Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Lược ghi bài nói của đồng chí Phùng Hữu Phú, Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó trưởng ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương tại Hội nghị Báo cáo viên trực tuyến ngày 22/7/2008.

1.Sự cần thiết phải ban hành Nghị quyết

Theo chương trình toàn khoá của Ban Chấp hành Trung ương, Hội nghị Trung ương 7 sẽ bàn và ra Nghị quyết về ''Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ gần với đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, hội nhập quốc tế.  Trong quá trình chuẩn bị đề án, thấy rằng về vấn đề giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, Đảng ta đã có những nghị quyết chuyên sâu: Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VII) về giáo dục và đào tạo, về  khoa học và công nghệ, v.v. Sau đó có rất nhiều nghị quyết và chỉ thị của Bộ Chính trị liên quan đến vấn đề này. Nhưng về trí thức, dù đã được đề cập ở khía cạnh này, khía cạnh khác trong các nghị quyết chuyên đề, về mặt chính thức chúng ta chưa bàn tổng thể về xây dựng và phát huy đội ngũ trí thức, trong khi đó thực tiễn xung quanh vấn đề trí thức đang đặt ra nhiều vấn đề rất mới, rất quan trọng. Xét trên bình diện quốc tế, ở thời điểm hiện nay, hầu hết các quốc gia, ở các cấp độ khác nhau đang tập trung vào xây dựng kinh tế tri thức, một nền kinh tế mà hàm lượng trí tuệ được đưa vào nhiều nhất, trực tiếp nhất trong quá trình sản xuất và nâng cao chất lượng của sản phẩm. Để phát triển kinh tế tri thức, trong chiến lược phát triển của các quốc gia đều coi trọng việc tập trung đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao làm mấu chốt của chiến lược phát triển. Xây dựng nguồn nhân lực cao thực chất là nói đến xây dựng và phát huy sức mạnh của đội ngũ trí thức. Có thể nói, xây dựng và phát huy trí tuệ của đội ngũ trí thức là chiến lược mang tính thời đại.

Nhận thức rõ tầm quan trọng của độingũ trí thức và xây dựng đội ngũ trí thức, Bộ Chính trị đã cân nhắc, đề nghị và được Trung ương nhất trí điều chỉnh tiêu đề của Đề án thành “Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đổi mới CNH, HĐH đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế”. Sau đó tại Hội nghị Trung ương thống nhất bỏ cụm từ “ hội nhập kinh tế quốc tế”.

Tầm quan trọng của việc xây dựng đội ngũ trí thức có thể luận giải như sau:

- Trong mọi thời đại, trí thức luôn là nền tảng tiến bộ xã hội, đội ngũ trí thức là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức. Ngày nay, cùng với sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại, các quốc gia, ở những cấp độ khác nhau, đang bước vào thời kỳ xây dựng, phát triển kinh tế trí thức và xã hội thông tin. Càng ngày giá trị của tri thức, vai trò của đội ngũ tri thức càng được đề cao như là nguồn lực quan trọng đặc biệt, phản ánh sức mạnh của mỗi quốc gia trong cuộc chạy đua, cạnh tranh toàn cầu. Đó là một xu thế thời đại.

- Thực hiện Nghị quyết Đại hội X, toàn Đảng, toàn dân ta đang gia sức phấn đấu sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Mục tiêu có ý nghĩa lịch sử đó đòi hỏi chúng ta phải phát huy đến mức cao nhất nguồn lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao và lựa chọn con đường phát triển rút ngắn, hiệu quả. Để làm được điều đó, tất yếu phải xây dựng, phát huy tốt nhất tiềm năng trí tuệ và năng lực sáng tạo của đội ngũ trí thức nước ta.

- Từ trước tới nay, Đảng ta luôn quan tâm đến xây dựng đội ngũ trí thức; đã ban hành một số chủ trương, chính sách quan hệ đến trí thức, tạo điều kiện để trí thức phát triển và hoạt động sáng tạo. Tuy nhiên, các chủ trương, chính sách đó còn thiếu đồng bộ, chậm đi vào cuộc sống, chưa đủ sức động viên phát huy sức mạnh và khắc phục những hạn chế, yếu kém của đội ngũ trí thức đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của sự nghiệp phát triển đất nước. Đã đến lúc Đảng phải có một nghị quyết riêng để giải quyết một cách căn bản hơn những vấn đề liên quan đến trí thức phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ phát triển mới.

2.Một số điểm mới và nội dung cơbản của Đề án

Trí thức là một vấn đề rất rộng lớn, liên quan đến nhiều lĩnh vực, Đề án cũng như Nghị quyết không thể đề cập, bao quát hết các nội dung. Để phục vụ mục tiêu của Hội nghị Trung ương, Đề án tập trung vào các nội dung chính sau:

- Đưa ra khái niệm chung về trí thức.

- Đánh giá tình hình đội ngũ trí thức nước ta và công tác xây dựng đội ngũ trí thức của Đảng và Nhà nước ta. Về thời gian đánh giá: không những chỉ đánh giá trong hơn 20 năm đổi mới mà cả trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.

- Xác định mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, nhiệm vụ và các giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Sau đây xin nêu rõ một số điều cơ bản, điểm mới của đề án.

2.1. Về khái niệm trí thức:

- Trên thế giới và ở nước ta hiện nay đang có nhiều cách tiếp cận, cách hiểu khác nhau về trí thức (có trên 60 định nghĩa, khái niệm về trí thức). Đề án đưa ra 3 cách hiểu chung nhất về trí thức với những đặc trưng cơ bản sau đây:

Thứ nhất, trí thức là người lao động trí óc, có hiểu biết sâu và rộng, thông thường, có trình độ đại học và tương đương trở lên, có năng lực sáng tạo, có trình độ phát triển về trí tuệ, nhạy bén với cái mới và quan tâm đến đổi mới để phát triển.

Thứ hai, trí thức có trình độ chuyên môn sâu, rộng trong một lĩnh vực nhất định, được hình thành qua đào tạo, bồi dưỡng và phát triển không ngừng bằng con đường tự đào tạo, lao động và hoạt động sáng tạo của mỗi cá nhân.

Thứ ba, trí thức có nhu cầu cao về đời sống tinh thần và hướng tới các giá trị chân - thiện - mỹ; có lòng tự trọng, khát vọng tự do, dân chủ, công bằng.

- Tổng hợp các ý kiến, đóng góp trong quá trình chuẩn bị Đề án cũng như tiếp thu ý kiến thảo luận tại Hội nghị Trung ương, chọn lọc những nội dung cơ bản, phù hợp với thực tiễn đất nước hiện nay và nhằm phục vụ cho việc xác định mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, nhiệm vụ, giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức trong thời gian tới, trên cơ sở trình bày những đặc trưng cơ bản của trí thức nói chung; Đề án đề xuất khái niệm trí thức Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và khái niệm này được đưa vào trong nội dung của Nghị quyết như sau:

Trí thức là  nhữngngười lao độngtrí óc,có trình độhọc vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, cónăng lực tư duyđộc lập, sángtạo,truyền bá vàlàm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vậtchất cógía trị đối với xã hội.

- Khi khẳng định: “Trí thức là những người có trình độhọc vấncho về vấn đề lĩnh vực chuyên môn nhất định...”, mệnh đề đó đã bao gồm những người được đào tạo có bằng cấp và và những người tự học, tự đào tạo, nên không cần xác định cụ thể trình độ đại học và tương đương.

Khái niệm trên chỉ khái quát nhưng đặc trưng và tiêu chí cơ bản nhất của trí thức hiện nay; các nội dung của khái niệm gắn bó chặt chẽ với nhau không tách rời khi nhìn nhận trí thức. Đồng thời do sự phong phú và rất đa dạng của trí thức trong thực tiễn, khái niệm trên không thể bao quát được hết các đối tượng trí thức cụ thể và những trường hợp ngoại lệ (được đào tạo hay tự đào tạo, trí thức ở các thời kỳ lịch sử trước đây…). Mục đích của khái niệm nhằm xác định một số đặc điểm cơ bản, phổ quát nhất làm cơ sở cho việc đề xuất mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức. Do vậy, trên cơ sở khái niệm này, khi xây dựng chính sách, chế độ cần phải cụ thể hoá, xác định rõ các tiêu chí đối với trí thức trong các lĩnh vực khác nhau, các thời kỳ khác nhau.

2.2. Đánh giá tình hình đội ngũ trí thức nước ta hiện nay:

Từ sau Cách mạng Tháng Tám, ở nước ta đã hình thành một đội ngũ trí thức có đặc trưng nổi bật là xuất thân từ tất cả các giai cấp, các tầng lớp xã hội, nhất là từ công nhân và nông dân. Phần lớn trí thức trưởng thành trong xã hội mới được hình thành từ nhiều nguồn đào tạo trong nước và ngoài nước, trong đó có một bộ phận trí thức kiều bào. Bằng hoạt động thực tiễn, trí thức Việt Nam đã có đóng góp to lớn vào sự nghiệp giải phóng, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc.

Đề án trình Trung ương khẳng định đội ngũ trí thức từ Cách mạng Tháng Tám đến nay có lòng yêu nước nồng nàn, lòng tự hào dân tộc, gắn bó với nhân dân lao động, gắn bó với sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo, có ý chí vươn lên nỗ lực nâng cao trình độ chuyên môn và hoàn thiện nhân cách, ngày càng đáp ứng tốt hơn những đòi hỏi mới của sự nghiệp phát triển đất nước. Nhiều trí thức trẻ thể hiện tính năng động, sáng tạo, thích ứng nhanh kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.

Đề án khẳng định sự phát triển và những đóng góp quan trọng của đôi ngũ trí thức trong sự nghiệp đổi mới đất nước:

Phát triển nhanh về số lượng và nâng lên về chất lượng; đã có những đóng góp to lớn, quan trọng vào thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống đế quốc xâm lược, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong sự nghiệp đổi mới, đội ngũ trí thức đã góp phần trực tiếp cùng toàn dân đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tể - xã hội kéo dài nhiều năm, từng bước thoát khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Đội ngũ trí thức đã đóng góp tích cực vào việc xây dựng những luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần làm sáng tỏ con đường phát triển của đất nước; đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao dân trí và bồi dưỡng nhân tài; sáng tạo ra những công trình có giá trị về tư tưởng, nghệ thuật; từng bước nâng cao trình độ khoa học và công nghệ của đất nước, vươn lên tiếp cận với trình độ của khu vực và thế giới, tạo ra nhiều sản phầm có chất lượng cao, có sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và thế giới. Đa số trí thức Việt Nam ở nước ngoài luôn hướng về Tổ quốc. Nhiều người đã về nước làm việc, hoạt động có hiệu quả trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, kinh tế, văn hoá, xã hội, góp phần vào sự phát triển chung của đất nước

Đề án cũng chỉ ra những hạn chế, yếu kém của đội ngũ trí thức hiện nay, trong dó nhấn mạnh một số điểm chính như:

Số lượng và chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp phát triển đất nước. Cơ cấu đội ngũ trí thức còn những mặt bất hợp lý về ngành nghề, độ tuổi, giới tính, phân bố trên các địa bàn. Bộ phận tinh hoa, hiền tài còn ít, chuyên gia đầu ngành thiếu, đội ngũ kế cận hẫng hụt. Trong nước, chưa có nhiều tập thể khoa học mạnh. Hoạt động nghiên cứu khoa học thiếu gắn bó mật thiết và chưa đáp ứng được yêu cầu đa dạng, phong phú của sản xuất, kinh doanh, đời sống.

Trong khoa học tự nhiên, công nghệ, vẫn còn nhiều sự chậm trễ và bất cập. Số công trình được công bố ở các tạp chí có uy tín trên thế giới, số sáng chế được đăng ký quốc tế còn quá ít, còn khoảng cách xa so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Trong khoa học xã hội và nhân văn, nghiên cứu lý luận thiếu khả năng dự báo và định hướng, chưa giải đáp được nhiều vấn đề do thực tiễn đổi mới đặt ra, chưa có những công trình sáng tạo lớn, nhiều công trình còn sơ lược, sao chép. Trong văn hoá, văn nghệ còn ít tác phẩm có giá trị xứng tầm với những thành tựu vẻ vang của đất nước, sự sáng tạo và hy sinh lớn lao của nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lý luận phê bình văn học, nghệ thuật còn nhiều hạn chế.

Trình độ của đội ngũ trí thức trong nhiều cơ quan nghiên cứu, trường đại học tụt hậu so với yêu cầu phát triển của đất nước và so với một số nước tiên tiến trong khu vực, nhất là năng lực sáng tạo, khả năng thực hành và ứng dụng cũng như khả năng giao tiếp bằng ngoại ngữ và sử dụng công nghệ thông tin.

Một bộ phận trí thức, kể cả những người có trình độ học vấn cao còn thiếu tự tin, còn e ngại, sợ bị quy kết về quan điểm, né tránh những vấn đề có liên quan nhiều đến chính trị. Một số giảm sút đạo đức nghề nghiệp, thiếu ý thức trách nhiệm và lòng tự trọng, thiếu trung thực và tinh thần hợp tác...

Một bộ phận trí thức trẻ chạy theo lợiích kinh tế trước mắt, thiếu ý chí phấn đấu vươn lên về chuyên môn. Một bộ phận, do ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện kém cộng với tác động của mặt trái cơ chế kinh tế thị trường, những luận điểm tuyên truyền, xuyên tạc và sự lôi kéo của các thế lực thù địch... đã có những biểu hiện lệch lạc, sai trái về quan điểm, thiếu say mê, tâm huyết với nghề nghiệp, thiếu ý thức trách nhiệm công dân và xa rời lý tưởng của Đảng.

Đánh giá công tác xây dựng đội ngũ trí thức của Đảng và Nhà nước những năm qua:

Về kết quả: Đề án khẳng định trong hơn 20 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã thể hiện quan điểm nhất quán phát huy vai trò của trí thức, tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự cống hiến, sáng tạo của đội ngũ trí thức. Đề án phân tích một số chính sách cụ thể đã được ban hành và thực hiện, như: chính sách đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ trí thức, chính sách sử dụng và tạomôi trường phát huy vai trò của trí thức; chính sách đãi ngộ, tôn vinh trí thức, chính sách thu hút trí thức người Việt Nam ở nước ngoài... Đề án nêu rõ, những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đã ban hành và thực hiện trong thời kỳ đổi mới, bước đầu tạomôi trường thuận lợi để trí thức phát triển về số lượng, từng bước nâng cao trình độ và năng lực sáng tạo, góp phần trực tiếp cổ vũ, khích lệ, tạo niềm tin và động lực cho trí thức cống hiến.

- Về những hạn chế, khuyết điểm: Với quan điểm nhìn thẳng vào sự thật, thái độ tự phê bình nghiêm túc và nhận thức yêu cầu ngày càng cao đối với việc nâng tầm lãnh đạo của Đảng đối với trí thức trong thời kỳ mới, Đề án phân tích những hạn chế, khuyết điểm, trong đó nhấn mạnh một số nội dung quan trọng sau:

+ Cho đến nay, Đảng và Nhà nước ta vẫn chưa có chiến lược tổng thể về xây dựng và phát huy tiềm năng, vai trò của đội ngũ trí thức.

+ Đường lối, chủ trương thì rõ và đúng, nhưng quá trình cụ thể hoá và tổ chức thực hiện thì chậm và ít hiệu quả.

Nhiều chủ trương đúng nhưng thiếu chế tài để thực hiện, có những chủ trương chưa phù hợp với thực tiễn, bất cập nhưng chậm được thay đổi. Cũng có cả những chính sách, chủ trương đúng, nhưng tổ chức thực hiện không nghiêm.

+ Môi trường làm việc ở một số nơi còn thiếu dân chủ, thiếu tự do tư tưởng, tự do sáng tạo, đặc biệt với trí thức khoa học xã hội và văn nghệ sĩ. Công tác tổ chức cán bộ, công tác quản lý, nhất là khâu đánh giá, sử dụng trí thức còn nhiều yếu kém, nhiều điểm không còn phù hợp. Thiếu cơ chế phát hiện, tiến cử, tuyển chọn, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài. Còn thiếu chính sách, cơ chế và biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho trí thức chuyên tâm cống hiến, phát triển và được xã hội tôn vinh bằng chính kết quả hoạt động nghề nghiệp của mình.

+ Các chủ trương, chính sách đào tạo đội ngũ trí thức trong thời gian qua còn bất cập trước yêu cầu của đất nước; các giải pháp đổi mới giáo dục còn thiếu hệ thống, đồng bộ, mang tính chắp vá, thiếu hiệu quả, hệ thống giáo dục còn lạc hậu, chưa đủ sức đáp ứng nhu cầu về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực trình độ cao cho sản xuất và đời sống.

+ Cơ chế và chính sách tài chính hiện hành trong các hoạt động khoa học và công nghệ, văn hoá và văn nghệ còn nhiều bất cập, làm giảm năng lực sáng tạo của trí thức, gây khó khăn và buộc trí thức phải tìm cách đối phó trong thủ tục thanh quyết toán khi thực hiện nhiệm vụ.

+ Chưa có chính sách thích hợp, đủ mạnh để thu hút trí thức kiều bào và các nhà khoa học người nước ngoài tham gia giải quyết những vấn đề về phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thiếu chính sách tạo điều kiện để trí thức trong nước được giao lưu, hợp tác và làm việc ở các trung tâm khoa học, văn hoá trên thế giới.

Nguyên nhân của những khuyết điểm, yếu kém:

Đề án đã phân tích các nguyên nhân chủ yếu dẫn tới các khuyết điểm, yếu kém của công tác trí thức và của đội ngũ trí thức.

Đối với công tác trí thức: Nhiều cấp uỷ đảng, chính quyền và cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp chưa nhận thức đầy đủ vai trò, vị trí của khoa học, công nghệ,giáo dục đào tạo, văn hoá, văn nghệ và của đội ngũ trí thức. Định kiến và chủ nghĩa kinh nghiệm trong một bộ phận cán bộ, đảng viên đã dẫn đến thái độ thiếu tin tưởng, thiếu dân chủ, thậm chí xem thường trí thức. Hành lang pháp lý bảo đảm môi trường dân chủ cho các hoạt động sáng tạo trí tuệ còn thiếu và chưa đồng bộ; nhiều chính sách không phù hợp với tình hình, có những chính sách không được thực hiện nghiêm túc, chưa biến thành hành động và kết quả thực tế.

Đốivới trí thức: Nền kinh tế nước ta vẫn trong tình trạng kém phát triển, trình độ khoa học và công nghệ còn thấp, nhu cầu áp dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất và đời sống của xã hội chưa cao, thị trường khoa học, công nghệ, văn hoá, văn nghệ đang trong quá trình hình thành… Một bộ phận trí thức nước ta, ở những mức độ khác nhau, còn chịu ảnh hưởng các mặt hạn chế của hệ tư tưởng phong kiến, của nền kinh tế tiểu nông và cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp kéo dài, của mặt trái cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn kinh tế đang chuyển đổi. Một số trí thức không thường xuyên học hỏi, tìm tòi, trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, rèn đúc chí khí và hoài bão.

2.3. Bối cảnh, mục tiêu, quan điểmchỉ đạocông tác xây dựng độingũ trí thức:

- Trên cơ sở phân tích các nhân tố chủ yếu của tình hình quốc tế (cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức, toàn cầu hoá kinh tế, giao lưu và hợp tác văn hoá) và dự báo, đánh giá những tác động của tình hình trong nước (mục tiêu, các nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá; hội nhập kinh tế quốc tế, các đặc điểm mới...) tác động trực tiếp tới vai trò của trí thức… Đề án rút ra các kết luận: Thứ nhất,trong thời đại ngày nay, trí thức ngày càng giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển của các quốc gia, dân tộc. Thứ hai, trí thức ViệtNamđang đứng trước những đòi hỏi cao và mới, cả thời cơ lớn và những thách thức gay gắt. Thứ ba trước yêu cầu phát triển của đất nước, Đảng phải tiếp tục đổi mới và nâng cao năng lực lãnh đạo đối với trí thức.

Về mục tiêu xây dựng đội ngũ trí thức, Đề án xác định như sau:

+  Đến năm 2020, xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, đạt chất lượng cao, số lượng đông vàcơ cấu hợp lý,từng bước tiến lên ngang tầmvớitrình độcủa trí thức trong khu vực và  thế giới. Gắn bó vững chắc giữa Đảngvới trí thức, giữ tríthức với Đảng, bồi đắpkhối đạiđoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng  liênminh công – nông – trí thức.

+ Trong những năm trước mắt, hoàn thiện các cơ chế, chính sách đã ban hành, xây dựng cơ chế, chính sách mới nhằm phát huy có hiệu quả tiềm năng của đội ngũ trí thức hiện nay; xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ trí thức đến năm 2020 đáp ứng nhiệm vụ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.

Đề án xác định 3 quan điểm chỉ đạo:

Quan điểm thứ nhất làm rõ vai trò của trí thức, tầm quan trọng của việc xây dựng đội ngũ trí thức: Trí thức Việt Nam là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng kinh tế tri thức, phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh làtrực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo Đảngvà chất lượng hoạt động có hệ thống chính trị. Đầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầutư cho phát triển bền vững (đây là nhận thức rất mới, thể hiện sự đánh giá rất cao của Trung ương đối với đội ngũ trí thức).

Quan điểm thứ hai nhấn mạnh việc phát huy sức mạnh tổng hợp trong xây dựng đội ngũ trí thức: Xây dựng đội ngũ trí thức là trách nhiệm chung của toàn xã hội, của cả hệ thống chính trị, trong đó trách nhiệm của Đảng và Nhà nước giữ vai trò quyết định. Quan điểm này cũng xác định rõ trách nhiệm của bản thân trí thức: Trí thức có vinh dự và bổn phận trước Tổ quốc và dân tộc, không ngừng phấn đấu nâng cao phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn, đóng góp nhiều nhất cho sự nghiệp phát triền đất nước.

Quan điểm thứ ba xác định những trọng tâm có ý nghĩa đột phá trong công tác trí thức: Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo của trí thức vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngư nghiệp của trí thức. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến; có chính sách đặc biệt đối với nhân tài của đất nước.

2.4. Về nhiệm vụ, giải pháp xây dựng độingũ trí thức trong thời kỳ đẩymạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế quốctế.

Đề án đã trình bày 5 nhóm nhiệm vụ và giải pháp theo hướng đồng bộ, có tính khả thi, nếu thực hiện tốt sẽ tạo nên chuyển biến thực sự trong công tác xây dựng đội ngũ trí thức. Năm nhóm nhiệm vụ giải pháp này được đề xuất trên cơ sở nắm bắt các nguyện vọng cơ bản, chính đáng của đại đa số trí thức với mong muốn được sáng tạo và cống hiến nhiều hơn.

Thứ nhất, hoàn thiện môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động của trí thức. Đây là cái bức xúc nhất, là mong muốn nhất của đội ngũ trí thức, nhất là những trí thức cao niên, những trí thức có trình độ cao. Ai cũng cần nhà, cần tiền, đó là con người, nhưng trí thức đích thực thì cái cần nhất là môi trường sáng tạo, một môi trường dân chủ, tự do sáng tạo vì mục tiêu, vì đại nghĩa của dân tộc. Mộtmôi trường để trí thức thể hiện được những ý tưởng mà mình ấp ủ.

Thứ hai, xây dựng, thực hiện chính sách trọng dụng, đãi  ngộ và tôn vinh trí thức.

Thứ ba, tạo chuyển biến căn bản trong đào tạo, bồi dưỡng trí thức.

Thứ tư, đề cao trách nhiệm của trí thức, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động các hội của trí thức.

Thứ năm, nângcao chất lượng công tác lãnh đạo của Đảng đốivới đội ngũ trí thức.

Theo Tạp chí Báo cáo viên

 

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Chỉ thị của Ban Bí thư về công tác an toàn, vệ sinh lao động trong tình hình mới

(ĐCSVN) - Ngày 19/3/2024, đồng chí Trương Thị Mai ký ban hành Chỉ thị số 31-CT/TW về tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác an toàn, vệ sinh lao động trong tình hình mới.

Sớm đưa vào sử dụng các công trình, dự án hạ tầng cấp bách, trọng điểm về giao thông

(ĐCSVN) - Bộ Chính trị yêu cầu tập trung đầu tư, sớm đưa vào sử dụng các công trình, dự án hạ tầng cấp bách, trọng điểm về giao thông đường bộ, đường sắt, đường biển, đường thuỷ nội địa, đường hàng không kết nối các địa phương, vùng và khu vực, quốc tế.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

(ĐCSVN) - Các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội cần quán triệt, nâng cao nhận thức, tổ chức thực hiện nghiêm chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; xem đây là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của cả hệ thống chính trị và xã hội; là văn hoá ứng xử của mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và mỗi người dân, nhất là người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Bộ Chính trị ban hành quy định phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong điều tra, xét xử

(ĐCSVN) – Ngày 27/10/2023, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 132-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Liên kết website