Về nguồn gốc giai cấp
Điểm xuất phát của C. Mác khi nghiên cứu về xã hội là “con người hiện thực”, tức không phải con người chung chung, trừu tượng như một số các nhà triết học trước đó, mà đây là con người đang sống trong một đất nước nhất định, một dân tộc nhất định, một thời đại nhất định. C. Mác đã phát hiện ra một sự thật vô cùng hiển nhiên là: “Người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể “làm ra lịch sử”. Nhưng muốn sống được phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và vài thứ khác nữa”(1). Đây là nhu cầu đầu tiên và tối thiểu của con người để họ có thể sống, tồn tại và muốn có những thứ đó con người buộc phải lao động, sản xuất. Quá trình sản xuất là quá trình kết hợp thống nhất hữu cơ giữa người lao động và tư liệu sản xuất. Chừng nào trong xã hội có sự tách rời giữa người lao động và tư liệu sản xuất, hay nói cách khác, có tồn tại chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, lúc đó trong xã hội xuất hiện giai cấp. Vì vậy, trong xã hội nguyên thủy, khi lực lượng sản xuất còn thấp kém, với công cụ bằng đá, gậy gộc, cung tên... con người làm ra sản phẩm chỉ đủ để tồn tại, duy trì nòi giống, chưa có sản phẩm dư thừa tương đối thì chưa xuất hiện chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, do đó, chưa xuất hiện việc phân chia giai cấp trong xã hội. Đến xã hội chiếm hữu nô lệ, do xuất hiện chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất nên trong xã hội xuất hiện giai cấp. Chủ nô và nô lệ là hai giai cấp cơ bản đối kháng trong xã hội này.
Do điều kiện lịch sử thời kỳ bấy giờ, C. Mác không nói rõ nguyên nhân dẫn tới việc phân chia giai cấp, nhưng ông cũng khẳng định rằng: “Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất”(2) và đó là giai đoạn xuất hiện chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Sau này Ph. Ăng-ghen đã làm rõ hơn: “Quy luật phân công lao động là cái làm cơ sở cho sự phân chia thành giai cấp”(3). Ngoài ra, Ph. Ăng-ghen còn bổ sung, chiến tranh và cướp bóc đã đẩy nhanh quá trình phân hóa giai cấp: “Nhưng điều đó hoàn toàn không loại trừ việc sử dụng bạo lực, cướp bóc, mánh khóe và lừa bịp trong sự hình thành các giai cấp, và không cản trở giai cấp thống trị, một khi đã nắm được chính quyền sẽ củng cố địa vị của nó trên lưng các giai cấp lao động và biến việc quản lý xã hội thành việc bóc lột quần chúng”(4).
Đấu tranh giai cấp là tất yếu trong xã hội có giai cấp
Theo C.Mác, trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị chiếm đoạt lao động của các giai cấp và tầng lớp bị trị. Các giai cấp, tầng lớp bị trị không những bị chiếm đoạt kết quả lao động mà họ còn bị áp bức về chính trị, tư tưởng và tinh thần. Bởi sự hình thành giai cấp cũng là sự hình thành các lợi ích khác nhau. Lợi ích giai cấp không phải do ý thức giai cấp quy định mà do địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp ấy tạo nên một cách khách quan. Giai cấp bóc lột bao giờ cũng dùng mọi biện pháp và phương tiện bảo vệ địa vị giai cấp của họ, duy trì củng cố chế độ kinh tế xã hội cho phép họ được hưởng những đặc quyền, đặc lợi giai cấp. Lợi ích cơ bản của giai cấp bị trị đối lập với lợi ích cơ bản của giai cấp thống trị. Đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới đấu tranh giai cấp.
Nguyên nhân sâu xa dẫn tới đấu tranh giai cấp, theo C.Mác là mâu thuẫn giữa trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất đã lỗi thời. Theo C. Mác, đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao là cách mạng xã hội chỉ có thể nổ ra trên cơ sở lực lượng sản xuất phát triển tới mức mâu thuẫn không thể giải quyết với quan hệ sản xuất đã lỗi thời trong lòng xã hội cũ. C.Mác gọi đây là "tiền đề thực tiễn tuyệt đối cần thiết, vì không có nó thì tất cả sẽ chỉ là sự nghèo nàn sẽ trở thành phổ biến; mà với sự thiếu thốn tột độ thì ắt sẽ bắt đầu trở lại một cuộc đấu tranh để giành những cái cần thiết, thế là người ta lại không tránh khỏi rơi vào cũng sự ti tiện trước đây”(5).
Sự phát triển khách quan của lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến việc xã hội phải xóa bỏ bằng cách này hay cách khác quan hệ sản xuất cũ và thay thế nó bằng một kiểu quan hệ sản xuất mới, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có... trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất… Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội”(6) đó chính là cách mạng xã hội hay đấu tranh giai cấp.
Lực lượng và tiến trình đấu tranh giai cấp trong xã hội tư bản chủ nghĩa
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã phân tích nguyên nhân cuộc đấu tranh giai cấp dẫn đến sự sụp đổ của chế độ phong kiến để hình thành nên xã hội tư bản: “... chúng ta đã thấy rằng, những tư liệu sản xuất và trao đổi, làm cơ sở cho giai cấp tư sản hình thành, đã được tạo ra trong lòng xã hội phong kiến. Những tư liệu sản xuất và trao đổi ấy, phát triển tới một trình độ nhất định nào đó thì... tất cả những cái đó đều biến thành xiềng xích. Phải đập tan những xiềng xích ấy... Thay vào đó là sự cạnh tranh tự do, với một chế độ xã hội và chính trị thích ứng, với sự thống trị kinh tế và chính trị của giai cấp tư sản”(7). Như vậy, sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản là tất yếu khách quan và là bước tiến vĩ đại trong tiến trình phát triển lịch sử - xã hội và mặc dù quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã giải phóng lực lượng sản xuất. Song, thực ra đó chỉ là sự thay thế chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất của giai cấp địa chủ, bằng chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất của giai cấp tư sản, thay thế phận làm thuê, làm mướn của người nông nô cho địa chủ bằng cuộc đời làm thuê của giai cấp công nhân cho giai cấp tư sản. Vì thế, mâu thuẫn về lợi ích giữa giai cấp tư sản và vô sản lại tương tự như địa chủ và nông nô tiếp tục diễn ra trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn này không thể giải quyết trong xã hội tư bản và là nguyên nhân của cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và vô sản. Bởi vậy: “những vũ khí mà giai cấp tư sản đã dùng để đánh đổ chế độ phong kiến thì ngày nay quay lại đập vào chính ngay giai cấp tư sản”(8). Nghĩa là, lịch sử đã tạo ra chủ nghĩa tư bản hiện đại và đến lượt nó lại trở thành vật cản của văn minh nhân loại. Đồng thời các ông khẳng định, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, tất cả các giai cấp, các tầng lớp trung gian bị bóc lột đều đấu tranh chống lại giai cấp tư sản. Nhưng, “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp”(9). Đây là một trong những tư tưởng cơ bản của lý luận đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác. Sau này V.I Lê-nin cũng đã khẳng định: “Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó đã làm sáng tỏ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản”(10).
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản không phải là “ý muốn nhân tạo”, hoặc “lựa đặt ngông cuồng” của C.Mác mà do địa vị kinh tế - xã hội khách quan quy định. Bởi, giai cấp vô sản là sản phẩm của nền đại công nghiệp, đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến của thời đại, là đại biểu chân chính duy nhất cho lợi ích toàn xã hội, là một giai cấp cách mạng và duy nhất chỉ có nó mới có tính triệt để cách mạng, tự giải phóng cho mình và giải phóng cho xã hội. Nói cách khác, giai cấp vô sản không thể giải phóng mình nếu không đồng thời giải phóng toàn xã hội.
Tiến trình của cuộc đấu tranh giai cấp mà C.Mác chỉ ra diễn ra theo hai bước. Trước hết là giai cấp vô sản liên hiệp lại, thành lập các đoàn thể, tạo điều kiện cho sự ra đời chính đảng vô sản. Dưới sự lãnh đạo của chính đảng vô sản, giai cấp vô sản dùng bạo lực lật đổ toàn bộ chính quyền tư sản. Sau khi đạt được chính quyền “giai cấp vô sản sẽ dùng sự thống trị của mình để từng bước đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, để tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào tay nhà nước, tức là giai cấp vô sản đã được tổ chức thành giai cấp thống trị”(11). Tuy nhiên, trong một số tác phẩm đầu đời, C. Mác chưa thấy được tính phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp. Do vậy, sau khi tổng kết thực tiễn đấu tranh giai cấp của các nước Pháp, Đức, đặc biệt là Công xã Pa-ri, C.Mác đã có những bổ sung lý luận về đấu tranh giai cấp cụ thể hơn khi ông khẳng định: nông dân là đồng minh tự nhiên với giai cấp vô sản, “công nhân Pháp không thể tiến lên được một bước nào, và cũng không thể đụng đến một sợi tóc nào của chế độ tư sản, trước khi mà đông đảo nhân dân đứng giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, tức là nông dân và giai cấp tiểu tư sản”(12) và trong cuộc đấu tranh giai cấp sắp tới, giai cấp vô sản không phải là hoàn thiện bộ máy nhà nước sẵn có mà phải “đập tan” bộ máy nhà nước đó, đồng thời phải tiến hành cách mạng không ngừng. Điều này cho thấy, lý luận về nhà nước của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh giai cấp là bước tiến dài so với các tác phẩm viết vào đêm trước của cách mạng 1848.
Cũng thông qua việc tổng kết thực tiễn phong trào đấu tranh giai cấp giai đoạn 1848 - 1851, C. Mác đã khẳng định: để thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp vô sản phải thực hiện cách mạng không ngừng và sự chuyên chính giai cấp - chuyên chính vô sản, “Chủ nghĩa xã hội này là lời tuyên bố cách mạng không ngừng, là chuyên chính giai cấp của giai cấp vô sản, coi đó là giai đoạn quá độ tất yếu để đi đến xóa bỏ những khác biệt giai cấp nói chung, xóa bỏ tất cả những quan hệ sản xuất làm cơ sở cho những sự khác biệt ấy, xóa bỏ tất cả những mối quan hệ xã hội thích ứng với những quan hệ sản xuất đó, để đi đến cải biến tất cả những tư tưởng nảy sinh ra từ những quan hệ sản xuất đó”(13). Điều đó cho thấy, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội không thể không có một thời kỳ quá độ về chính trị. Nhà nước của thời kỳ quá độ này là nền chuyên chính của giai cấp vô sản và giữa xã hội tư bản và xã hội cộng sản có một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội trước đến xã hội sau. Tương ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị trong đó nhà nước không thể làm khác hơn là chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản. C. Mác viết: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”(14).
Như vậy, qua một số các tác phẩm của mình, C. Mác đã nêu những luận điểm quan trọng về giai cấp, đấu tranh giai cấp là: sự xuất hiện giai cấp trong xã hội là tất yếu khách quan do sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn tới chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất; trong xã hội có giai cấp tất yếu sẽ dẫn đến đấu tranh giai cấp; giai cấp vô sản chỉ hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình khi hội tụ đủ điều kiện khách quan và chủ quan cần thiết. Điều kiện khách quan là sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, của nền đại công nghiệp, quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản. Điều kiện chủ quan là giai cấp vô sản phải tập hợp được liên minh đông đủ lực lượng, liên minh với nông dân và tiểu tư sản, xây dựng chính Đảng Cộng sản, có hệ tư tưởng tiến bộ của mình và chịu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Thực hiện cách mạng không ngừng. Sau khi cách mạng thắng lợi, giai cấp vô sản phải đập tan nhà nước tư sản, thành lập nhà nước vô sản và thực hiện nền chuyên chính vô sản trong nhà nước vô sản ở thời kỳ quá độ. Trong thư gửi G. Vây-đơ-mây-e ngày 05-3-1852, C. Mác đã khái quát lý luận về giai cấp của mình rất ngắn gọn, khoa học và đầy đủ như sau:
“1. Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất.
2. Cuộc đấu tranh giai cấp nhất thiết sẽ dẫn đến chuyên chính vô sản.
3. Bản thân nền chuyên chính này chỉ là bước quá độ tiến tới thủ tiêu tất cả mọi giai cấp và tiến tới một xã hội không giai cấp”(15).
Khẳng định điều này, C. Mác cho rằng, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản là nhằm giải phóng con người khỏi chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa và xóa bỏ hoàn toàn chế độ người bóc lột người. Do vậy, đây là cuộc đấu tranh gay go và phức tạp nhất trong lịch sử. Cuộc đấu tranh này tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản. Nhưng, chuyên chính vô sản không phải là mục đích cuối cùng cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản. Nó chỉ là bước quá độ để tiến tới thủ tiêu mọi giai cấp, tiến tới xã hội không có giai cấp. Trong thời kỳ quá độ, giai cấp vô sản cần phải sử dụng nền chuyên chính của mình để tiếp tục cuộc đấu tranh trong điều kiện mới. Như vậy, ngay từ khi giai cấp vô sản ra đời thì cuộc đấu tranh của nó với giai cấp tư sản và các giai cấp bóc lột khác cũng xuất hiện. Cuộc đấu tranh đó diễn ra thường xuyên, liên tục cả khi giai cấp vô sản chưa giành được chính quyền từ tay giai cấp thống trị cũ, lẫn khi đã thiết lập được chính quyền cách mạng của mình và sử dụng chính quyền ấy như một công cụ để xây dựng xã hội mới. Tuy nhiên, nội dung và hình thức đấu tranh giai cấp ở những thời kỳ cách mạng khác nhau lại có sự khác nhau do điều kiện lịch sử cụ thể quy định.
Vận dụng lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp của C.Mác để giải quyết vấn đề này ở nước ta hiện nay
Vận dụng lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp của C.Mác để giải quyết vấn đề này ở nước ta hiện nay cần quán triệt một số vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận sau:
Một là, phải bám sát điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Đấu tranh giai cấp là một quá trình phức tạp trong sự vận động của lịch sử - xã hội, một xu thế tất yếu, khách quan của xã hội có giai cấp. Quá trình này không phụ thuộc vào việc người ta có quan niệm như thế nào về nó. Mà muốn đưa ra những kết luận khái quát đúng đắn về nó, cần phải nghiên cứu những sự kiện lịch sử cụ thể, phân tích sự vận động của các sự kiện lịch sử đó một cách tỉ mỉ, chi tiết với một thái độ khách quan, biện chứng. Những phân tích của C.Mác về các sự kiện lịch sử ở Pháp những năm 1848 - 1850, 1851 và 1871 đã chứng tỏ điều đó.
Trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, Đảng ta chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần nhằm tạo điều kiện để mọi giai cấp, mọi tầng lớp trong xã hội có thể phát huy hết tiềm năng của mình, góp phần làm cho dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Trong bối cảnh đó, có quan điểm cho rằng, không nên đặt vấn đề đấu tranh giai cấp vì nó sẽ dẫn đến phân tán lực lượng, chia rẽ lực lượng. Đây là một quan điểm không đúng, vì sự tồn tại của các thành phần kinh tế tức là còn sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, có nghĩa là còn tồn tại các giai cấp trong xã hội, do vậy không thể loại bỏ đấu tranh giai cấp. Đấu tranh giai cấp cũng là một tất yếu khách quan trong mọi xã hội có giai cấp. Sẽ là ảo tưởng nếu cho rằng: xã hội Việt Nam hiện nay không còn sự khác biệt giai cấp, không còn mâu thuẫn giai cấp, không còn đấu tranh giai cấp. Nhưng, cũng sẽ là sai lầm nếu phân chia các giai cấp trong xã hội Việt Nam hiện nay thành hai lực lượng đối kháng về mặt lợi ích. Việc nhận thức đúng đắn tính chất, nội dung của cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay sẽ giúp chúng ta xử lý một cách khoa học mối quan hệ xã hội - giai cấp, đưa sự nghiệp đổi mới tới thắng lợi.
Hai là, Việt Nam là nước đã giành được chính quyền về tay giai cấp công nhân và sau khi có chính quyền, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân vẫn phải tiếp tục trong điều kiện mới, với tính chất gay go, phức tạp, có mặt ngày càng gay gắt hơn. Mục tiêu đấu tranh của giai cấp công nhân cũng thay đổi, từ mục tiêu tất cả để giành chính quyền chuyển sang mục tiêu cơ bản và chủ yếu là phát triển kinh tế nhằm giữ vững thành quả cách mạng. Do vậy, thực chất cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay là phát triển lực lượng sản xuất đạt tới trình độ cao, đồng thời từng bước xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ mới của lực lượng sản xuất. Bởi theo C.Mác, nguyên nhân sâu xa của đấu tranh giai cấp là mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Nguyên nhân sâu xa ra đời giai cấp cũng là do sự phát triển của lực lượng sản xuất và yêu cầu khách quan đầu tiên để xã hội không còn tồn tại giai cấp, xóa bỏ giai cấp cũng là do lực lượng sản xuất phát triển tới trình độ rất cao. Trong khi Việt Nam hiện nay đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một xuất phát điểm thấp, tuy đã qua vài thập kỷ xây dựng, phát triển kinh tế nhưng trình độ lực lượng sản xuất vẫn còn thấp kém và phát triển không đồng đều giữa các vùng, miền. Vì vậy, nhiệm vụ trước mắt là phát triển lực lượng sản xuất đạt tới trình độ cao. Bên cạnh đó, cần lựa chọn hình thức quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ đa dạng, phức tạp của Việt Nam hiện nay.
Ba là, trong cơ cấu giai cấp - xã hội ở Việt Nam hiện nay, ngoài giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức và các tầng lớp nhân dân lao động khác, còn có bộ phận tư sản, tiểu tư sản, các thế lực thù địch chống phá chủ nghĩa xã hội. Với kết cấu giai cấp đó, tất yếu nảy sinh mâu thuẫn giữa lợi ích của những người lao động làm thuê với tầng lớp tư sản và mâu thuẫn giữa sự phát triển tự giác (có mục đích, có điều khiển) theo con đường xã hội chủ nghĩa với khuynh hướng tự phát đi lên chủ nghĩa tư bản. Trong điều kiện đó, chính quyền giai cấp vô sản phải tiếp tục sử dụng phương pháp cách mạng không ngừng, sử dụng chuyên chính vô sản của mình để đập tan mọi âm mưu của các thế lực thù địch, đồng thời định hướng chính trị cho phù hợp với mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Nhân dân ta đã chọn. Hay nói cách khác, cần sử dụng tổng hợp, linh hoạt các hình thức đấu tranh, trong đó có hoà bình và bạo lực, giáo dục thuyết phục với pháp chế và hành chính. Sử dụng hình thức đấu tranh nào tuỳ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Đặc biệt, điều kiện mới hiện nay, không được cường điệu cuộc đấu tranh giai cấp, dẫn đến sự rụt rè, không dám đổi mới; đồng thời, không được coi nhẹ, xem thường đấu tranh giai cấp, dẫn đến mơ hồ, mất cảnh giác.
Muốn đạt được mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, muốn đảm bảo thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống lại các thế lực thù địch, thì giai cấp công nhân Việt Nam phải xây dựng, củng cố và phát huy được khối liên minh giữa giai cấp công nhân - nông dân và tầng lớp trí thức. Phải củng cố và tăng cường được sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam. Đặc biệt, giai cấp công nhân phải nắm vững công cụ chuyên chính của mình, tức là phải xây dựng nhà nuớc xã hội chủ nghĩa vững mạnh, trở thành một công cụ trấn áp các thế lực đi ngược lại lợi ích của nhân dân./.
----------------------
(1), (5), (15) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, t.3, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 1995, tr.40; 49; 662
(2) C. Mác và Ph. Ăngghen: Sđd, t.28, tr.662.
(3), (4) C. Mác và Ph. Ăngghen: Sđd, t.20, tr.390, 391
(6) C.Mác và Ph. Ăngghen: Sđd, t.13, tr.15
(7), (8), (9), (11) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Sđd, t.4, tr.603 - 604, 605, 610, 626
(10) V.I. Lê-nin: Toàn tập, t. 23, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr. 1
(12), (13) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Sđd, t.7, tr. 30, 126
(14) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Sđd, t.19, tr. 47
PGS.TS. Lê Thị Thanh Hà, Học Viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh