Nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện thắng lợi đường lối đối ngoại Đại hội X của Đảng

Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ X (4-2006), sự kiện chính trị trọng đại của đất nước đã thành công tốt đẹp, đánh dấu mốc son mới trên con đường phát triển của cách mạng Việt Nam, thể hiện quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân đưa đất nước phát triển lên một tầm cao mới trước những vận hội to lớn đang mở ra cho dân tộc Việt Nam. 

Diễn ra vào thời điểm đất nước ta đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ, Đại hội X của Đảng đã kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX và 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, trên cơ sở đó xác định mục tiêu và phương hướng phát triển đất nước cho giai đoạn tiếp theo 2006 - 2010. Đại hội đánh giá cao những thành tựu đất nước ta đã đạt được qua 20 năm đổi mới, đồng thời xác định rõ thời gian tới tuy còn nhiều khó khăn nhưng đất nước ta có nhiều cơ hội để tiến lên; toàn dân tộc ta phải tranh thủ cơ hội, vượt qua thách thức, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ, phát triển với tốc độ nhanh hơn và bền vững hơn với mục tiêu sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. 

Để góp phần thực hiện thành công mục tiêu đó, công tác đối ngoại có vai trò rất quan trọng. Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã xác định rõ nhiệm vụ của công tác đối ngoại trong giai đoạn tới là "giữ vững và củng cố môi trường hòa bình, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội". Trong môi trường đối ngoại hiện nay và trước những yêu cầu ngày càng khẩn trương của sự nghiệp đổi mới toàn diện, việc tạo dựng, gìn giữ một môi trường quốc tế hòa bình đồng thời tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi công tác đối ngoại phải luôn được thực hiện trên tinh thần đổi mới, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế và mang lại hiệu quả lớn hơn. 

I - Những thuận lợi và thách thức trong công tác đối ngoại 5 năm tới 

Sau 20 năm đổi mới và 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX, thế và lực của đất nước ta ngày càng được tăng cường. Đây là thuận lợi trước hết và cơ bản nhất trong bối cảnh tình hình nước ta hiện nay. Với nền kinh tế tăng trưởng nhanh và môi trường chính trị - xã hội luôn ổn định, Việt Nam ngày càng tỏ rõ sức hút mạnh mẽ đối với các đối tác kinh tế, thương mại và đầu tư nước ngoài. Sự nghiệp đổi mới của chúng ta luôn được thế giới đánh giá cao, coi đây là một trong những công cuộc cải cách thành công nhất. Trong bối cảnh đó, việc Đại hội X khẳng định Việt Nam sẽ tiếp bước mạnh mẽ trên con đường đổi mới đã được cộng đồng quốc tế nhiệt liệt hoan nghênh. Không khí dân chủ, nghiêm túc, nhìn thẳng vào sự thật của Đại hội và quyết tâm nâng cao năng lực của Đảng nhằm lãnh đạo đất nước vươn tới phồn vinh đã tạo nên hình ảnh đầy sức thuyết phục về một Việt Nam đổi mới, phát triển và hội nhập quốc tế. 

Thuận lợi cơ bản thứ hai là cùng với sự lớn mạnh của đất nước, vị thế của Việt Nam trong những năm qua ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Đánh giá về thành tựu của công tác đối ngoại trong những năm đổi mới, Nghị quyết Đại hội X đã nêu rõ "trong tình hình thế giới và khu vực diễn biến hết sức phức tạp, quan hệ đối ngoại đã có bước phát triển mới, hội nhập kinh tế quốc tế được tiến hành chủ động và tích cực, vị thế của nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao", góp phần quan trọng vào việc gia tăng sức mạnh tổng hợp của đất nước. Trong những năm qua, công tác đối ngoại đã trở thành mặt trận quan trọng trong thời bình, góp phần giữ vững và củng cố môi trường hòa bình, tạo những điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, chúng ta đã tạo dựng được khuôn khổ quan hệ hợp tác hữu nghị, ổn định lâu dài và ngày càng đi vào chiều sâu với các nước láng giềng, khu vực. Đồng thời, từ việc bình thường hóa quan hệ, chúng ta từng bước nâng cấp, xác lập khuôn khổ quan hệ hữu nghị hợp tác, bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, các trung tâm kinh tế - chính trị lớn, các nước công nghiệp phát triển, tạo bước đột phá trong quan hệ quốc tế của Việt Nam. Bên cạnh các mối quan hệ đó, chúng ta chủ động củng cố, phát triển quan hệ hợp tác với các nước bạn bè truyền thống, các nước đang phát triển trên thế giới. Sự trưởng thành đáng tự hào của Ngoại giao Việt Nam còn được thể hiện ở hoạt động ngoại giao đa phương với việc chúng ta tổ chức thành công nhiều hội nghị quốc tế lớn; ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế cũng như công tác về người Việt Nam ở nước ngoài có những bước phát triển mới góp phần tạo ra nguồn lực quan trọng từ bên ngoài phục vụ công cuộc phát triển đất nước. Có thể nói, hiện nay chúng ta đang tạo được một môi trường quan hệ và hợp tác quốc tế thuận lợi hơn bao giờ hết, những thành tựu đạt được có ý nghĩa quan trọng, tạo cơ sở thuận lợi cho việc triển khai thực hiện nhiệm vụ đối ngoại trong thời gian tới. 

Thuận lợi thứ ba là mặc dù tình hình thế giới và khu vực trong 5 năm tới vẫn có thể diễn biến phức tạp nhưng hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn và chủ đạo. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương ngày càng gia tăng vai trò của mình trong các mối quan hệ quốc tế nói chung và quan hệ kinh tế quốc tế nói riêng, tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam thúc đẩy quan hệ với tất cả các đối tác, các nước trên cơ sở vừa tranh thủ vị trí địa - chính trị, địa - kinh tế của Việt Nam, vừa phát huy những tiềm năng, thế mạnh riêng của đất nước. 

Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi cơ bản đó, chúng ta cũng đang đứng trước những thách thức không thể coi nhẹ. Về chủ quan, đó là nguy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Quá trình hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới và triển vọng gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đòi hỏi chúng ta phải gia tăng sức cạnh tranh trong toàn nền kinh tế, từng ngành, nghề, lĩnh vực. Các vấn đề quan liêu, tham nhũng, lãng phí nếu không được giải quyết tích cực sẽ làm suy giảm nội lực và tác động không thuận đến hình ảnh và vị thế của Việt Nam trước quốc tế. 

Về khách quan, những diễn biễn phức tạp của tình hình thế giới tiếp tục tác động nhiều chiều tới an ninh và sự phát triển của Việt Nam: kinh tế thế giới vẫn tiềm ẩn những yếu tố bất trắc khó lường; toàn cầu hóa tạo ra cơ hội nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro, thách thức cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển. Bên cạnh những vấn đề an ninh truyền thống như chiến tranh cục bộ, xung đột dân tộc, tôn giáo, tranh chấp lãnh thổ... tiếp tục diễn biến phức tạp, các vấn đề an ninh phi truyền thống như thiên tai, dịch bệnh, khí hậu liên tục nổi lên. Ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Đông - Nam Á, quá trình tập hợp lực lượng giữa các nước lớn đã và đang tác động phức tạp tới các nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam. Ngoài ra, chúng ta phải cảnh giác trước những âm mưu "diễn biến hòa bình", gây bạo loạn, những hành động ẩn núp dưới các chiêu bài khác nhau hòng gây mất ổn định chính trị trong nước. 

II - Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện thắng lợi đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới 

Những thuận lợi và khó khăn đặt ra trên con đường phát triển đất nước đòi hỏi chúng ta phải kiên trì nguyên tắc, song linh hoạt về sách lược, có những lựa chọn đúng đắn, phù hợp về đường lối, tranh thủ mọi cơ hội, đẩy lùi và giảm thiểu các nguy cơ, thách thức nhằm bứt phá, tạo thế và lực mới cho đất nước. 

Về đường lối chung, Nghị quyết Đại hội Đảng X đã khẳng định rõ chúng ta tiếp tục thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế với phương châm Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực. Đây là đường lối đã được phát triển và ngày càng được hoàn thiện trong 20 năm đổi mới cũng như trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX, góp phần nâng cao vị thế quốc tế của nước ta trên trường quốc tế. 

Trên cơ sở những kinh nghiệm đúc kết được qua thực tiễn đối ngoại phong phú và sôi động những năm qua, trong việc triển khai thực hiện đường lối và phương châm đối ngoại của Đại hội X, chúng ta cần quán triệt những tinh thần chỉ đạo sau: 

Thứ nhất, cần luôn phát huy cao độ tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực tự cường; luôn đặt lợi ích của quốc gia, của dân tộc lên hàng đầu. Đây là tinh thần chỉ đạo quan trọng nhất trong việc hoạch định cũng như triển khai thực hiện chính sách đối ngoại. Hiện nay, có thể nói lợi ích quốc gia tối cao của chúng ta là bảo đảm môi trường quốc tế hòa bình, ổn định nhằm phát triển đất nước, bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong việc triển khai chính sách đối ngoại, chúng ta vừa nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, vừa giương cao ngọn cờ hòa bình, hợp tác để phát triển. Chúng ta chủ động hội nhập kinh tế quốc tế trên cơ sở phù hợp với chiến lược phát triển của đất nước, đồng thời coi trọng giữ gìn bản sắc dân tộc; kết hợp hài hòa giữa chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế, tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập, tiến bộ xã hội và phát triển. 

Thứ hai, phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong tình hình mới. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại thực sự là vấn đề chiến lược của cách mạng Việt Nam nói chung và công tác đối ngoại nói riêng qua mọi thời kỳ; là nguyên lý cơ bản của tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh. Vận dụng vào hoàn cảnh thực tiễn hiện nay, bên cạnh phát huy nội lực và sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, chúng ta cần tận dụng xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển trên thế giới và trong khu vực; tận dụng những thành tựu của cách mạng khoa học - công nghệ cùng những mặt tích cực của quá trình toàn cầu hóa. Nội lực luôn là yếu tố quyết định, nhưng chúng ta cũng cần hết sức tranh thủ các nguồn ngoại lực thông qua việc hội nhập và hợp tác quốc tế nhằm phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 

Thứ ba, cần thường xuyên đổi mới về tư duy đối ngoại, tư duy lý luận và tư duy nhận thức. Điều này thể hiện qua cách nhìn nhận, đánh giá khách quan tình hình thế giới, về mối quan hệ đối tác - đối tượng, hợp tác - đấu tranh trong quan hệ quốc tế; tác động qua lại mật thiết giữa các yếu tố bên trong và các yếu tố bên ngoài; những cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trong một thế giới luôn vận động và biến đổi không ngừng. Đổi mới về tư duy đòi hỏi chúng ta vận dụng linh hoạt tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh mà nổi bật là nguyên tắc "dĩ bất biến, ứng vạn biến", "thêm bạn bớt thù", kiên định về nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược. 

Thứ tư, cần tạo sức mạnh tổng hợp trong các lực lượng tham gia quan hệ đối ngoại trên mọi lĩnh vực và dưới nhiều hình thức khác nhau, kết hợp ngoại giao Nhà nước, ngoại giao Đảng, ngoại giao nhân dân, ngoại giao Quốc hội, ngoại giao an ninh - quốc phòng... Sức mạnh quốc gia ngày nay là tổng hợp tất cả các yếu tố, từ chính trị, quân sự, an ninh đến kinh tế, văn hóa. Các yếu tố này luôn đan xen, tác động và bổ sung lẫn nhau trong sự phát triển của đất nước. 

III - Phương hướng đối ngoại trong 5 năm tới 

Quán triệt nhiệm vụ, đường lối và tinh thần chỉ đạo đó, hoạt động đối ngoại của chúng ta trong thời gian tới cần được triển khai một cách toàn diện trong đó tập trung vào các hướng chính sau: 

Một là, tiếp tục mở rộng quan hệ đối ngoại với tất cả các đối tác, các nước, đồng thời triển khai có trọng tâm, trọng điểm, củng cố và hoàn thiện khuôn khổ quan hệ ổn định, lâu dài với các nước nhất là láng giềng khu vực, các nước lớn và các đối tác quan trọng; tạo bước chuyển biến mới trong quan hệ hợp tác theo hướng đưa các mối quan hệ đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững, tạo sự tin cậy lẫn nhau. 

Hai là, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng và toàn diện hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương trên cơ sở lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất và là nguyên tắc chủ đạo, đồng thời linh hoạt, mềm dẻo phù hợp với thông lệ quốc tế; thực hiện cam kết với các nước về thương mại, đầu tư, mở cửa thị trường; chuẩn bị tốt các điều kiện ký kết các hiệp định thương mại tự do song phương, đặc biệt là với các nước lớn; ký các hiệp định hợp tác kinh tế đa phương và khu vực; thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện có hiệu quả với các nước thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông - Nam Á (ASEAN), các nước khu vực châu Á - Thái Bình Dương. 

Ba là, tăng cường hơn nữa vai trò của hoạt động kinh tế đối ngoại, tạo môi trường pháp lý thuận lợi, cải thiện môi trường đầu tư nhằm thu hút đầu tư nước ngoài trực tiếp (FDI), các khoản viện trợ không hoàn lại (ODA); kết hợp tốt và hài hòa giữa chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại, góp phần tạo thêm nguồn lực từ bên ngoài, phục vụ tốt mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 

Bốn là, xây dựng và củng cố đường biên giới hòa bình, hợp tác phát triển với các nước láng giềng, đặc biệt hoàn thành việc phân giới, cắm mốc với Trung Quốc và Cam-pu-chia như mục tiêu đã đề ra; kịp thời giải quyết các vấn đề nảy sinh, góp phần tạo môi trường hòa bình thuận lợi cho phát triển, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực về những vấn đề cùng quan tâm, trong đó có vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo để họ hiểu rõ đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta; không chấp nhận bất cứ hành động nào lợi dụng các vấn đề này để can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. 

Năm là, cùng với các hoạt động ngoại giao song phương, cần tăng cường hơn nữa hoạt động trên các diễn đàn đa phương ở khu vực và trên thế giới; mở rộng sự hợp tác nhiều mặt với các tổ chức khu vực và quốc tế; chủ động tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu; tiếp tục củng cố, nâng cao vai trò, vị thế của Việt Nam trong các định chế quốc tế. Đặc biệt, trong thời gian trước mắt, mục tiêu chính của chúng ta là tổ chức thành công Hội nghị cấp cao APEC 14 vào cuối năm 2006 tại Hà Nội; tích cực hướng tới mục tiêu ứng cử trở thành ủy viên không thường trực tại Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc khóa 2008 - 2009; nâng cao hơn nữa vai trò của Việt Nam trong ASEAN; đẩy mạnh sự tham gia và đóng góp của chúng ta vào Phong trào Không liên kết và xa hơn là xem xét, nghiên cứu bước đầu tham gia có chọn lọc vào một số hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc... 

Sáu là, tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ ổn định cuộc sống; bảo vệ quyền lợi chính đáng, có các chính sách để người Việt Nam ở nước ngoài hướng về quê hương, góp phần xây dựng đất nước. Đại hội X tiếp tục khẳng định đồng bào Việt Nam định cư ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời và là nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân các nước. 

Bảy là, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác thông tin tuyên truyền và văn hóa đối ngoại, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, hợp tác hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân trên thế giới, góp phần làm cho bạn bè quốc tế hiểu rõ và biết nhiều hơn về công cuộc Đổi mới, về đất nước và con người Việt Nam trên con đường hội nhập và phát triển, ủng hộ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của chúng ta. 

Tám là, phối hợp chặt chẽ hoạt động ngoại giao của Đảng, của Quốc hội, ngoại giao Nhà nước với ngoại giao nhân dân, đối ngoại quốc phòng - an ninh, chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại, thực hiện tốt việc thống nhất quản lý hoạt động đối ngoại để phát huy sức mạnh tổng hợp, hoàn thành tốt nhiệm vụ đối ngoại chung của đất nước. 

Chín là, xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đối ngoại ngang tầm với yêu cầu của sự nghiệp cách mạng. Đội ngũ cán bộ này phải có những hiểu biết sâu rộng, thành thạo ngoại ngữ, giỏi về nghiệp vụ và kỹ năng đối ngoại; có lập trường chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng và Tổ quốc; có phẩm chất đạo đức tốt, tinh thần trách nhiệm cao; trở thành cán bộ đối ngoại "vừa hồng, vừa chuyên". Với đội ngũ cán bộ đó cùng với việc quán triệt sâu sắc đường lối đối ngoại do Đại hội X của Đảng đề ra, chúng ta sẽ hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao phó và góp phần vào việc thực hiện thắng lợi những mục tiêu chung của đất nước; đưa nước ta tiến nhanh, tiến mạnh trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa; thực hiện thành công mục tiêu cao đẹp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 

Theo Nguyễn Dy Niên, Tạp chí Cộng sản tháng 6-2006

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Chỉ thị của Ban Bí thư về công tác an toàn, vệ sinh lao động trong tình hình mới

(ĐCSVN) - Ngày 19/3/2024, đồng chí Trương Thị Mai ký ban hành Chỉ thị số 31-CT/TW về tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác an toàn, vệ sinh lao động trong tình hình mới.

Sớm đưa vào sử dụng các công trình, dự án hạ tầng cấp bách, trọng điểm về giao thông

(ĐCSVN) - Bộ Chính trị yêu cầu tập trung đầu tư, sớm đưa vào sử dụng các công trình, dự án hạ tầng cấp bách, trọng điểm về giao thông đường bộ, đường sắt, đường biển, đường thuỷ nội địa, đường hàng không kết nối các địa phương, vùng và khu vực, quốc tế.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

(ĐCSVN) - Các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội cần quán triệt, nâng cao nhận thức, tổ chức thực hiện nghiêm chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; xem đây là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của cả hệ thống chính trị và xã hội; là văn hoá ứng xử của mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và mỗi người dân, nhất là người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Bộ Chính trị ban hành quy định phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong điều tra, xét xử

(ĐCSVN) – Ngày 27/10/2023, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 132-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Liên kết website