Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 17/10/1998 Hội nghị lần thứ sáu (lần 1) BCHTW Đảng khóa VIII về nhiệm vụ kinh tế, xã hội năm 1999

Bước vào năm 1998, mặc dù đã đạt được những thành tựu rất quan trọng sau hơn 10 năm đổi mới, nhưng nhìn chung, nền kinh tế nước ta còn nhiều mặt yếu kém, thiên tai xảy ra trên một số vùng gây hậu quả nặng nề, lại bị tác động mạnh của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ khu vực. Trong bối cảnh đầy khó khăn, thử thách đó, chúng ta đã cố gắng phấn đấu đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng 6%; chính trị, kinh tế - xã hội ổn định, sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế tiếp tục phát triển; đời sống của nhân dân được giữ vững và có bộ phận được cải thiện.

Bước vào năm 1998, mặc dù đã đạt được những thành tựu rất quan trọng sau hơn 10 năm đổi mới, nhưng nhìn chung, nền kinh tế nước ta còn nhiều mặt yếu kém, thiên tai xảy ra trên một số vùng gây hậu quả nặng nề, lại bị tác động mạnh của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ khu vực. Trong bối cảnh đầy khó khăn, thử thách đó, chúng ta đã cố gắng phấn đấu đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng 6%; chính trị, kinh tế - xã hội ổn định, sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế tiếp tục phát triển; đời sống của nhân dân được giữ vững và có bộ phận được cải thiện.

Những thành tựu mà chúng ta đạt được trong năm qua là rất quan trọng. Đó là nhờ thế và lực của đất nước được tăng cường qua hơn 10 năm đổi mới, nhờ tinh thần đoàn kết phấn đấu gian khổ với nỗ lực to lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các ngành, các cấp, sự chỉ đạo đúng đắn của Bộ Chính trị và sự điều hành năng động, nhạy bén của Chính phủ. Thắng lợi đó một lần nữa cho thấy sức mạnh tiềm tàng của nhân dân ta, chế độ ta, đồng thời khẳng định sự đúng đắn của Nghị quyết Đại hội VIII và các nghị quyết của Trung ương. Cần thấy rõ những thành tựu đã đạt được để phấn khởi, tự tin, đoàn kết, vững bước đi lên.

Mặt khác, cần đánh giá đúng mức những mặt yếu kém và diễn biến không thuận về kinh tế, xã hội trong năm qua : nhịp độ tăng trưởng kinh tế giảm so với các năm trước; sản xuất kinh doanh có nhiều khó khăn hơn, số lao động không có và không đủ việc làm còn lớn và tăng thêm; kim ngạch xuất khẩu không tăng; đầu tư trong nền kinh tế giảm và kém hiệu quả, tích luỹ nội bộ nền kinh tế còn thấp; nợ nước ngoài tăng thêm hàng năm, hoạt động tài chính - tiền tệ - tín dụng còn nhiều yếu kém; việc đổi mới quan hệ sản xuất tuy có tiến bộ nhưng còn chậm; đời sống nhân dân ở một số vùng còn rất khó khăn; những vấn đề gay gắt như tham nhũng, tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, tiếp tục phát triển.

Tình hình trên có nguyên nhân khách quan: thiên tai gây thiệt hại nặng ở một số vùng; cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực tác động tiêu cực đến nền kinh tế nước ta, nhất là đối với xuất khẩu, đầu tư nước ngoài và cán cân thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, điều quan trọng là nhìn thẳng vào những thiếu sót và yếu kém chủ quan : chúng ta chưa nhận thức đúng việc phát huy nội lực của nền kinh tế; chính sách, thể chế lại chưa đồng bộ, thiếu nhất quán để tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho phát huy nội lực. Công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng, chủ trương chính sách của Nhà nước vẫn là khâu yếu, các cấp, các ngành còn quan liêu, thiếu sâu sát cơ sở để nắm tình hình, chưa kịp thời phát hiện nhân ra diện rộng những nhân tố, mô hình có hiệu quả mới xuất hiện. Tình trạng thiếu kỷ luật, kém kỷ cương trong bộ máy Đảng và Nhà nước từ trên xuống dưới chưa được khắc phục.

II

Bước vào năm 1999, những thách thức và khó khăn của đất nước còn rất lớn, gay gắt và phức tạp do những yếu kém từ bên trong của nền kinh tế và những bất cập trong quản lý, điều hành; cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ dẫn đến suy thoái kinh tế ở một số nước trong khu vực có thể còn diễn biến phức tạp; khí hậu và thời tiết bất thường chưa thể lường hết được.

Chúng ta phải chuẩn bị đương đầu với những khó khăn và thách thức lớn hơn, nhưng cũng không loại trừ khả năng xuất hiện những yếu tố mới làm dịu khủng hoảng và suy thoái kinh tế ở khu vực và thế giới, giảm ảnh hưởng tiêu cực đối với nước ta. Trong tình huống nào cũng cần nắm vững, phát huy những thuận lợi to lớn, cơ bản của nước ta, để chủ động vượt lên:

- Chính trị, kinh tế - xã hội ổn định, đời sống nhân dân được đảm bảo.

- Tiềm lực kinh tế tiếp tục được nâng lên với một nền nông nghiệp bảo đảm được những nhu cầu cơ bản của đời sống, đủ dự trữ và có dư để xuất khẩu; năng lực các ngành công nghiệp và dịch vụ tuy chưa đủ sức trang bị lại cho nền kinh tế tiếp cận với công nghệ tiên tiến nhưng đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu tiêu dùng thiết yếu và một số nhu cầu về tư liệu sản xuất, có một số mặt hàng vươn ra thị trường bên ngoài; kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội được cải thiện một bước rõ nét; quan hệ hợp tác quốc tế tiếp tục phát triển, uy tín và vị thế của nước ta trong khu vực và trên trường quốc tế được nâng cao, quan hệ hợp tác còn nhiều khả năng mở rộng ra các khu vực khác.

- Những nguồn lực trong nước còn nhiều tiềm năng lớn: sức lao động, tài nguyên đất đai, rừng, biển, nguồn nước, nguồn vốn trong nhân dân và truyền thống lao động cần cù, sáng tạo của con người Việt Nam.

- Những chính sách, thể chế đã ban hành cùng với những kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành đã tích luỹ được những năm qua, nhất là trong hơn một năm đối phó với những khó khăn, thử thách, đó cũng là những thuận lợi mới cần phát huy.

III

Phương hướng và mục tiêu tổng quát về kinh tế, xã hội trong năm 1999 và đến năm 2000 là: Tiếp tục công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhất là công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn; thực hiện có hiệu quả chương trình hành động theo Nghị quyết  Trung ương 4; phát huy cao nhất nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân vượt qua khó khăn, thách thức, giữ vững ổn định kinh tế - xã hội, tập trung phát triển các ngành, các lĩnh vực, các sản phẩm có lợi thế, nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, tạo tiền đề cho bước phát triển tiếp theo.

Để thực hiện phương hướng và mục tiêu trên đây, việc xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội năm 1999 cần quán triệt các tư tưởng chỉ đạo sau đây:

Một là, quán triệt nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bám sát định hướng của kế hoạch kinh tế-xã hội 5 năm 1996-2000, chặn đà suy giảm nhịp độ tăng trưởng, bố trí cơ cấu đầu tư, những cân đối lớn của nền kinh tế với tinh thần tích cực và hiện thực, phù hợp với tình hình mới.

Hai là, tiếp tục đổi mới đồng bộ hơn về chính sách, thể chế để củng cố và tăng cường kinh tế nhà nước, giải phóng và phát huy mọi lực lượng, mọi tiềm năng, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho mọi người, mọi gia đình, mọi doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Nhận thức đúng và có chính sách, biện pháp đặc biệt đáp ứng yêu cầu của tình thế mới, tạo bước đột phá trong việc khai thác các nguồn nội lực và nguồn lực bên ngoài, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Ba là, khắc phục tình trạng quan liêu, nâng cao năng lực và ý thức chấp hành kỷ luật, bảo đảm kỷ cương trong chỉ đạo thực hiện, nắm vững và điều hành linh hoạt các cân đối vĩ mô, theo dõi sát diễn biến tình hình thực tiễn trong nước, khu vực và thế giới, kịp thời nắm bắt những nhân tố thuận lợi, đồng thời chủ động ứng phó với các tình huống xấu có thể xảy ra.

Những nhiệm vụ chính về kinh tế, xã hội thực hiện trong năm 1999:

1- Tập trung sức cao hơn nữa cho nhiệm vụ phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, làm cơ sở vững chắc cho sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội trong mọi tình huống; ưu tiên phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp, điều chỉnh cơ cấu, đổi mới cơ chế các ngành công nghiệp nhằm tháo gỡ khó khăn, tăng nhanh khả năng cạnh tranh của sản phẩm, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh trong công nghiệp, dịch vụ; lựa chọn và đẩy mạnh sự phát triển những ngành, lĩnh vực và sản phẩm đáp ứng nhu cầu trong nước và có khả năng xuất khẩu.

2- Mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm cả trong nước và ngoài nước; đặc biệt coi trọng và kích thích tăng cầu thị trường nội địa, có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị sản xuất thuộc các thành phần kinh tế đẩy mạnh xuất khẩu.

3- Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư; chú trọng các nguồn vốn trong nước và phát huy mạnh mẽ khả năng đầu tư vào sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và mọi tầng lớp nhân dân; tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn bên ngoài.

4- Có giải pháp tích cực hơn làm lành mạnh nền tài chính quốc gia; triệt để tiết kiệm tiêu dùng để tăng tích luỹ cho đầu tư phát triển trong cả 3 khu vực nhà nước, doanh nghiệp và dân cư; chấn chỉnh hệ thống ngân hàng, nâng cao chất lượng và độ an toàn trong hoạt động tín dụng, phát triển từng bước vững chắc thị trường vốn, chủ động xử lý có hiệu quả tỉ giá hối đoái và lãi suất.

5- Giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội; tạo thêm cơ hội cho người lao động có việc làm; thực hiện có hiệu quả chương trình xoá đói, giảm nghèo; phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, hoạt động văn hoá, sự nghiệp bảo vệ sức khoẻ; đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Đẩy mạnh hơn nữa việc thực hiện chương trình kế hoạch hoá gia đình, áp dụng các biện pháp cần thiết để giảm tỉ lệ tăng dân số tự nhiên.

6- Giải quyết có hiệu quả công cuộc cải cách hành chính và bộ máy nhà nước, nâng cao hiệu lực điều hành, chế độ trách nhiệm và tính kỷ luật trong hệ thống hành chính, kiện toàn chính quyền cơ sở đi đôi với triển khai thực hiện quy chế dân chủ, công khai tài chính, tăng cường pháp chế, ngăn chặn tệ quan liêu, tham nhũng, giải quyết kịp thời các khiếu kiện của dân.

7- Củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động khu vực kinh tế nhà nước để giữ vai trò chủ đạo, phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã, khuyến khích mạnh mẽ các thành phần kinh tế khác phát triển. Có chính sách và cơ chế khai thác tốt nội lực của nền kinh tế.

8- Thực hiện nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh, bảo đảm trật tự, kỷ cương, ngăn chặn và sử lý nghiêm các tiêu cực trong hoạt động kinh tế, xã hội.

IV

Nghị quyết Đại hội VIII và các Nghị quyết Trung ương tiếp theo, nhất là Nghị quyết Trung ương 4 khoá VIII, đã đề ra các chủ trương, chính sách lớn về đổi mới và phát triển kinh tế, xã hội. Năm 1999 phải tiếp tục triển khai và thực hiện tốt các nghị quyết đó, đặc biệt là thực hiện chương trình hành động theo Nghị quyết Trung ương 4 khoá VIII, với sự bổ sung, phát triển một số chính sách và biện pháp cụ thể sau đây:

1- Về nông nghiệp và kinh tế nông thôn.

Sự phát triển nông nghiệp (bao gồm cả lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp) và kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá có vai trò cực kỳ quan trọng cả trước mắt và lâu dài, làm cơ sở để ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Để thực hiện công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn, cần tập trung sức phát triển sản xuất gắn với công nghiệp chế biến một số loại sản phẩm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của nhân dân và xuất khẩu (mía đường, bông, thịt, sữa, nguyên liệu giấy, cao su, tôm, cá...); coi trọng công nghệ sau thu hoạch; thực hiện tốt các khâu cơ khí hoá; khôi phục và phát triển các ngành, nghề truyền thống; xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội. Theo hướng đó các ngành công nghiệp, dịch vụ phải xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể phục vụ tốt nhiệm vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn.

Năm 1999 phải tăng tỉ trọng đi đôi với nâng cao hiệu quả vốn đầu tư của Nhà nước về phát triển nông nghiệp, nông thôn. Nguồn vốn của Nhà nước được sử dụng tập trung cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn, ưu tiên cho các khâu thuỷ lợi; dịch vụ phục vụ nông nghiệp, như giống mới cây trồng, vật nuôi, đánh cá xa bờ, cải tiến nghề làm muối...; chú trọng công nghiệp chế biến, đào tạo cán bộ.

Các thành phần kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn tồn tại lâu dài, mỗi thành phần có vị trí, vai trò riêng và đều được khuyến khích phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo cùng với kinh tế hợp tác xã dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân, liên kết, hỗ trợ, hướng dẫn các thành phần kinh tế khác phát triển sản xuất hàng hoá quy mô lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao. Khuyến khích phát triển tất cả các hình thức sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ có hiệu quả, đúng pháp luật; tạo điều kiện đưa nông nghiệp, nông thôn nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu; củng cố vững chắc liên minh công-nông và trí thức về kinh tế và chính trị.

Sớm giải quyết các vướng mắc về chính sách đang kìm hãm sức sản xuất ở nông thôn để tạo động lực mới thúc đẩy kinh tế, xã hội nông thôn phát triển mạnh mẽ, vững chắc, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói giảm nghèo, tăng cường đoàn kết nông thôn.

Theo hướng đó, chính sách đất đai phải tạo điều kiện và thúc đẩy việc nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông, lâm nghiệp hiện có và khai thác nhanh đất trống, đất hoang hoá đang còn chiếm một diện tích lớn; đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng đất vào mục đích chuyên dùng phù hợp với quy hoạch. Quản lý chặt chẽ việc chuyển đất nông nghiệp, đặc biệt đất trồng lúa sang các mục đích sử dụng phi nông nghiệp. Sớm hoàn thành việc giao đất, xem xét giải quyết những tồn đọng về đất đai.

Ngoài diện tích được Nhà nước giao trong mức hạn điền, các hộ nông dân có nhu cầu và khả năng sử dụng đất sản xuất kinh doanh được Nhà nước cho thuê đất.

Đối với đất trống, đồi núi trọc, bãi cát và đất rừng, đất bồi ven biển, đất hoang hóa, mặt nước chưa được sử dụng..., Nhà nước ưu tiên giao đất theo hạn điền cho dân cư tại chỗ và số dân điều chỉnh ở đồng bằng Sông Hồng, Sông Cửu Long lên Tây Nguyên, Đông Nam Bộ; khuyến khích mọi thành phần kinh tế bỏ vốn đầu tư thuê đất theo dự án sản xuất kinh doanh để khai thác, sử dụng đất vào mục đích phát triển sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp với nhiều hình thức (vườn đồi, vườn rừng, VAC, hùn vốn phát triển công nghiệp chế biến...), trong đó có hình thức kinh tế trang trại theo quy định của pháp luật.

Việc tích tụ và tập trung ruộng đất là quá trình sẽ diễn ra trên con đường phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn, hợp tác hoá, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn và đất nước; tuy nhiên quá trình này phải phù hợp với trình độ phân công lại lao động, với từng vùng địa lý, dân cư khác nhau; quá trình này cần phải được quản lý chặt chẽ đi đôi với phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ... ở nông thôn không để nông dân vừa không có ruộng lại vừa không có việc làm, không có thu nhập cho nhu cầu đời sống.

Ban Chấp hành Trung ương giao Bộ Chính trị căn cứ vào tinh thần này để ra nghị quyết về nông nghiệp, nông thôn.

2- Về phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp.

Tập trung sản xuất các sản phẩm công nghiệp có lợi thế, có sức cạnh tranh, có thị trường tiêu thụ; ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản, các loại hình công nghiệp vừa và nhỏ đầu tư ít vốn, sử dụng nhiều lao động; phát triển các ngành công nghiệp then chốt phục vụ nhu cầu thiết yếu của nền kinh tế như dầu khí, than, điện, thép, xi măng; chú trọng đầu tư cải tạo các cơ sở cơ khí hiện có theo hướng chuyên môn hoá, hợp tác hoá, phục vụ tốt hơn yêu cầu của nông, lâm, ngư nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng và hàng tiêu dùng; chuẩn bị dự án xây dựng một số cơ sở mới về cơ khí, hoá chất, luyện kim... khi có điều kiện.

3- Về đầu tư phát triển.

Đổi mới đồng bộ các chính sách, thể chế và thủ tục có liên quan tới môi trường và điều kiện sản xuất kinh doanh (như thành lập doanh nghiệp, đất đai, vốn, khoa học công nghệ, lưu thông hàng hoá trong và ngoài nước, thuế...), nhằm thật sự khuyến khích mọi tầng lớp nhân dân, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, mọi doanh nghiệp cần kiệm, hăng hái bỏ vốn vào sản xuất kinh doanh, làm giàu cho mình và góp phần xây dựng đất nước. Chú trọng khai thác tiềm năng đầu tư phát triển kinh tế hộ, doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ban hành chính sách ưu đãi đặc biệt (cao hơn mức bình thường) đối với mọi trường hợp đầu tư không dựa vào nguồn vốn nhà nước trong hai năm 1999-2000 kể cả đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Mở rộng hoạt động tín dụng với lãi suất hợp lý và có biện pháp bảo toàn giá trị tiền gửi đi đôi với việc chấn chỉnh hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng nhằm tạo thuận lợi, an toàn cho nhân dân gửi tiền và vay tiền đầu tư phát triển sản xuất, bảo đảm hiệu quả tín dụng và khả năng thu hồi nợ.

Điều chỉnh cơ cấu đầu tư thuộc nguồn vốn tập trung của nhà nước (ngân sách và tín dụng nhà nước, bao gồm cả vốn ODA) theo hướng bảo đảm tính khả thi, nâng cao hiệu quả, phù hợp với các mục tiêu, nhiệm vụ năm 1999 và tạo tiền đề cho bước phát triển những năm sau. Ưu tiên đầu tư cho các công trình quan trọng, then chốt, các công trình trọng điểm đang xây dựng dở dang, xem xét kỹ việc khởi công những công trình mới; kiên quyết đình, hoãn hoặc giãn tiến độ xây dựng những công trình chưa thật cấp bách hoặc xét thấy không bảo đảm hiệu quả. Các công trình phân cấp cho chính quyền địa phương phải phù hợp với quy hoạch của vùng và cả nước, được hội đồng nhân dân xem xét, quyết định và công bố công khai cho dân biết.

Ngăn chặn và xử lý nghiêm những trường hợp dùng vốn nhà nước đầu tư xây dựng các công trình ngoài kế hoạch, trái quy định và vượt dự toán quá lớn. Đổi mới cơ chế tín dụng nhà nước nhằm khắc phục tình trạng doanh nghiệp ỷ lại, trông chờ vào nguồn vốn này và sự bù đắp của nhà nước khi thua lỗ, nên hiệu quả đầu tư thấp, nợ quá hạn và khó đòi tăng, và không xác định được rõ trách nhiệm.

Tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện có hiệu quả các dự án đầu tư nước ngoài đã được cấp giấy phép và đi vào hoạt động, tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư và mở rộng diện đối tác để thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài.

4- Về chính sách thị trường

Mở rộng thị trường và nâng nhu cầu, sức mua trong nước bằng các giải pháp phù hợp : đẩy mạnh sản xuất, phát triển ngành nghề, tạo việc làm và tăng nguồn thu nhập; có chính sách để áp dụng hình thức bán hàng trả góp, hoặc mua trả chậm máy móc, vật tư, thiết bị sản xuất trong nước, xây dựng nhà cửa; nhà nước đầu tư hỗ trợ một phần vật tư, thiết bị, huy động sức lao động của dân để xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn, miền núi; mở rộng vốn cho vay trung hạn, dài hạn. Bảo đảm sự lưu thông hàng hoá thông suốt, thuận tiện trên thị trường trong nước; nghiêm cấm việc tự đặt ra các trạm kiểm soát dọc đường gây trở ngại cho lưu thông.

Đẩy mạnh xuất khẩu; thành lập quỹ hỗ trợ xuất khẩu, tích cực chống buôn lậu, có chính sách trợ giúp, bảo hộ những mặt hàng có thị trường tiêu thụ nhưng khó cạnh tranh với hàng nước ngoài. Tổ chức thực hiện tốt các biện pháp đã nêu trong Nghị quyết Trung ương 4 khoá VIII về công tác tiếp thị, mở rộng thị trường.

Do khó khăn trong cán cân thanh toán quốc tế, cần áp dụng biện pháp tình thế đối với nhập khẩu để tiết kiệm ngoại tệ, giảm nhập siêu; tạm đình hoặc giảm nhập khẩu những mặt hàng đã sản xuất được ở trong nước. Thời hạn áp dụng biện pháp này cùng với việc giảm dần hàng rào thuế quan cần phải công bố cho các doanh nghiệp biết để không ngừng phấn đấu nâng cao sức cạnh tranh, không ỷ lại vào sự bảo hộ của nhà nước.

5- Về chính sách tài chính-tiền tệ.

Khẩn trương ban hành các quy định cụ thể, áp dụng các biện pháp kiểm tra và xử lý nghiêm minh trong việc thực hiện chủ trương tiết kiệm của Đảng và Nhà nước.

Tăng cường các biện pháp hành chính - kinh tế đồng bộ, từ khâu lập luận chứng kinh tế-kỹ thuật, thiết kế đến tổ chức thi công công trình để thực hiện tiết kiệm nghiêm ngặt trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước. Làm rõ trách nhiệm của các cấp có thẩm quyền và các cán bộ chịu trách nhiệm đối với từng công trình, từng hạng mục và xử lý kịp thời, nghiêm minh đối với bất cứ tổ chức, cá nhân nào có vi phạm.

Tiếp tục cụ thể hoá, công khai hoá và chỉ đạo thực hiện chặt chẽ các quy định tiết kiệm chi tiêu thường xuyên từ ngân sách. Chi ngân sách năm 1999 phải triệt để tiết kiệm ngay từ khi dự toán, giảm chi tiêu dùng để tăng vốn đầu tư phát triển; bố trí nguồn dự phòng cao hơn; tiếp tục thực hiện chủ trương tiết kiệm 10% dự toán đã được duyệt của các đối tượng hưởng ngân sách.

Ban Chấp hành Trung ương tán thành về nguyên tắc các biện pháp, các quy định về chi tiêu ngân sách nhà nước nhằm thực hành tiết kiệm, chống lãng phí do Ban cán sự đảng Chính phủ trình Trung ương và giao Bộ Chính trị xem xét, quyết định việc tổ chức thực hiện ngay trong năm 1999. Đồng thời cần tăng cường công tác kiểm tra, tạo điều kiện để nhân dân giám sát thực hiện, xử lý kịp thời và kiên quyết các vi phạm của tất cả các cơ quan và cá nhân. Các đồng chí Uỷ viên Trung ương, thủ trưởng các cơ quan thuộc Trung ương và địa phương phải gương mẫu thực hiện và chỉ đạo thực hiện nghiêm túc các quy định tiết kiệm của Đảng và Nhà nước.

Khai thác và tạo các nguồn thu cho ngân sách, khắc phục tình trạng để thất thoát lớn nhiều nguồn thu hiện nay. Tích cực chuẩn bị cho việc thi hành từ đầu năm 1999 hai luật thuế mới, nhất là thuế giá trị gia tăng, đồng thời có biện pháp ổn định hoạt động của các loại hình doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp phải nộp thuế nhiều hơn trước.

Hoàn chỉnh các văn bản quy phạm pháp luật thi hành Luật ngân hàng nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng. Củng cố, chấn chỉnh tổ chức và đổi mới hoạt động hệ thống ngân hàng, kiểm soát chặt chẽ hoạt động của các ngân hàng thương mại, sắp xếp và sáp nhập một số ngân hàng thương mại cổ phần hoạt động kém hiệu quả.

áp dụng các biện pháp để giảm tỉ lệ nợ khê đọng của các ngân hàng theo hướng nâng cao quyền hạn và trách nhiệm của ngân hàng đối với các dự án vay vốn; đối với việc xử lý tài sản thế chấp trong trường hợp các đơn vị vay mất khả năng trả nợ; có quy chế nghiêm ngặt đối với việc cho vay để "đảo nợ". Cần đánh giá rút kinh nghiệm thí điểm và mở rộng việc thành lập quỹ tín dụng nhân dân và các quỹ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, kinh tế hộ gia đình vay vốn sản xuất, kinh doanh. Xử lý thận trọng, linh hoạt tỷ giá hối đoái; duy trì sự ổn định tỷ giá hợp lý đi đôi với quản lý chặt chẽ các nguồn ngoại tệ; triệt để tiết kiệm chi ngoại tệ. Thực hiện quy định bắt buộc các doanh nghiệp bán ngoại tệ cho Nhà nước, song phải coi đó là biện pháp tình thế, cần sớm chuyển sang các biện pháp kinh tế cơ bản để ổn định lâu dài.

6- Về quan hệ sản xuất.

Năm 1999 phải tập trung chỉ đạo tốt một số việc :

- Sắp xếp các doanh nghiệp nhà nước bằng nhiều hình thức đã đề ra trong Nghị quyết Trung ương 4 khoá VIII; thực hiện có kết quả, đúng mục đích việc cổ phần hoá những doanh nghiệp được lựa chọn; tổng kết thực tiễn để kết luận về mô hình và cơ chế quản lý tổng công ty nhà nước; tháo gỡ những vướng mắc về thể chế, chính sách, trước hết là quy chế quản lý tài chính doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực doanh nghiệp nhà nước. Giao Bộ Chính trị chuẩn bị tổng kết toàn diện và ra nghị quyết về đường hướng và những biện pháp nâng cao vai trò và hiệu quả kinh tế nhà nước.

Tổng kết các hình thức kinh tế hợp tác và hợp tác xã để phát triển nhanh và vững chắc; thực hiện chính sách giúp đỡ hợp tác xã đã chuyển đổi hoặc mới thành lập hoạt động thiết thực, có hiệu quả. Sớm kết luận hình thức kinh tế trang trại ở các vùng, các địa bàn khác nhau nhằm phát huy hiệu quả sản xuất.

- Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những lĩnh vực mà pháp luật không cấm, khắc phục sự giảm sút của khu vực kinh tế này.

- Khuyến khích phát triển các hình thức liên doanh, liên kết giữa các thành phần kinh tế.

7- Về giải quyết việc làm và xoá đói, giảm nghèo.

Khuyến khích phát triển các ngành và cơ sở sử dụng nhiều lao động, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ; tổ chức tốt việc đưa lao động đi khai thác vùng đất trống, đồi núi trọc; trên cơ sở bảo đảm chất lượng và tiến độ thi công, tích cực dùng lao động thủ công trong xây dựng cơ bản, nhất là các công trình kết cấu hạ tầng.

Sửa đổi, bổ sung tuổi nghỉ hưu; xây dựng chính sách bảo hiểm thất nghiệp để tạo điều kiện cho các cơ quan, doanh nghiệp sắp xếp lao động theo yêu cầu nâng cao hiệu suất công tác, năng suất lao động.

Triển khai thực hiện chủ trương xuất khẩu lao động theo Nghị quyết Trung ương 4 khoá VIII và Chỉ thị của Bộ Chính trị.

Các chương trình quốc gia về phát triển kinh tế-xã hội ở nông thôn, chương trình xoá đói giảm nghèo phải ưu tiên nguồn vốn cho trên 1.700 xã đặc biệt khó khăn. Các cấp uỷ đảng, chính quyền, đoàn thể địa phương phải động viên nhân dân tích cực lao động sản xuất, biết sử dụng có hiệu quả vốn nhà nước hỗ trợ để làm ra của cải; ngân sách được giao chính quyền phải có kế hoạch cụ thể sử dụng nguồn vốn đó đầu tư có trọng điểm, giải quyết dứt điểm từng cụm dân cư; từng loại đối tượng, để hàng năm diện xã đói nghèo giảm đi rõ rệt. Việc phân bổ, sử dụng nguồn vốn này phải theo quy định chặt chẽ, công bố công khai cho dân biết và phải chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân.

V

Nâng cao chất lượng, hiệu lực lãnh đạo, chỉ đạo điều hành và tổ chức thực hiện, khắc phục tình trạng quan liêu, bệnh hình thức ở mọi cấp, mọi ngành, tạo chuyển biến thật sự về kỷ luật, kỷ cương trong đảng và bộ máy nhà nước.

1- Thực hiện nghiêm túc sinh hoạt tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII. Nâng cao năng lực lãnh đạo của các cấp uỷ đảng, tăng cường sự phối hợp công tác giữa các cơ quan nhà nước, các đoàn thể ở các cấp, từ Trung ương đến cơ sở dưới sự lãnh đạo thống nhất của cấp ủy đảng; nêu cao ý thức cộng đồng trách nhiệm, đồng thời phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan, tổ chức và cá nhân trong xử lý công việc; định kỳ kiểm điểm, đánh giá, xác định rõ công lao cũng như trách nhiệm tập thể, cá nhân để biểu dương và xử lý nghiêm những cá nhân, tập thể thiếu trách nhiệm hoặc làm sai quy định. Thực hiện nghiêm 3 pháp lệnh mới ban hành : Pháp lệnh công chức, Pháp lệnh chống tham nhũng, Pháp lệnh chống lãng phí thực hành tiết kiệm và các Nghị định phát huy dân chủ ở cơ sở.

2- Xúc tiến cải cách hành chính theo Nghị quyết Trung ương 3 khoá VIII, tập trung thực hiện có hiệu quả mấy việc chính :

- Chấn chỉnh tổ chức, giảm đầu mối, tinh giản biên chế, tăng cường kỷ luật, nâng cao hiệu lực chỉ đạo, điều hành của Chính phủ và toàn bộ hệ thống hành chính.

- Triển khai thực hiện quy chế dân chủ, kết hợp với củng cố chính quyền cơ sở.

- Ngăn chặn tệ quan liêu, nạn tham nhũng, nâng cao hiệu lực giải quyết khiếu kiện của dân đối với các quyết định hành chính, khắc phục tình trạng tồn đọng kéo dài.

3- Tạo sự thống nhất cao trong toàn Đảng, toàn dân về đánh giá tình hình đất nước, thấy rõ khó khăn và thuận lợi; trên cơ sở đó, phát động thi đua yêu nước, nêu cao tinh thần dân tộc, ý chí tự lực tự cường và trách nhiệm công dân, phát huy sức người, sức của, tài năng và trí tuệ của toàn dân thành sức mạnh tổng hợp để chủ động đối phó với mọi tình huống.

*

*       *

Ban Chấp hành Trung ương kêu gọi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nâng cao truyền thống đoàn kết, ý chí phấn đấu, không lùi bước trước khó khăn, thách thức, quyết tâm thực hiện bằng được các mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, đưa đất nước vững vàng vượt lên giành thắng lợi mới.

T/M BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG

TỔNG BÍ THƯ

Lê Khả Phiêu

 

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Các tin khác

Hướng dẫn kiểm tra, giám sát phục vụ đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng

(ĐCSVN) - Tại văn bản số 08-HD/UBKTTW ngày 18/11/2024, Ủy ban Kiểm tra Trung ương hướng dẫn công tác kiểm tra, giám sát phục vụ đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.

Phương án nghiên cứu sắp xếp, sáp nhập các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ

(ĐCSVN) - Theo phương án nghiên cứu sắp xếp, sáp nhập được Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Minh Hưng nêu tại Hội nghị toàn quốc sáng 1/12, sẽ tối thiểu giảm được 5 bộ, 2 cơ quan trực thuộc Chính phủ.

Phương án sáp nhập các ủy ban của Quốc hội và cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội

(ĐCSVN) - Sáng 1/12, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Minh Hưng thông báo chuyên đề về các nội dung chính, trọng tâm việc triển khai tổng kết Nghị quyết 18. Theo phương án định hướng được nêu sẽ giảm 4 ủy ban của Quốc hội và 1 cơ quan trực thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Phương án giảm 4 cơ quan Đảng, 25 ban cán sự đảng, 16 đảng đoàn trực thuộc Trung ương

(ĐCSVN) - Sáng 1/12, đồng chí Lê Minh Hưng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương đã trình bày các nội dung chính, trọng tâm việc triển khai tổng kết Nghị quyết 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII.

Quy trình kỷ luật đảng viên thuộc thẩm quyền của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư

(ĐCSVN) - Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường vừa ký Quyết định số 165-QĐ/TW ngày 6/6/2024 của Bộ Chính trị ban hành Quy trình xem xét, thi hành kỷ luật đối với tổ chức Đảng, đảng viên thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Liên kết website