1. Cách mạng Trung Quốc từ dân chủ tư sản kiểu cũ chuyển sang dân chủ tư sản kiểu mới
Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga đã có ảnh hưởng to lớn và sâu sắc đối với cách mạng Trung Quốc.
Ngày 4-5-1919, phong trào quần chúng chống đế quốc và phong kiến bùng nổ, phản đối các nước đế quốc trong ''Hội nghị hòa bình ở Pari'' đã bác bỏ những đề nghị chính đáng của Trung Quốc và âm mưu xâu xé Trung Quốc. Mở đầu phong trào là cuộc biểu tình của 3000 học sinh trước Thiên An Môn đòi trừng trị những phần tử bán nước trong chính phủ. Cảnh sát đàn áp và bắt đi hơn 30 học sinh. Ngày 3-6, chính phủ Bắc Kinh lại bắt hơn 300 học sinh, rồi ngày 4 - 6 hơn 1000 người lại bị bắt. Chính sách khủng bố tàn bạo của chính phủ bán nước càng thúc đẩy phong trào phát triển.
Sau ngày 3-6, trung tâm của phong trào yêu nước từ Bắc Kinh đã chuyển đến Thượng Hải - một thành phố lớn, trung tâm công thương nghiệp lớn ở Trung Quốc. Quân chủ lực của phong trào chuyển từ học sinh sang giai cấp công nhân.
Phong trào Ngũ Tứ đã mau chóng mở rộng ra 20 tỉnh và hơn 100 thành phố, bao gồm các tầng lớp nhân dân rộng rãi mà chủ lực là giai cấp công nhân. Những cuộc bãi công thành trị to lớn của công nhân Thượng Hải, Nam Kinh, Thiên Tân, Hàng Châu, Vũ Hán v.v.. đã đưa phong trào nhanh chóng giành được thắng lợi. Chính phủ Trung Quốc buộc phải thả những người bi bắt vì tham gia đấu tranh và không kí tên vào hòa ước Vécxai.
Phong trào Ngũ Tứ đánh dấu thời kì giai cấp công nhân Trung Quốc đã trở thành một lực lượng chính trị lớn mạnh và bắt đầu bước lên vũ đài chính trị, tạo điều kiện cho chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá rộng rãi ở Trung Quốc.
Lý Đại Chiêu là người Trung Quốc đầu tiên tiếp xúc với chủ nghĩa Mác - Lênin. Cuối năm 1918, Lý Đại Chiêu đã tuyên truyền về cách mạng tháng Mười Nga. Trong những năm 1918 - 1919, những người cộng sản Trung Quốc đã thành lập Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Thượng Hải và Bắc Kinh. Tháng 5-1920, được sự giúp đỡ của Quốc tế Công sản, tiểu tổ cộng sản đầu tiên được thành lập ở Thượng Hải. Sau đó, các tiểu tổ cộng sản đã được thành lập ở nhiều nơi trong nước như: Quảng Châu, Hồ Nam, Hồ Bắc, Sơn Đông ...
Ngày 1-7-1921, được sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản, các tiểu tổ cộng sản các nơi cử 12 đại biểu đại diện cho 57 đảng viên đến họp Đại hội thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc ở Thượng Hải. Trần Độc Tú không tham dự đại hội nhưng được bầu giữ chức vụ lãnh đạo Trung ương Đảng. Trần Độc Tú là một người dân chủ cấp tiến, sau đó trở thành người tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin và là người đề xướng xây dựng đảng vô sản. Trần Độc Tú có ảnh hưởng rất lớn trong Đảng, nhưng thực ra không phải là người mác xít chân chính, sau này đã trở thành kẻ cơ hội chữ nghĩa. Đại hội đã thông qua điều lệ, cử ra cơ quan lãnh đạo Đảng. Như vậy, ở Trung Quốc đã xuất hiện chính đảng của giai cấp công nhân, lấy chủ nghĩa cộng sản làm mục đích, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm kim chỉ nam cho hành động. Đó là một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử cách mạng Trung Quốc.
Tháng 7-1922, Đảng triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II tại Thượng Hải, có 12 đại biểu thay mặt cho 123 đảng viên. Căn cứ vào chỉ thị của Lênin và Quốc tế Cộng sản về cách mạng ở các nước thuộc địa, xuất phát từ việc phân tích tình hình cụ thể của xã hội Trung Quốc, Đại hội đã định ra cương lĩnh cao nhất và cương lĩnh thấp nhất của Đảng.
Đại hội đã thông qua Tuyên ngôn của Đảng gồm ba phần: Phần thứ nhất nêu rõ việc phân chia thế giới thành hai mặt trận đối lập sau chiến tranh. Một là, mặt trận đế quốc phản cách mạng cấu kết với nhau hòng áp bức bóc lột giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên thế giới; hai là, mặt trận liên hiệp của cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc chống chủ nghĩa đế quốc.
Phần thứ hai phân tích tính chất của xã hội Trung Quốc, tính chất của cách mạng Trung Quốc và động lực của cách mạng Trung Quốc: Trung Quốc là nước nửa thuộc địa, nửa phong kiến; cách mạng Trung Quốc trước mắt là cách mạng dân chủ, dân tộc chống đế quốc và phong kiến; động lực cách mạng gồm có giai cấp công nhân, nông dân và tiểu tư sản; giai cấp tư sản dân tộc là một lực lượng cách mạng
Phần thứ ba của Tuyên ngôn nêu rõ Cương lĩnh cao nhất và Cương lĩnh thấp nhất của Đảng. Đó là vấn đề trọng tâm đã được thảo luận tại Đại hội.Cương lĩnh cao nhấtcủa Đảng nhằm xây dựng chủ nghĩa cộng sản tại Trung Quốc. Cương lĩnh thấp nhất của Đảng là hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân chủ - tức là đánh đổ chủ nghĩa đế quốc, đánh đổ quân phiệt, xây dựng nước cộng hòa dân chủ. Lần đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc, cách mạng Trung Quốc đã có một cương lĩnh đúng đắn. Đại hôi II đã quyết định tham gia Quốc tế cộng sản và đả thông qua nghị quyết xuất bản ''Tuần báo Hướng đạo'', cơ quan trung ương của Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Cộng sản Trung Quốc họp tháng 6-1923 tại Quảng Châu với sự có mặt của 30 đại biểu thay mặt cho 432 đảng viên Đại hội đã đề ra phương châm lập Mặt trận thống nhất cách mang dân tộc dân chủ nhằm tập hợp các lực lượng cách mạng chống đế quốc và phong kiến. Đại hội đã phê phán các đường lối sai lầm “tả khuynh” và “hữu khuynh”, quyết định hợp tác với Quốc dân đảng của Tôn Trung Sơn, biến nó thành khối liên minh cách mạng của công nhân, nông dân, tiểu tư sản và tư sản dân tộc để cùng nhau tiến hành đấu tranh cách mạng.
2. Cuộc nội chiến cách mạng lần thứ nhất (1924 - 1927)ở Trung Quốc
Đại hội III của Đảng Cộng sản Trung Quốc (6-1923) đã thông qua nghị quyết về việc hợp tác giữa Đảng Cộng sản và Quốc dân đảng. Ngày 20-1-1924, Đại hội lần thứ I của Quốc dân đảng họp ở Quảng Châu, nhiều đảng viên cộng sản đã tham gia và góp phần lãnh đạo đại hội. Đại hội đã thông qua cương lĩnh mới, điều lệ mới và nhiều biện pháp cụ thể nhằm cải tổ Quốc dân đảng. Đại hội đã giải thích lại ''chủ nghĩa Tam dân'' bằng chủ chủ nghĩa Tam dân mới. Chủ nghĩa Tam dân mới về nguyên tắc cơ bản giống với cương lĩnh thời kì cách mạng dân chủ tư sản của Đảng Cộng sản Trung Quốc và trở thành cơ sở thịnh trị cho việc hợp tác giữa Đảng Cộng sản và Đảng Quốc dân. Đại hội I của Đảng Quốc dân đã đánh dấu sự hình thành liên minh hợp tác giữa Đảng Công sản và Đảng Quốc dân.
Sau đại hội, với sự giúp đỡ của Liên Xô và những người cộng sản Trung Quốc, Tôn Trung Sơn đã xây dựng chính quyền ở Quảng Châu và vùng phụ cận, phát triển lực lượng về mọi mặt. Trường quân sự Hoàng Phố được thành lập nhằm đào tạo những lớp sĩ quan đầu tiên để xây dựng quân đội cách mạng, lực lượng trấn áp những cuộc phiến loạn phản cách mạng và củng cố chính quyền cách mạng ở Quảng Châu.
Mặt trận thống nhất cách mạng hình thành đã tạo điều kiện cho phong trào cách mạng của quần chúng khôi phục và phát triển. Phong trào công nhân bắt đầu lên cao, phong trào nông dân ở các tỉnh Quảng Đông, Hồ Nam, Hà Nam, Tứ Xuyên, Hồ Bắc cũng bắt đầu mở rộng. Tháng 1-1925, Đảng Cộng sản Trung Quốc họp Đại hội lần thứ IV tại Thượng Hải, chuẩn bị về tổ chức để bước vào cao trào đấu tranh cách mạng mới. Sau Đại hội, Đảng đã phát động được phong trào nhân dân toàn quốc đòi chính phủ thống trị Trung Quốc phải triệu tập Quốc hội và đòi bãi bỏ các hiệp ước không bình đẳng kí kết với nước ngoài.
Ngày 12-3-1925, trong chuyến đi công cán, Tôn Trung Sơn lâm bệnh và từ trần tại Bắc Kinh. Sau khi Tôn Trung Sơn mất, phái hữu trong Quốc dân đảng, đại diện là Đới Quý Đào và Tưởng Giới Thạch, đã tăng cường hoạt động nhằm chống lại Đảng Cộng sản Trung Quốc, âm mưu lái cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân Trung Quốc theo con đường phục vụ cho mục tiêu chính trị phản động của chúng.
Tháng 7-1926, cuộc chiến tranh tiêu diệt các tập đoàn quân phiệt phương Bắc (được gọi là ''cuộc chiến tranh Bắc phạt'') bắt đầu. Quân đội cách mạng dân tộc từ 50.000 đã tăng lên đến 160.000 người. Được sự hưởng ứng và ủng hộ của nhân dân, quân đội Quốc dân đã mau chóng giành được thắng lợi, lần lượt tiêu diệt các lực lượng quân phiệt, giải phóng cả một vùng rộng lớn ở Hoa Trung, lưu vực sông Dương Tử, chiếm lĩnh những vùng đồng bằng rộng mênh mông, những trục giao thông chính, những thành phố lớn. Tháng 9-1926, quân Bắc phạt chiếm Hán Khẩu, ngày 1-1-1927 chính phủ cách mạng Quảng Châu dời về Vũ Hán.
Ngày 22-3-1927, quân đội cách mạng tiến vào giào phóng Thượng Hải. Công nhân Thượng Hải đã anh dũng đấu tranh phối hợp với quân đội Bắc phạt để giải phóng Thượng Hải.
Cuộc chiến tranh cách mạng đang đà tiến lên, nhưng nguy cơ các đế quốc cấu kết với lực lượng phản động trong nước để phá hoại cách mạng lại rất nghiêm trọng. Ngày 24-3-1927, sau khi quân Bắc phạt chiếm Nam Kinh, hạm đội các nước Anh, Mĩ, Nhật, Pháp, ltalia nổ sung bắn vào thành phố này, làm chết hơn 2000 người. Sự kiện này đã mở đầu cho hàng loạt những hành động can thiệp trắng trợn của bọn đế quốc vào Trung Quốc. Đồng thời, các đế quốc và lực lượng phản động trong nước đã liên hệ với các lực lượng phái hữu của Quốc dân đảng.
Ngày 12-4-1927, Tưởng Giới Thạch tiến hành cuộc chính biến phản cách mạng ở Thượng Hải, giết hại hàng ngàn đảng viên cộng sản và công nhân cách mạng. Tiếp đó ở Quảng Đông, Giang Tô, Chiết Giang, Phúc Kiến v.v.. cũng xảy ra những cuộc chính biến của lực lượng phản động. Ngày 18-4, Tưởng Giới Thạch tuyên bố thành lập cái gọi là ''Chính phủ quốc dân'' tại Nam Kinh, đại diện cho quyền lợi của đại địa chủ, đại tư sản mại bản Trung Quốc.
Cuối tháng 4, trước tình hình cách mạng hiểm nguy, Đảng Cộng sản Trung Quốc triệu tập Đại hội lần thứ V tại Hán Khẩu. Đại hội thực sự không giải quyết được vấn đề gì cả. Sau đại hội, Tổng Bí thư Trần Độc Tú vẫn tiếp tục đi vào chủ nghĩa thỏa hiệp, đầu hàng.
Sau cuộc đảo chính của Tưởng Giới Thạch, chính phủ cách mạng Quảng Châu (lúc bấy giờ đã dời lên Vũ Hán), do Uông Tinh Vệ cầm đầu, bắt đầu dao động. Nhiều tướng tá trong quân đội, quan chức trong chính phủ chạy sang phe phản cách mạng. Ngày 15-7-1927, chính phủ Uông Tinh Vệ công khai phản bội cách mạng, tuyên bố li khai với Đảng Cộng sản, tàn sát dã man những người cộng sản và quần chúng cách mạng. Chúng tiến hành khủng bố, giết hại, cầm tù hàng vạn đảng viên cộng sản, quần chúng cách mạng khắp trong nước. Cuộc nội chiến cách mạng lần thứ nhất nhằm đánh đổ bọn quân phiệt, thực hiện những mục tiêu dân tộc, dân chủ, đến đây thất bại.
Tuy thất bại, cuộc nội chiến cách mạng lần thứ nhất (1924 - 1927) vẫn được coi là cuộc cách mạng vĩ đại của nhân dân và Đảng Công sản Trung Quốc, đồng thời đã nêu ra những bài học quan trọng cho cách mạng Trung Quốc.
3. Cuộc nội chiến cách mạng lần thứ hai ở Trung Quốc và cuộc đấu tranh chống phát xít Nhật xâm lược (1927 - 1937)
Sau khi nội chiến cách mạng lần thứ nhất thất bại, từ 1927 đến 1930 đã diễn ra các cuộc chiến tranh liên miên giữa tập đoàn Tưởng Giới Thạch với các tập đoàn quân phiệt khác. Nhờ Mĩ giúp sức, Tưởng Giới Thạch đã đánh bại các địch thủ và thiết lập nền thống trị trong phạm vi cả nước.
Chính sách đối nôi, đối ngoại của chính quyền Tưởng Giới Thạch nhằm phục vụ cho lợi ích của giai cấp địa chủ phong kiến, giai cấp tư sản mại bản và tư bản nước ngoài. Đồng thời, Tưởng Giới Thạch tiến hành đàn áp đẫm máu các lực lượng cách mạng (từ năm 1927 đến năm 1932, chúng đã giết hại một triệu đảng viên, đoàn viên thanh niên và quần chúng cách mạng). Nhiệm vụ của cách mạng dân tộc dân chủ Trung Quốc trong giai đoạn mới là đánh đổ chính quyền Tưởng Giới Thạch, đại diện cho thế lực đế quốc và phong kiến Trung Quốc.
Ngay trong năm 1927, những người cộng sản Trung Quốc tiếp tục tổ chức, lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống lại sự khủng bố của bọn phản động Quốc dân đảng. Ngày 1-8-1927, cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Nam Xương (thuộc tỉnh Giang Tây) bùng nổ. Quân khởi nghĩa gồm 3 vạn người đã chiếm lĩnh thành phố, nhưng không giữ được lâu và phải rút khỏi thành phố ngày 5-8. Khởi nghĩa Nam Xương thất bại nhưng đã đánh dấu sự ra đời của quân đội cách mạng của nhân dân Trung Quốc do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Ngày 1-8 được coi là ngày thành lập Quân độị Trung Quốc.
Đầu tháng 9-1927, nông dân ở các thành Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tây, Quảng Đông đã tiến hành cuộc đấu tranh chống địa chủ phong kiến, không nộp tô cho chúng thậm chí ở một số nơi còn tịch thu ruộng đất của địa chủ (thường được gọi là khởi nghĩa Thu Thu - vụ gặt mùa thu). Lực lượng vũ trang của địa chủ đã đàn áp dã man cuộc đấu tranh của nông dân. Ngày 11-12-1927, để chống lại cuộc khủng bố, tàn sát của bọn phản động Tưởng Giới Thạch, công nhân và binh lính thành phố Quảng Châu (tỉnh Quảng Đông) đã khởi nghĩa. Nghĩa quân đã chiếm lĩnh thành phố, thành lập công xã Quảng Châu (một hình thức chính quyền công nông). Công xã Quảng Châu chỉ tồn tại trong 3 ngày. Quân đội Quốc dân đảng đã tàn sát, khủng bố đẫm máu những người khởi nghĩa, giết hại khoảng 7,8 nghìn người.
Như vậy, trong thời gian này cách mạng Trung Quốc gặp rất nhiều khó khăn: đó là những cuộc đàn áp khủng bố đẫm máu của tập đoàn Tưởng Giới Thạch, những cuộc hỗn chiến liên miên giữa Tưởng Giới Thạch và các tập đoàn quân phiệt khác, thiên tai, mất mùa, sự can thiệp của các đế quốc bên ngoài…
Tháng 6-1928, Đảng Cộng sản Trung Quốc họp Đại hội lần thứ VI ở Mátxcơva, có các đại biểu thay mặt cho trên 40.000 đảng viên tham dự.
Đại hội đã tổng kết cuộc chiến tranh cách mạng 1924 - 1927, lên án chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh của Trần Độc Tú (11-1929, Trần Độc Tú bị khai trừ khỏi Đảng). Đại hội xác định: tính chất của cách mạng Trung Quốc vẫn là cách mạng dân chủ tư sản; nhiệm vụ quan trọng trước mắt của những người cộng sản là phải vận động quần chúng, tích luỹ lực lượng; thành lập Hồng quân công nông; mở rộng cách mạng ruộng đất.
Chủ nghĩa cơ hội và chủ nghĩa bè phái vẫn tồn tại trong Đảng. Khoảng giữa những năm 30, đường lối cơ hội chủ nghĩa mang tính chất ''tả khuynh'' của Lý Lập Tam đã chiếm ưu thế trong Ban lãnh đạo Trung ương Đảng. Lý Lập Tam chủ trương tiến hành cướp chính quyền bằng biện pháp manh động, ngay lập tức trong cả nước, đồng thời còn đưa ra quan điểm mang tính chất Đại Hán đối với cách mạng thế giới. Xuất phát từ quan niệm “trung tâm cách mạng thế giới đã chuyển sang Trung Quốc”, Lý Lập Tam cho rằng sự bùng nổ của cách mạng Trung Quốc sẽ dẫn tới sự bùng nổ của cách mạng thế giới. Đường lối của Lý Lập Tam đã gây ra những tổn thất nghiêm trọng cho lực lượng cách mạng Trung Quốc. Được sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ III (9-1930) đã thanh toán đường lối của Lý Lập Tam. Ban lãnh đạo mới của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Trần Thiêu Vũ (Vương Minh) và Tần Bang Hiến ( Bác Cổ) đứng đầu.
Trong những năm 1929 - 1930, phong trào đấu tranh vũ trang và xây dựng căn cứ địa cách mạng phát triển mạnh mẽ. Đầu năm 1929, Hồng quân tiến vào khu vực Giang Tây, Phúc Kiến, phát động quần chúng tiến hành chiến tranh du kích. Năm 1930, khu căn cứ địa trung ương được thành lập. Nhiều khu căn cứ ở Hồ Nam, Giang Tây, Phúc Kiến, Hồ Bác, An Huy, Quảng Tây, Quảng Đông… bao gồm 19 khu, cũng được thành lập. Trong các khu căn cứ đã tiến hành cách mạng ruộng đất, xây dựng lực lượng vũ trang, chính quyền Xô viết. Đến năm 1930, Hồng quân công nông đã có 13 đạo quân với khoảng 6 vạn người.
Cuộc đấu tranh bảo vệ và củng cố các vùng giải phóng đã diễn ra trong những điều kiện hết sức khó khăn và gian khổ. Tập đoàn Tưởng Giới Thạch liên tiếp tổ chức những cuộc bao vây nhằm tiêu diệt lực lượng vũ trang cách mạng.
Cuối tháng 12-1930, Tưởng Giới Thạch đưa l0 vạn quân mở cuộc vây đánh lần thứ nhất vào căn cứ địa cách mạng trung ương. Trải qua 5 ngày chiến đấu, Hồng quân đà đập tan cuộc vây đánh, tiêu diệt l,5 sư đoàn quân địch, thu hơn 13.000 súng, bắt sống tổng chỉ huy tiền tuyến của địch.
Tháng 2-1931, Tưởng Giới Thạch lại điều động một đạo quân lớn gồm 20 vạn tên, do Hà Ứng Khâm làm tổng tư lệnh, mở cuộc bao vây và tiến công mới, xây dựng một mặt trận dài 400 km. Trải qua 15 ngày chiến đấu, Hồng quân đã đập tan cuộc vây đánh lấn thứ hai, thu 20.000 súng.
Tháng 7-1931, Tưởng Giới Thạch thân chinh làm tổng tư lệnh mở cuộc vây đánh lần thứ ba với 30 vạn quân, chia làm 3 hướng tiến sâu vào căn cứ địa cách mạng trung ương. Hồng quân, với phương châm “tránh chủ lực địch, đánh chỗ hở yếu của địch” đã đập tan 3 mũi tấn công. Quân địch bị bắt và bị thương khoảng 3 vạn tên, mất 25.000 súng. Cuộc vây đánh lần thứ ba của Tưởng Giới Thạch cũng bị thất bại.
Đến năm 1932, lực lượng Hồng quân trong toàn quốc đã phát triển lên tới 10 vạn. Đội xích vệ tăng đến l0 vạn, vũ khí khoảng 15 vạn súng. Tuy vậy trong thời gian này, nhiều tổ chức Đảng ở các khu Quốc dân đảng bị phá vỡ. Năm 1933, Trung ương Đảng buộc phải dời về khu căn cứ địa trung ương.
Ngày 18-9-1931, phát xít Nhật bắt đầu xâm lược Đông bắc Trung Quốc. Do chủ tưởng “tuyệt đối không kháng cự” của chính quyền Tưởng Giới Thạch, chỉ trong vòng vài tháng toàn bộ vùng Đông Bắc rộng lớn đã rơi vào tay Nhật. Sau đó, tháng 1-1932, chúng tiến công Thượng Hải; năm 1933, chiếm Nhiệt Hà và miền Bắc Sát Cáp Nhĩ; năm 1935, chiếm miền Đông Bắc Hà Bắc. Cuộc tiến công của đế quốc Nhật đã làm thay đổi tình hình chính trị Trung Quốc. Nhân dân Trung Quốc đòi hỏi chính phủ Tưởng Giới Thạch phải thay đổi chính sách, khẩn cấp tiến hành kháng chiến chống xâm lược Nhật.
Trong bối cảnh đó, tập đoàn Tưởng Giới Thạch tiếp tục tập trung lực lượng tiến hành cuộc vây đánh lần thứ tư vào khu căn cứ địa cách mạng, với 60 vạn quân. Sau khi tấn công vào căn cứ địa Hồ Bắc - Hà Nam – An Huy, Tưởng Giới Thạch cho dốc toàn sức tấn công khu căn cứ địa trung ương từ tháng 6-1932 đến tháng 2-1933. Hồng quân đã tiêu diệt 3 sư đoàn địch, bắt hơn l vạn tù binh, giành được thắng lợi trong cuộc vây đánh lần thứ tư. Tháng 10-1933, Tưởng Giới Thạch lại tiến hành cuộc vây đánh lần thứ năm với 1 triệu quân. Lần này, do những sai lầm về đường lối chỉ đạo quân sự, Hồng quân đã không thể phá được cuộc vây quét của địch. Từ tháng 10-1934, Đảng Cộng sản Trung Quốc tiến hành cuộc hành quân phá vây tiến lên khu căn cứ phía bắc (thường được gọi là cuộc Vạn lí trường chinh). Cuộc hành quân này kéo dài hơn một năm ròng, vô cùng khó khăn gian khổ, tổn thất nặng nề. Vượt qua chặng đường dài hơn 5000 km, qua 11 tỉnh, với những điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, những cuộc chiến đấu ác liệt với quân địch, Hồng quân với tổng số 300.000 người lúc xuất phát, chỉ còn lại gần 30.000 người. Trên đường hành quân, tại Hội nghị Tuân Nghĩa (tỉnh Quý Châu) họp tháng 1-1935, Mao Trạch Đông đã lên nắm quyền lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Ngày 1-8-1935, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và chính phủ dân chủ công nông ra hiệu triệu “đình chỉ nội chiến, đoàn kết chống Nhật”, được các tầng lớp nhân dân đông đảo hưởng ứng. Phong trào biểu tình thị uy chống Nhật bùng nổ với quy mô to lớn, lan rộng khắp trong nước.
Lúc này, tình hình thế giới và Trung Quốc cũng có nhiều thay đổi mau chóng. Trước nguy cơ xâm lược ngày càng nghiêm trọng của chủ nghĩa phát xít, Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản đã đề ra sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược trong phong trào cách mạng thế giới, tập trung vào cuộc đấu tranh chống thảm họa phát xít, chống chiến tranh ở Trung Quốc, cuộc xâm lược ngày càng mở rộng của phát xít Nhật đã đặt dân tộc Trung Hoa trước thảm họa diệt vong. Trong Quốc dân đảng đã xuất hiện những lực lượng có xu hướng chống Nhật, chủ trương hợp tác với Đảng Cộng sản để cứu nguy dân tộc. Việc thành lập một Mặt trận thống nhất dân tộc chống đế quốc trong lúc này là một yêu cầu khách quan của cách mạng Trung Quốc, đồng thời còn là một khả năng có thể thực hiện được.
Từ tháng 5-1936, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã nhiêu lần đề nghị Quốc dân đảng đình chiến, hiệp thương hòa bình, thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất chống Nhật.
Ngày 12-12-1936, những người chỉ huy quân Đông bắc và quân Tây bắc của Quốc dân đảng là Trương Học Lương và Dương Hổ Thành, đà tán thành chính sách Mặt trận, cự tuyệt mệnh lệnh tấn công vào Hồng quân của Tưởng Giới Thạch. Trương Học Lương và Dương Hổ Thành đã bắt giữ Tưởng Giới Thạch khi ông ta đích thân đến Tây An bố trí trận tấn công Hồng quân và buộc Tưởng phải đình chỉ việc tấn công Hồng quân. Phái thân Nhật trong Quốc dân đảng là Hà Ứng Khâm lại điều động quân đội đến Tây An, âm mưu mở rộng cuộc nội chiến ở Trung Quốc. Trong tình hình đó, Đảng Cộng sản chủ trương giải phóng một cách hòa bình “sự biến Tây An”, thả Tưởng Giới Thạch sau khi Tưởng chấp nhận những điều kiện đình chỉ nội chiến, liên hợp với Hồng quân chống Nhật. Sau sự biến Tây An, Quốc dân đảng bước đầu chấp nhận những đề nghị của Đảng Cộng sản. Ngày 15-7-1937, Đảng Cộng sản ra Tuyên ngôn Quốc - Cộng hợp tác chống Nhật. Ngày 22-9, Quốc dân đảng buộc phải chính thức công bố bản Tuyên ngôn đó. Mặt trận dân tộc thống nhất chống Nhật chính thức thành lập.
4. Cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc (1937 - 1945)
Ngày 7-7-1937, quân đội Nhật tấn công bất ngờ vào Lư Cầu Kiều ở ngoại ô phía nam Bắc Bình (Bắc Kinh), mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược Trung Quốc trên quy mô cả nước. Lịch sử Trung Quốc chuyển sang thời kì mới: thời kì kháng chiến chống Nhật (1937 - 1945).
Không đầy một tháng sau vụ Lư Cầu Kiều, Bắc Kinh, Thiên Tân đều rơi vào tay Nhật. Đến tháng 3-1938, Hoa Bắc bị chiếm gần hết. Ở Hoa Trung, tháng 11-1937, mất Thượng Hải; tháng 12, Nam Kinh bị chiếm. Đến tháng 10-1938, Vũ Hán, Quảng Châu đều rơi vào tay Nhật.
Mười ngày sau khi Nhật Bản tấn công, ngày 17-7-1937 Tưởng Giới Thạch mới chính thức tuyên bố kháng chiến chống Nhật. Nhưng trên thực tế, chính quân Quốc dân đảng đã không tích cực kháng chiến chống Nhật mà thực hiện chính sách “tọa sơn quan hổ đấu” (ngồi trên núi xem hổ đánh nhau) với âm mưu dùng phát xít Nhật để tiêu diệt cách mạng Trung Quốc, đồng thời dùng lực lượng cách mạng Trung Quốc để làm suy yếu Nhật Bản. Quân đội tưởng Giới Thạch từng bước rời bỏ trận địa và cuối cùng, tập trung tại khu vực Tây Nam Trung Quốc để bảo toàn lực lượng. Đại bản doanh của Tưởng Giới Thạch được dời về Trùng Khánh, một thành phố ở thượng lưu sông Dương Tử.
Trong khi quân Quốc dân đảng rút lui thì lực lượng vũ trang của Đảng Cộng sản ở vùng Tây Bắc (lúc này, được đổi tên là Bát lộ quân – đạo quân thứ tám) và lực lượng vũ trang của Đảng Cộng sản vùng Hoa Nam được gọi là Tân tứ quân (Quân đoàn thứ tư mới), đã thực hiện hiện phương châm độc lập tự chủ tiến hành chiến tranh nhân dân, tiến vào vùng hậu địch, phát động nhân dân mở rộng chiến tranh du kích, lập nhiều khu căn cứ địa chống Nhật. Hơn 30.000 bát lộ quân vượt Hoàng Hà tiến về Hoa Bắc, 12.000 tân tứ quân tiến về phía bắc và nam Trường Giang. Cuối tháng 9-1937, sư đoàn 115 của Bát lộ quân đã đánh thắng trận lớn đầu tiên tại Bình Hình quan (SơnTây), tiêu diệt hơn 3000 quân tinh nhuệ của địch, cổ vũ niềm tin của nhân dân cả nước vào thắng lợi của cuộc kháng chiến.
Trong những năm kháng chiến chống Nhật (1937-1945), nhân dân trung Quốc đã tiến hành cuộc đấu tranh cực kì gian khổ vì sự sống còn của dân tộc mình, đồng thời góp những cống hiến to lớn vào cuộc chiến tranh chống phát xít của nhân dân các nước trên thế giới. Nhân dân Trung Quốc đã phải đương đầu với đại bộ phận quân Nhật, đồng minh mạnh nhất của phát xít Đức, làm tiêu hao và tiêu diệt một bộ phận lớn quân Nhật, góp phần cùng các nước đồng minh đánh bại phát xít Nhật.
Theo "Lịch sử thế giới hiện đại", Nxb. Giáo dục, 2009