(ĐCSVN)- Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam trân trọng giới thiệu bài viết của đồng chí Nguyễn Sinh Hùng, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ.
Qua các giai đoạn cách mạng của nước ta, nông dân luôn là lực lượng hùng hậu nhất đi theo Ðảng, đóng góp vô cùng to lớn về tinh thần và sức lực, tính mạng và của cải, vượt qua muôn vàn hy sinh, gian khổ, góp phần làm nên những trang sử vẻ vang của dân tộc.
Thực tiễn xây dựng, bảo vệ Tổ quốc cũng như quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đều khẳng định tầm vóc chiến lược của vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Chính vì vậy, Ðảng ta luôn đặt nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở vị trí chiến lược quan trọng, coi đó là cơ sở và lực lượng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái.
Mốc son khởi đầu thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước được xác định là Ðại hội VI của Ðảng (tháng 12-1986). Nhưng những bước đi đầu tiên trong cải tiến cơ chế quản lý đã cho thấy sự xuất hiện sớm hơn của tư duy mới, cách làm mới trong lĩnh vực kinh tế, trong đó có Chỉ thị 100 (tháng 10-1981) của Ban Bí thư T.Ư Ðảng về khoán sản phẩm trong nông nghiệp, về thay đổi cách chỉ đạo, tổ chức sản xuất, quản lý hợp tác xã nông nghiệp, đã đem lại niềm phấn khởi và khí thế mới ở nông thôn, giải phóng sức sản xuất cho hàng triệu nông dân.
Trên cơ sở thắng lợi của cơ chế Khoán 100 (khoán đến nhóm và người lao động), ngày 5-4-1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 10 về Ðổi mới cơ chế quản lý kinh tế trong nông nghiệp, trong đó xác định rõ vai trò của kinh tế hộ, coi hộ gia đình xã viên hợp tác xã nông nghiệp là đơn vị kinh tế tự chủ, được giao quyền sử dụng ruộng đất...
Tác dụng của cơ chế Khoán 10 cùng với những thành tựu về thủy lợi, cải tạo giống, thâm canh tăng năng suất ở đồng bằng Bắc Bộ và mở rộng diện tích đất canh tác ở đồng bằng sông Cửu Long đã đưa nền nông nghiệp Việt Nam sang trang sử mới. Từ chỗ thiếu ăn triền miên, đến năm 1988 vẫn còn phải nhập khẩu hơn 450.000 tấn gạo, nhưng từ năm 1989, Việt Nam vừa bảo đảm nhu cầu lương thực trong nước, có dự trữ, vừa xuất khẩu gạo mỗi năm từ 1 đến 1,5 triệu tấn và tiến dần lên tới 4 đến 4,5 triệu tấn như hiện nay...
Các văn kiện Ðại hội lần thứ VII, VIII, IX của Ðảng và nhiều chỉ thị, nghị quyết hội nghị trung ương trong các nhiệm kỳ đó đều thể hiện rõ chủ trương chiến lược nhất quán đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn, từng bước xác định ý nghĩa và tầm quan trọng của việc phát triển toàn diện kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới, tiến đến khẳng định thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và xây dựng nông thôn mới, đưa nông nghiệp và kinh tế nông thôn lên sản xuất lớn là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng cả trong trước mắt và lâu dài.
Ðại hội X của Ðảng đã nhấn mạnh "Hiện nay và trong nhiều năm tới, vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng"; "Ðẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân".
Quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối và các nghị quyết nêu trên cũng phản ánh rõ tiến trình liên tục phát triển và hoàn thiện của Ðảng, Nhà nước và toàn xã hội cả về tư duy, nhận thức, cơ chế, chính sách và các giải pháp đối với vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn.
Quá trình đó cũng góp phần khẳng định rằng: Phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần nông dân là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, trong đó có chính nông dân - lực lượng hợp thành hùng hậu với truyền thống yêu nước, cần cù, sáng tạo, trung thành, với sức mạnh dời non, lấp biển dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Ðảng - đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và toàn dân tộc.
Trên cơ sở nhìn lại hơn 20 năm đổi mới của đất nước và phân tích thực trạng nông nghiệp, nông dân, nông thôn từ năm 2000 đến nay, Hội nghị T.Ư 7 vừa qua đã tập trung trí tuệ, thảo luận sôi nổi, thẳng thắn, dân chủ và nhất trí thông qua Nghị quyết "Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn" với những nội dung cơ bản như sau:
Về đánh giá thực trạng, Nghị quyết khẳng định kết quả đạt được trong phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân nước ta trong những năm vừa qua là khá toàn diện và to lớn, khái quát thành năm thành tựu:
Một là, nông nghiệp tiếp tục phát triển với nhịp độ khá cao theo hướng tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia; xuất khẩu nông, lâm thủy sản tăng nhanh; trình độ khoa học - công nghệ được nâng cao hơn. Ðáng chú ý là giá trị xuất khẩu nông lâm thủy sản tăng bình quân 16,8%/năm, năm 2007 chiếm 26% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, một số sản phẩm có vị thế cao trên thị trường thế giới, như gạo, cao-su, cà-phê, hồ tiêu, hạt điều, đồ gỗ, thủy sản.
Hai là, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn được tăng cường, nhất là thủy lợi, giao thông, góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất, từng bước làm thay đổi bộ mặt nông thôn. Nổi bật là sự quan tâm đầu tư phát triển thủy lợi theo hướng đa mục tiêu; từ năm 2000 đến nay đã tăng nhanh cả năng lực tưới và năng lực tiêu, bảo đảm tưới tiêu chủ động cho 83% diện tích gieo trồng lúa, một số cây trồng khác và cấp nước cho sinh hoạt, công nghiệp, dịch vụ. Hệ thống đê sông, đê biển được củng cố, nâng cấp một bước, nhiều công trình tiêu thoát lũ và trên 1.100 cụm tuyến dân cư ở đồng bằng sông Cửu Long được xây dựng và phát huy tác dụng...
Ba là, các hình thức tổ chức sản xuất ở nông thôn tiếp tục được đổi mới; kinh tế nông thôn phát triển theo hướng tăng công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề góp phần tạo việc làm và tăng thu nhập cho cư dân nông thôn.
Bốn là, đời sống vật chất, tinh thần của cư dân các vùng nông thôn ngày càng được cải thiện; xóa đói giảm nghèo đạt thành tựu to lớn. Năm 2007 thu nhập bình quân đầu người ở khu vực này tăng 2,7 lần so với năm 2000, đặc biệt là về cơ bản đã xóa được đói, tỷ lệ hộ nghèo hạ xuống còn 18%, thành tựu này được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Ðồng thời, các công tác chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh, phổ cập giáo dục, văn hóa, thông tin, thể thao cũng được quan tâm và đẩy mạnh hơn.
Năm là, hệ thống chính trị ở nông thôn do Ðảng lãnh đạo được tăng cường; dân chủ cơ sở được phát huy; vị thế giai cấp nông dân được nâng cao; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Ðến nay, 89% số thôn, bản có tổ chức đảng, 56% cán bộ công chức xã được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ và quản lý.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng với các đoàn thể quần chúng góp phần tích cực giải quyết nhiều vấn đề ở nông thôn... Nông dân chiếm 54% tổng số lao động cả nước, là lực lượng lớn mạnh với trình độ giác ngộ chính trị và kiến thức kinh tế, kỹ thuật đã được nâng lên, cho nên vẫn luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Ðảng, xây dựng xã hội nông thôn ổn định dù có lúc khó khăn, tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp.
Tuy nhiên, Nghị quyết cũng chỉ rõ năm yếu kém, khuyết điểm: Nông nghiệp phát triển kém bền vững, tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần, sức cạnh tranh thấp, chưa phát huy tốt các nguồn lực; chuyển dịch cơ cấu và đổi mới cách thức sản xuất còn chậm, phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ. Công nghiệp, dịch vụ nông thôn phát triển chậm chưa thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động ở nông thôn.
Các hình thức tổ chức sản xuất ở nông thôn đổi mới chậm, chưa đủ sức phát triển mạnh sản xuất hàng hóa. Nông thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn yếu kém, môi trường ngày càng ô nhiễm, năng lực thích ứng, đối phó với thiên tai thấp. Ðời sống vật chất và tinh thần của cư dân nông thôn còn thấp, chênh lệch giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng còn lớn, tỷ lệ hộ nghèo còn cao; phát sinh một số vấn đề xã hội bức xúc.
Về quan điểm, mục tiêu, giải pháp đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong giai đoạn mới, Nghị quyết đã nêu rõ:
Bốn quan điểm, trong đó nhấn mạnh: Trong lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng như trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nông nghiệp, nông dân, nông thôn luôn có vị trí chiến lược quan trọng, là cơ sở và lực lượng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái. Trong mối quan hệ mật thiết nông nghiệp, nông dân và nông thôn, nông dân là chủ thể của quá trình phát triển. Phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống nông dân là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải dựa trên cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện từng vùng và cả nước.
Ba mục tiêu tổng quát, gồm:
- Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, hài hòa giữa các vùng, đặc biệt tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các vùng còn nhiều khó khăn; nông dân có trình độ sản xuất ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị giữ vai trò làm chủ nông thôn mới.
- Xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại hóa, bền vững, sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài.
- Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; nâng cao sức mạnh của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Ðảng; xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nông và đội ngũ trí thức thành nền tảng bền vững bảo đảm thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sáu mục tiêu cụ thể đến năm 2020 phải đạt được (khi nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại) là: Tốc độ tăng trưởng nông lâm thủy sản đạt 3,5-4%/năm, duy trì diện tích trồng lúa đủ bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia trước mắt và lâu dài; kết hợp nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề nông thôn giải quyết cơ bản việc làm, nâng cao thu nhập của cư dân nông thôn gấp hơn 2,5 lần so với hiện nay. Lao động nông nghiệp còn khoảng 30% trong tổng lực lượng lao động, tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo đạt trên 50%.
Thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, 50% số xã đạt tiêu chuẩn. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội bảo đảm tưới tiêu chủ động cho toàn bộ diện tích đất lúa hai vụ, hơn 3 triệu ha rau màu, 0,65 triệu ha nuôi trồng thủy sản, diện tích làm muối; giao thông thông suốt bốn mùa tới tất cả các xã và có đường ô-tô tới thôn, bản; cấp điện sinh hoạt tới hầu hết dân cư, các cơ sở công nghiệp và dịch vụ; đảm bảo cơ bản điều kiện học tập, chữa bệnh, sinh hoạt văn hóa, thể dục thể thao ở hầu hết các vùng tiến gần tới mức ở các đô thị trung bình.
Nâng cao chất lượng cuộc sống của cư dân nông thôn; đẩy mạnh giảm nghèo; nâng cao trình độ giác ngộ và vị thế chính trị của giai cấp nông dân, tạo điều kiện để nông dân tham gia đóng góp và hưởng lợi nhiều hơn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nâng cao năng lực phòng chống, giảm nhẹ thiên tai, hoàn chỉnh hệ thống cơ sở hạ tầng tạo điều kiện sống an toàn cho nhân dân vùng đồng bằng sông Cửu Long, miền trung và các vùng thường xuyên bị ngập lũ khác; thực hiện một bước các biện pháp thích ứng và đối phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, hoàn chỉnh hệ thống đê sông, đê biển và rừng phòng hộ ven biển đáp ứng yêu cầu ngăn mặn và chống nước biển dâng, gió bão cấp 9-10, tần suất 5%; ngăn chặn và từng bước cải thiện tình trạng ô nhiễm môi trường.
Trước mắt, từ nay đến năm 2010 phải: Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong phát triển sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nâng cao đời sống nông dân, triển khai một bước công tác xây dựng nông thôn mới; tăng cường nghiên cứu và chuyển giao khoa học - công nghệ, tạo bước đột phá trong đào tạo nhân lực. Tăng cường công tác xóa đói giảm nghèo, đặc biệt là ở 58 huyện còn hơn 50% hộ nghèo, tập trung giải quyết các vấn đề bức xúc, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn. Ðạt tốc độ tăng trưởng nông, lâm, thủy sản 3-3,5%/năm, tốc độ tăng trưởng công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn không thấp hơn mức bình quân của cả nước. Lao động nông nghiệp còn dưới 50% lao động xã hội. Giảm tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới. Tăng tỷ lệ dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch lên 75%; tăng tỷ lệ che phủ rừng.
Những chủ trương, giải pháp: Ðể bảo đảm đạt được những mục tiêu và chỉ tiêu nêu trên, Nghị quyết đã xác định rõ tám nhóm chủ trương, giải pháp cần tập trung chỉ đạo thực hiện, trong đó đặc biệt lưu ý các giải pháp:
- Về quy hoạch: Hoàn thành việc rà soát, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch đất đai, quy hoạch phát triển nông, lâm, ngư nghiệp; công nghiệp, khu công nghiệp và quy hoạch chuyên ngành theo vùng. Quy hoạch xây dựng nông thôn gắn với phát triển đô thị.
- Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn hiện đại, gắn với phát triển các đô thị: Phát triển thủy lợi theo hướng đa mục tiêu, hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lý thủy lợi có hiệu quả, nâng hiệu suất sử dụng các công trình thủy lợi lên 80%. Phát triển giao thông nông thôn gắn với mạng lưới giao thông quốc gia tạo điều kiện thuận lợi cho lưu thông hàng hóa tới mọi vùng trong cả nước. Bố trí lại dân cư nông thôn gắn với việc quy hoạch xây dựng công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị.
- Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của cư dân nông thôn, nhất là vùng khó khăn. Giải quyết việc làm cho nông dân là nhiệm vụ ưu tiên xuyên suốt trong mọi chương trình phát triển kinh tế - xã hội: định rõ chính sách bảo đảm việc làm cho nông dân ở các vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất gắn với kế hoạch phát triển của địa phương; đẩy mạnh xuất khẩu lao động từ nông thôn; triển khai kế hoạch hợp tác sản xuất nông nghiệp với một số quốc gia có nhu cầu.
- Ðổi mới và xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất, dịch vụ có hiệu quả ở nông thôn, như: Hỗ trợ kinh tế hộ phát triển sản xuất hàng hóa theo mô hình gia trại, trang trại. Hợp tác xã phải làm tốt các dịch vụ "đầu vào, đầu ra", kể cả chế biến, tiêu thụ sản phẩm cho nông dân. Ðổi mới căn bản việc tổ chức quản lý nông, lâm trường quốc doanh; nơi nào đã giao khoán ổn định đất, vườn cây cho người lao động thì nông trường chuyển mạnh sang làm tốt các dịch vụ cho người nhận khoán và nông dân trong vùng, nhất là hướng dẫn kỹ thuật, dịch vụ vật tư, tiêu thụ và chế biến sản phẩm.
Nơi nào chưa giao khoán đất, vườn cây ổn định, mới khoán theo công đoạn hoặc trả lương theo sản phẩm mới khoán theo công đoạn hoặc trả lương theo sản phẩm thì tiến hành cổ phần hóa. Tạo môi trường thật sự thuận lợi để hình thành và phát triển mạnh loại hình doanh nghiệp nông thôn, nhất là các doanh nghiệp có đầu tư sản xuất, chế biến nông lâm thủy sản, sử dụng nguyên liệu và thu hút nhiều lao động tại chỗ... Phát triển mạnh doanh nghiệp công nghiệp phục vụ nông nghiệp.
- Ðẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học - công nghệ tiên tiến, đào tạo nguồn nhân lực tạo bước đột phá để hiện đại hóa nông nghiệp, công nghiệp hóa nông thôn. Tăng đầu tư ngân sách cho công tác nghiên cứu, chuyển giao khoa học - công nghệ để sớm đạt trình độ tương đương các nước tiên tiến trong khu vực; xây dựng chính sách đãi ngộ thỏa đáng, khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia công tác này. Thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa doanh nghiệp, nhà khoa học với nông dân trong sản xuất kinh doanh.
- Ðổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách: hoàn thành việc sửa đổi, bổ sung Luật Ðất đai theo hướng tiếp tục khẳng định đất đai là sở hữu toàn dân, Nhà nước thống nhất quản lý theo quy hoạch, kế hoạch để phân bổ và sử dụng có hiệu quả. Hộ gia đình, cá nhân được giao đất ổn định lâu dài; mở rộng hạn mức sử dụng đất; công nhận và xây dựng các thể chế vận hành thị trường về quyền sử dụng đất công khai, minh bạch; thúc đẩy quá trình chuyển dịch, tập trung đất đai; điều chỉnh giá đất bồi thường cho người bị thu hồi đất theo nguyên tắc bảo đảm hợp lý lợi ích các bên liên quan (bên giao, bên nhận đất và Nhà nước). Có cơ chế để người dân góp giá trị quyền sử dụng đất thành lập công ty, doanh nghiệp... Có quy hoạch và biện pháp bảo vệ diện tích đất trồng lúa ở mức bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng, quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của các đoàn thể chính trị - xã hội ở nông thôn, nhất là Hội Nông dân.
Nghị quyết T.Ư 7 "Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn" được ban hành vào lúc nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đứng trước nhiều thời cơ thuận lợi, nhưng cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức cả ở trong nước và từ kinh tế thế giới dội vào. Vấn đề đặt ra là phải nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức với những giải pháp linh hoạt, sáng tạo, hợp lý và đồng bộ. Chúng ta đã đi qua nửa chặng đường của nhiệm kỳ khóa X của Ðảng. Với việc ban hành ba Nghị quyết, trong đó có Nghị quyết "Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn", Hội nghị lần thứ 7 BCH T.Ư đã hoàn thành việc cụ thể hóa những nội dung quan trọng, chủ yếu trong Văn kiện Ðại hội X của Ðảng. Nghị quyết "Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn" cùng với các Nghị quyết khác của các Hội nghị T.Ư 3, 4, 5, 6, 7 nằm trong một chỉnh thể thống nhất, có quan hệ mật thiết với nhau, do đó cần nghiên cứu, quán triệt sâu sắc, tạo sự nhất trí cao về nhận thức và đồng bộ về biện pháp thực hiện thì mới hoàn thành thắng lợi các mục tiêu đã đề ra, góp phần tích cực vào việc hoàn thành toàn diện Nghị quyết Ðại hội X của Ðảng.