Đối ngoại nhân dân thực chất là công tác dân vận, vận động các đối tượng quần chúng nhân dân trong và ngoài nước đồng tình, ủng hộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác này là một bộ phận hợp thành của công tác đối ngoại chung, phối hợp và phục vụ công tác đối ngoại của Đảng và ngoại giao Nhà nước cùng thực hiện nhiệm vụ, đường lối và chính sách đối ngoại của Đảng.
Lợi thế của đối ngoại nhân dân là có phương thức hoạt động phong phú đa dạng, có tiếng nói linh hoạt vừa chính thức vừa không chính thức và có thể tiến hành các biện pháp đối ngoại trên một số vấn đề và ở những nước, khu vực trong những hoàn cảnh cụ thể mà đối ngoại Đảng và ngoại giao Nhà nước làm chưa thuận lợi bằng.
Mục tiêu của đối ngoại nhân dân là tăng cường hiểu biết giữa bạn và ta, tạo dựng mạng lưới bạn bè và những người cảm tình với Việt Nam ở mọi nước trên thế giới, gây dựng quan hệ quần chúng và nền tảng nhân dân cho đối ngoại Đảng và ngoại giao Nhà nước, góp phần thực hiện nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, đóng góp nào sự nghiệp chung của nhân dân thế giới vì mục tiêu cao cả của thời đại. Lực lượng tham gia công tác đối ngoại nhân dân bao gồm các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức nhân dân, các hội nghề nghiệp, các cá nhân và rộng ra là toàn thể nhân dân. Nghĩa là tổ chức nhân dân nào, cá nhân nào cũng có thể làm; nhưng phải có lực lượng nòng cốt, đó là bộ phận đối ngoại của các tổ chức đó hoặc những tổ chức chính trị xã hội chuyên về đối ngoại nhân dân trên một số lĩnh vực như Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam với các tổ chức thành viên là các tổ chức hòa bình, đoàn kết, hữu nghị với nhân dân các nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao, trong đó có công tác đối ngoại nhân dân, dựa trên ba nguồn gốc chủ yếu:
1- Bản sắc và truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam, truyền thống ngoại giao của ông cha ta. Đó là nền văn hóa, nền ngoại giao yêu nước và vì dân, vì chính nghĩa và hòa bình, hòa hiếu và nhân đạo, giữ nguyên tắc độc lập, tự do và hạnh phúc của nhân dân đồng thời lại linh hoạt, khôn khéo, “dĩ bất biến ứng vạn biến”.
2- Tinh hoa văn hóa, văn minh của phương Đông, phương Tây và của toàn nhân loại, nghệ thuật các trường phái ngoại giao trên thế giới. Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin, kinh nghiệm hoạt động của các Đảng Cộng sản, phong trào công nhân quốc tế và các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Người coi trọng vai trò của nhân dân - người làm ra lịch sử các dân tộc và lịch sử thế giới, là động lực của các quá trình chính trị - xã hội của cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa; coi trọng ảnh hưởng của nhân dân và sức ép quần chúng tới chính sách đối nội, đối ngoại của các nước tư bản chủ nghĩa. Người hết sức coi trọng vai trò và tác dụng của nhân dân Việt Nam trong quan hệ quốc tế, trong hoạt động ngoại giao vì độc lập, tự do, hạnh phúc của dân tộc Việt Nam, vì hòa bình, hữu nghị, đoàn kết, hợp tác và phát triển giữa các dân tộc trên thế giới.
3- Kinh nghiệm chỉ đạo và hoạt động thực tiễn trong công tác đối ngoại của bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã làm công tác đối ngoại nhân dân từ khi ra đi tìm đường cứu nước đến khi sáng lập Đảng ta. Người cũng chỉ đạo và trực tiếp tiến hành đồng thời công tác ngoại giao của Nhà nước, công tác đối ngoại của Đảng và dành nhiều quan tâm cho công tác đối ngoại nhân dân khi làm Chủ tich Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại nhân dân cũng như việc tổng kết công tác đối ngoại nhân dân trong thời gian qua còn hạn chế. Chưa có nhiều công trình nghiên cứu sâu rộng về các vấn đề này. Các nội dung dưới đây về tư tưởng, phương pháp, phương châm của Bác Hồ đối với đối ngoại nhân dân mới chỉ là những nhận thức ban đầu về các vấn đề đó.
1- Thêm bạn bớt thù, đoàn kết nhân dân trong nước gắn liền với đoàn kết nhân dân thế giới vì lợi ích chân chính của nhân dân ta và nhân dân thế giới
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Phải làm cho nước mình ít kẻ thù nhất và nhiều bạn đồng minh nhất. Trong từng giai đoạn cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đều phân rõ bạn, thù, bạn gần, bạn xa, bạn lâu dài, tìm cách giảm bớt kẻ thù, tránh đối phó với hai kẻ thù cùng một lúc, xác định kẻ thù chính để tập trung mũi nhọn đấu tranh. Người giáo dục nhân dân ta phân biệt rõ bạn, thù, phân biệt bọn thực dân Pháp và bọn Mỹ xâm lược với nhân dân Pháp và nhân dân Mỹ để tranh thủ sự ủng hộ và đoàn kết của nhân dân Pháp và nhân dân Mỹ, cô lập và chĩa mũi nhọn đấu tranh vào chính quyền của thực dân Pháp và chính quyền của đế quốc Mỹ xâm lược. Người khẳng định với nhân dân Pháp: Chúng tôi muốn hòa bình ngay để máu người Pháp và người Việt ngừng chảy.
Những dòng máu đỏ chúng tôi đều quý như nhau. Người nhấn mạnh: Nhân dân Việt Nam không chống nhân dân Mỹ và chỉ muốn chiến tranh sớm chấm dứt để nhân dân hai nước giảm được mất mát, đau thương và sống hòa bình hữu nghị với nhau. Người đã nói với những người bạn Mỹ vào đầu năm 1964: Chẳng những chúng tôi đau xót vì đồng bào chúng tôi phải gian khổ hy sinh, mà chúng tôi cũng thương xót cho các bà mẹ và người vợ Mỹ đã mất con, mất chồng trong cuộc chiến tranh phi nghĩa ở miền Nam Việt Nam do bọn quân phiệt Mỹ tiến hành.
Gắn liền đoàn kết nhân dân trong nước với đoàn kết quốc tế là kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế cao cả, kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ dân tộc với nghĩa vụ quốc tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn giải thích và thực hiện mối quan hệ thân thiện hữu nghị, bầu bạn với nhân dân các nước, "bốn phương vô sản đều là anh em". Khi tìm đường cứu nước và cùng với Đảng lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định và thực hiện quan điểm đoàn kết cách mạng, kêu gọi vận động thực hiện đoàn kết nhân dân thông qua Mặt trận Dân tộc thống nhất. Người tham gia sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa và ra tờ báo “Người cùng khổ” (1921 - 1926) để thực hiện sự đoàn kết giữa những người yêu nước Việt Nam và những người yêu nước ở các thuộc địa. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện thành công chủ trương "ba tầng mặt trận": Mặt trận đoàn kết nhân dân trong nước, Mặt trận đoàn kết nhân dân Việt - Lào, Cam-pu-chia và Mặt trận đoàn kết nhân dân thế giới nhằm tạo ra sức mạnh vô cùng to lớn của nhân dân ta để kháng chiến thắng lợi và góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về thêm bạn bớt thù và đoàn kết quốc tế, Đảng và Nhà nước ta chủ trương mở cửa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, thắt chặt quan hệ với các bạn bè truyền thống, nối dài vòng tay với các bạn bè, đối tác mới, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại theo tinh thần "Việt Nam sẵn sàng là bạn và đối tác tin cậy với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển". Đó chính là đã thực hiện nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao, về đối ngoại nhân dân trong tình hình mới.
2-Kết hợp công tác đối ngoại của Đảng với ngoại giao của Nhà nước và đối ngoại nhân dân, tạo thành sức mạnh tổng hợp của mặt trận ngoại giao
Trong thời kỳ Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền, công tác đối ngoại của Đảng và công tác đối ngoại nhân dân được kết hợp chặt chẽ với nhau. Tư tưởng, phương châm, phương pháp Hồ Chí Minh là vận dụng đối ngoại nhân dân để gây dựng phong trào, tuyên truyền cho cách mạng, hỗ trợ cho công tác đối ngoại của Đảng trong thời kỳ trứng nước. Từ khi có chính quyền, ba "binh chủng" đối ngoại chính thức được xây dựng và củng cố với thế mạnh tổng hợp, đã góp phần to lớn vào công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ và sự nghiệp đổi mới hôm nay. Từ khi bước vào sự nghiệp đổi mới, chúng ta thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, coi công tác đối ngoại nhân dân không phải là một công việc nhất thời, ngẫu hứng, hữu nghị chung chung mà là công tác có ý nghĩa chiến lược, ngày càng cần được phát triển và củng cố. Kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh, tất cả các văn kiện Đại hội VI, VII VIII và nhất là Đại hội IX của Đảng ta đã đề cập đầy đủ vai trò, vị trí và nhiệm vụ của công tác đối ngoại nhân dân trong tổng thể đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
Để tạo ra và phát triển sức mạnh tổng hợp của công tác đối ngoại, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn luôn coi trọng thực hiện thống nhất sự lãnh đạo của Đảng và công tác quản lý của Nhà nước đối với công tác đối ngoại nhân dân. Và công tác đối ngoại nhân dân phải được sự chỉ đạo của công tác đối ngoại của Đảng và sự hỗ trợ của công tác ngoại giao của Nhà nước để tăng thêm sức mạnh cho mình và sức mạnh của công tác đối ngoại nói chung, góp phần thực hiện kết hợp chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại, đối ngoại với an ninh, quốc phòng.
Tranh thủ triệt để sự lãnh đạo của Đảng, hỗ trợ của chính quyền, đồng thời mở rộng và tăng cường liên kết, phối hợp giữa các ngành, các đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội; tranh thủ sự tham gia, đóng góp của các tổ chức, cá nhân và mọi tầng lớp nhân dân để mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại nhân dân. Mặt khác Đảng và Nhà nước cần tạo những điều kiện nhất định về cơ chế, tổ chức, cán bộ, cơ sở vật chất - kỹ thuật cho đối ngoại nhân dân hoạt động và phát huy vai trò của mình.
3- Nhân dân làm đối ngoại nhưng cần được tổ chức để phát huy tối đa vai trò và lợi thế của đối ngoại nhân dân
Chủ tịch Hồ Chí Minh mở đầu hoạt động đối ngoại bằng hoạt động đối ngoại nhân dân khi Người tìm đường cứu nước. Người đã chỉ đạo và trực tiếp tham gia công tác đối ngoại nhân dân từ khi có Đảng và Nhà nước độc lập. Người cho rằng, quan hệ nhân dân với nhân dân luôn là cơ sở cho mối quan hệ giữa nước ta với các nước, là mối quan hệ bền vững và lâu dài, dù quan hệ của các chính phủ với nhau có thay đổi thế nào thì quan hệ nhân dân với nhân dân vẫn là nền tảng quan trọng.
Công tác đối ngoại nhân dân có sức mạnh của nhân dân làm hậu thuẫn. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói, ngoại giao phải có thực lực và phải biểu dương lực lượng, chính là nói đến sức mạnh của nhân dân trong công tác đối ngoại.
Lợi thế của đối ngoại nhân dân còn ở chỗ có thể sử dụng cả lý lẽ và tình cảm để thuyết phục, tranh thủ sự ủng hộ quốc tế đối với nhân dân ta; vận động dư luận nhân dân ta và nhân dân các nước lên tiếng phản đối các âm mưu hành động thù địch của các thế lực thù địch bên ngoài. Sử dụng sức mạnh của nhân dân ta và nhân dân các nước trong đấu tranh dư luận.
Quan niệm về đối ngoại nhân dân hình thành trong Hồ Chí Minh từ khi Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, trở thành đảng viên cộng sản năm 1920. Quan niệm đó ngày càng phát triển, và trở thành một chính sách lớn của Đảng ta sau này. Tháng 12-1920, tại Đại hội XVIII của Đảng Xã hội Pháp ở thành phố Tua (Pháp), đồng chí Nguyễn Ái Quốc, thay mặt nhân dân Đông Dương, tuyên bố đoàn kết với giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên thế giới, gắn cách mạng ở thuộc địa với cách mạng ở chính quốc. Tư tưởng gắn cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam với cuộc đấu tranh của nhân dân lao động Pháp là một tư tưởng lớn, tiến bộ hơn rất nhiều so với các nhà yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX. Sau đó, Người đã tham gia sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa, tập hợp và đoàn kết với nhiều đại biểu ưu tú của nhân dân các thuộc địa Pháp để đấu tranh.
Người bền bỉ đi tuyên truyền, vận động, không chỉ những người cộng sản, mà tất cả các tầng lớp nhân dân Pháp, các nhân sĩ trí thức Pháp và nước ngoài ở Pháp nhằm tranh thủ sự ủng hộ của họ đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam.
Trong những năm 20 của thế kỷ XX, khi ở Liên Xô và Trung Quốc, ngoài những hoạt động trong Quốc tế Cộng sản, Người còn tuyên truyền, vận động các đoàn thể quần chúng Liên Xô, Trung Quốc ủng hộ nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp, giúp đỡ cán bộ, thanh niên nước ta học tập, bồi dưỡng ở các nước đó.
Người đã lập ra ở Trung Quốc Hội đoàn kết những dân tộc bị áp bức châu Á. Năm 1930, tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, trong Sách lược vắn tắt và Cương lĩnh vắn tắt của Đảng, Người đã đề ra việc nhân dân Việt Nam liên kết với nhân dân các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Trong thời gian diễn ra chiến tranh thế giới thứ hai, Bác Hồ, Đảng ta và Mặt trận Việt Minh bằng nhiều hình thức hoạt động đã gắn chặt cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam với cuộc đấu tranh chống phát xít của nhân dân Liên Xô, Trung Quốc và nhân dân toàn thế giới.
Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, nhìn thấy trước mối quan hệ giữa Việt Nam với các cường quốc và để đẩy mạnh công tác vận động quốc tế nhằm gây chú ý và vận động dư luận công nhận nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trẻ tuổi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trực tiếp chỉ đạo thành lập Hội Việt - Mỹ thân hữu (ngày 17- 10- 1945) và Hội Việt - Trung hữu hảo (1946). Đây là hai tổ chức hữu nghị nhân dân đầu tiên của ta từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Với hoàn cảnh lúc đó (một tháng sau khi tuyên bố độc lập), Hội Việt - Mỹ thân hữu có trụ sở riêng, có báo riêng, có chương trình riêng trên Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam và còn cử được cả đoàn đại biểu của Hội sang Hoa Kỳ để vận động. Nhiều đồng chí lãnh đạo của ta lúc đó được Bác Hồ cho phép lấy danh nghĩa Hội Việt - Mỹ thân hữu để tiếp các phái bộ của Mỹ và Đồng minh.
Đầu những năm 50 của thế kỷ XX, khi các nước xã hội chủ nghĩa thiết lập quan hệ ngoại giao với ta, Bác Hồ và Đảng ta chỉ đạo thành lập Ủy ban Hòa bình Việt Nam do Người trực tiếp làm Chủ tịch danh dự, Ủy ban Việt Nam đoàn kết với nhân dân Á - Phi - Mỹ La-tinh, Hội hữu nghị Việt - Xô và Hội hữu nghị với các nước Đông Âu, Tây Âu. Thông qua hoạt động của các tổ chức quốc tế, dân chủ, hòa bình, công đoàn, thanh niên, phụ nữ, phóng viên, nhà báo, các diễn đàn quốc tế và quan hệ song phương, ta đã gây dựng và thành lập phong trào ủng hộ Việt Nam chống thực dân Pháp. Đỉnh cao của việc tổ chức lực lượng, sử dụng và phát huy lợi thế của đối ngoại nhân dân là những năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Hiếm có một nước nào trên thế giới có khả năng tập hợp lực lượng của toàn thể nhân loại tiến bộ để đoàn kết, ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa giải phóng dân tộc vì độc lập, tự do cho Tổ quốc mình như dân tộc Việt Nam ta.
Nhờ có tư tưởng và phong cách Hồ Chí Minh trong ngoại giao nhân dân, một mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết, ủng hộ Việt Nam chưa từng có đã hình thành và phát huy tối đa hiệu quả góp phần đưa đến chiến thắng lẫy lừng của Tổ quốc ta. Đảng ta lúc đó đã thành lập Ban Quốc tế nhân dân để chỉ đạo công tác này.
Ngày nay, trước yêu cầu của nhiệm vụ mới, cần có chính sách và cơ chế để mọi người tham gia một cách có ý thức, có tổ chức và tự nguyện vào công tác đối ngoại nhân dân. Mặt trận Tổ quốc và các thành viên phải tích cực giáo dục và thu hút các tổ chức nhân dân, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức văn hóa, nghệ thuật, khoa học - kỹ thuật, các hội nghề nghiệp, nhân sĩ trí thức, các thành phần tôn giáo, doanh nghiệp, nhà báo, chuyên gia... và rộng ra là toàn thể nhân dân vào hoạt động này. Đồng thời, cần thành lập những tổ chức chính trị - xã hội để chuyên hoạt động đối ngoại nhân dân trong các lĩnh vực hòa bình, đoàn kết, hữu nghị, vận động viện trợ nhân dân. Cần đảm bảo tính quần chúng trong các hoạt động, tránh hình thức, quan liêu, hành chính. Muốn vậy, các hoạt động đối ngoại nhân dân cần tăng cường triển khai tại cấp cơ sở, địa phương, nơi tập hợp đông đảo nhân dân - đối tượng và cũng là chủ thể của công tác này. Và điều quan trọng là, các hoạt động đối ngoại nhân dân phải có những hình thức hấp dẫn, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng và lợi ích của quần chúng để cuốn hút quần chúng tham gia.
4- Đối ngoại nhân dân phải có nội dung hoạt động phong phú, hình thúc đa dạng và linh hoạt, hướng tới hiệu quả thiết thực
Công tác đối ngoại nhân dân và vận động quốc tế do Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo trực tiếp có nội dung đặc biệt phong phú, có sức thuyết phục mạnh mẽ, làm rõ chính nghĩa, chống phi nghĩa, lấy nhân nghĩa chống bạo tàn, kêu gọi hòa bình, hòa hiếu, hữu nghị, hợp tác, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau... Hình thức hoạt động đối ngoại nhân dân cũng rất đa dạng: nói chuyện, viết báo, viết sách, tiếp xúc vận động cá nhân và tổ chức, nói chuyện ở các diễn đàn của nước đối tác và diễn đàn quốc tế, họp mặt, liên hoan hữu nghị, hội thảo, giao lưu văn hóa, văn nghệ, thể thao, trao đổi khoa học - kỹ thuật, viện trợ nhân dân, hợp tác về giáo dục, đào tạo, giao lưu giữa con người với con người... Công tác đối ngoại nhân dân luôn mở rộng đối tác vận động và quan hệ từ các cá nhân thuộc các tầng lớp, nghề nghiệp, khuynh hướng chính trị khác nhau đến các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức quần chúng, tổ chức phi chính phủ; đồng thời duy trì, củng cố quan hệ với các bầu bạn cũ, tìm kiếm quan hệ với các bầu bạn mới, nói cho bạn để bạn hiểu ta, rồi bạn tuyên truyền giúp ta.
Toàn bộ cuộc đời hoạt động của Bác Hồ là tấm gương mẫu mực về đối ngoại nhân dân, được thể hiện qua các hoạt động đối ngoại nhân dân không khô cứng lễ nghi, rất linh hoạt, đa dạng, tự nhiên và tình cảm, tuỳ vào hoàn cảnh và đối tượng. Phương pháp phải mềm dẻo, nhẫn nại, lấy thuyết phục là chính. Cần phát huy được phẩm chất tốt đẹp và bản sắc văn hóa của người Việt Nam, chú ý đến quan hệ giữa con người và con người trong quá trình giao tiếp và hợp tác; phải chân thành, cởi mở, thẳng thắn trong thái độ và nghiêm túc trong quan hệ mới xây dựng được thiện cảm và tạo được niềm tin.
Cần đa phương hóa quan hệ theo mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại của Đảng và Nhà nước từng thời kỳ, vừa tập trung hoạt động vào các địa bàn trọng điểm vừa mở rộng hoạt động ở các địa bàn khác; đồng thời, biết nâng niu, nuôi dưỡng, khai thác từng quan hệ trên cơ sở lợi ích chung của ta và bạn. Đa dạng hóa quan hệ nhân dân về nội dung là hoạt động vì hòa bình, đoàn kết, hữu nghị và hợp tác phải thông qua và bao gồm nhiều mặt: ủng hộ lẫn nhau về chính trị, đấu tranh dư luận, thúc đẩy quan hệ kinh tế, thương mại, giao lưu văn hóa, nghệ thuật, thể thao, du lịch hữu nghị, giúp đỡ nhau về vật chất (viện trợ nhân dân), trao đổi khoa học - công nghệ, giúp đỡ nhau về kinh nghiệm quản lý kinh tế, quản lý xã hội, đào tạo cán bộ... Công tác đối ngoại nhân dân cần gắn các nội dung hoạt động hòa bình, đoàn kết, hữu nghị và vận động viện trợ nhân dân, thúc đẩy quan hệ kinh tế xã hội với nhau để nâng cao hiệu quả của từng hoạt động và của hoạt động chung.
Khẳng định đối ngoại nhân dân là phương tiện quan trọng để tiếp cận bạn bè thế giới, Hồ Chí Minh đã căn dặn đồng bào ta hãy bằng những hoạt động khéo léo để chinh phục nhân dân các nước, trước hết là việc đối xử văn minh với công dân của các nước đế quốc đang sống và làm việc ở nước ta, để nhờ đó mà nhân dân nước họ và nhân dân thế giới hiểu rõ Việt Nam, có tình cảm với Việt Nam. Người không chỉ quan tâm định hướng cho đồng bào ở trong nước mà cho cả đồng bào ở ngoài nước để tạo ra phong trào nhân dân làm đối ngoại, để mọi người Việt Nam dù ở đâu cũng tham gia mặt trận đối ngoại với mục đích nâng cao vị thế của dân tộc mình. Hồ Chí Minh căn dặn: Kiều bào nước ngoài phải thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, luôn luôn một lòng ủng hộ Tổ quốc, mở rộng tình thân thiện giữa nhân dân ta và nhân dân các nước; phải chan hòa gắn bó với họ theo tinh thần "bán anh em xa, mua láng giềng gần" để thuyết phục họ, cảm hóa họ. Mọi công dân của Việt Nam dù ở bất cứ đâu cũng đều phải là những sứ giả hữu nghị của nhân dân Việt Nam. Cái đích của đối ngoại nhân dân là làm cho những ai đã yêu quý chúng ta thì càng yêu quý chúng ta hơn; ai chưa hiểu ta thì hiểu về ta nhiều hơn, qua đó mà có cảm tình và ủng hộ ta; ai chống chúng ta thì cũng bớt hung hãn hơn; như thế là chúng ta đã thành công rồi.
Có thể nói, đối ngoại nhân dân mà Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hiện là một hoạt động cách mạng thống nhất với mọi hoạt động cách mạng khác theo tư tưởng chủ đạo nhất quán của Người là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần đoàn kết quốc tế. Nó có mục tiêu bất di bất dịch là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, trên tinh thần lấy dân làm gốc, coi mọi hoạt động cách mạng đều bắt đầu từ dân, do dân, vì dân. Như vậy, cả về lý luận và thực tiễn, đối ngoại nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống những quan điểm mang bản chất cách mạng và khoa học sâu sắc, sáng ngời. Đó chính là nền tảng tư tưởng của đối ngoại nhân dân mà Đảng cùng nhân dân Việt Nam ta phải tiếp tục nghiên cứu, quán triệt và tổ chức thực hiện sáng tạo trong hoạt động ngoại giao và đối ngoại nhân dân của mình.
Vũ Xuân Hồng
Chủ tịch Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam