Báo cáo chính trị tại Đại hội X của Đảng sau khi đánh giá những thành tựu về quốc phòng-an ninh (QP-AN) đã đạt được trong 5 năm qua (2001-2005) và khẳng định: "QP-AN được tăng cường...", "...độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia được giữ vững".Đồng thời, Báo cáo chính trị cũng đề ra định hướng cho 5 năm tới (2006-2010) phải "Tăng cường QP-AN, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN". Những định hướng đối với sự nghiệp QP-AN trong thời kỳ mới đến năm 2010 là rất quan trọng.
1. Về mục tiêu của QP-AN trong thời kỳ mới
Báo cáo chính trị đã định hướng mục tiêu là: "Bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập chủ quyền thống nhất toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hoá và an ninh xã hội; duy trì trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội; giữ vững ổn định chính trị của đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, thù địch, không để bị động, bất ngờ".
Chúng ta biết rằng, trong Văn kiện Đại hội IX lần đầu tiên Đảng ta đưa ra khái niệm về bảo vệ Tổ quốc XHCN với ba nội dung cốt lõi: Một là, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN với tính cách là một quốc gia có chủ quyền, với một cộng đồng dân tộc và có nền văn hoá lâu đời được quốc tế công nhận. Hai là, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN với tính cách là một quan hệ chính trị, một thể chế chính trị-xã hội-XHCN được Chủ tịch Hồ Chí Minh và toàn dân lựa chọn, là một xã hội phù hợp sự phát triển khách quan của tiến trình lịch sử. Ba là,bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN với tính cách là một quốc gia đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH, đang chuyển đổi và đang trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập dân tộc. Cả ba mặt nêu trên tạo thành một chỉnh thể thống nhất, vừa phản ánh tính vĩnh hằng của Tổ quốc xét về mặt tự nhiên, đất nước, con người, vừa phản ánh tính xã hội-chính trị trong tiến trình phát triển lịch sử nhân loại, làm cho thuật ngữ bảo vệ Tổ quốc XHCN lần đầu tiên được nhận thức và trình bày một cách khoa học, hoàn chỉnh, có thể coi đây là một trong những đóng góp quý báu vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH.
Trong Văn kiện Đại hội X, Đảng ta nêu ra định hướng về mục tiêu của QP-AN là rất cơ bản và toàn diện, bao gồm cả việc xác định phạm vi, đối tượng bảo vệ và xác định mức độ, tính chất bảo vệ của QP-AN.
Về phạm vi và đối tượng bảo vệ của QP-AN là: Bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; bảo vệ an ninh với nghĩa rộng bao gồm cả an ninh chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hoá và xã hội; duy trì trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội.
Về mức độ và tính chất bảo vệ của QP-AN là: "Bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập chủ quyền thống nhất toàn vẹn lãnh thổ"; "giữ vững ổn định chính trị của đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, thù địch, không để bị động, bất ngờ". Định hướng về mục tiêu bảo vệ của QP-AN trên có vai trò quan trọng chi phối toàn bộ sự nghiệp QP-AN trong thời kỳ mới đến năm 2010, tạo cơ sở cho toàn bộ quan điểm về QP-AN của Đảng ta trong thời kỳ mới.
2. Về xây dựng lực lượng QP-AN
Báo cáo chính trị đã xác định 5 nội dung cơ bản: Một là, "xây dựng Quân đội và Công an cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại". Hai là, "nâng cao chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu để LLVT thật sự là lực lượng chính trị trong sạch vững mạnh, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng và Nhà nước, được nhân dân tin cậy, yêu mến". Ba là, "đổi mới tổ chức, nội dung, phương pháp huấn luyện, đào tạo đi đôi với cải tiến, đổi mới vũ khí, trang bị, phương tiện phù hợp với yêu cầu tác chiến mới". Bốn là, "phát triển khoa học quân sự, khoa học công an, nghệ thuật chiến tranh nhân dân; cải tiến phương thức hoạt động của lực lượng chuyên trách, bán chuyên trách phối hợp với các tổ chức của nhân dân trong bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội". Năm là, "tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức QP-AN cho cán bộ công chức và toàn dân, có nội dung phù hợp với từng đối tượng và đưa vào chương trình chính khoá trong các nhà trường theo cấp học, bậc học; chú trọng giáo dục thống nhất nhận thức về đối tượng và đối tác; nắm vững đường lối, quan điểm, yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; nâng cao ý thức trách nhiệm và tinh thần cảnh giác trong thực hiện nhiệm vụ QP-AN".
Định hướng về xây dựng lực lượng QP-AN nêu trên đã thể hiện quan điểm của Đảng ta tiếp tục đổi mới lĩnh vực QP-AN. Sau khi khẳng định quan điểm: "Xây dựng Quân đội và Công an cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại", Văn kiện Đại hội X đặc biệt nhấn mạnh đến chất lượng tổng hợp của các LLVT, làm cho "LLVT thật sự là lực lượng chính trị trong sạch vững mạnh, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng và Nhà nước, được nhân dân tin cậy, yêu mến". Để xây dựng Quân đội và Công an cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, Báo cáo chính trị tại Đại hội X của Đảng đã nhấn mạnh phải: "Đổi mới tổ chức, nội dung, phương pháp huấn luyện, đào tạo đi đôi với cải tiến, đổi mới vũ khí, trang bị, phương tiện phù hợp với yêu cầu tác chiến mới"; "phát triển khoa học quân sự, khoa học công an, nghệ thuật chiến tranh nhân dân (CTND)". Bởi vì, đây là một trong những nhân tố có vai trò động lực quyết định đến sự nghiệp QP-AN trong thời kỳ mới-thời kỳ chuyển từ tư duy QP-AN truyền thống sang tư duy QP-AN tri thức, trong bối cảnh cuộc cách mạng quân sự mới đã hình thành và đang phát triển trên thế giới, nước ta đã và đang hội nhập kinh tế ngày càng sâu hơn, rộng hơn với khu vực và thế giới.
3. Về xây dựng thế trận QP-AN
Báo cáo chính trị tại Đại hội X của Đảng nhấn mạnh đến 3 nội dung quan trọng: Một là, "giữ vững an ninh nội địa"; giải quyết kịp thời các mâu thuẫn, tranh chấp trong nhân dân; xây dựng "thế trận lòng dân" làm nền tảng phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trong đó Quân đội và Công an làm nòng cốt. Hai là, "kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại". Ba là, "xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân (QPTD) kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân (ANND). Đẩy mạnh xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố".
Chúng ta biết rằng, những năm trước đổi mới, nhận thức về nội dung của thế trận QPTD và ANND vẫn chứa đựng nhiều yếu tố của thế trận CTND. Qua thực tiễn, quan niệm về nền QPTD và nền ANND đã ngày càng phát triển từng bước đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đấu tranh QP-AN; do vậy, khái niệm về thế trận QPTD và thế trận ANND ra đời.
Trong quá trình đổi mới, thế trận QPTD và thế trận ANND được xác định là: thế bố trí các lực lượng QP-AN theo ý định chiến lược, nhằm phát huy cao độ sức mạnh QP-AN, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN, đồng thời là thế trận phòng ngừa, ngăn ngừa, loại trừ bạo loạn, chiến tranh và sẵn sàng đánh thắng trong các tình huống bạo loạn và chiến tranh xâm lược nếu kẻ địch cố tình gây ra.
Thế trận QPTD và thế trận ANND thể hiện ở sự bố trí từng lực lượng QP-AN một cách hợp lý, có lợi nhất nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp, đáp ứng mọi yêu cầu, nhiệm vụ đấu tranh QP-AN cả trong thời bình và thời chiến. Thế trận QPTD và ANND luôn gắn bó chặt chẽ với các thế trận khác như: thế trận biên phòng toàn dân và CTND...
Thế trận QPTD và ANND là cơ sở để gắn kết thế và lực của các lĩnh vực, ngành có liên quan trong quá trình xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc; do vậy, liên quan đến việc tổ chức, sắp xếp, xây dựng các quy hoạch, kế hoạch ngay từ trong thời bình, hình thành nhu cầu thực tiễn để chỉ đạo xây dựng kinh tế- xã hội (KT-XH) của đất nước phát triển nhanh và bền vững, tăng cường khả năng đấu tranh quốc phòng, đấu tranh giữ vững an ninh quốc gia. Điều quan trọng là, thế trận QPTD và thế trận ANND có thể nhanh chóng chuyển hóa thành thế trận CTND khi thời chiến. Trên cơ sở những nội dung đổi mới về thế trận QP-AN, Đại hội IX của Đảng đã xác định: xây dựng "thế trận QPTD và thế trận ANND; coi trọng xây dựng thế trận trên các địa bàn chiến lược trọng yếu".
Với quan điểm tiếp tục đẩy mạnh quá trình đổi mới, Đại hội X đã thể hiện tư duy của Đảng ta tiếp tục có bước phát triển mới về xây dựng thế trận thể hiện trong định hướng đó là: "Xây dựng "thế trận lòng dân" làm nền tảng phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trong đó Quân đội và Công an nhân dân làm nòng cốt". Mặt khác, Đại hội còn quan tâm toàn diện đến các yếu tố nội sinh, yếu tố thời đại, sự gắn kết giữa thế trận QPTD với thế trận ANND và "đẩy mạnh xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố".
4. Về hoàn thiện cơ chế vận hành nhiệm vụ QP-AN
Báo cáo chính trị đã xác định 3 nội dung chủ yếu: Một là, "xây dựng, bổ sung cơ chế lãnh đạo của Đảng và quản lý nhà nước đối với hoạt động QP-AN. Thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với chế độ chính uỷ, chính trị viên, tăng cường công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội". Hai là, "bổ sung cơ chế phối hợp hoạt động giữa QP-AN, đối ngoại và các bộ, ngành có liên quan trong phân tích, dự báo tình hình và làm tham mưu đề xuất các giải pháp thực hiện". Ba là, "bổ sung, xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, các chính sách xã hội có quan hệ đến nhiệm vụ QP-AN. Khẩn trương chỉ đạo xây dựng và ban hành các chiến lược quốc gia như: chiến lược quốc phòng; chiến lược an ninh và các chiến lược chuyên ngành khác".
Chúng ta biết rằng, trước đổi mới nguyên tắc lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt chỉ xác định với QĐND và CAND, thì trong quá trình đổi mới nguyên tắc này đã được áp dụng đối với cả sự nghiệp QP-AN như Văn kiện Đại hội IX của Đảng xác định: "Thường xuyên tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với QĐND, CAND, đối với sự nghiệp QP-AN".
Theo Nghị định 30/CP ngày 16/01/2004, Bộ Quốc phòng có nhiệm vụ giúp Chính phủ chủ trì thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác quốc phòng theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Ngày 11/5/2004, Nhà nước ta ban hành Nghị định 119/CP về công tác quốc phòng ở các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các địa phương, là một bước phát triển mới trong quá trình thể chế hoá nghị quyết của Đảng thành pháp luật của Nhà nước, nhằm phát huy hơn nữa "sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội, văn hoá, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước, LLVT làm nòng cốt; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, không ngừng xây dựng thế trận QPTD gắn với thế trận ANND phù hợp với hoàn cảnh mới".
Lần này, trong Văn kiện Đại hội X của Đảng tiếp tục có sự phát triển mới về xây dựng và hoàn thiện cơ chế lãnh đạo, quản lý đối với công tác QP-AN. Cùng với yêu cầu bổ sung cơ chế lãmh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước; cơ chế phối hợp hoạt động giữa QP-AN, đối ngoại và các bộ, ngành có liên quan; bổ sung xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, các chính sách xã hội có quan hệ đến nhiệm vụ QP-AN... Đại hội đặc biệt nhấn mạnh: "Khẩn trương chỉ đạo xây dựng và ban hành các chiến lược quốc gia như: chiến lược quốc phòng; chiến lược an ninh và các chiến lược chuyên ngành khác"; tăng cường vai trò của các cơ quan có chức năng nghiên cứu "phân tích, dự báo tình hình và làm tham mưu đề xuất các giải pháp thực hiện".
5. Về đấu tranh QP-AN
Báo cáo chính trị đã xác định hai nhiệm vụ đấu tranh QP-AN trong thời bình: (1)- "Kiên quyết làm thất bại mọi âm mưu và thủ đoạn "diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ". (2)- "Coi trọng nhiệm vụ đảm bảo an ninh chính trị nội bộ, nâng cao khả năng tự bảo vệ của mỗi người, của từng tổ chức, cơ quan và đơn vị".
Đây là lần đầu tiên trong các văn kiện đại hội, Đảng ta đã nêu rõ định hướng về đấu tranh QP-AN trong thời bình là "làm thất bại mọi âm mưu và thủ đoạn "diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ" của các thế lực thù địch và "coi trọng nhiệm vụ đảm bảo an ninh chính trị nội bộ, nâng cao khả năng tự bảo vệ của mỗi người, của từng tổ chức, cơ quan và đơn vị". Bởi vì, ngày nay các thế lực thù địch rất coi trọng chiến lược "diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ, nhất là thủ đoạn thúc đẩy quá trình tự diễn biến và bạo loạn lật đổ với các hình thức đa dạng, bao gồm cả việc tiến hành các cuộc cách mạng sắc màu như chúng đã thực hiện ở một số nước Đông Âu và các nước SNG. Vấn đề "tự bảo vệ của mỗi người, của từng tổ chức, cơ quan và đơn vị" cũng được Đại hội coi trọng, vì trước đây khi nền kinh tế nước ta còn là kinh tế khép kín, quản lý theo cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp thì QP-AN được chuyên môn hoá cao có chức năng bảo vệ, các nguy cơ bên ngoài, nhất là nguy cơ cạnh tranh về kinh tế và các lĩnh vực khác không trực tiếp đòi hỏi thì chức năng tự bảo vệ cũng chưa đặt ra một cách toàn diện, sâu sắc và cấp bách.
Ngày nay, khi ta đã và đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, quá trình “mở cửa” nền kinh tế, hội nhập vào kinh tế thị trường khu vực và quốc tế, khi các quy luật của kinh tế thị trường vận động trong đó có cả yếu tố cạnh tranh thiếu lành mạnh và sự chống phá của các thế lực thù địch thông qua quan hệ kinh tế, quan hệ đối ngoại thì nguy cơ tự diễn biến là không thể xem thường. Vì vậy, nhận thức mới về tự bảo vệ của các chủ thể bao gồm cả cá nhân, đơn vị và tổ chức như Văn kiện Đại hội X chỉ ra là hoàn toàn đúng đắn và khoa học.
6. Về kết hợp KT-XH với QP-AN
Báo cáo chính trị tại đại hội X của Đảng đã chỉ rõ định hướng với ba nội dung cơ bản:
Một là, "kết hợp xây dựng phát triển KT-XH với tăng cường sức mạnh QP-AN trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng của đất nước". Định hướng nêu trên có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn, thể hiện sự đánh giá đúng đắn về vai trò tiềm năng của đất nước, khẳng định tính độc lập tự chủ, tự lực, tự cường trên cả hai lĩnh vực hoạt động cơ bản của đời sống xã hội là KT-XH và QP-AN. Mặt khác, Đảng ta đã thể hiện sự nắm bắt nhu cầu nội sinh trong quá trình thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới: tự bảo vệ của nền KT-XH nước ta ngày càng tăng, thường xuyên phải đối mặt với những thách thức chệch định hướng XHCN; nền kinh tế hội nhập ngày càng sâu hơn, cạnh tranh trên thương trường trong bối cảnh không cân sức, cân tài với các đối tác; KT-XH phát triển theo chiều sâu thì nhu cầu kết hợp ngày càng phát triển.
Đồng thời còn thể hiện nhận thức của Đảng ta qua tổng kết thực tiễn về vai trò tiềm năng đất nước ngày càng được mở rộng: con người Việt Nam (trí tuệ Việt Nam) đã trưởng thành và được nâng cao trong sự nghiệp đổi mới; cơ sở vật chất kỹ thuật, khoa học và công nghệ đã được xây dựng; nền văn hoá và yếu tố chính trị-tinh thần được khơi dậy; cơ chế, chính sách, pháp luật đã được đổi mới; chiến lược, quy hoạch phát triển KT-XH và thế trận QP-AN được bố trí hợp lý; quan hệ kinh tế đối ngoại được mở rộng và định hướng khai thác toàn diện phục vụ cho cả hai nhiệm vụ phát triển KT-XH và tăng cường QP-AN.
Hai là, tiếp tục phát triển các khu kinh tế-quốc phòng, xây dựng các khu quốc phòng-kinh tế với mục tiêu tăng cường QP-AN là chủ yếu, tập trung vào các địa bàn trọng điểm chiến lược và những khu vực nhạy cảm trên biên giới đất liền, biển đảo. Đây cũng là một trong những nội dung và biện pháp kết hợp KT-XH với QP-AN có hiệu quả thiết thực, thể hiện sự sáng tạo trong vận dụng quy luật kết hợp của Đảng và Nhà nước ta. Cho đến nay, 20 khu kinh tế-quốc phòng đã và đang xây dựng, một số khu kinh tế-quốc phòng đã đạt được kết quả quan trọng về kinh tế, chính trị-xã hội và QP-AN. Đồng bào trong các khu dự án xây dựng các khu kinh tế-quốc phòng không ai tham gia vụ bạo loạn chính trị ở Tây Nguyên hồi tháng 2/2001 và tháng 4/2004 đã nói lên điều đó. "Xây dựng các khu quốc phòng-kinh tế với mục tiêu tăng cường QP-AN là chủ yếu..."; là vấn đề mới nảy sinh từ nhu cầu thực tiễn triển khai xây dựng các khu kinh tế-quốc phòng.
Thực tiễn cho thấy, mục tiêu xây dựng các khu kinh tế-quốc phòng cần được điều chỉnh cho phù hợp: phải tuỳ theo tình hình cụ thể mà xác định mục tiêu, bởi vì phần lớn các khu kinh tế-quốc phòng phải trải qua giai đoạn tương đối dài, nên vai trò chủ thể của QP-AN vẫn mang tính trội và mục tiêu tăng cường QP-AN vẫn được coi là chủ yếu. Do đó, định hướng xây dựng các khu quốc phòng-kinh tế trong Báo cáo chính trị tại Đại hội X của Đảng là hoàn toàn phù hợp với thực tế khách quan.
Ba là, "xây dựng công nghiệp quốc phòng trong hệ thống công nghiệp quốc gia dưới sự chỉ đạo, quản lý điều hành trực tiếp của Chính phủ,
đầu tư có chọn lọc theo hướng hiện đại, vừa phục vụ quốc phòng vừa phục vụ dân sinh". Định hướng trên đây là rất cơ bản, toàn diện phù hợp với yêu cầu khách quan trong thời kỳ mới, thời kỳ "đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với từng bước phát triển kinh tế tri thức" và cuộc cách mạng quân sự mới đang diễn ra trên thế giới. Định hướng nêu trên bao gồm hai nội dung rất cơ bản: (1)- "Xây dựng công nghiệp quốc phòng trong hệ thống công nghiệp quốc gia dưới sự chỉ đạo, quản lý điều hành của Chính phủ..." (2)- "Đầu tư có chọn lọc theo hướng hiện đại, vừa phục vụ quốc phòng vừa phục vụ dân sinh".
Những định hướng về tăng cường QP-AN bảo vệ Tổ quốc mà Báo cáo chính trị đã nêu là đúng đắn, có căn cứ khoa học. Tuy nhiên, để những quan điểm mới của Đại hội X về tăng cường QP-AN sớm đi vào cuộc sống thực tiễn, chúng ta cần phải quan tâm đến một số giải pháp chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, tiếp tục chỉ đạo tổ chức nghiên cứu phát triển khoa học-nghệ thuật bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới; tổ chức hệ thống các lực lượng QP-AN một cách hợp lý, khoa học nhằm nâng cao năng lực bảo vệ trong xây dựng thời bình và đáp ứng yêu cầu thời chiến, trong tình huống địch có sử dụng vũ khí công nghệ cao.
Thứ hai, tiếp tục đổi mới hệ thống công nghiệp quốc phòng của đất nước, phát huy vai trò chủ đạo của Nhà nước và vai trò nòng cốt của công nghiệp quân sự trong phát triển công nghiệp quốc phòng.
Thứ ba, cần nghiên cứu sâu hơn lý luận về nền QPTD, ANND; thế trận QPTD, ANND, thế trận biên phòng toàn dân; phân rõ mối quan hệ giữa xây dựng khu vực phòng thủ với xây dựng thế trận phòng thủ quốc gia, thế trận phòng thủ quân khu, thế trận phòng ngự khu vực...
Thứ tư, cần tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức đảng lãnh đạo sự nghiệp quốc phòng và LLVT nhân dân, các thứ quân; tăng cường đầu tư nghiên cứu chiến lược đào tạo nhân tài quân sự, QP-AN cho đất nước.
Theo Nguyễn Nhâm, Tạp chí Nghệ thuật Quân sự Việt Nam số 3/2006