Hiện nay, các thế lực thù địch đang ra sức xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác và phủ nhận những đóng góp của Ph. Ăng-ghen. Do đó, cần tiếp tục khẳng định công lao to lớn của Ph. Ăng-ghen trong việc bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ta hiện nay.
Ph. Ăng-ghen bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác thông qua lý luận và hoạt động thực tiễn
Năm 1844, tác phẩm đầu tiên của Ph. Ăng-ghen là “Phê phán chính trị kinh tế học” được đăng trên tờ “Niên giám Pháp - Đức”. Đây được coi là tác phẩm mở đầu cho tư duy phê phán của Ph. Ăng-ghen khi xem xét những tư tưởng về chính trị, kinh tế của các nhà tư tưởng cùng thời. Điều này được C. Mác, người chủ của tờ “Niên giám Pháp - Đức” lúc bấy giờ, đánh giá rất cao và coi đây là “một cuốn đại cương tài tình về khoa học chính trị của giai cấp vô sản”. Có thể nói, đây cũng chính là mối lương duyên cho cuộc gặp gỡ và tình bạn vĩ đại của C. Mác và Ph. Ăng-ghen sau này. Cuối năm 1844, Ph. Ăng-ghen sang Đức gặp C. Mác. Dù đây là lần đầu gặp nhau nhưng hai ông nhanh chóng có những điểm tương đồng về lập trường, tư tưởng. Sau đó, Ph. Ăng-ghen cùng với C. Mác viết chung một loạt tác phẩm tiêu biểu, như “Gia đình thần thánh” (năm 1845), “Hệ tư tưởng Đức” (năm 1846), “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” (năm 1848), “Cách mạng và phản cách mạng ở Đức” (năm 1851 - 1852),…
|
C. Mác và Ph. Ăng-ghen _Tranh: Tư liệu |
Ngoài việc đồng hành cùng C. Mác, Ph. Ăng-ghen còn tự tìm cho mình một hướng nghiên cứu riêng là khoa học tự nhiên và nâng cao khả năng ngoại ngữ. Đó là tiền đề để Ph. Ăng-ghen là tác giả của một số tác phẩm nổi tiếng, như “Biện chứng của tự nhiên” (năm 1873 - 1883), “Tác dụng của lao động trong việc chuyển biến từ vượn thành người” (năm 1876), “Chống Đuy-rinh” (năm 1877), “Nguồn gốc của gia đình, chế độ tư hữu và nhà nước” (năm 1883), “Lút-vích Phoi-ơ-bắc và sự cáo chung và triết học cổ điển Đức” (năm 1888)….
Trong các tác phẩm của mình, Ph. Ăng-ghen bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác trên những phương diện cơ bản như sau:
Thứ nhất, xây dựng và phát triển chủ nghĩa Mác trên cả ba bộ phận cấu thành là triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học.
Trong lĩnh vực triết học, cũng như C. Mác, Ph. Ăng-ghen tuy xuất thân từ phái Hê-ghen trẻ nhưng ông có công lao to lớn trong việc xây dựng chủ nghĩa duy vật biện chứng thông qua những nguyên lý, quy luật, phạm trù của phép biện chứng duy vật. Mặc dù khẳng định những quan điểm duy vật lịch sử là một trong hai phát kiến vĩ đại của C. Mác, nhưng Ph. Ăng-ghen cũng có công rất lớn trong việc cung cấp những luận chứng thuyết phục để chứng minh tính chất duy vật triệt để của học thuyết Mác trong lĩnh vực lịch sử, xã hội; làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên hoàn bị và là “công cụ nhận thức vĩ đại” của con người. Đặc biệt, bằng việc chỉ ra những quy luật của giới tự nhiên, Ph. Ăng-ghen không chỉ khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới mà còn làm sáng tỏ thêm mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên. Từ đó, Ph. Ăng-ghen đã cùng với C. Mác xây dựng được một hệ thống lý luận triết học hoàn chỉnh với những quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Trong lĩnh vực kinh tế chính trị học, Ph. Ăng-ghen đã chứng tỏ là một nhà kinh tế học xuất sắc khi chỉ ra được những quy luật vận động của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, bóc trần bản chất bóc lột giá trị thặng dư của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Đặc biệt, khi giúp C. Mác hoàn thành nốt những tập bản thảo còn dang dở của bộ “Tư bản”, Ph. Ăng-ghen cũng góp phần quan trọng trong việc luận giải những tư tưởng lớn của C. Mác về đặc trưng của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Trong lĩnh vực chủ nghĩa xã hội khoa học, với những trải nghiệm trong thời gian dài ở các nước Anh, Pháp, Đức, cùng thời gian cộng tác với C. Mác, Ph. Ăng-ghen đã tạo lập và hoàn thiện những quan điểm về chủ nghĩa xã hội khoa học, mà linh hồn của lý luận đó là làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân - giai cấp có khả năng tổ chức và lãnh đạo xã hội thông qua đảng cộng sản, tiến hành cải biến xã hội từ xã hội tư bản chủ nghĩa sang xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa trên phạm vi từng nước và trên toàn thế giới. Nhờ có lý luận này, giai cấp công nhân đã từng bước bước lên vũ đài chính trị và xác lập được vai trò to lớn của mình. Cùng với C. Mác, Ph. Ăng-ghen có công lao trong việc cung cấp những luận cứ thuyết phục để biến chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành chủ nghĩa xã hội khoa học. Vì vậy, “những chiến lược, sách lược cho cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và sự hình thành các chính đảng vô sản mà ông đưa ra trong những năm tháng cuối cùng của cuộc đời hoạt động lý luận và thực tiễn cách mạng của ông là một cống hiến lớn vào kho tàng chủ nghĩa xã hội khoa học”(1).
Như vậy, có thể nói, “chủ nghĩa Mác trên tất cả các phương diện cấu thành của nó, từ nội dung đến phương pháp, từ những mầm mống đầu tiên đến khi có một diện mạo trưởng thành, từ những luận chiến đanh thép để tự bảo vệ trước những đòn tấn công, xuyên tạc của kẻ thù cho đến những tổng kết thực tiễn đặc sắc và những dự báo khoa học về xã hội tương lai đều in đậm dấu ấn những đóng góp kiệt xuất của Ph. Ăng-ghen”(2).
Thứ hai, không ngừng bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện thực tiễn đã có nhiều thay đổi.
Cũng như C. Mác, Ph. Ăng-ghen luôn khẳng định hệ thống lý luận do các ông xây dựng lên có tính phê phán. Tính phê phán đó không chỉ bao hàm sự phê phán đối với các nhà tư tưởng có quan điểm phiến diện, sai lầm về thế giới khách quan, mà còn bao hàm cả sự phê phán đối với chính tư tưởng của các ông qua mỗi thời kỳ lịch sử. Do đó, Ph. Ăng-ghen không bao giờ coi lý luận của mình cũng như của C. Mác là học thuyết hoàn hảo, là chân lý vĩnh hằng và buộc mọi người phải rập khuôn, sao chép, mà luôn đòi hỏi phải phát triển lý luận ấy thông qua nghiên cứu và tổng kết thực tiễn. Chẳng hạn, với tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, ông và C. Mác chỉ rõ, nếu được viết lại thì cũng cần bổ sung và yêu cầu những người cộng sản “bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp dụng những nguyên lý đó phải tùy theo hoàn cảnh lịch sử đương thời, và do đấy, không nên quá câu nệ vào những biện pháp cách mạng nêu ra ở cuối chương II”(3). Đó là lý do giải thích tại sao trong khoảng hơn 20 năm (1872 - 1893), ông cùng C. Mác đã 7 lần viết “Lời tựa” cho những lần tái bản tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”. Sau khi C. Mác qua đời (năm 1883), những “Lời tựa” cho những lần xuất bản kế tiếp của “Tuyên ngôn” chỉ còn một mình Ph. Ăng-ghen đứng tên. Những “Lời tựa” đó chính là sự bổ sung, phát triển tư tưởng của “Tuyên ngôn” trên quan điểm thực tiễn, lịch sử - cụ thể và phát triển, làm cho “Tuyên ngôn” trở thành tác phẩm kiểu mẫu của việc bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác bằng thực tiễn sinh động, mà chính Ph. Ăng-ghen là người tiên phong đi đầu.
Thứ ba, đấu tranh không khoan nhượng với những phe phái phi mác-xít để bảo vệ chủ nghĩa Mác.
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, cũng như C. Mác, Ph. Ăng-ghen nhiều lần bị chính quyền tư sản các nước trục xuất, kiện ra tòa vì tội “nói xấu”, “phỉ báng” chính quyền. Không chỉ có vậy, tư tưởng của các ông luôn bị chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa xét lại xuyên tạc, bôi nhọ, phản bác. Vì vậy, bên cạnh việc viết những tác phẩm có tính chất tuyên ngôn hay chính sự, lý luận thuần túy, Ph. Ăng-ghen còn viết một số tác phẩm bút chiến để vạch trần các luận điệu xuyên tạc, lừa bịp của những kẻ cơ hội, tư sản, trong đó, tiêu biểu nhất là tác phẩm“Chống Đuy-rinh”. Với tác phẩm này, Ph. Ăng-ghen đã trình bày một cách có hệ thống những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác và qua đó, không chỉ nhằm bảo vệ chủ nghĩa Mác, mà còn phát triển nó lên một tầm cao mới. Một điều đáng trân trọng là trong bất cứ điều kiện, tình huống nào, Ph. Ăng-ghen cũng luôn tuyệt đối trung thành với hệ tư tưởng mà ông và C. Mác đã xây dựng.
Ph. Ăng-ghen đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác không chỉ trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, mà còn thông qua hoạt động thực tiễn rất sôi nổi và tích cực trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Cùng với C. Mác, Ph. Ăng-ghen đấu tranh không khoan nhượng chống lại những khuynh hướng cải lương và biệt phái (của Pru-đông, Lát-xan, Bac-u-nin...) để thống nhất hàng ngũ quốc tế cộng sản. Ngoài ra, Ph. Ăng-ghen là người đỡ đầu của Đảng Dân chủ Xã hội Đức và có ảnh hưởng to lớn đến hoạt động của đảng này. Những nhà xã hội chủ nghĩa ở Pháp, Áo, Hung-ga-ry, Anh, Ba Lan, Tây Ban Nha, I-ta-ly, Nga, Hà Lan và ở nhiều nước khác đều nhận được sự giúp đỡ vô giá của Ph. Ăng-ghen. Vì vậy, đúng như V.I. Lê-nin nhận xét: “Sau bạn ông là C. Mác (mất năm 1883), Ph. Ăng-ghen là nhà bác học và người thầy lỗi lạc nhất của giai cấp vô sản hiện đại trong toàn thế giới văn minh”(4). Từ những đóng góp to lớn của mình đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Ph. Ăng-ghen xứng danh là “người thầy vĩ đại” của giai cấp công nhân toàn thế giới.
Có thể thấy, Ph. Ăng-ghen không chỉ cùng C. Mác xây dựng nên những nguyên lý của chủ nghĩa Mác, mà còn có công lao to lớn trong việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác, bất chấp mọi sự xuyên tạc, công kích của các thế lực thù địch. Vì thế, không thể nói rằng: “Ph. Ăng-ghen chỉ là người đi sau C. Mác” hay “hệ thống lý luận chỉ được đứng tên C. Mác, không có tên Ph. Ăng-ghen”,… Những quan điểm đó là sự xuyên tạc, bóp méo và cố tình phủ nhận những công lao to lớn của Ph. Ăng-ghen đối với sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa Mác. Đúng như V.I. Lê-nin khẳng định: “Không thể nào hiểu được chủ nghĩa Mác và trình bày đầy đủ được chủ nghĩa Mác, nếu không chú ý đến toàn bộ những tác phẩm của Ph. Ăng-ghen”(5).
Những kinh nghiệm của Ph. Ăng-ghen trong đấu tranh bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác gợi mở cho việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ta hiện nay
Việc Ph. Ăng-ghen đấu tranh để bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác có nhiều nét tương đồng với cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ta hiện nay. Đó đều là cuộc đấu tranh của những người mác-xít nhằm bảo vệ những giá trị cốt lõi, bền vững của chủ nghĩa Mác. Nếu ở thời đại của Ph. Ăng-ghen, chủ nghĩa Mác chính là nền tảng tư tưởng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế ở nhiều nước châu Âu, thì ngày nay, chủ nghĩa Mác là cấu phần quan trọng trong nền tảng tư tưởng của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Việc Ph. Ăng-ghen ra sức đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác đã để lại những kinh nghiệm quý giá mà chúng ta cần tiếp thu, kế thừa và vận dụng vào việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay.
Một là, trong bất cứ điều kiện và tình huống nào, phải luôn giữ vững lập trường, quan điểm mác-xít, có thái độ kiên quyết, triệt để đối với âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch.
Thực tiễn cho thấy, ngay sau khi chủ nghĩa Mác ra đời, các phe phái phi mác-xít liên tục tấn công bằng nhiều hình thức, phương pháp khác nhau. Do đó, Ph. Ăng-ghen và sau này là V.I. Lê-nin luôn giữ vững lập trường của người cộng sản chân chính, đấu tranh không khoan nhượng với những tư tưởng phi mác-xít, bảo vệ chủ nghĩa Mác bằng mọi cách. Tinh thần đấu tranh đó cho thấy bản lĩnh kiên định, vững vàng của Ph. Ăng-ghen. Sự kiên định về lập trường tư tưởng cũng chính là ngọn lửa thử vàng, là nguyên tắc tối cao của cán bộ, đảng viên ở Việt Nam hiện nay trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch. Nếu không có bản lĩnh ấy, chúng ta rất dễ bị lung lay bởi sự xuyên tạc, công kích của các thế lực thù địch.
Thực tiễn hoạt động cách mạng của Ph. Ăng-ghen cho thấy, ông luôn có thái độ rõ ràng, cứng rắn, kiên định trước mọi sự tấn công của các phe phái phi mác-xít, nhất là của chủ nghĩa cơ hội dưới các hình thức khác nhau. Do đó, bất chấp các luận điệu công kích, xuyên tạc của các thế lực thù địch, nhất là sau khi C. Mác qua đời, Ph. Ăng-ghen vẫn luôn giữ vững bản lĩnh kiên định của những người mác-xít chân chính. Sự kiên định đó của Ph. Ăng-ghen là bài học kinh nghiệm quý giá cho chúng ta trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay.
Hai là, phải luôn kết hợp giữa việc khẳng định những giá trị đúng đắn, trường tồn với việc bổ sung, phát triển những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Cũng như C. Mác, Ph. Ăng-ghen không coi lý luận do các ông xây dựng là hoàn chỉnh, là công cụ vạn năng, nên trong quá trình xây dựng hệ thống lý luận của mình, cả C. Mác và Ph. Ăng-ghen không ngừng bổ sung, phát triển những nguyên lý, luận điểm của hệ thống đó cho phù hợp với thực tiễn. Các ông cũng luôn kêu gọi những người mác-xít khi vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác cần tránh tư tưởng dập khuôn, máy móc, giáo điều, bởi điều đó tất yếu dẫn đến những sai lầm. Kế thừa tinh thần đó của Ph. Ăng-ghen, để bảo vệ thành công nền tảng tư tưởng của Đảng ta, cần kết hợp cùng một lúc cả hai quá trình. Một mặt, tiếp tục khẳng định, lan tỏa những giá trị cốt lõi, trường tồn của chủ nghĩa Mác - Lê-nin; mặt khác, không ngừng bổ sung, phát triển những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin cho phù hợp với thực tiễn. Đây là hai mặt của một nhiệm vụ, vừa là sự bảo vệ, kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, vừa bao hàm trong đó sự bổ sung, phát triển theo quan điểm biện chứng. Khi tổng kết thực tiễn 30 năm đổi mới đất nước, Đảng ta coi sự kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin là bài học kinh nghiệm đầu tiên, có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc: “Trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào cũng phải luôn kiên định với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, coi đó là nền tảng tư tưởng của Đảng, là kim chỉ nam cho mọi hành động”(6). Điều này tiếp tục được Đảng ta nhấn mạnh thêm ở Đại hội XIII: “Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh”(7). Đây được coi là một trong những vấn đề “mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động”(8). Nguyên tắc này là điều kiện tất yếu bảo đảm cho sự thắng lợi của cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay. Bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin không phải là “xét lại” hoặc “quy kết” nó như nhiều người lầm tưởng, mà là làm cho nó ngày càng “thêm da thêm thịt” và có thêm sức sống mới từ thực tiễn sinh động. Điều này đã được V.I. Lê-nin - người kế tục xuất sắc sự nghiệp của C. Mác và Ph. Ăng-ghen, chỉ rõ: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”(9).
Cho đến nay, công cuộc đổi mới đất nước đã trải qua 35 năm tuy còn nhiều khó khăn, thử thách nhưng đã đạt được những thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ còn nhiều diễn biến phức tạp. Đặc biệt, “các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước và đất nước ta”(10), “Sự chống phá của các thế lực thù địch, tổ chức phản động ngày càng tinh vi hơn”(11). Đây được nhận định là một trong những nguy cơ đe dọa trực tiếp đến sư tồn vong của Đảng, của chế độ ta. Tại Đại hội Đảng lần thứ XIII, Đảng ta đã chỉ rõ, một mặt phải kiên định, vững vàng với nền tảng tư tưởng của Đảng; mặt khác phải không ngừng bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong bối cảnh mới: “Kiên định, vững vàng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời không ngừng bổ sung, phát triển sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam”(12).
Ba là, phải có nội dung và phương thức đấu tranh phù hợp với từng giai đoạn lịch sử.
Ngay từ khi ra đời, chủ nghĩa Mác luôn vấp phải sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, với nhiều âm mưu, thủ đoạn khác nhau. Do đó, trong mỗi thời điểm, giai đoạn lịch sử, Ph. Ăng-ghen có những nội dung, cách thức đấu tranh khác nhau để bảo vệ chủ nghĩa Mác. Khi thì ông đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận bằng những tác phẩm luận chiến, bút chiến; lúc lại đấu tranh bằng hoạt động thực tiễn khi lãnh đạo phong trào cách mạng vô sản thông qua tổ chức Quốc tế Cộng sản. Vì thế, song song với quá trình xây dựng, phát triển những nguyên lý của chủ nghĩa Mác là quá trình Ph. Ăng-ghen hoạt động thực tiễn cách mạng, giúp cho những nguyên lý của chủ nghĩa Mác ngày càng thâm nhập vào đời sống của giai cấp công nhân, trở thành vũ khí lý luận sắc bén của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh bảo vệ lợi ích của mình và lợi ích của nhân dân lao động.
Quá trình đấu tranh đó của Ph. Ăng-ghen gợi mở cho chúng ta một bài học kinh nghiệm quý giá, đó là cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở Việt Nam hiện nay cũng cần có những nội dung, phương thức phù hợp với từng thời điểm, giai đoạn nhất định. Trong giai đoạn hiện nay, các thế lực thù địch đang ra sức lợi dụng in-tơ-nét, mạng xã hội để chống phá, xuyên tạc nền tảng tư tưởng của Đảng, bởi vậy, ngoài hình thức đấu tranh truyền thống (viết bài đăng tải trên các sách, báo, tạp chí), chúng ta cần bổ sung những hình thức đấu tranh khác như, đấu tranh trên không gian mạng bằng những bài viết lý luận chuyên sâu hoặc xây dựng những tin, bài, video, clip, hình ảnh… để đăng tải trên các phương tiện truyền thông và mạng xã hội. Cùng với đó, phải đoàn kết, tập hợp lực lượng ở trong Đảng và ngoài Đảng, trong giới nghiên cứu lý luận nói riêng và giới nghiên cứu khoa học xã hội nói chung, đồng thời, phối hợp với cả những nhà mác-xít chân chính ở nước ngoài, bởi đây là cuộc đấu tranh có ý nghĩa sống còn đối với việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của đảng cộng sản chân chính nói chung, của Đảng ta nói riêng. Điều này từng được V.I. Lê-nin chỉ rõ như sau: “Không có việc gì quan trọng bằng việc đoàn kết tất cả những người mác-xít hiểu rõ tính chất sâu sắc của cuộc khủng hoảng và hiểu rõ sự tất yếu phải khắc phục cuộc khủng hoảng ấy để bảo vệ những cơ sở lý luận và những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác”(13). “Cuộc khủng hoảng” mà V.I. Lê-nin nhắc đến ở đây là sự “khủng hoảng” về tư tưởng của những người mác-xít khi bị các thế lực thù địch công kích, chống phá. Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ trước là một trong những lý do chính khiến các thế lực thù địch ngày càng điên cuồng chống phá nền tảng tư tưởng của các đảng cộng sản. Song đó cũng là lý do quan trọng dẫn đến việc các đảng cộng sản phải tăng cường đoàn kết, siết chặt đội ngũ trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của mình./.
--------------------------
(1) Đoàn Minh Huấn, Nguyễn Chí Hiếu: “Tư tưởng của Ph. Ăng-ghen về vai trò của lý luận đối với chính đảng vô sản và ý nghĩa trong công tác phát triển lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học kỷ niệm 195 năm ngày sinh của Ph. Ăng-ghen: “Giá trị tư tưởng Ph. Ăng-ghen trong thời đại ngày nay”, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2016, tr. 278
(2) Hoàng Chí Bảo: “Cống hiến vĩ đại của Ph. Ăng-ghen trong lịch sử chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa xã hội”, trong sách “Giá trị tư tưởng của Ph. Ăng-ghen trong thời đại ngày nay”, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2016, tr. 26
(3) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t. 18, tr. 128
(4) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, 2005, t. 2, tr. 3
(5) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 26, tr. 110
(6) Ban Tuyên giáo Trung ương: 30 năm đổi mới đất nước - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 16
(7), (8) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. 1, tr. 33
(9) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 232
(10) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. 1, tr. 108
(11) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. 2, tr. 164
(12) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. 1, tr. 40-41
(13) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 20, tr. 104
TS. Lê Thị Chiên, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh