Nghị quyết số 04-NQ/HNTW ngày 29/12/1997 Hội nghị lần thứ tư BCHTW Đảng (khoá VIII) về tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế, cần kiệm để công nghiệp hoá, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội đến nǎm 2000

Trong bối cảnh có những thuận lợi và thời cơ lớn, vừa đứng trước những khó khǎn và thách thức, qua hai nǎm thực hiện kế hoạch 5 nǎm 1996 - 2000, nền kinh tế nước ta tiếp tục phát triển và đạt mức tǎng trưởng khá (GDP tǎng 9%).

Phần I: Tình hình thực hiện nghị quyết đại hội VIII về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội

1 - Trong bối cảnh có những thuận lợi và thời cơ lớn, vừa đứng trước những khó khǎn và thách thức, qua hai nǎm thực hiện kế hoạch 5 nǎm 1996 - 2000, nền kinh tế nước ta tiếp tục phát triển và đạt mức tǎng trưởng khá (GDP tǎng 9%). Nông lâm, ngư nghiệp phát triển ổn định và tương đối toàn diện. Một số sản phẩm công nghiệp quan trọng (điện, dầu khí, than, vật liệu xây dựng...) tǎng nhiều so với trước. Nhập siêu giảm. Giá cả ổn định. Giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo có tiến bộ. Sự nghiệp giáo dục, y tế và việc thực hiện chính sách xã hội có bước phát triển mới. Đời sống số đông nhân dân được cải thiện. ổn định chính trị được giữ vững. Quốc phòng, an ninh được bảo đảm. Quan hệ đối ngoại được mở rộng, vị thế quốc tế của nước ta được nâng cao. Chúng ta có thêm thế và lực, khả nǎng và cơ hội để tiếp tục phát triển trong những nǎm tới. 

Tuy nhiên, sự phát triển của nền kinh tế chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp, còn nhiều yếu tố chưa bảo đảm tǎng trưởng cao và lâu bền. Lãng phí trong sản xuất, xây dựng và tiêu dùng lớn, tỷ lệ tích luỹ từ nội bộ thấp, tốc độ đầu tư mới của nước ngoài chậm lại. Phương hướng và cơ cấu chưa hợp lý. Đầu tư dàn trải, thất thoát lớn. Công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến, chưa phát triển; nǎng suất lao động thấp; giá thành cao; công nghệ lạc hậu; cơ cấu kinh tế chậm thay đổi. Nhập siêu và bội chi ngân sách lớn, nợ nước ngoài cao, dự trữ quốc gia mỏng. Việc xây dựng và cũng cố quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩ bị buông lỏng. Điều hành nền kinh tế thị trường còn lúng túng. Phân phối trong xã hội còn nhiều bất hợp lý, đất nước nghèo nhưng còn tiêu dùng quá khả nǎng làm ra, chưa dồn sức cho đầu tư phát triển, chưa ngǎn chặn được những thủ đoạn làm giàu bất chính. Tệ quan liêu, tham nhũng, sử dụng lãng phí ngân sách và tài sản công phổ biến và nghiêm trọng. Chênh lêch về trình độ phát triển giữa các vùng và thu nhập giữa các tầng lớp dân cư có chiều hướng ngày càng mở rộng. Việc làm và nhiều vấn đề xã hội đặt ra gay gắt. Dân chủ xã hội chủ nghĩa có mặt còn bị hạn chế. Những vấn đề đó ảnh hưởng xấu tới môi trường kinh tế, làm giảm nhịp độ tǎng trưởng, đồng thời tiềm ẩn những nguy cơ mất ổn định kinh tế - xã hội. 

2 - Những kết quả và thành tựu đạt được trong hai nǎm qua một lần nữa khẳng định đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước là đúng đắn và đang tiếp tục được phát huy. Trong chỉ đạo điều hành, chúng ta đã thực hiện có hiệu quả nhất định việc ngǎn chặn và hạn chế một số diễn biến xấu của nền kinh tế. 

Nhân tố quyết định làm nên thành tựu là nỗ lực phấn đầu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các ngành, các cấp. Sự hợp tác và giúp đỡ của cộng đồng quốc tế là một nhân tố quan trọng. 

Những hạn chế, yếu kém trong nền kinh tế nước ta hiện nay có những nguyên nhân khách quan và chủ quan. 

Về mặt khách quan, nền kinh tế vốn có những khó khǎn yếu kém, lại bị thiên tai và ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong khu vực và một số nước trên toàn thế giới từ giữa nǎm 1997. 

Về mặt chủ quan: 

+ Việc quán triệt và tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng ở nhiều cấp, nhiều ngành, trên nhiều lĩnh vực còn yếu. Trong quá trình thực hiện, một số cán bộ, đảng viên và cấp uỷ chưa quan tâm đầy đủ đến nghị quyết của Đảng, không cǎn cứ vào nghị quyết để hành động và kiểm tra công việc của mình; còn làm những việc không đúng nghị quyết, thậm chí trái với nghị quyết. 

+ Bộ máy nhà nước và nền hành chính quốc gia còn nhiều yếu kém, chậm cụ thể hoá và tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng bằng những chính sách thích hợp. Bộ máy cồng kềnh, thủ tục phiền hà, điều hành phân tán, hiệu lực thấp. Một bộ phận cán bộ kém nǎng lực, quan liêu, tham những, cửa quyền, ức hiếp quần chúng, cản trở sự phát triển của kinh tế và cải cách hành chính chưa theo kịp sự phát triển. 

+ Thiếu cơ chế phù hợp để phát huy vai trò làm chủ của dân, nhất là làm chủ nền kinh tế. Chưa thực hiện đúng phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm , dân kiểm tra". 

+ Sự lãnh đạo của Đảng trên nhiều lĩnh vực còn yếu. Chưa làm tốt công tác sơ kết, tổng kết để kịp thời đề ra những chủ trương, chính sách phù hợp với tình hình mới. Nhiều cấp uỷ đảng buông lỏng lãnh đạo công tác cán bộ, công tác tài chính - tiền tệ, để cán bộ đảng viên hư hỏng, tham những, vận dụng chính sách tuỳ tiện, gây thiệt hại lớn cho Nhà nước, xã hội. Dân chủ trong đảng chưa được phát huy đầy đủ. Đảng chậm đổi mới tổ chức bộ máy. Công tác nghiên cứu lý luận chưa vươn lên ngang tầm đòi hỏi của giai đoạn mới. 

Phần II: Những chủ trương, chính sách lớn 

Bước vào những nǎm còn lại của kế hoạch 5 nǎm 1996 - 2000, những yếu kém vốn có của nền kinh tế, đặc biệt là chất lượng và hiệu quả phát triển thấp, sức cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường còn quá yếu và những khó khǎn mới nảy sinh, nhất là tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ đang lan rộng trong khu vực và trên thế giới, sẽ là những thách thức lớn đối với chúng ta trong quá trình thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đến nǎm 2000. 

Tuy nhiên, những thành tựu của cuộc đổi mới vừa qua đã và đang tạo ra thế và lực mới cho chặng đường tiếp theo. Với quyết tâm đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ, đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, kiên trì đường lối kinh tế đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, chúng ta sẽ tạo ra những khả nǎng mới cho nhu cầu phát triển... Toàn Đảng, toàn dân phải phấn đấu cao và nỗ lực vượt bậc để thúc đẩy nền kinh tế - xã hội trong những nǎm tới tiếp tục tǎng trưởng cao và bền vững, duy trì ổn định chính trị, xã hội, bảo đảm quốc phòng và an ninh. 

Để hoàn thành những mục tiêu kinh tế - xã hội đến nǎm 2000 đã được Đại hội VIII của Đảng đề ra, cần nắm vững tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt là: Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, ra sức cần kiệm để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, kết hợp chặt chẽ với phát triển vǎn hoá, giáo dục, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội. ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nâng cao ý chí tự lực tự cường, giữ vững bản sắc dân tộc trong tiến trình hội nhập quốc tế. Đảm bảo an ninh quốc phòng vững chắc. Kết hợp chặt chẽ đổi mới kinh tế - xã hội với cải cách bộ máy nhà nước và hệ thống hành chính, xây dựng Đảng ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ mới. 

Quán triệt các tư tưởng chỉ đạo nêu trên, cần tập trung thực hiện tốt một số chủ trương, giải pháp lớn sau đây: 

I - Thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và điều chỉnh cơ cấu đầu tư 

Nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế là định hướng cơ bản cho sự chuyển dịch cơ câú kinh tế, điều chỉnh cơ cấu đầu tư. Muốn vậy, phát triển nhanh, mạnh, vững chắc các ngành công nghiệp, trước hết là công nghiệp chế biến có khả nǎng cạnh tranh cao. 

Những giải pháp lớn cần tổ chức thực hiện là: 

1 - Điều chỉnh quy hoạch phát triển và kế hoạch đầu tư theo các hướng chính sau đây: 

Xác định những sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, đáp ứng được nhu cầu trong nước và có khả nǎng tiêu thụ ở ngoài nước để định hướng và khuyến khích phát triển mạnh. 

ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến gắn với việc phát triển nguồn nguyên liệu nông sản, thuỷ sản, sản xuất hàng xuất khẩu và các mặt hàng tiêu dùng; đồng thời tạo điều kiện phát triển một số mặt hàng điện tử, kể cả dịch vụ phần mềm. Chú ý phát triển các ngành công nghiệp tốn ít vốn, thu hút nhiều lao động. Phát triển có lựa chọn một số ngành công nghiệp có điều kiện về tài nguyên, nguồn vốn và bảo đảm được hiệu quả (điện, khai thác và chế biến dầu khí, vật liệu xây dựng, hoá chất - phân bón, luyện kim...); coi trọng phát triển ngành cơ khí (kể cả chế tạo, lắp ráp, sửa chữa) theo hướng đầu tư chiều sâu là chính để cải tạo các cơ sở hiện có và phát triển một số cơ sở mới có điều kiện. 

Phát triển mạnh một số loại dịch vụ như bưu chính viễn thông, du lịch, vận tải, thương mại, dịch vụ khoa học - công nghệ, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, tư vấn... theo định hướng vừa phát triển thị trường nội địa, vừa nhanh chóng vươn ra thị trường quốc tế. 

Đẩy mạnh việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, ưu tiên cho các công trình trọng điểm phục vụ chung cho nền kinh tế, cho việc mở rộng kinh tế đối ngoại, xây dựng một số cơ sở hạ tầng thiết yếu ở nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. 

Bổ sung các chính sách, hình thức, biện pháp có hiệu lực để khuyến khích, hướng dẫn, giúp đỡ các doanh nghiệp và nhân dân đầu tư phát triển có hiệu quả, phù hợp với định hướng của kế hoạch Nhà nước. 

2 - Áp dụng chính sách bảo hộ hợp lý, giúp đỡ và thúc đẩy các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh. 

Nhà nước đảm nhận việc xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật bên ngoại doanh nghiệp, phát triển thị trường vốn, đào tạo nguồn lực, giúp đỡ về nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ, về tiếp thị, thông tin thị trường v.v... dành ưu tiên về đất, vốn, thuế, lao động được đào tạo... cho việc đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu và cho việc đổi mới thiết bị, công nghệ của doanh nghiệp. 

Phát triển sự hợp tác giữa các cơ quan và cán bộ khoa học với các doanh nghiệp, kể cả với các nhà khoa học và nhà kinh doanh người Việt ở nước ngoài. 

Tiếp tục điều chỉnh chính sách bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước theo tinh thần bảo hộ có chọn lọc, có điều kiện và có thời hạn, phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế. Lộ trình giảm thuế nhập khẩu và giảm dần các hàng rào phi quan thuế được công bố rõ để từng doanh nghiệp có kế hoạch phấn đấu cụ thể. 

Tǎng cường sự phối hợp giữa các cơ quan chức nǎng, phát huy vai trò của nhân dân để tiến hành có hiệu quả những biện pháp chống buôn lậu trên các tuyến biên giới, vùng biển và trên thị trường nội địa. Ngǎn chặn và xử lý nghiêm mọi hành vi buôn lậu, gian lận thương mại hoặc tiếp tay, bao che cho bọn buôn lậu. Tập trung triệt phá các đường dây buôn lậu móc nối giữa gian thương và các cơ quan, tổ chức nhà nước. 

3 - Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho xuất nhập khẩu. 

Quy định rõ một số ít mặt hàng cấm xuất khẩu hoặc hạn chế xuất khẩu; những mặt hàng còn lại được xuất khẩu dễ dàng với thủ tục đơn giản. Các doanh nghiệp có đǎng kí thuộc các thành phần kinh tế, chủ yếu là các đơn vị sản xuất được trực tiếp xuất khẩu hoặc tham gia cá hiệp hội xuất khẩu theo những điều kiện được pháp luật quy định. Thu hẹp diện mặt hàng quy định hạn ngạch (quota) xuất khẩu, nhập khẩu, hay bằng chính sách thuế; áp dụng phương thức đấu thầu công khai đối với mặt hàng chưa bỏ được hạn ngạch. 

Ban hành quy chế thành lập và hoạt động của các quỹ hỗ trợ xuất khẩu từ nguồn ngân sách và nguồn đóng góp của các doanh nghiệp, trước hết là ở các ngành hàng có kim ngạch lớn. 

Rút bài học kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ đang diễn ra ở một số nước để đề ra các chính sách phù hợp theo hướng có lợi cho xuất khẩu, giảm thâm hụt cán cân thương mại... 

Phát triển từng bước và nâng cao hiệu quả các khu chế suất, khu công nghiệp. Nghiên cứu xây dựng thí điểm một vài đặc khu kinh tế, khu mậu dịch tự do ở những địa bàn ven biển có đủ điều kiện. 

4 - Trên cơ sở phát huy nội lực thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách quy hết các nguồn lực bên ngoài. 

Mở rộng nhiều hình thức thu hút các nguồn lực từ bên ngoài. Cơ bước đi và biện pháp thận trọng trong việc mở cửa thị trường vốn. áp dụng từng bước và có mức độ, được quản lý và giám sát chặt chẽ các hình thức đầu tư gián tiếp (nước ngoài góp cổ phần, mua cổ phiếu của các cơ sở trong nước). 

Khuyến khích mạnh mẽ việc thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào các ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu và công nghệ cao, công nghiệp cơ khí, điện tử, những ngành ta có thế mạnh về nguyên liệu và lao động. Ưu tiên các nhà đầu tư có tiềm nǎng lớn về tài chính và nắm công nghệ nguồn; chú ý cả các dự án lớn, dự án vừa và nhỏ nhưng công nghệ hiện đại. 

Từng bước tạo mặt bằng pháp lý và áp dụng thống nhất chính sách thuế, các loại giá cả, dịch vụ (thuê đất, điện, nước, bưu chính viễn thông, hàng không...) đối với các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Bổ sung các chính sách ưu đãi thiết tực, có sức hấp dẫn cao, nhất là đối với những vùng và ngành cần ưu tiên. Có chính sách ưu đãi đặc biệt thu hút đầu tư vào các vùng sâu, vùng xa. Quản lý việc thực hiện các dự án đã được cấp giấy phép và các cơ sở đã đi vào hoạt động theo hướng vừa tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, vừa bảo đảm chấp hành tốt pháp luật Việt Nam. 

5 - Tích cực và chủ động thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế. 

Chủ động chuẩn bị các điều kiện cần thiết về cán bộ, luật pháp và nhất là về những sản phẩm mà chúng ta có khả nǎng cạnh tranh để hội nhập thị trường khu vực và thị trường quốc tế. Tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán hiệp định thương mại với Mỹ, gia nhập APEC và WTO. Có kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện các cam kết trong khuôn khổ AFTA. 

Giữ vững và mở rộng thị trường đã tạo lập được với các nước trong khu vực và các nước thuộc liên minh châu Âu, khôi phục thị trường Nga và các nước Đông Âu, phát triển quan hệ thương mại chính ngạch với Trung Quốc, tǎng cường quan hệ buôn bán, hợp tác với ấn Độ, mở rộng thị trường Mỹ, đẩy mạnh việc tìm thị trường mới ở Trung cận đông, Châu Phi, Mỹ La tinh. Chú trọng đa phương hoá quan hệ thương mại, giảm sự tập trung vào một vài đối tác vào việc mua bán qua thị trương trung gian. 

Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trung ương và tỉnh, thành phố, các doanh nghiệp trong việc phát triển thị trường xuất khẩu, đàm phán và ký kết các thoả thận song phương và đa phương. Tǎng cường vai trò, trach nhiệm của cơ quan ngoại giao trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại. 

Hình thành hệ thống thông tin thương mại quốc gia. Thành lập trung tâm xúc tiến thương mại. 

Phát triển các hiệp hội ngành hàng liên kết chặt chẽ giữa sản xuất nguyên liệu, chế biến và xuất khẩu. Ban hành quy chế cho các doanh nghiệp và các hiệp hội doanh nghiệp lập cơ quan đại diện, chi nhánh ở nước ngoài. 

Nghiên cứu việc sử dụng các tổ chức dịch vụ và tổ chức môi giới quốc tế. Khuyến khích các cá nhân và tổ chức có khả nǎng và điều kiện, ở trong nước cũng như người Việt nam ở nước ngoài, tham gia tích cực vào việc tìm hiểu, tiếp cận và thâm nhập thị trường thế giới. 

II - Phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hợp tác hoá, dân chủ hoá

1 - Đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với phân công lại lao động ở nông thôn. 

- Thực hiện tốt các chủ trương về phát triển nông lâm, ngư nghiệp đã được Đại hội VIII xác và một số chủ trương mới: Đẩy nhanh việc thực hiện chương trình thoát lũ và ngọt hoá ở Đồng bằng Sông cửu long, củng cố hệ thống đê điều trên phạm vi cả nước. Đẩy mạnh việc áp dụng công nghiệ sinh học, ưu tiên phát triển các cây trồng và vật nuôi có quy mô xuất khẩu tương đối lớn và thị trường ổn định, đặc biệt coi trọng các sản phẩm quý hiếm ta có lợi thế. Hết sức chú trọng phát triển công nghệ sau thu hoạch và công nghiệp chế biến. 

Quy hoạch cụ thể và triển khai việc thực hiện dự án phát triển, trồng mới 5 triệu héc ta rừng, kết hợp với việc bảo vệ và khoanh nuôi tái sinh để đạt tỷ lệ phủ xanh 40% diện tích cả nước. áp dụng chính sách sử dụng gỗ tiết kiệm. Thực hiện nhất quán chủ trương giao đất, giao rừng cho các hộ gia đình thực sự làm chủ, có thể sinh sống bằng nghề rừng. ổn định đời sống cho đồng bào định canh, định cư. Thu hẹp, tiến tới xoá tính trạng du canh, du cư. Phối hợp tổ chức chặt chẽ, có hiệu quả việc di chuyển dân ở một số tỉnh miền núi phía Bắc, không để tái diễn tình trạng di dân tự do. 

Tổ chức lại công nghiệp chế biến thuỷ hải sản và các dịch vụ trên bờ, cải tạo và nâng cấp hệ thống hạ tầng cơ sở nghề cá. Tạo điều kiện và khuyến khích các hộ, nhóm hộ cư dân tự đầu tư mua sắm tàu thuyền lớn ra khơi, sản xuất và chế biến hải sản, làm dịch vụ. 

- Thực hiện chính sách ruộng đất phù hợp với sự phát triển nông nghiệp hàng hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, tạo việc làm và thu nhập cho nông dân nghèo. 

Khẩn trương hoàn thành việc giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nông dân; khuyến khích và giúp đỡ các hộ nông dân đổi đất cho nhau để khắc phục tình trạng ruộng đất quá phân tán và manh mún. 

Quản lý chặt chẽ việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo đúng pháp luật, không để nông dân nghèo sống bằng nghề nông phải bán đất; ngǎn chặn và xử lý các thủ đoạn chèn ép cưỡng đoạt ruộng đất của nông dân nghèo. Chưa đặt vấn đề mở rộng mức hạn điền đối với đất canh tác. Kiểm tra việc thực hiện chính sách hạn điền đối với đất canh tác phù hợp với điều kiện đất đai ở các vùng khác nhau; có chính sách, biện pháp quy định cụ thể, hợp lý để xử lý đối với từng loại đất vượt hạn điền (đất canh tác, đất chưa sử dụng, đất khai hoang...) theo nguyên tắc khuyến khích sử dụng đất có hiệu quả, đồng thời nghiêm cấm hành vi mua bán đất để kiếm lời, bảo đảm công bằng xã hội. 

Đánh giá, phân loại các trường hợp nông dân không còn ruộng đất sản xuất để có chính sách, giải pháp xử lý phù hợp đối với rừng trường hợp theo hướng vừa không để nông dân bị bần cùng hoá do không có đất sản xuất, vừa thúc đẩy quá trình tích tụ ruộng đất hợp lý theo tiến trình công nghiệp hoá. 

Bổ sung thể chế để ngǎn chặn tình trạng lãng phí đất đai. Có chính sách phân biệt đền bù cho nông dân bị lấy đất để sử dụng vào mục đích kinh doanh và mục đích công ích, giúp nông dân bị lấy đất có việc làm và nguồn thu nhập mới. 

Kinh tế trang trại với các hình thức sở hữu khác nhau (Nhà nước, tập thể, tư nhân) được phát triển chủ yếu để trồng cây dài ngày, chǎn nuôi đại gia súc ở những nơi có nhiều ruộng đất; khuyến khích việc khai phá đất hoang vào mục đích này. 

Tổng kết việc thi hành Luật đất đai để trình Quốc hội bổ sung sửa đổi Luật. 

- Phát triển mạnh các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. 

Tǎng tỷ lệ đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn, xây dựng và nâng cấp kết cấu hạ tầng. Bổ sung chính sách khuyến khích tối đa mọi người dân và doanh nghiệp đầu tư phát triển công nghiệp, dịch vụ trên địa bàn nông thôn. Ưu đãi, khuyến khích hơn nữa đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước vào phát triển kinh tế, tạo việc làm ở nông thôn, kể cả các dự án ở quy mô hộ gia đình. Miễn toàn bộ hoặc giảm tối đa tiền thuê đất đối với các dự án đầu tư vào các vùng khó khǎn, kể cả các dự án 100% vốn nước ngoài. 

Xúc tiến việc xây dựng các khu công nghiệp, đặc biệt là một số khu quy mô nhỏ, các trung tâm kinh tế - xã hội ở các vùng nông thôn. Tổ chức các cơ sở công nghiệp chế biến nông sản, thủy sản theo hướng gắn kết các đơn vị cung cấp nguyên liệu - sản xuất - chế biến và tiêu thụ. 

- Tǎng nhanh trang bị kỹ thuật trong nông nghiệp và nông thôn. 

Nhà nước hỗ trợ, tạo điều kiện để đẩy mạnh sản xuất và sử dụng sản phẩm cơ khí phục vụ nông nghiệp, nhất là các thiết bị vừa và nhỏ có sức cạnh tranh với sản phẩm của nước ngoài. Có chính sách ưu đãi về vốn và thuế để nhập khẩu những sản phẩm cơ khí cho nông nghiệp trong nước chưa sản xuất hoặc sản xuất chưa đủ nhu cầu. 

Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực, bao gồm cả bồi dưỡng kỹ nǎng lao động, đào tạo kỹ thuật viên và hình thành đội ngũ các nhà kinh doanh giỏi ở nông thôn. 

2 - Giải quyết vấn đề thị trường tiêu thụ nông sản. 

Thực hiện cơ chế lưu thông thật sự thông thoáng trên thị trường trong nước. Củng cố hệ thống thương nghiệp nhà nước trên địa bàn nông thôn, đặc biệt coi trọng phát triển các hình thức liên kết giữa thương nghiệp nhà nước với hợp tác xã, nông dân và lực lượng thương nghiệp nhỏ, khắc phục tình trạng thả nổi thị trường nông thôn gây thiệt hại đến lợi ích nông dân. 

Tạo cho được một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực có sức mạnh cạnh tranh trên thị trường quốc tế. 

Đánh thuế xuất khẩu cao đối với hàng xuất khẩu dưới dạng nguyên liệu thô mà trong nước đã có nǎng lực chế biến. Cho nhập khẩu miễn thuế hoặc thuế suất thấp các loại nguyên, vật liệu phục vụ công nghiệp nông thôn mà trong nước chưa sản xuất được hoặc còn thiếu. 

Xây dựng các quỹ bảo hiểm sản xuất dưới nhiều hình thức. Nhà nước có chính sách cho nông dân nghèo vay tiền vào đầu vụ thu hoạch để không phải bán nông sản ở thời điểm bất lợi về giá. Phát triển các loại hình kinh doanh kết hợp công nghiệp, nông nghiệp, xuất nhập khẩu theo phương thức ký kết hợp đồng dài hạn với nông dân. 

3 - Phát triển mạnh các hình thức kinh tế hợp tác, đổi mới hoạt động của các cơ sở quốc doanh trong nông nghiệp và nông thôn, phát triển các cơ sở quốc doanh ở vùng sâu, vùng xa. 

Tiếp tục phát huy vai trò tự chủ của kinh tế hộ, kể cả kinh tế tiểu chủ. Tập trung chỉ đạo phát triển mạnh các hình thức kinh tế hợp tác của nông dân theo tinh thần chỉ thị 68/CT - TW của ban Bí thư Trung ương Đảng khoá VII và Luật hợp tác xã. 

Nâng cao hiệu quả hoạt dộng của các cơ sở quốc doanh trong nông nghiệp và nông thôn theo hướng tập trung làm dịch vụ (điện, nước, kỹ thuật, tài chính - ngân hàng, thương mại, vận tải...), công nghiệp chế biến và chuyển giao kỹ thuật cho nông dân; trên cơ sở đó phát triển thêm một số cơ sở quốc doanh nông, lâm nghiệp miền núi, vùng sâu, vùng xa. Đổi mới và củng cố các quốc doanh đánh cá theo hướng tǎng nhanh khả nǎng bám trụ dài ngày trên biển; làm dịch vụ ngoài biển và trên bờ để tạo điều kiện cho ngư dân ra khơi, bám biển. 

Phát triển các hình thức hợp tác giữa các doanh nghiệp nhà nước với các hợp tác xã và hộ nông dân. Xây dựng các hiệp hội ngành nghề hoạt động theo cơ chế dân chủ, tự quản; trong đó cơ sở quốc doanh trong hội có vai trò nòng cốt. 

III. Đẩy mạnh đổi mới, phát triển và quản lý có hiệu quả các loại hình doanh nghiệp 

1 - Tiếp tục đổi mới và phát triển khu vực doanh nghiệp nhà nước. 

Sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước. 

Phân định loại doanh nghiệp công ích và doanh nghiệp kinh doanh; xác định danh mục loại doanh nghiệp cần giữ 100% vốn nhà nước; loại doanh nghiệp nhà nước cần nắm tỷ lệ cổ phần chi phối; loại doanh nghiệp nhà nước chỉ cần giữ tỷ lệ cổ phẩn ở mức thấp. Trong khi sắp xếp cần chú ý đến điều kiện đặc thù của các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa. 

Các doanh nghiệp công ích và doanh nghiệp 100% vốn nhà nước hoạt động có hiệu quả cần được kiện toàn về tổ chức, cán bộ, tài chính, xử lý lao động dôi dư, ưu tiên bổ sung vốn lưu động, cho vay vốn ưu đãi để đổi mới thiết bị, công nghệ. 

Đối với các doanh nghiệp nhà nước không cần nắm 100% vốn, cần lập kế hoạch cổ phần hoá để tạo động lực phát triển, thúc đẩy làm ǎn có hiệu quả. Sửa đổi, bổ sung các quy định, kiện toàn tổ chức cổ phần hoá các cấp. Thí điểm việc bán cổ phần cho người nước ngoài. Khuyến khích nông dân sản xuất nguyên liệu, tham gia mua cổ phần ở các doanh nghiệp chế biến nông sản. 

Đối với những doanh nghiệp nhỏ có vốn dưới một tỷ đồng , kinh doanh thua lỗ kéo dài mà không cần thiết duy trì sở hữu nhà nước, cần áp dụng các hình thức xử lý thích hợp như sau: sát nhập, đấu thầu, công khai cho thuê, khoán kinh doanh hoặc bán, giao cho tập thể cán bộ, công nhân với điều kiện đảm bảo công ǎn việc làm cho người lao động và thực hiện Luật pháp của Nhà nước; áp dụng Luật phá sản... ở vùng miền núi, kinh tế chưa phát triển, cần duy trì vai trò có hiệu qủa của doanh nghiệp nhà nước vừa và nhỏ. 

Số tiền thu được sử dụng hết để giải quyết việc làm, thực hiện chính sách cho số lao động dôi dư và bổ sung vốn pháp định cho các doanh nghiệp nhà nước cần ưu tiên củng cố. Bổ sung sửa đổi các chính sác đối với số lao động dôi dư. 

Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý, chấn chỉnh và nâng cao hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước. 

Chuyển các doanh nghiệp kinh doanh sang hoạt động theo cơ chế công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần; bổ sung hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn chỉ có một sáng lập viên để áp dụng đối với kinh doanh 100% vốn nhà nước. Đặt các doanh nghiệp nhà nước trong môi trường cạnh tranh theo pháp luật, có quy định kiểm soát các doanh nghiệp độc quyền và lợi nhuận do độc quyền đem lại. 

Đối với doanh nghiệp nhà nước có hội đồng quản trị. Hội đồng quản trị là cơ quan của Nhà nước đại diện trực tiếp chủ sở hữu tại doanh nghiệp, chịu trách nhiệm về việc bảo toàn và phát triển tài sản và vốn Nhà nước giao cho doanh nghiệp. Giám đốc do hội đồng quản trị tuyển chọn và ký hợp đồng với sự chấp thuận của cơ quan hành chính có thẩm quyền. 

Xác định rõ phạm vi thẩm quyền về quản lý nhà nước của các bộ quản lý ngành và Bộ Tài chính đối với doanh nghiệp (về chiến lược phát triển, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, kiển tra, kiểm soát...). 

Quy định khung pháp lý cho các doanh nghiệp nhà nước được huy động thêm vốn từ nhiều nguồn. Sớm ban hành chế độ kiểm toán bắt buộc và chế dộ công khai hoá tài chính doanh nghiệp. Có cơ chế hạch toán và biện pháp xử lý các phương tiện sản xuất và lao động dôi dư để làm lành mạnh hoá tài chính doanh nghiệp. Đổi mới chế độ phân phối, ưu tiên dành lợi nhuận để trả nợ vốn vay và tái đầu tư, gắn lợi ích và trách nhiệm vật chất với hiệu quả kinh doanh; quy định rõ trách nhiệm của thành viên hội đồng quản trị, giám đốc và kế toán trưởng trong trường hợp để doanh nghiệp nhà nước bị phá sản. 

Tổng kết mô hình tổng công ty nhà nước, trên cơ sở đó có phương án xây dựng các tổng công ty thực sự trở thành những tập đoàn kinh tế mạnh, có hiệu quả và sức cạnh tranh cao, thực sự là xương sống của nền kinh tế. Xem xét, sắp xếp lại các tổng công ty không phù hợp, hoạt động kém hiệu quả. Nghiên cứu, bổ sung, sửa đổi mô hình tổng công ty theo hướng phối hợp quan hệ liên kết theo chiều ngang với quan hệ liên kết theo chiều dọc; chuyên môn hoá theo một ngành hàng và từng bước thực hiện kinh doanh đa ngành nghề. Nghiên cứu chuyển cơ chế quản lý vốn theo phương thức hành chính sang cơ chế công ty tài chính. 

Tǎng cường sự lãnh đạo của Đảng và vai trò các tổ chức quần chúng trong quản lý doanh nghiệp nhà nước, xây dựng các thiết chế giám sát có hiệu lực nhằm phát huy vai trò của các tổ chức đó. 

Trên cơ sở tống kết thực tiễn và thí điểm, trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung Luật doanh nghiệp nhà nước. 

2 - Phát triển và quản lý các loại hình doanh nghiệp thuộc kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. 

- Tiếp tục cụ thể hoá chủ trương nhất quán xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 

- Tiếp tục hoàn thiện môi trường kinh doanh theo pháp luật. 

Sửa đổi, bổ sung Luật khuyến khích đầu tư trong nước. Sửa đổi, bổ sung các vǎn bản pháp quy về các loại hình doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể, xây dựng luật thống nhất áp dụng cho các loại chủ thể kinh doanh. Khuyến khích phát triển và quản lý tốt kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước theo pháp luật. Đổi mới các thủ tục đǎng ký kinh doanh, hộ khẩu, xuất nhập cảnh thuận tiện cho kinh doanh và giải quyết việc làm. Quy định rõ chế độ thanh tra, kiểm tra các cơ quan nhà nước đối với doanh nghiệp, nghiêm cấm và xử phạt những người gây phiền hà, sách nhiễu đối với doanh nghiệp. Hoàn thiện các chế tài, xứ lý nghiêm minh các hoạt động kinh doanh trái pháp luật. Thiết lập môi trường cạnh tranh lành mạnh, kiểm soát được độc quyền và cơ chế giải quyết tranh chấp kinh doanh phù hợp với kinh tế thị trường. 

Tạo điều kiện cần thiết cho các doanh nghiệp và nhân dân đầu tư phát triển. 

Nhà nước có chính sách cho các doanh nghiệp được thuê đất làm mặt bằng sản xuất kinh doanh, được ưu đãi về thuế và tín dụng theo ngành nghề và địa bàn; giúp đỡ tiếp thị, thông tin thị trường; trợ giúp việc nghiên cứu và ứng dụng công nghệ mới. Đẩy mạnh việc dạy nghề và hướng nghiệp, phát triển có tổ chức thị trường lao động, kể cả xuất khẩu lao động; khuyến khích phát triển các hiệp hội, câu lạc bộ nhà kinh doanh. Hằng nǎm có hình thức lựa chọn biểu dương, khen thưởng các nhà kinh doanh giỏi. 

- Phát triển các hình thức hợp tác, liên kết giữa các thành phần kinh tế. 

Đẩy mạnh thức hiện Luật hợp tác xã trong các lĩnh vực, vận động và giúp đỡ các tiểu thương, tiểu chủ tự nguyện xây dựng các cơ sở kinh tế hợp tác đa dạng từ thấp đến cao, thành lập các tổ chức hội nghề nghiệp, nghiệp đoàn trong các ngành nghề thích hợp. 

Phát triểư vn nhiều hình thức hợp tác, liên kết giữa kinh tế nhà nước với các thành phần kinh tế khác trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và bảo đảm lợi ích hợp pháp của mỗi chủ kinh tế. Nhà nước chủ động đầu và gọi vốn của các thành phần kinh tế khác để xây dựng doanh nghiệp mới hoặc cải tạo, mở rộng doanh nghiệp hiện có; nghiên cứu, thí điểm việc Nhà nước góp vốn, mua cổ phần công ty tư nhân, doanh nghiệp nhà nước thuê nhà kinh doanh tư nhân quản lý doanh nghiệp. 

IV - Tiếp tục đổi mới và lành mạnh hóa hệ thống tài chính - tiền tệ; thực hành triệt để tiết kiệm 

1 - Tiếp tục đổi mới chính sách tài chính. 

- Về chính sách huy động và sử dụng vốn. 

Đa dạng hoá các hình thức huy động và đầu tư vốn liên doanh, liên kết, phát hành trái phiếu, cổ phiếu, góp quỹ bảo hiểm, các quỹ đầu tư... Từng bước tạo tiền đề vững chắc cho việc hình thành thị trường chứng khoán. 

Đẩy mạnh quá trình thị trường hoá các tiềm lực tài chính trong nước; chủ động phát triển thị trường bất động sản có tổ chức. 

Tiếp tục thu hút mạnh và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, hạn chế luồng vốn ngắn hạn. Thí điểm việc phát hành trái phiếu ra nước ngoài, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt nam tham gia vào thị trường vốn quốc tế. 

- Về chính sách ngân sách: 

Nâng cao tính hiện thực của dự toán thu ngân sách hằng nǎm và thực hiện đúng chi ngân sách nhà nước trên cả ba lĩnh vực (chi đầu tư, chi thường xuyên, chi trả nợ). Khống chế mức bội chi ngân sách, tiến tới việc cân bằng thu chi và tǎng dự trữ, không phát hành tiền cho chi tiêu ngân sách. Trên cơ sở tǎng thu, tiết kiệm chi, Nhà nước tǎng tỷ lệ ngân sách dành cho đầu tư phát triển. Thực hiện chế độ kiểm toán đối với các đơn vị có sử dụng ngân sách nhà nước. 

Xác định rõ chức nǎng chi của ngân sách nhà nước, của doanh nghiệp, của xã hội; giảm hoặc xoá bỏ các khoản chi không thuộc chức nǎng của ngân sách nhà nước. Tiếp tục thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục, y tế, hoạt động cǎn hoá, thể dục, thể thao có phân biệt theo vùng, theo đối tượng, nhu cầu khác nhau và bảo đảm cho người nghèo, gia đình chính sách được chữa bệnh, học tập. 

Quản lý tốt việc vay và trả nợ bên ngoài. Phấn đấu đến nǎm 2000 cân bằng số vay và số trả hằng nǎm về nợ gốc của Chính phủ, không làm tǎng tỷ lệ so với GDP về nợ của Chính phủ và doanh nghiệp đối với nước ngoài. 

- Về chính sách thuế: 

Xây dựng lộ trình giảm dần thuế nhập khẩu theo Hiệp định ưu đãi thuế quan (CEPT) áp dụng trong các nước ASEAN và các cam kết quốc tế khác. Chuẩn bị tốt việc thực hiện Luật thuế giá trị gia tǎng và Luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Đơn giản các sắc thuế, công khai hoá các thủ tục hải quan và xuất nhập cảnh. 

Tǎng cường giáo dục các doanh nghiệp và nhân dân về ý thức thực hiện nghĩa vụ thuế. Có cơ chế thích hợp để kiểm soát được các nguồn thu nhập và các loại tài sản của dân cư. Tiếp tục đổi mới chế độ thu phí, lệ phí; thanh tra và xử lý nghiêm mọi hiện tượng lạm quyền, lạm thu của cơ quan, đơn vị nhà nước. 

2 - Tiếp tục đổi mới và chấn chỉnh hoạt động ngân hàng. 

Nâng cao vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong việc kiểm soát lạm phát, kiềm chế chỉ số tǎng giá tiêu dùng dưới 10%. Tǎng cường sử dụng các công cụ gián tiếp, giảm sự can thiệp và điều hành theo lệnh hành chính. Rút bài học từ cuộc khủng hoảng tiền tệ ở một số nước trong việc quản lý ngân hàng, điều hành chính sách tiền tệ, bảo đảm tính chủ động và an toàn của thị trường tiền tệ nước ta. 

Tiếp tục xoá bao cấp theo tín dụng. Đề cao vai trò tự chủ kinh doanh của ngân hàng thương mại. Thực hiện đúng các quy luật của luật pháp về quyền và nghĩa vụ của cả người cho vay và người đi vay. Không hình sự hoá các quan hệ dân sự trong hoạt động tín dụng. Có giải pháp xử lý những vấn đề tồn đọng trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng đang cản trở sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế. 

Chấn chỉnh hệ thống ngân hàng thương mại, làm cho hệ thống này thực sự lành mạnh, có hệ số an toàn cao, được nhân dân tin cậy. Thực hiện cơ chế lãi suất tín dụng theo quan hệ cung - cầu trên thị trường vốn. Các ngân hàng phải nắm vững thông tin về hoạt động kinh donh của người vay, nâng cao nǎng lực thẩm định dự án để quyết định việc cho vay kịp thời, chính xác. Tǎng vốn cho vay trung hạn, dài hạn, nhất là đối với các ngành có chu kỳ sản xuất và thu hồi vốn dài. 

Điều hành tỷ giá linh hoạt theo cung - cầu, phù hợp với sức mua thực tế của đồng tiền Việt nam, trên cơ sở bảo đảm kinh tế vĩ mô. Đổi mới cơ chế quản lý ngoại hối; đẩy nhanh tiến độ thực hiện nguyên tắc trên đất Việt nam phải thanh toán bằng tiền Việt nam, tích cực tạo điều kiện cho đồng tiền Việt nam có giá trị chuyển đổi. Tǎng dự trữ ngoại tệ. 

Hoàn thiện cơ chế quản lý nợ quốc gia để kiểm soát được mọi khoản vay nợ nước ngoài, quản lý chặt chẽ các hình thức vay thương mại; khống chế mức trần vay nợ hằng nǎm. Có kế hoạch thực hiện các cam kết trả nợ; hình thành quỹ hỗ trợ trả nợ. 

3 - Về chính sách tiết kiệm: 

Ban hành pháp lệnh thực hành tiết kiệm và những quy định cụ thể trong đầu tư, xây dựng, sản xuất và tiêu dùng để tǎng tích luỹ trong cả ba khu vực Nhà nước doanh nghiệp và dân cư. Kết hợp thực hành tiết kiệm với việc đấu tranh bài trừ tham nhũng, lãng phí. Phát huy vai trò của các cơ quan dân cử trong việc phân bổ và kiểm soát chi tiêu ở từng cấp ngân sách. áp dụng chế độ công khai báo cáo tài chính định kỳ. Kiểm soát chi phí sản xuất của các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp độc quyền kinh doanh. Quy định chế độ chi về trụ sở làm việc đối với tất cả các cơ quan, đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước. 

Mở rộng diện đánh thuế tiêu thụ đặc biệt hoặc tǎng mức thuế đối với các mặt hàng cần hạn chế tiêu dùng. Bảo đảm giá trị tiền gửi và có lãi, đa dạng hoá các hình thức đầu tư trực tiếp và gián tiếp để khuyến khích nhân dân đưa vốn vào sản xuất kinh doanh. 

V - Tích cực giải quyết việc làm và xoá đói giảm nghèo 

1 - Tích cực giải quyết vấn đề lao động, việc làm. 

Kết hợp với chương trình quốc gia về giải quyết việc làm với từng chương trình, dự án phát triển kinh tế để tạo ra nhiều chỗ làm việc mới, đặc biệt là dự án đầu tư bằng vốn ngân sách và đầu tư của nước ngoài. Khuyến khích phát triển doanh nghiệp vưà và nhỏ, các làng nghề truyền thống, phát triển các ngành nghề mới ở nông thôn để giải quyết việc làm tại chỗ. Hoàn thiện cơ chế quản lý và tǎng quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm. 

Bổ sung chính sách lao động nghĩa vụ công ích; phân bố lại lao động và dân cư trên phạm vi cả nước; hoàn thiện hệ thống thông tin dịch vụ việc làm và quản lý thất nghiệp; sớm xây dựng chế độ bảo hiểm thất nghiệp. 

Mở rộng xuất khẩu lao động trrên thị trường đã có và thị trường mới. Cho phép các thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu và làm dịch vụ xuất khẩu lao động trong khuôn khổ pháp luật dưới sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước. 

Đẩy mạnh công tác đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực. Cải cách hệ thống đào tạo theo hướng gắn với thị trường lao động, huy động sự tham gia của các doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân dưới sự quản lý của Nhà nước. Mở rộng các hình thức đào tạo nghề, chú trọng đào tạo lao động có chuyên môn kỹ thuật cao, đáp ứng nhu cầu của các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao và thị trường lao động quốc tế. Kiện toàn công tác quản lý nhà nước về lao động và đào tạo nghề. 

2 - Tǎng cường và nâng cao hiệu quả hỗ trợ các vùng nghèo, xã nghèo và người nghèo. 

Nhà nước có kế hoạch hỗ trợ cho các vùng nghèo, đặc biệt là 1300 xã nghèo, chủ yếu là đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực. Nhà nước và xã hội tǎng cường trợ giúp vốn, kiến thức làm ǎn cho các hộ nghèo, nhất là ở nông thôn, miền núi, hải đảo... Nghiên cứu chính sách sửa bệnh và học tập đối với các hộ nghèo. Bổ sung chính sách đối với các nạn nhân chiến tranh. 

Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn quỹ của các chương trình quốc gia. Giao Hội đồng Nhân dân tỉnh quyết định việc sử dụng và tổ chức kiểm tra việc thể hiện các quỹ này trên địa bàn; các ngành trung ương chủ yếu làm chức nǎng hướng dẫn, thanh tra. 

VI - đổi mới và tǎng cường sự lãnh đạo của đảng, quản lý của nhà nước và phát huy quyền làm chủ của nhân dân về kinh tế - xã hội 

1 - Tǎng cường sự lãnh đạo của Đảng về kinh tế - xã hội. 

Mọi tổ chức đảng và đảng viên phải quán triệt sâu sắc và chấp hành đường lối, quan điểm kinh tế của Đảng. Đảng viên và các tổ chức đảng ở các cơ quan chức nǎng có trách nhiệm thể chế hoá, cụ thể hoá kịp thời các nghị quyết của Đảng. Mỗi đảng việc và tổ chức đảng phải gương mẫu thực hiện nghị quyết của Đảng, thường xuyên sâu sát cơ sở, kiểm tra tình hình thực hiện và kịp thời tổng kết thực tiễn để bổ sung chủ trương, chính sách phát hiện và uốn nắn kịp thời những lệch lạc trong thực hiện quan điểm, đường lối, chính sách kinh tế - xã hội của Đảng. 

Cấp uỷ và tổ chức đảng các cấp, theo chức nǎng và quyền hạn của mình, phải nắm chắc công tác cán bộ, đặc biệt quan tâm bồi dưỡng đội ngũ cán bộ kinh tế, lãnh đạo việc lựa chọn, bố trí và quản lý cán bộ chủ chốt ở các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế cũng như ở các đơn vị kinh doanh, quản lý tốt cán bộ, đảng viên để ngǎn ngừa sự suy thoái về đạo đức, ngǎn chặn những biểu hiện lãng phí, tham nhũng, quan liêu, ức hiếp quần chúng, phát hiện xử lý kịp thời những cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật. 

Tổ chức đảng các cấp và đích thân các đồng chí lãnh đạo chủ chốt phải định kỳ (hằng quý, hằng tháng hoặc thường xuyên hơn)tiến hành kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới về việc lãnh đạo hoạt động tài chính, tiền tệ của ngành và đơn vị thuộc phạm vi, địa bàn quản lý của mình, không phân biệt cấp sở hữu; bảo đảm cho tiền của và tài sản công được phân bổ và sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả, đúng đường lối của Đảng, chủ trương cuả Nhà nước. 

Tǎng cường cán bộ có nǎng lực tham mưu giúp việc các cấp uỷ đảng về kinh tế. Kiện toàn về tổ chức trên cơ sở xác định rõ chức nǎng nhiệm vụ của các tổ chức đảng, các cấp uỷ đảng trong các loại hình doanh nghiệp. 

Tǎng cường kỷ cương trong Đảng và ngoài xã hội, ở tất cả các cấp, các ngành. 

Coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, phát huy dân chủ và sức sáng tạo, đưa công tác nghiên cứu lý luận vươn lên giải quyết được những vấn đề lý luận và thực tiễn mà cuộc sống đang đặt ra cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, làm chỗ dựa vững chắc cho Đảng hoạch định đường lối, chính sách và tổ chức hành động. 

2 - Đổi mới và tǎng cường quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội. 

Cần quán điểm các quan điểm, nguyên tắc sau đây: 

Trong quản lý kinh tế - xã hội, trước hết, Nhà nước các cấp phải triệt để quan điểm đường lối, nghị quyết Đảng, kịp thời thể chế hoá, cụ thể hoá để đưa nghị quyết vào cuộc sống; thường xuyên sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm, báo cáo kiến nghị với Đảng để bổ sung, điều chỉnh kịp thời các tổ chức chính sách, nhất là những vấn đề quan trọng. 

Chuyển mạnh sang quản lý kinh tế - xã hội bằng tổ chức luật pháp, chính sách, chế độ, quy hoạch, kế hoạch, giáo dục, thuyết phục, thanh tra, kiểm tra và rất quan trọng là bằng các công cụ quản lý vĩ mô và sức mạnh kinh tế Nhà nước. 

Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý kinh tế - xã hội. Mở rộng dân chủ, đẩy mạnh phân cấp quản lý kinh tế, đồng thời bảo đảm sự quản lý tập trung thống nhất của Trung ương về những vấn đề và lĩnh vực quan trọng. 

Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội. Tǎng cường vai trò của Mặt trận và các đoàn thể quần chúng trong việc thực hiện quyền của nhân dân tham gia quản lý, kiểm kê, kiểm soát, thanh tra. 

Tiếp tục thúc đẩy cải cách hành chính , chấn chỉnh tổ chức, tinh giản bộ máy nhà nước các cấp. Thường xuyên bồi dưỡng, đào tạo để nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa, đạo đức cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. 

Theo những quan điểm, nguyên tắc trên, cần thực hiện tốt mấy việc sau đây: 

Nâng cao chất lượng giám sát của Quốc hội , Hội đồng nhân dân các cấp đối với hoạt động ngân sách. 

Chính phủ và cán bộ cần tập trung ưu tiên tập trung cao nhất cho việc bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô (quan trọng nhất là ổn định giá cả, tài chính - tiền tệ), đẩy mạnh công tác hoạch định và hướng dẫn thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển, tǎng cường công tác kiểm soát, thanh tra... Trước mắt cần tổ chức theo dõi cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ đang tiếp diễn ở một số nước, kịp thời phân tích ảnh hưởng và tác động đối với nền kinh tế nước ta để có chủ trương và biện pháp thích ứng, bảo đảm cho nền kinh tế nước ta phát triển ổn định. 

Công khai hoá việc sử dụng ngân sách và các khoản đóng góp của dân bằng những biện pháp cụ thể chặt chẽ, có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc, chế độ quản lý kinh tế tài chính của Nhà nước và hợp lòng dân. 

3 - Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân về kinh tế - xã hội. 

Đảng và Nhà nước phải có thiết chế tạọ điều kiện cho mọi người dân, mọi thành phần kinh tế chủ động tham gia phát triển kinh tế, làm giàu cho mình và góp phần làm giàu cho đất nước; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện tốt chủ trương "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" trong lĩnh vực kinh tế - xã hội. 

Khẩn trương xây dựng và ban hành quy chế bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân ở từng loại hình cơ sở. Phát huy quyền dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp của nhân dân trong việc bàn, quyết định và giám sát việc thực hiện những chủ trương kinh tế - xã hội trực tiếp liên quan đếnlợi ích của dân, trong việc xử lý theo đúng pháp luật những việc làm sai, những cán bộ vi phạm. Đồng thời, đề cao kỷ luật, kỷ cương của Nhà nước. 

Các đoàn thể nhân dân cần đổi mới tổ chức và hoạt động của mình hướng vào việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, thiết thực giúp dân phát triển sản xuất, kinh doanh, xoá đói giảm nghèo, nâng cao dân trí, tiến lên làm giàu, góp phần xây dựng và bảo vệ đất nước. 

Toàn Đảng, toàn dân ta quyết tâm phấn đấu thực hiện bằng được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đến nǎm 2000 đã được Đại hội VIII thông qua, tạo ra bước chuyển biến mới quan trọng về cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo đà tạo thế và lực mới cho bước tiến nhanh và vững chắc hơn khi bước vào thế kỷ XXI. Đây là sự nghiệp rất vẻ vang nhưng cũng nhiều gian khổ. 

Đảng, Nhà nước và nhân dân ta tin tưởng vững chắc rằng chúng ta sẽ thực hiện thắng lợi những mục tiêu đã đề ra. 

T/M Ban Chấp hành Trung ương Đảng

Tổng Bí thư

 LÊ KHẢ PHIÊU
ã ký)

 

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Các tin khác

Ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng

(ĐCSVN) - Ngày 10/10, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký Quyết định số 190-QĐ/TW về việc ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng.

Kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công

(ĐCSVN) - Bộ Chính trị vừa ban hành Quy định số 189-QĐ/TW ngày 08/10/2024 về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công.

Bộ Chính trị ban hành quy định phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong điều tra, xét xử

(ĐCSVN) – Ngày 27/10/2023, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 132-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Tập trung tuyên truyền những chủ đề lớn, trọng tâm từ nay đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng

(ĐCSVN) - Ban Tuyên giáo Trung ương yêu cầu thông tin chính xác, kịp thời với nhiều hình thức linh hoạt, sáng tạo, phong phú, sinh động gắn với tuyên truyền đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và tuyên truyền kỷ niệm các ngày lễ lớn, sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước trong năm 2024, 2025.

Quy trình kỷ luật đảng viên thuộc thẩm quyền của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư

(ĐCSVN) - Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường vừa ký Quyết định số 165-QĐ/TW ngày 6/6/2024 của Bộ Chính trị ban hành Quy trình xem xét, thi hành kỷ luật đối với tổ chức Đảng, đảng viên thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Liên kết website