức và đã trải qua nhiều lần giáo dục. Phải phân biệt bản chất và hiện tượng, phân biệt vấn đề tư tưởng với vấn đề chính trị, phân biệt vấn đề thuộc về nguyên tắc với vấn đề không thuộc về nguyên tắc, tác hại nhiều hay là ít, v.v.. Lại phải cân nhắc giữa sai lầm khuyết điểm và thành tích, xem xét thái độ tiếp thụ sự giáo dục của Đảng và sửa chữa sai lầm của người phạm kỷ luật như thế nào. Có cân nhắc, xem xét kỹ trên các mặt đó để phân biệt xử trí thì thi hành kỷ luật mới có thể chính xác được.
3. Vì sai lầm khuyết điểm của đảng viên có tính chất và mức độ khác nhau cho nên, cần có những hình thức kỷ luật khác nhau. Dựa trên những quy định của Điều lệ cũ, Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) đề nghị thêm hình thức khiển trách, coi đó là hình thức kỷ luật thấp nhất; đề nghị bỏ hình thức "cảnh cáo trước quần chúng", vì nếu hiểu là đưa đảng viên ra cảnh cáo trước quần chúng để giáo dục thì không đúng với tính chất giáo dục, còn nếu chỉ hiểu là công bố việc thi hành kỷ luật trước quần chúng thì đối với các hình thức khác khi cần thiết cũng đều có thể công bố. Trước đây có hình thức kỷ luật "hạ tầng công tác". Nhưng chúng ta không thể hạ tầng công tác một đồng chí uỷ viên cấp trên xuống làm một uỷ viên cấp dưới vì cấp uỷ viên một cấp uỷ là do bầu cử mà có. Bởi vậy, bản Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) còn đề nghị thay hình thức hạ tầng công tác bằng hình thức cách chức trong Đảng. Hình thức ấy sẽ áp dụng đối với những cấp ủy viên phạm sai lầm không còn xứng đáng để trong cấp uỷ và đối với các cán bộ khác phạm sai lầm xét không thể để ở cương vị cũ. Truớc đây có hình thức "khai trừ có thời hạn". Thực tế đã chỉ rõ, với hình thức kỷ luật đó, đảng viên phạm sai lầm ít có điều kiện được tập thể giáo dục để sửa chữa sai lầm. Bởi vậy, đề nghị thay bằng hình thức "lưu lại trong Đảng để giáo dục và xem xét một thời gian" không quá một nǎm. Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) còn đề nghị quy định các hình thức khiển trách, cảnh cáo đối với các tổ chức của Đảng phạm sai lầm khuyết điểm. Những hình thức khác ghi trong Điều lệ trước đây, ngày nay xét thấy không cần thiết.
Những quy định về hình thức kỷ luật ghi trong Điều lệ Đảng phải được chấp hành nghiêm chỉnh. Trong Đảng không có hình thức kỷ luật nào khác. Trước đây đã có hiện tượng lẫn lộn giữa hình thức kỷ luật của Đảng và của Nhà nước; có những hình thức kỷ luật không quy định trong Điều lệ đã được áp dụng vào trong Đảng. Điều đó là không đúng. Những trường hợp đảng viên phạm sai lầm khuyết điểm bị cơ quan Nhà nước thi hành kỷ luật thì tổ chức của Đảng cũng cần có kỷ luật thích đáng về phương diện Đảng; nhưng nếu chỉ là sai lầm thông thường mà xét không cần thiết phải thi hành kỷ luật của Đảng nữa thì cũng không nhất thiết cứ máy móc phải thi hành. Trước đây có hình thức kỷ luật "cắt tuổi Đảng" đối với một số đồng chí phạm khuyết điểm khai báo nặng, hoặc nằm im một thời gian nhưng sau đó lại tiếp tục hoạt động và đã báo cáo rõ với Đảng. Hình thức đó vừa có ý nghĩa thực tiễn là tính lại tuổi Đảng cho đúng với hoạt động thực tế của các đồng chí đó, vừa để nhắc nhở và khuyên rǎn đồng chí không được tái phạm. Từ nay về sau, nếu có những trường hợp như vậy thì tùy theo tính chất, mức độ của từng trường hợp phạm sai lầm, Đảng sẽ có thái độ cần thiết. Nếu cần thi hành kỷ luật thì phải theo đúng quy định của Điều lệ; còn việc tính lại tuổi Đảng thì không xem là hình thức thi hành kỷ luật như trước nữa.
4. Để bảo đảm việc thi hành kỷ luật được chính xác, cần phải theo đúng thủ tục thi hành kỷ luật và tôn trọng đầy đủ quyền dân chủ của đảng viên
Trong Đảng ta, không một cá nhân nào được quyết định thi hành kỷ luật đảng viên; chỉ có một tập thể thích đáng giải quyết thì việc thi hành kỷ luật mới bảo đảm được tính nghiêm túc và thận trọng. Tinh thần đó của Điều lệ cũ đã được nhấn mạnh hơn nữa trong Dự thảo Điều lệ (sửa đổi). Từ trước đến nay, trong nhiều trường hợp, chúng ta đã không tôn trọng những thủ tục thi hành kỷ luật. Trong chương X của bản Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) đã nhấn mạnh đến vai trò của tập thể trong việc thi hành kỷ luật. Chẳng những nhấn mạnh đến quyền hạn của hội nghị chi bộ, của tập thể uỷ ban kiểm tra và các cấp uỷ Đảng mà còn nhấn mạnh đến vai trò của Đại hội đại biểu toàn quốc và các cấp trong những khi cần thiết.
Mặt khác, chương X lại cũng chú trọng bảo đảm cho đồng chí phạm lỗi được sử dụng đầy đủ quyền dân chủ của người đảng viên khi tổ chức của Đảng quyết định kỷ luật đối với họ. Một số không ít tổ chức của Đảng khi họp để quyết định kỷ luật đã không chú ý cho đồng chí phạm khuyết điểm sai lầm đến để trình bày ý kiến, hoặc nếu có cho đến thì cũng không lắng nghe đầy đủ lời bào chữa; hễ người bị kỷ luật cứ một mực nhận lỗi thì cho là thành khẩn, nếu bào chữa thì nhiều khi không phân biệt đúng sai, cứ cho là không tự giác nhận sai lầm. Sau khi quyết định kỷ luật, nếu đảng viên khiếu nại thì xét rất chậm, có khi không xét hoặc không chuyển thư khiếu nại lên cấp trên, thậm chí, trong một số trường hợp, còn đe dọa dùng kỷ luật nặng hơn để uy hiếp, v.v.. Những hiện tượng đó tuy không phải hiện nay còn phổ biến, nhưng chưa phải đã hoàn toàn chấm dứt. Bởi vậy, Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) trong các điều 55 và 56 đã đề nghị những quy định nhằm bảo đảm dân chủ cao độ trong việc thi hành kỷ luật của Đảng.
5. Song song với việc thi hành kỷ luật, Điều lệ Đảng trước đây có quy định việc khen thưởng đảng viên. Những quy định đó đã có tác dụng nhất định. Song với sự trưởng thành của Đảng, với yêu cầu nâng cao hơn nữa tiêu chuẩn đảng viên, việc đó ngày nay xét thấy không cần thiết nữa. Bởi vì, một khi người đảng viên cộng sản hiểu rõ nhiệm vụ của mình, có nhiệt tình cách mạng cao, thì phần thưởng quý giá nhất đối với họ là kết quả của công tác, là sự tín nhiệm của quần chúng nhân dân. Đối với các đồng chí có thành tích, nêu gương cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, được quần chúng mến phục, Đảng sẽ chú ý khuyến khích, biểu dương và phổ biến kinh nghiệm của họ cho các đồng chí khác học tập. Đó là những phần thưởng xứng đáng. Ngoài ra, đảng viên hoạt động trong bộ máy Nhà nước hoặc trong các tổ chức quần chúng, nếu họ cống hiến được nhiều cho sự nghiệp cách mạng thì Nhà nước hoặc các đoàn thể quần chúng sẽ khen thưởng. Bởi vậy, Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) đề nghị bỏ những quy định về khen thưởng trong Đảng.
Việc bỏ quy định về khen thưởng trong Đảng và làm rõ những vấn đề về kỷ luật của Đảng nhất định sẽ có tác dụng đối với việc nâng cao tính tích cực của đảng viên và bảo đảm cho kỷ luật của Đảng được tǎng cường, đoàn kết, thống nhất trong Đảng ngày càng chặt chẽ.
*
* *
Thưa các đồng chí,
Bản Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) được thảo luận rộng rãi sôi nổi tại Đại hội các cấp từ chi bộ trở lên, đã được bổ sung nhiều ý kiến quý báu. Điều đó nói lên nhiệt tình của toàn thể đảng viên đối với việc xây dựng Đảng, lực lượng cổ vũ và lãnh đạo toàn dân xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà.
Dưới ngọn cờ tất thắng của chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng ta không ngừng được phát triển và củng cố. Mỗi bước trưởng thành của Đảng gắn chặt với bước đường phát triển của cách mạng nước ta, đều chuẩn bị cho những thắng lợi to lớn hơn của cách mạng nước ta.
Việc sửa đổi Điều lệ lần này là một sự kiện lớn trong sinh hoạt của Đảng, phản ánh bước trưởng thành mới của Đảng ta. Bản Điều lệ, sau khi được đại hội thông qua, sẽ là vũ khí sắc bén để củng cố Đảng vững mạnh hơn nữa về tư tưởng và tổ chức, tǎng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng, nâng cao sức chiến đấu và nǎng lực lãnh đạo của Đảng, thắt chặt mối liên hệ ruột thịt giữa Đảng và nhân dân ta.
Được cổ vũ mạnh mẽ bởi những nghị quyết lịch sử của Đại hội lần này, chúng ta hãy ra sức phấn đấu đạt tới những tiến bộ mới trong sự nghiệp xây dựng Đảng, do đó nhất định sẽ thúc đẩy công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, tiến lên giành những thắng lợi rực rỡ.
Dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương đứng đầu là đồng chí Hồ Chí Minh, người sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng ta, nhất định toàn Đảng ta sẽ cùng với nhân dân hoàn thành nhiệm vụ vĩ đại mà lịch sử đã giao phó.
- Đảng Lao động Việt Nam, người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, muôn nǎm!
- Tình đoàn kết không gì lay chuyển nổi giữa các Đảng Cộng sản và Đảng Công nhân trên thế giới và giữa các nước trong phe xã hội chủ nghĩa do Liên Xô vĩ đại đứng đầu, muôn nǎm!