Tư tưởng của C. Mác về giải phóng phụ nữ
Phương pháp luận để hiểu áp bức và giải phóng phụ nữ
Một trong những cách hiểu phổ biến coi chế độ gia trưởng đề cao vai trò và vị trí của nam giới là nguyên nhân của áp bức phụ nữ. Điều đó không hoàn toàn đúng vì phụ nữ và nam giới là tấm gương phản ảnh hình thái xã hội theo đó họ thuộc vào. C. Mác cho thấy cần phân tích các điều kiện/bối cảnh lịch sử tạo ra những mối quan hệ xã hội và hình thức nhận thức về bất bình đẳng nam nữ, dẫn tới việc phân tích các điều kiện của chủ nghĩa tư bản ảnh hưởng đến quan hệ giới từ việc đưa ra phương pháp luận để hiểu vấn đề áp bức phụ nữ.
Hơn nữa, C. Mác nhìn giới như là một vấn đề động chứ không tĩnh. Trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 và trong Hệ tư tưởng Đức, ông đã đưa ra một phê phán mạnh mẽ, thay thế cho các quan điểm truyền thống về thuyết nhị nguyên tự nhiên/xã hội. Thay vì tự nhiên và xã hội tồn tại như hai thực thể riêng biệt tương tác với nhau mà không thay đổi cơ bản bản chất của chính nó hay cái kia, C. Mác lập luận rằng cả hai đều có quan hệ biện chứng. Khi con người tương tác với thiên nhiên thông qua lao động, cả cá nhân và thiên nhiên đều bị thay đổi. Vì cả thiên nhiên và xã hội không phải là thực thể tĩnh. Sự phân công lao động theo giới chỉ là "tự nhiên" đối với mối quan hệ sản xuất kém phát triển, khi các đặc điểm sinh học của phụ nữ có thể gây khó khăn cho một số nhiệm vụ đòi hỏi về thể chất. Ý nghĩa của nó là phụ nữ được coi là thấp kém hơn trong xã hội là điều có thể thay đổi khi xã hội thay đổi. Và vì thế, phụ nữ sẽ phải làm việc để thay đổi tình trạng của mình.
Tư tưởng C. Mác về giải pháp giải phóng phụ nữ
Trong các công trình của mình, C. Mác hàm ý một số giải pháp giúp giải phóng phụ nữ. Một là, thủ tiêu chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa, tức phải xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và từng bước thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Đây chính là điều kiện đầu tiên nhằm thủ tiêu sự lệ thuộc kinh tế của người phụ nữ. Điều này sẽ tạo ra cơ sở quan trọng nhất để thực hiện bình đẳng giới. Nguồn gốc của sự nô dịch phụ nữ, như đã giải thích sau này, là do sở hữu tài sản cá nhân, và cuối cùng chỉ có thể được khắc phục bằng việc xóa bỏ cơ bản quyền sở hữu tư nhân đối với các phương tiện sản xuất và sự phân chia lao động.
Hai là, xác lập sự bình đẳng nam nữ về mặt pháp lý trong đời sống xã hội cũng như trong gia đình. Khẳng định điều này, viết: “…Đặc tính của sự thống trị của người chồng đối với người vợ trong gia đình hiện đại, và sự tất yếu phải xác lập sự bình đẳng xã hội thật sự giữa hai bên, cũng như phương thức xác lập sự bình đẳng ấy, chỉ bộc lộ ra hoàn toàn rõ ràng một khi cả vợ lẫn chồng đều hoàn toàn bình đẳng trước pháp luật”. Trong thực tế, C. Mác là người đầu tiên kêu gọi việc chấm dứt sự phân công lao động theo giới trong gia đình và thúc đẩy sử dụng khái niệm giải phóng phụ nữ.
Vấn đề trung tâm là sự kỳ thị đối với phụ nữ tại nơi làm việc. Phụ nữ trên toàn thế giới, trung bình, được trả thấp hơn đàn ông - cho cùng một loại công việc. Và mức lương thấp hơn thường có nghĩa là trợ cấp thấp hơn hoặc không có lương hưu. Điều này không chỉ có hại cho phụ nữ mà còn đối với người lao động nam giới. Sự chấp nhận rằng phụ nữ và thanh thiếu niên sẽ nhận được mức lương thấp hơn so với phần còn lại của lực lượng lao động là chia rẽ và phản tác dụng. Tầm quan trọng đặc biệt là cuộc đấu tranh để giành chiến thắng cho nguyên tắc "trả lương bình đẳng cho công việc bình đẳng" có thể bị các nhà tư bản trốn tránh và làm méo mó, bởi vì thường khó hoặc không thể so sánh các loại công việc khác nhau của nam giới và phụ nữ trong các ngành sản xuất khác nhau.
Ba là, giải phóng người phụ nữ khỏi gánh nặng công việc gia đình. Việc phụ nữ tham gia hoạt động sản xuất xã hội được Ph. Ăngghen coi là “điều kiện tiên quyết để giải phóng phụ nữ”. Phân công lao động trong xã hội và trong gia đình theo hướng giảm nhẹ gánh nặng công việc gia đình cho người phụ nữ bằng việc xã hội hóa một phần công việc đó và lao động gia đình phải trở thành bộ phận của lao động xã hội.
Phụ nữ bị phân biệt đối xử vì chức năng mang thai tự nhiên của họ. Trong xã hội ngày nay, có con vốn lẽ là một việc vui mừng, thì có thể là một khó khăn, đặc biệt là cho người mẹ. Thông thường nó có nghĩa là mất việc làm, nguy cơ đói nghèo và sự phụ thuộc vào hệ thống hỗ trợ xã hội. Một mặt, phụ nữ được mong đợi thực hiện chức năng tái sản xuất xã hội, tạo ra nguồn lao động cho xã hội. Mặt khác, nếu họ có con, họ có thể bị đẩy ra khỏi xã hội khi chỗ làm của họ bị mất, thời gian chăm sóc con những năm đầu tiên có thể làm kỹ năng và chuyên môn của họ thui chột và mất tính cạnh tranh khi xin việc lại. Vì thế, nhiều phụ nữ các nước tư bản đã chọn việc không sinh con.
Để có thể làm việc ngoài xã hội, phụ nữ có con phải tìm người chăm sóc con cho họ. Một xã hội có hệ thống phúc lợi xã hội tốt phải mở rộng dịch vụ giáo dục mầm non cho trẻ em, kể cả trẻ rất nhỏ, ngoài những điều kiện như cha mẹ được phép nghỉ sinh có hưởng lương một thời gian sau khi sinh con. Ngoài ra cần khắc phục và xóa bỏ những tàn tích tồn tại với tư cách như là các “điều kiện xã hội” quan trọng khác cản trở quá trình giải phóng phụ nữ, như phong tục tập quán lạc hậu, thành kiến tôn giáo, tâm lý gia trưởng, coi thường phụ nữ...
Ý nghĩa với Việt Nam hiện nay
Quan điểm và tư tưởng của C. Mác về giải phóng phụ nữ còn nguyên giá trị trong cuộc sống ngày nay, nhất là về việc nâng cao vị thế phụ nữ trong các lĩnh vực đời sống xã hội, bảo đảm điều kiện làm việc và trả lương, bình đẳng giới.
Quan điểm về giải phóng phụ nữ và bình đẳng giới ở Việt Nam
Bình đẳng giới trong Hiến pháp
Tư tưởng giải phóng phụ nữ ở Việt Nam được thể hiện rõ qua hệ thống pháp luật, chính sách từ khi bắt đầu độc lập 1946 đến nay. Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946 quy định: “Tất cả quyền bình đẳng trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”; “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện”. Phát huy tinh thần đó, các bản Hiến pháp sửa đổi tiếp tục khẳng định, công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình. Hiến pháp năm 2013 đã quy định “Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới… và nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới” (Khoản 1 và Khoản 3 Điều 26).
Bình đẳng giới theo tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ cơ bản kế thừa các quan điểm của C. Mác và có vận dụng với điều kiện Việt Nam với các vấn đề chính: giải phóng phụ nữ về chính trị, về kinh tế, về văn hóa xã hội và tâm lý. Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở: “nam nữ bình quyền” là một cuộc cách mạng lớn và khó vì định kiến giới đã ăn sâu vào suy nghĩ, quan điểm của nhiều thế hệ người dân. Để “thực hiện 100% bình quyền, bình đẳng nam nữ”, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân mạnh ý chí tự lực phấn đấu của phụ nữ như một điều kiện cần và vai trò hỗ trợ của các cấp ủy và Chính quyền là điều kiện đủ cho bình đẳng giới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vai trò quan trọng của phụ nữ Việt Nam trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội. Trong Di chúc năm 1969, Bác viết: “Trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, phụ nữ đảm đang đã góp phần xứng đáng trong chiến đấu và trong sản xuất. Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Ðó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ”.
Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước có chủ trương nhất quán thúc đẩy và thể chế hóa quyền bình đẳng của phụ nữ. Đây chính là những điều kiện vô cùng thuận lợi cho phụ nữ phát triển và phát huy vai trò, vị thế của mình trong xã hội. Một trong những mốc quan trọng là ngày 27-4-2007, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 11/NQ-TW về “công tác phụ nữ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với công tác phụ nữ để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều hơn, chủ động hơn, đóng góp ngày càng lớn hơn cho sự phát triển của gia đình, cộng đồng, đất nước và thực hiện bình đẳng giới đáp ứng yêu cầu giai đoạn cách mạng mới. Đây được coi là một trong những văn bản quan trọng nhất thể hiện quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về vấn đề giải phóng phụ nữ.
Những luật như Luật Bình đẳng giới (2006), Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (2007), Luật Hôn nhân và Gia đình (2014) cho thấy những khía cạnh đầy đủ hơn, cụ thể hóa hơn về bảo vệ phụ nữ và bình đẳng giới. Bên cạnh đó, Việt Nam xây dựng và sửa đổi các luật khác như Luật Phòng, chống mua bán người (2012), Bộ Luật Lao động (2012), Luật Việc làm (2013) có nhiều điều khoản trực tiếp quy định quyền lợi của lao động nữ. Ví dụ, Luật Bình đẳng giới có mục tiêu nhằm “xóa bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế - xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam, nữ và thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình”. Bộ Luật Lao động sửa đổi hiện nay (2018) có 17 chương, 242 điều, trong đó, 14 điều liên quan và quy định trực tiếp đến nội dung lao động nữ, toàn bộ Chương X với 8 Điều quy định riêng đối với lao động nữ. Các quy định liên quan đến giới chủ yếu tập trung vào các vấn đề thai sản, việc làm và điều kiện làm việc, tuổi về hưu, lương và một số quy định liên quan khác.
Thành tựu về giải phóng phụ nữ ở Việt Nam và một số vấn đề đặt ra
Về trình độ giải phóng phụ nữ trên tương quan quốc tế
Việt Nam được Liên hợp quốc đánh giá là nước có nhiều tiến bộ trong cải thiện bình đẳng giới, thể hiện qua các chỉ số khoảng cách giới và bất bình đẳng giới. Chỉ số khoảng cách giới (Gender Gap Index) được xây dựng dựa vào các tiêu chí trong bốn lĩnh vực là kinh tế, chính trị, giáo dục và sức khỏe. Chỉ số khoảng cách giới được thể hiện từ 0,00 (bất bình đẳng) đến 1,00 (bình đẳng). Chỉ số càng gần 1 thì khoảng cách giới càng nhỏ. Việt Nam nằm trong nhóm nước có chỉ số bình đẳng giới cao. Điều đáng nói là trong một số năm gần đây, Việt Nam đang bị tụt hạng về khoảng cách giới trong bảng chung toàn cầu, chủ yếu là do tụt hạng mạnh trong lĩnh vực giáo dục và chính trị và bắt đầu tăng trở lại vào năm 2016. Trong bốn lĩnh vực, khoảng cách giới trong lĩnh vực kinh tế là nhỏ nhất và chỉ số khoảng cách giới về kinh tế ở Việt Nam luôn đạt thứ hạng cao nhất. Điều đó chứng tỏ phụ nữ Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong lực lượng lao động và phát triển kinh tế. Chỉ số khoảng cách giới trong lĩnh vực tăng quyền trong chính trị là lớn nhất trong 4 chỉ số được đo lường, và so với thế giới, Việt Nam không thuộc nhóm nước có thứ hạng cao trong lĩnh vực này (mặc dù đa số quốc gia đều có chỉ số này thấp), chứng tỏ bất bình đẳng giới trong trao quyền trong chính trị giữa nam và nữ là khá lớn. Như vậy, phụ nữ đang đóng góp lớn vào lĩnh vực kinh tế, có những bình đẳng nhất định trong y tế và giáo dục, nhưng quyền trong hệ thống chính trị còn hạn chế.
Giải phóng phụ nữ trong chính trị
Nhiệm kỳ 2011 - 2015 và 2016 - 2021 ghi nhận một số đột phá về vị trí chủ chốt mà phụ nữ Việt Nam được giao trong hệ thống chính trị Đảng, Nhà nước nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với nam giới, chưa đạt được các mục tiêu mà Nghị quyết 11 và Chương trình quốc gia về bình đẳng giới đề ra. Phụ nữ chiếm 1/3 đảng viên nhưng chưa tới 9% trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng, 5% nắm vai trò bí thư tỉnh ủy và cũng chưa quá 10% phụ nữ tham gia ban thường vụ cấp ủy cấp tỉnh, huyện, xã.
Tỷ lệ nữ giới tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh tăng lên khi tỷ lệ dân tộc thiểu số trong Ban Chấp hành Đảng bộ của các tỉnh/ thành phố cao hơn, có thể do phụ nữ thuộc nhóm dân tộc thiểu số được hưởng lợi từ chính sách kép, vừa là nữ vừa là dân tộc thiểu số và theo đó bắt buộc có đại diện trong cơ cấu tham gia, cũng như các chính sách về dân tộc thiểu số được chú trọng hơn. Tỷ lệ dân số thành thị của các tỉnh/ thành phố có mối quan hệ ngược chiều với tỷ lệ nữ tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ cấp tỉnh/ thành phố, có nghĩa là yếu tố ưu tiên phụ nữ chưa thực sự rõ ràng và vai trò của người đứng đầu và định kiến giới còn tồn tại.
Tỷ lệ đại diện của nữ giới trong Quốc hội khá cao so với chuẩn khu vực nhưng không ổn định qua các nhiệm kỳ và ở nhiệm kỳ XIII thấp hơn ba nhiệm kỳ trước và không đạt được mục tiêu đề ra. Các tỉnh/ thành phố ở khu vực duyên hải miền Trung có tỷ lệ này thấp nhất và miền núi phía Bắc là cao nhất, chứng tỏ nếu không có những chính sách ưu tiên đủ mạnh và rõ ràng thì lực kéo của văn hóa và vai trò giới truyền thống sẽ lấn át những chính sách và biện pháp thiếu mạnh mẽ và cụ thể. Xem xét cơ cấu nam nữ ở từng ủy ban Quốc hội cho thấy, tình trạng mất cân bằng giới tính ít xảy ra ở các ủy ban thường trực hội đồng dân tộc, ủy ban các vấn đề xã hội, ủy ban văn hóa, gia đình và thanh thiếu niên, nhi đồng. Tình trạng mất cân bằng giới tính chỉ phổ biến ở các ủy ban quốc phòng và an ninh, ủy ban tư pháp, ủy ban tài chính ngân sách, ủy ban kinh tế, ủy ban đối ngoại.
Tỷ lệ nữ đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp khóa 2011 - 2016 tăng nhẹ và cao hơn tỷ lệ phụ nữ được bầu vào Quốc hội cùng nhiệm kỳ nhưng cũng chưa đạt chỉ tiêu đề ra trong Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới. Phụ nữ giữ vị trí chủ tịch/ phó chủ tịch hội đồng nhân dân các cấp còn thấp, khoảng 6%. Tỷ lệ phụ nữ là chủ tịch/ phó chủ tịch có xu hướng tăng lên song xu hướng này không mang tính ổn định và chưa tương xứng với tỷ lệ nữ giới.
Trong hệ thống quản lý nhà nước, phụ nữ có mặt ở các vị trí chủ chốt nhưng chủ yếu ở vị trí cấp phó. Các vị trí quan trọng trong chính phủ hầu hết là nam giới. Ở cấp tỉnh cũng ít có phụ nữ trong số lãnh đạo cấp sở ở tất cả các ngành, nếu có là ở ngành y tế, giáo dục, chính sách xã hội.
Việt Nam sử dụng hệ thống chỉ tiêu để xây dựng sự tham gia và đại diện chính trị đa đạng. Điểm tích cực của “quotas” về tỷ lệ phụ nữ trong hệ thống chính trị là bảo đảm số lượng phụ nữ trong các vị trí chính trị và phụ nữ không bị tách rời khỏi đời sống chính trị. Để bảo đảm sự đa dạng về tính đại diện, Việt Nam đang thực hiện cơ chế “cơ cấu” với các tiêu chí về dân tộc thiểu số, người trẻ tuổi, các ứng cử viên ngoài Đảng, người tự ứng cử và phụ nữ. Trên thực tế, các tiêu chí này thường được áp dụng cùng lúc và phụ nữ thường là người được lựa chọn để đáp ứng 2 - 3 chỉ tiêu (ví dụ như dân tộc, trẻ và là phụ nữ).
Các mục tiêu đề ra về sự tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị ở Việt Nam không đạt được rõ ràng không phải là do thiếu luật và chính sách về bình đẳng giới. Vấn đề là ở việc thực thi luật hiện hành. Việc thực hiện các văn bản chỉ đạo, nghị quyết, chỉ thị ở các cấp ủy mới chỉ dừng ở mức phổ biến, tuyên truyền mà chưa có lộ trình cụ thể để thực hiện có tính chiến lược các mục tiêu, chỉ tiêu về bình đẳng giới. Bên cạnh đó, việc triển khai các luật, chính sách về bình đẳng giới còn hạn chế.
Sự phổ biến của mô hình nam quyền trong đời sống chính trị các cấp vì nam giới giữ các vị trí chủ chốt, vị trí lãnh đạo quản lý và theo đó hình thành các “luật chơi” và xác định các tiêu chuẩn đánh giá. Hệ thống chính trị vì thế sẽ chịu ảnh hưởng của chuẩn mực và giá trị của nam giới, ví dụ như các ý tưởng về “thắng - thua”, “đấu tranh khắc nghiệt” thay vì các ý tưởng “nữ tính” hơn như cùng tôn trọng, hợp tác và đồng thuận. Vì thế, với một số phụ nữ, chính trường là việc của nam giới và phụ nữ không tự tin tham gia.
Với tốc độ hiện đại hóa nhanh, xã hội Việt Nam đã cởi bỏ được nhiều giá trị cũ lạc hậu và giải phóng tự do cá nhân trong hôn nhân và gia đình. Hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với nó là hội nhập và giao lưu văn hóa, giá trị cũng góp phần đẩy mạnh những quan điểm cởi mở hơn. Tuy nhiên, xét trên tổng thể yếu tố này đang tồn tại những rào cản ảnh hưởng và cản trở các cơ hội phấn đấu của phụ nữ, bao gồm định kiến giới.
Giải phóng phụ nữ trong giáo dục và đào tạo
Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, Việt Nam đã đạt được những kết quả tốt về bình đẳng giới. Tỷ lệ biết chữ của người trưởng thành (từ 15 tuổi trở lên) đã thu hẹp nhiều. Đến năm 2013, tỷ lệ nam giới biết chữ là 96,6% trong khi tỷ lệ này ở nữ giới đã lên tới 93,1%. Khoảng cách giới đã được thu hẹp trong tất cả các cấp học. Tỷ lệ đi học đúng tuổi của nam và nữ đã tăng lên trong những năm gần đây và xích lại gần nhau, thậm chí của nữ còn cao hơn của nam do có số lượng lớn trẻ em trai ngoài nhà trường. Tỷ lệ nữ giới có bằng cao đẳng và đại học cũng tăng lên và gần đuổi kịp tỷ lệ của nam giới. Số liệu Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ năm 2014 cho thấy, tỷ lệ nam và nữ đang theo học giáo dục nghề nghiệp và đại học là tương đương nhau (2,5%). Tỷ lệ nữ trí thức ngày càng tăng và đạt tỷ lệ cao nhất ở trình độ cao đẳng. Tuy nhiên, ở bậc học cao, phụ nữ vẫn thấp hơn nam giới.
Về giải phóng phụ nữ trong lĩnh vực gia đình
Các kết quả phân tích cho thấy, công nghiệp hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang tác động mạnh mẽ đến gia đình Việt Nam nói chung và mối quan hệ vợ chồng nói riêng. Tuy nhiên, sự biến đổi vai trò của người vợ và người chồng trong gia đình đang diễn ra hết sức phức tạp. Cuộc đấu tranh giữa những giá trị truyền thống và giá trị hiện đại trong quan hệ vợ chồng làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn và xung đột vợ chồng do những quan niệm khác nhau về vai trò của mỗi giới trong gia đình. Mối quan hệ vợ chồng đang đứng trước nhiều thuận lợi cũng như nhiều khó khăn, thách thức. Các kết quả đã chỉ ra rằng phân công lao động trên cơ sở giới vẫn còn duy trì, mặc dù đã có sự chia sẻ cân bằng hơn giữa hai giới trong công việc sản xuất kinh doanh hoặc một số loại việc khác. Nhìn chung, sự tham gia của nam giới vào công việc nội trợ không tăng đáng kể và tương xứng với sự gia tăng phụ nữ trên thị trường lao động. Lao động nội trợ vẫn không được nhận thức thỏa đáng cả từ phía nam giới và phụ nữ và có thể dẫn đến hậu quả tiêu cực cho quan hệ vợ - chồng và các thành viên. Phụ nữ vẫn là người chăm sóc chính các thành viên trong gia đình. Quan niệm về người chủ gia đình có sự thay đổi chậm, phần lớn người dân vẫn coi đàn ông là chủ gia đình.
Những vấn đề đặt ra về chính sách
Phát triển và hoàn thiện khung thế chế chính trị bảo đảm tốt hơn cho phụ nữ là chủ thể của quyền chính trị chứ không phải là khách thể của quyền, xóa bỏ định kiến xã hội đối với phụ nữ, phát huy vai trò của các tổ chức và người đứng đầu trong hệ thống chính trị.
Phát triển và hoàn thiện thể chế kinh tế sẽ góp phần tăng tính đại diện của phụ nữ lãnh đạo quản lý. Sự cải cách và sáng tạo từ môi trường kinh tế lành mạnh có thể mang đến những khuôn mẫu mới, tạo ra nhiều cơ hội cho sáng kiến, chấp nhận những giá trị mới qua đó tăng sự chấp nhận xã hội cho vị trí phụ nữ lãnh đạo, quản lý. Ngược lại, môi trường kinh tế kém phát triển có thể hạn chế sự tham gia của phụ nữ khi cá nhân không được tự do phát triển và buộc phải thực hiện những hoạt động không công bằng và minh bạch.
Bản thân sự phát triển về kết cấu hạ tầng như đường sá, điện, internet và hệ thống khoa học kỹ thuật, công nghệ ảnh hưởng nhiều đến hệ thống phân phối, năng suất lao động và phát triển xã hội. Sự phát triển về kết cấu hạ tầng không chỉ đơn thuần mang lại hệ thống cung ứng dịch vụ mà còn phổ biến kiến thức mới, những quy chuẩn văn hóa mới qua giao lưu, hội nhập từ những nền văn hóa khác của các vùng miền khác, đất nước khác trên thế giới, qua đó tác động đến hiểu biết và mong đợi về vai trò giới hiện đại và sự tham gia tích cực của phụ nữ trong xã hội.
Các vấn đề phát triển xã hội quan trọng như bình đẳng giới, môi trường, giáo dục, sức khỏe gia đình, an sinh xã hội, nguồn lực y tế có liên quan đến sự phồn vinh về văn hóa và kinh tế của đất nước, nó sẽ là cơ hội để phụ nữ có thể tham gia vào lĩnh vực chính trị và những hoạt động ngoài gia đình. Nếu hệ thống an sinh xã hội gặp vấn đề về y tế, sức khỏe, vệ sinh môi trường, mất an toàn thực phẩm, thiếu dịch vụ hỗ trợ... gánh nặng chăm sóc gia đình sẽ bị đẩy cho phụ nữ và cũng ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội nói chung.
Hoàn thiện thể chế về văn hóa theo hướng cởi mở và tự do cho các cá nhân trong xã hội cũng đóng vai trò quan trọng. Các chỉ báo văn hóa như niềm tin, tập quán xã hội, mong đợi xã hội về vai trò giới là những yếu tố có thể tác động đến tiến bộ của phụ nữ. Bên cạnh đó, những lực kéo văn hóa có thể ảnh hưởng đến sự tham gia của phụ nữ, như xu hướng trách nhiệm tập thể với các hoạt động của cá nhân, chế độ gia trưởng, định kiến giới truyền thống./.
PGS, TS. Trần Thị Minh Thi, Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới