Những vấn đề lý luận và thực tiễn về đẩy mạnh xây dựng văn hóa trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế của Việt Nam

Kính thưa đồng chí Lưu Vân Sơn, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Bí thư, Trưởng Ban Tuyên truyền Trung ương Ðảng Cộng sản Trung Quốc, Trưởng Ðoàn đại biểu các nhà khoa học Trung Quốc,

Thưa các đồng chí và các bạn, thực hiện chủ trương hợp tác nghiên cứu lý luận giữa hai Ðảng, hôm nay, tại thành phố Ðà Nẵng của Việt Nam- một thành phố đang phát triển năng động trong thời kỳ đổi mới, hai Ðảng chúng ta tiến hành hội thảo lý luận lần thứ 6.   

Thay mặt Ðoàn đại biểu Ðảng Cộng sản Việt Nam và các nhà khoa học Việt Nam, tôi nhiệt liệt chào mừng đồng chí Lưu Vân Sơn, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Bí thư, Trưởng ban Tuyên truyền Trung ương Ðảng Cộng sản Trung Quốc, các đồng chí trong Ðoàn Ðảng Cộng sản Trung Quốc và các nhà khoa học của hai Ðảng có mặt tại cuộc hội thảo lý luận lần thứ 6 vào năm hai nước chúng ta kỷ niệm 60 năm thiết lập quan hệ ngoại giao. Chúc các đồng chí có mặt tại đây dồi dào sức khỏe và chúc Hội thảo của chúng ta thành công tốt đẹp. 

Thưa các đồng chí và các bạn, 

Hội thảo lần này, chúng ta thảo luận về chủ đề: "Ðẩy mạnh xây dựng văn hóa trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế - kinh nghiệm Việt Nam, kinh nghiệm Trung Quốc". Ðây là chủ đề mà hai Ðảng chúng ta đều rất quan tâm do ý nghĩa lý luận và thực tiễn vừa cấp bách, trước mắt, vừa cơ bản, lâu dài. Việt Nam đang đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Trung Quốc đang tăng cường xây dựng kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa; và cả hai Ðảng đều đang lãnh đạo đất nước của mình theo phương châm chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Ðây là những phương hướng lớn của hai Ðảng chúng ta, được hình thành và phát triển trong quá trình đổi mới, cải cách, mở cửa ở hai nước. Vấn đề đặt ra là văn hóa sẽ phát triển như thế nào trong điều kiện ấy. Trong đổi mới của Việt Nam, cải cách, mở cửa của Trung Quốc, hai Ðảng chúng ta đã có những chủ trương, chính sách phù hợp, trên thực tế đã thu được những thành tựu trong lĩnh vực xây dựng và phát triển văn hóa, nhưng cũng còn những khuyết điểm, hạn chế. Việt Nam đã có những kinh nghiệm bước đầu, nhưng cũng còn những lúng túng về xây dựng văn hóa trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Chính vì thế, chủ đề của Hội thảo lần này là rất quan trọng, thiết thực, bổ ích và thu hút sự quan tâm của chúng ta. 

1- Vị trí, vai trò của văn hóa trong tiến trình cách mạng và trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay 

Văn hóa là một lĩnh vực rất rộng lớn, vô cùng phong phú và đa dạng, vừa hiện diện vừa thấm sâu trong toàn bộ đời sống xã hội và cuộc sống con người. Ðến nay đã có rất nhiều định nghĩa và cách hiểu khác nhau về văn hóa. Ðó là quá trình các nhà khoa học tiếp sức nhau đạt tới những nhận thức ngày càng hoàn chỉnh hơn của con người về một lĩnh vực rất độc đáo do chính con người và chỉ có con người sáng tạo nên, đó là văn hóa.

Thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lê-nin, am tường lịch sử văn hóa dân tộc Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, ngay từ năm 1943, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: "Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa" (1). Ở đây, Hồ Chí Minh hiểu văn hóa theo nghĩa rộng nhất của khái niệm này, bao gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần, khẳng định lý do, tính tất yếu của sự tồn tại và phát triển  của văn hóa và đặc biệt, Hồ Chí Minh đã hai lần nhấn mạnh đặc trưng quan trọng nhất của văn hóa là "sáng tạo và phát minh", đồng thời chỉ ra các lĩnh vực, loại hình chính của văn hóa. 

Như vậy, phạm vi của văn hóa là hết sức rộng lớn, có mặt trong toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội và cuộc sống con người, nhưng quan trọng hơn cả, đó là những giá trị do hoạt động tinh thần - sáng tạo của con người tạo ra, biểu hiện trình độ hiểu biết, năng lực và phẩm giá của một cộng đồng và từng cá thể, là thước đo trình độ phát triển và sức vươn lên tự hoàn thiện của con người theo lý tưởng chân, thiện, mỹ, đồng thời nó góp phần trực tiếp cho quá trình vươn lên đó của con người. Theo hướng tiếp cận đó, Phạm Văn Ðồng - một nhà lãnh đạo xuất sắc, một nhà văn hóa lớn của Việt Nam ở thế kỷ 20, đã cho rằng: "Cốt lõi của sức sống đó là văn hóa với ý nghĩa bao quát và cao đẹp nhất của nó, bao gồm cả một hệ thống giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo đức và phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sức nhạy cảm tiếp thụ cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ bản lĩnh và bản sắc của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu để tự bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh" (2).  

Trong quá trình vận động văn hóa (trước Cách mạng Tháng 8-1945) và lãnh đạo văn hóa từ 1945 đến nay, Ðảng Cộng sản Việt Nam đã trải qua một quá trình tìm tòi công phu để từng bước nhận thức toàn diện hơn, sâu hơn về văn hóa, trong đó, Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII (1998) "Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc", là một bước phát triển về chất trong quan niệm về văn hóa. Từ nhận thức "Văn hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ nước", lần đầu tiên, Nghị quyết đã nhìn nhận văn hóa theo nghĩa rộng lớn và bao quát, bao gồm 8 lĩnh vực lớn tạo nên văn hóa tinh thần trong đời sống và cấu trúc xã hội, đồng thời nhấn mạnh một số mặt  cần đặc biệt quan tâm, đó là "Tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa". Ðồng thời, Nghị quyết này không chỉ nhìn nhận văn hóa ở các dạng thức, sản phẩm, công trình cụ thể, mà nhấn mạnh một yêu cầu cực kỳ quan trọng là làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng con người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước Việt Nam đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. 

Nhận thức trên của Ðảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa xuất phát từ phân tích, thấu hiểu truyền thống và tính đặc thù trong quá trình phát triển của văn hóa Việt Nam, sự gắn kết chặt chẽ giữa văn hóa với cộng đồng các dân tộc Việt Nam trong toàn bộ tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước. Bằng lao động, ý chí đấu tranh kiên cường và năng lực sáng tạo, nhân dân Việt Nam đã xây đắp nên một nền văn hóa kết tinh phẩm giá và sức mạnh, in đậm dấu ấn bản sắc dân tộc Việt Nam. Nhờ nền tảng và sức mạnh văn hóa ấy mà dân tộc Việt Nam đã trụ vững và phát triển. Nhận thức sâu sắc điều đó, Ðảng Cộng sản Việt Nam khẳng định phải giữ gìn và phát huy toàn bộ di sản văn hóa thiêng liêng của cha ông để lại và các thế hệ hôm nay đã và đang xây dựng nên. Ðồng thời, Ðảng Cộng sản Việt Nam cũng nhận thấy rõ, để có nền văn hóa giàu bản sắc dân tộc đó, trong tiến trình lịch sử, văn hóa Việt Nam thường xuyên giao lưu, chịu ảnh hưởng và tiếp nhận có chọn lọc các giá trị văn hóa của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia trên thế giới để làm giàu có hơn văn hóa của mình, trong đó có nền văn hóa lâu đời, phong phú của Trung Quốc anh em. 

Trải qua 80 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, với tất cả sự cầu thị trước một lĩnh vực cực kỳ phong phú, tinh tế này, Ðảng Cộng sản Việt Nam trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã liên tục chú trọng tổng kết thực tiễn, tìm tòi, xây dựng và không ngừng bổ sung, hoàn thiện quan điểm, đường lối phát triển văn hóa Việt Nam phù hợp với yêu cầu cách mạng và tiến trình lịch sử của đất nước. 

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) đã khẳng định nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc phải là một trong sáu "đặc trưng" tạo nên chủ nghĩa xã hội, nghĩa là văn hóa là một thành tố hữu cơ, không thể thiếu của chủ nghĩa xã hội Việt Nam. 

Từ thực tiễn lãnh đạo văn hóa trong thời kỳ đổi mới, Ðảng Cộng sản Việt Nam đã nêu rõ 5 quan điểm chỉ đạo xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam.

Thứ nhất, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Khẳng định vị trí, vai trò đó của văn hóa là một bước tiến cơ bản trong tư duy của Ðảng Cộng sản Việt Nam. Chăm lo văn hóa là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và vì sự phát triển toàn diện của con người. Văn hóa là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực, là nguồn lực nội sinh của sự phát triển kinh tế - xã hội. 

Thứ hai, nền văn hóa mà Việt Nam xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Sự xuyên thấm vào nhau của hai nhân tố đó tạo nên phẩm chất của nền văn hóa Việt Nam đương đại. Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Tiên tiến không chỉ về nội dung tư tưởng mà cả trong phương tiện chuyển tải nội dung và các hình thức biểu hiện. Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Ðó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc... 

Thứ ba, nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Ðó là nền văn hóa chung của 54 dân tộc anh em sống trên đất nước Việt Nam, trong đó, mỗi dân tộc đều có những sắc thái, những giá trị văn hóa độc đáo, đồng thời chúng bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn hóa chung. Vì vậy, văn hóa Việt Nam đa dạng trong thống nhất và thống nhất trong đa dạng. 

Thứ tư, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng. Mọi người dân đều tham gia vào sự nghiệp xây dựng văn hóa, là chủ thể của quá trình văn hóa, từ sáng tạo, truyền bá, giữ gìn đến thụ hưởng văn hóa, sản xuất và tham gia quản lý văn hóa. Ðảng Cộng sản Việt Nam khẳng định, đội ngũ trí thức luôn luôn giữ vai trò quan trọng trong phát triển văn hóa. 

Thứ năm, văn hóa là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng. Nhận thức sâu sắc tính đặc thù của quá trình xây dựng văn hóa, Ðảng Cộng sản Việt Nam cho rằng, đó là công việc đầy khó khăn, phức tạp, đòi hỏi nhiều công sức và thời gian. Ðó là một cuộc đấu tranh phải biết kết hợp nhuần nhuyễn giữa "xây" và "chống", xây cái mới, cái tiến bộ, cách mạng và chống hủ tục, thói hư tật xấu, chống mọi mưu toan lợi dụng văn hóa để thực hiện "diễn biến hòa bình". 

Tại Hội nghị Trung ương 10 khóa IX (2004), Ðảng Cộng sản Việt Nam đã tiến thêm một bước khi kết luận: Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn Ðảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội, tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước.  

2- Xây dựng văn hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường  

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam đang xây dựng là sự vận dụng thành quả lớn (kinh tế thị trường) mà nhân loại đã sáng tạo và hoàn thiện kết hợp với việc phát huy ngày càng tốt hơn, đầy đủ hơn mục tiêu và tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Phát triển văn hóa trong kinh tế thị trường chẳng những thể hiện nhận thức đúng về tác dụng tích cực của kinh tế thị trường mà còn thấy rõ vai trò của văn hóa trong việc thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Vai trò "soi đường" của văn hóa đối với sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện ở tầm hoạch định chiến lược trong phát triển kinh tế - xã hội dựa trên nguồn lực văn hóa, mà sâu xa và quan trọng nhất là nguồn lực con người, là chất lượng nguồn nhân lực bao gồm cả thể lực, trí tuệ và đạo đức, xây dựng các tiêu chí và thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam hướng theo các chuẩn mực dân chủ, công bằng, văn minh.

Qua 25 năm đổi mới ở Việt Nam, thực tiễn phát triển văn hóa trong kinh tế thị trường cho thấy tính tích cực của thị trường đối với sự phát triển của văn hóa. Thị trường góp phần mở rộng trao đổi, quảng bá các sản phẩm văn hóa và dịch vụ văn hóa một cách năng động, phục vụ nhu cầu ngày càng đa dạng của xã hội. Thị trường kích thích nhu cầu tiếp nhận văn hóa, văn học, nghệ thuật của xã hội góp phần dân chủ hóa trong hưởng thụ văn hóa. Thị trường góp phần phân bổ nguồn lực, kích thích và đa dạng hóa tài năng trong sáng tạo, sản xuất, truyền bá, đánh giá, tiếp nhận các sản phẩm văn hóa. Thị trường tạo điều kiện, cơ hội huy động nhiều nguồn lực để phát triển văn hóa - xã hội. 

Tuy nhiên, mặt trái của thị trường tác động vào văn hóa ở Việt Nam cũng rất rõ. Sự phân hóa về cơ hội và điều kiện trong sáng tạo, sản xuất, truyền bá các giá trị văn hóa thông qua các phương tiện truyền tải của nó ngày càng gia tăng. Tình trạng xuất hiện nhiều sản phẩm và dịch vụ văn hóa chất lượng thấp tác động tiêu cực đến đời sống tinh thần của xã hội, ảnh hưởng xấu đến thị hiếu thẩm mỹ của một bộ phận công chúng, đe dọa việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, các giá trị đạo đức truyền thống, thẩm mỹ, nghệ thuật của dân tộc. 

Nhận thức sâu sắc những mặt tích cực và tiêu cực của kinh tế thị trường, trong quá trình chỉ đạo thực tiễn, Ðảng Cộng sản Việt Nam đã xác định phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.  Ðó là quá trình phát triển văn hóa để tạo "sức mạnh nội sinh" và môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế, đồng thời, kinh tế phát triển lại là điều kiện cho sự phát triển của văn hóa. Thực tiễn 25 năm đổi mới vừa qua đã chỉ rõ, địa phương nào, ngành nào ở Việt Nam thực hiện và giải quyết tốt quan hệ trên thì kinh tế phát triển bền vững hơn và đời sống tinh thần của nhân dân được nâng cao. Ngược lại, nếu ngành nào, địa phương nào chỉ chạy theo lợi ích kinh tế thuần túy, không quan tâm gắn kết với văn hóa thì ở đó cả kinh tế và văn hóa đều gặp khó khăn. Vì vậy, cần phải gắn kết chặt chẽ giữa chính sách văn hóa trong kinh tế và chính sách kinh tế trong văn hóa để tạo nên sự phát triển hài hòa giữa văn hóa với kinh tế.  

Tuy nhiên, tình trạng tách rời, thậm chí đối lập giữa văn hóa và kinh tế còn diễn ra ở một số địa phương, ngành và chậm được khắc phục. Một số chương trình, dự án kinh tế chưa quan tâm đúng mức tới nhân tố văn hóa và hiệu quả văn hóa. Do áp lực của tăng trưởng kinh tế mà một số khu đô thị, khu công nghiệp ở Việt Nam thiếu quy hoạch đồng bộ, chưa quan tâm đến đời sống tinh thần - văn hóa của người lao động. Ðầu tư cho các hoạt động văn hóa chưa đúng mức, thiếu những công trình văn hóa có sức hấp dẫn đối với cộng đồng và có ý nghĩa giáo dục xã hội rộng lớn. 

Kế hoạch xây dựng và phát triển ngành công nghiệp văn hóa, như công nghiệp truyền thông, công nghiệp giải trí, v.v. chưa được chú ý đúng mức. Việc đầu tư để vừa bảo tồn và tôn tạo di sản văn hóa, vừa khai thác và phát huy giá trị của di sản văn hóa để phát triển kinh tế du lịch còn hạn chế. Tình trạng suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống trong xã hội chưa được ngăn chặn. Thiếu những chính sách, cơ chế và giải pháp đủ mạnh để làm cho văn hóa thực sự trở thành động lực và nguồn lực nội sinh của phát triển kinh tế - xã hội. 

Nguyên nhân dẫn đến những yếu kém trên là do Việt Nam mới chuyển sang phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, quá trình chuyển đổi các hoạt động văn hóa theo cơ chế thị trường diễn ra còn chậm và lúng túng. Kinh nghiệm quản lý văn hóa trong cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế còn hạn chế. Sự vận dụng các quan hệ thị trường vào quản lý văn hóa còn bất cập. Nhà nước chậm thể chế hóa các quan điểm chỉ đạo phát triển văn hóa thành luật pháp và các chính sách cụ thể. Ðây là những cản trở cần sớm được khắc phục để tạo nên sự gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn nữa giữa văn hóa và kinh tế, tạo nên sự phát triển hài hòa và bền vững của các lĩnh vực này, làm động lực cho sự phát triển của xã hội. 

3- Xây dựng  văn hóa trong điều kiện hội nhập quốc tế 

Xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đang diễn ra với tốc độ nhanh chóng và tác động đến Việt Nam ngày càng rõ rệt, mạnh mẽ và phức tạp. Với đường lối đối ngoại hòa bình và hữu nghị, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, Việt Nam đang chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, nhằm tranh thủ ngoại lực, phát huy nội lực, sử dụng các thành tựu văn hóa - văn minh, khoa học - công nghệ mà thời đại tạo ra để xây dựng đất nước. 

Thực tiễn hội nhập quốc tế đã góp phần vào quá trình đổi mới nhận thức, đổi mới tư duy lý luận của Ðảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt trên lĩnh vực kinh tế. Chúng tôi đã nhận thức sâu sắc và toàn diện hơn vai trò của kinh tế thị trường và làm rõ mô hình phát triển kinh tế ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Ðồng thời, hội nhập quốc tế cũng đã tạo điều kiện cho sự phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, văn học, nghệ thuật... Sự đổi mới trên lĩnh vực kinh tế đã tác động mạnh mẽ đến nhận thức của chúng tôi trong đánh giá các quan hệ liên quan đến tư tưởng, đạo đức, lối sống trong xã hội.  

Tác động của hội nhập quốc tế cùng với công cuộc đổi mới đã tạo nên những biến đổi tích cực trong đời sống tư tưởng, đạo đức và lối sống của xã hội Việt Nam những năm vừa qua. Nhiều nét mới trong các giá trị văn hóa và chuẩn mực đạo đức từng bước được hình thành. Tính tích cực, năng động của người dân được khuyến khích. Không khí dân chủ trong đời sống xã hội tăng lên. Thế hệ trẻ tiếp thu nhanh chóng những kiến thức mới và vươn lên lập thân, lập nghiệp, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.  

Bên cạnh những tác động tích cực đối với phát triển xã hội nói chung và đối với văn hóa nói riêng, hội nhập quốc tế cũng tạo ra những tác động tiêu cực đến văn hóa, đạo đức, lối sống của không ít người, trong đó có cả cán bộ, đảng viên và thế hệ trẻ trong xã hội Việt Nam hiện nay. Ðó là những biểu hiện dao động về tư tưởng, những lệch lạc trong lựa chọn giá trị, tiếp nhận một cách tự phát những lối sống, thị hiếu phương Tây. Chủ nghĩa cá nhân cực đoan, sự suy thoái đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, những thói hư tật xấu có cơ hội trỗi dậy và phát triển. 

Cuộc cạnh tranh về kinh tế hiện nay cũng gắn liền với cuộc cạnh tranh về văn hóa. Các công ty khổng lồ của ngành công nghiệp văn hóa, kể cả công nghiệp đa phương tiện tạo ra các sản phẩm và dịch vụ văn hóa phương Tây xâm nhập mạnh mẽ vào Việt Nam, gây những hiệu ứng tiêu cực tới lối sống, đạo đức xã hội. Ðây là những biểu hiện dễ nhận thấy của cuộc "xâm lăng văn hóa"  mà Việt Nam đang chứng kiến. 

Những tác động tích cực và tiêu cực của quá trình hội nhập quốc tế đối với văn hóa đặt ra cho sự phát triển văn hóa Việt Nam những yêu cầu mới: Nền văn hóa dân tộc phải khẳng định vị thế của mình trong giao lưu, tiếp xúc, đối thoại giữa các nền văn hóa trên thế giới. Văn hoá dân tộc phải tham gia vào quá trình nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế khi hội nhập. Trong khi phải chủ động thích ứng với yêu cầu hội nhập quốc tế, đồng thời nền văn hóa dân tộc phải bảo vệ và phát huy các giá trị đạo đức, tinh thần tốt đẹp và bền vững của  dân tộc Việt Nam trong những điều kiện và đặc điểm mới. 

4- Xây dựng văn hóa đạo đức và lối sống trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế 

Ðạo đức, lối sống là những vấn đề cốt lõi trong đời sống văn hóa của mỗi cá nhân, cộng đồng và dân tộc. Ðối với Việt Nam, việc xây dựng văn hóa đạo đức và lối sống trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế đang là yêu cầu vừa rất cấp bách, vừa cơ bản, lâu dài. Ngăn chặn, đẩy lùi và khắc phục sự suy thoái về đạo đức, lối sống đang là đòi hỏi của thực tiễn, là trách nhiệm của toàn Ðảng, toàn dân Việt Nam.  

Kinh tế thị trường đòi hỏi và tạo điều kiện để xóa bỏ tâm lý thụ động, ỷ lại, đòi hỏi sự năng động, sáng tạo của mỗi cá nhân, tổ chức và đơn vị. Nó cổ vũ tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm của từng cá nhân và của cả cộng đồng. 

Hội nhập quốc tế giúp chúng ta hiểu đầy đủ hơn về thế giới và về chính chúng ta. Khi chưa mở cửa và hội nhập, đã xuất hiện hai khuynh hướng. Một là, tự kiêu về những thành tựu và giá trị của dân tộc mình, thiếu hiểu biết các giá trị và thành tựu của các nước khác; và hai là, tự ty, mặc cảm về dân tộc mình, đề cao thái quá dân tộc khác, nước khác. Khi hội nhập quốc tế, chúng ta có điều kiện đánh giá khách quan hơn về dân tộc mình, nước mình, về các dân tộc khác, nước khác. Hợp tác quốc tế tạo điều kiện để xây dựng lối sống văn hóa với những giá trị lành mạnh và phổ biến của nhân loại. Ðó là những bước tiến trong đạo đức xã hội.  

Ðồng thời, kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế cũng có những tác động tiêu cực đến xây dựng văn hóa đạo đức và lối sống. Những động cơ thực dụng, vụ lợi trong kinh tế thị trường và toàn cầu hóa thôi thúc con người chạy theo những lợi ích vật chất, từ đó bỏ qua hoặc coi nhẹ các nhu cầu và lợi ích tinh thần. Ở Việt Nam, thời gian qua, nhiều sản phẩm núp dưới danh nghĩa văn hóa nhưng chứa đựng những yếu tố độc hại từ bên ngoài đã xâm nhập vào Việt Nam bằng nhiều con đường, tác động rất xấu đến tư tưởng, đạo đức, lối sống, tâm lý, hành vi của một bộ phận nhân dân, nhất là thanh thiếu niên. Ðó là những sản phẩm phản văn hóa làm hủy hoại, xói mòn nền tảng và những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc. Lối sống thực dụng thô thiển, vụ lợi, vị kỷ, sa đọa, cái xấu, cái ác, phi nhân tính có dấu hiệu tăng lên rõ rệt. Môi trường đạo đức và văn hóa lành mạnh bị đe dọa nghiêm trọng, có nguy cơ dẫn tới khủng hoảng tinh thần, mất phương hướng lựa chọn các giá trị, lối sống và niềm tin của một bộ phận công chúng, tác hại lâu dài đến các thế hệ mai sau. 

Nhận thức rõ mặt trái của kinh tế thị trường, Ðảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: Gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển. Thực hiện tốt chủ trương này chính là xây dựng văn hóa đạo đức, lối sống ở Việt Nam hiện nay. Nhận rõ những tác động tiêu cực của hội nhập quốc tế đến đạo đức, lối sống của con người, đặc biệt đối với thế hệ trẻ, Ðảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể các cấp cần tăng cường lãnh đạo, quản lý, tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh chống sự xâm nhập của các văn hóa phẩm độc hại gây hủy hoại đạo đức xã hội. 

5- Xây dựng văn hóa trong Ðảng trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế 

Ðảng Cộng sản Việt Nam cho rằng, xây dựng văn hóa trong Ðảng chính là nhận rõ và khẳng định mối quan hệ biện chứng giữa chính trị và văn hóa. Nền chính trị tiến bộ sẽ thúc đẩy văn hóa phát triển và ngược lại. Mặt khác, văn hóa với những giá trị tiên tiến và nhân văn của nó luôn là người bạn đồng hành của các cuộc cách mạng chính trị - xã hội. Ðường lối chính trị đúng đắn và sáng tạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam trong 25 năm đổi mới vừa qua là nhân tố quyết định đưa Việt Nam vượt qua những khó khăn, thử thách hiểm nghèo trong những thời điểm lịch sử phức tạp để đạt được những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ðường lối chính trị đúng đắn, sáng tạo đó đã mở ra một thời kỳ mới cho sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Tuyệt đại đa số các tầng lớp nhân dân, các đoàn thể chính trị - xã hội, đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ đã tự nguyện, nhiệt huyết tham gia phát triển văn hóa, phong trào thi đua yêu nước, phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa", đặc biệt là Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh". 

Ðảng Cộng sản Việt Nam cho rằng, trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, đời sống văn hóa ở Việt Nam sẽ càng diễn ra sôi động, đa dạng và phức tạp. Do vậy, việc xây dựng thể chế để bảo đảm phát huy vai trò của chính trị đối với phát triển văn hóa là vấn đề quan trọng hàng đầu. Xây dựng và hoàn thiện thể chế đó phải vừa bảo đảm được định hướng chính trị đúng đắn, vừa phát huy tự do, dân chủ rộng rãi trong xã hội để phát triển văn hóa. Mối quan hệ giữa kỷ luật, kỷ cương và tự do, dân chủ là mối quan hệ căn bản phải được xử lý biện chứng, hợp lý, hợp tình trong luật pháp và chính sách phát triển văn hóa. Ðồng thời phải gắn kết chặt chẽ phát triển văn hóa với công tác chỉnh đốn và xây dựng Ðảng, đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị, nhất là xây dựng các giá trị văn hóa và môi trường văn hóa trong tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội, xây dựng nhân cách văn hóa của cán bộ, đảng viên, công chức, chống suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên và trong xã hội. Nêu gương vừa là một yêu cầu cơ bản vừa là một phương thức quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo của Ðảng trên lĩnh vực văn hóa. Như vậy, xây dựng văn hóa trong Ðảng, trong hệ thống chính trị không chỉ dừng lại ở đường lối chính trị, hệ thống luật pháp, chính sách phát triển mà điều quan trọng hơn là xây dựng phẩm chất đạo đức, lối sống, nhân cách của các nhà hoạt động chính trị, của cán bộ, đảng viên trong tổ chức đảng và bộ máy nhà nước, làm tấm gương sáng cho xã hội noi theo.  

Thưa các đồng chí, 

Ðẩy mạnh xây dựng văn hóa trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế đã và đang đặt ra rất nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn cần được tiếp tục đi sâu nghiên cứu và tổng kết. Trong quá trình lãnh đạo văn hóa, Ðảng Cộng sản Việt Nam và Ðảng Cộng sản Trung Quốc đã đạt được những thành tựu, rút ra những kinh nghiệm thực tiễn quý, đồng thời nhiều vấn đề mới đặt ra cần cùng nhau trao đổi, giúp nhau giải quyết. Tại Hội thảo này, chúng tôi xin kiến nghị, có mấy vấn đề sau đây cần được thảo luận, làm rõ: 

Một là, nhận diện về mặt lý luận và đánh giá thực tiễn quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong tiến trình phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. 

Hai là, đánh giá tác động tích cực và tiêu cực của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế đối với đời sống văn hóa hai nước thời gian qua. Những vấn đề mới đặt ra về lý luận và thực tiễn. 

Ba là, làm thế nào để giữ gìn, phát huy và phát triển văn hóa dân tộc trong quá trình giao lưu, tiếp xúc và đối thoại văn hóa, trong xu thế toàn cầu hóa. Làm thế nào để văn hóa dân tộc tham gia vào quá trình nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế trong quá trình hội nhập quốc tế. 

Bốn là, về sự đổi mới và nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo của Ðảng, quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực văn hóa trong quá trình phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. 

Năm là, xây dựng văn hóa trong Ðảng, trong hệ thống chính trị, phát huy dân chủ, đoàn kết và đồng thuận xã hội. 

Thưa các đồng chí và các bạn, 

Kế thừa, phát huy những thành quả đã đạt được qua 5 lần Hội thảo trước, hy vọng thông qua hội thảo này, chúng tôi có dịp trao đổi ý kiến và tham khảo các kinh nghiệm của các đồng chí Trung Quốc để đẩy mạnh xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong điều kiện kinh tế thị trường  và hội nhập quốc tế. Trên tinh thần cởi mở, tin cậy, khoa học, thẳng thắn trao đổi và học tập lẫn nhau, chúng tôi tin rằng, Hội thảo lý luận lần thứ sáu giữa Ðảng Cộng sản Việt Nam và Ðảng Cộng sản Trung Quốc sẽ thành công tốt đẹp, góp phần làm giàu kinh nghiệm của chúng ta và tăng cường quan hệ đối tác, hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc. Ðó cũng là cách thiết thực nhất kỷ niệm 60 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt  Nam - Trung Quốc, "Năm hữu nghị Việt - Trung".  

Xin trân trọng cảm ơn các đồng chí. Kính chúc các đồng chí sức khỏe, thành đạt và hạnh phúc. 

Chúc Hội thảo của chúng ta thành công. 

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 3, tr. 431. 

(2) Phạm Văn Ðồng: Văn hóa và đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.18. 

(Bài phát biểu của đồng chí Tô Huy Rứa, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư T.Ư Ðảng, Trưởng ban Tuyên giáo T.Ư, Chủ tịch Hội đồng Lý luận T.Ư Ðảng CS Việt Nam)

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Chỉ thị của Ban Bí thư về công tác an toàn, vệ sinh lao động trong tình hình mới

(ĐCSVN) - Ngày 19/3/2024, đồng chí Trương Thị Mai ký ban hành Chỉ thị số 31-CT/TW về tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác an toàn, vệ sinh lao động trong tình hình mới.

Sớm đưa vào sử dụng các công trình, dự án hạ tầng cấp bách, trọng điểm về giao thông

(ĐCSVN) - Bộ Chính trị yêu cầu tập trung đầu tư, sớm đưa vào sử dụng các công trình, dự án hạ tầng cấp bách, trọng điểm về giao thông đường bộ, đường sắt, đường biển, đường thuỷ nội địa, đường hàng không kết nối các địa phương, vùng và khu vực, quốc tế.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

(ĐCSVN) - Các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội cần quán triệt, nâng cao nhận thức, tổ chức thực hiện nghiêm chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; xem đây là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của cả hệ thống chính trị và xã hội; là văn hoá ứng xử của mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và mỗi người dân, nhất là người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Bộ Chính trị ban hành quy định phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong điều tra, xét xử

(ĐCSVN) – Ngày 27/10/2023, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 132-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Liên kết website