Mối quan hệ hai chiều giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội ngày càng được quan tâm, và được coi là một trọng tâm của chính sách phát triển tất cả các nước. Mối quan hệ này thực ra đã nằm trong nội hàm của phát triển bền vững. Theo khái niệm mới nhất, phát triển bền vững gồm ba trụ cột có quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, đó là phát triển kinh tế bền vững, phát triển xã hội bền vững và bảo vệ môi trường. Qua đó để thấy rằng, nếu chỉ tăng trưởng kinh tế sẽ không đủ để bảo đảm một xã hội bền vững. Kết quả của mối quan hệ này thể hiện phần nào ở chỗ thành tựu về tăng trưởng có đi liền với tiến bộ, công bằng xã hội hay không.
Giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội luôn là tâm điểm trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Trong bối cảnh toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, mối quan hệ này càng trở lên cấp thiết hơn bao giờ hết. Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định: ''… thực hiện tốt tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển phù hợp với điều kiện cụ thể, bảo đảm phát tnển nhanh, bền vững”.1
1. Sự lựa chọn mô hình phát triển của các quốc gia
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, các quốc gia trên thế giới tìm kiếm con đường phát triển cho mình. Lúc đó, các quốc gia chú trọng nhiều đến tăng trưởng kinh tế về mặt lượng, vì vậy các thước đo đánh giá chủ yếu thông qua tổng sản phẩm trong nước (GDP) hoặc tổng sản phẩm quốc dân (GNP) và thu nhập đầu người. Đặc biệt đối với các nước đang phát triển, các vấn đề đặt ra thường gắn với những câu hỏi: Tại sao chúng ta nghèo? Làm thế nào để tránh tụt hậu hay bắt kịp các nước khác. Những câu hỏi này thể hiện cách tiếp cận hẹp, chủ yếu tập trung vào khía cạnh kinh tế. Có lẽ vậy nên nhiều quốc gia đạt được những thành công nhất định trong ngắn hạn, nhưng xét về dài hạn lại không được như mong muốn. Bảng thống kê về tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới trong 4 thập kỷ, từ 1960-2000 đã phần nào nói lên điều đó.
Bảng 1: Bức tranh tăng trưởng kinh tế của thế giới 1960 – 2000 2
Vùng/Khu vực
|
GDP (%/năm)
|
GDP đầu người (%/năm)
|
|
1960-70
|
1970-80
|
1980-90
|
1990-2000
|
1960-70
|
1970-80
|
1980-90
|
1990-2000
|
Thế giới (84 nước)
|
5.1
|
3.9
|
3.5
|
3.3
|
3.5
|
1.9
|
1.8
|
1.9
|
Các nước công nghiệp (22 nước)
|
5.2
|
3.3
|
2.9
|
2.5
|
3.9
|
1.7
|
1.8
|
1.5
|
Các nước Đông Á (không tính T.Quốc)
|
6.4
|
7.6
|
7.2
|
5.7
|
3.7
|
4.3
|
4.4
|
5.7
|
Trung Quốc
|
2.8
|
5.3
|
9.2
|
10.1
|
0.9
|
2.8
|
6.8
|
8.8
|
Châu Mỹ Latinh (22 nước)
|
5.5
|
6.0
|
1.1
|
3.3
|
2.8
|
2.7
|
-1.8
|
0.9
|
Nam Á (4 nước)
|
4.2
|
3.0
|
5.8
|
5.3
|
2.2
|
0.7
|
3.7
|
2.8
|
Châu Phi (19 nước)
|
5.2
|
3.6
|
1.7
|
2.3
|
2.8
|
1.0
|
-1.1
|
-0.2
|
Trung Đông (9 nước)
|
6.4
|
4.4
|
4.0
|
3.6
|
4.5
|
1.9
|
1.1
|
0.8
|
Từ thực tế tăng trưởng trong 4 thập kỷ trên của thế giới, co thể rút ra một số nhận xét sau:
- Tốc độ tăng trưởng cao trong một vài năm không phải là yếu tố quyết định trong dài hạn. Để đạt được mục tiêu trong dài hạn không cần tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, mà chỉ cần cao ở mức hợp lý nhưng bền vững. Người ta tính rằng, nếu một quốc gia duy trì được tốc độ tăng trưởng 5% trong vòng một thế kỷ thì tổng thu nhập quốc dân của quốc gia đó sẽ tăng 135 lần, còn nếu chỉ giữ được ở mức 2% thôi thì tổng thu nhập cũng tăng 10 lần.
- Trong bốn thập kỷ qua, không quốc gia nào duy trì được tốc độ tăng trưởng GDP/đầu người trung bình trên 6%. Nhật Bản, trong 25 năm phát triển mạnh mẽ nhất, tức là trong giai đoạn 1960-1985, chỉ đạt mức tăng trưởng bình quân GDP/đầu người là 5,8%. Xét trong cả 4 thập kỷ, tăng trưởng của Trung Quốc chỉ ở mức 4,8%; các nước Đông Á đạt khoảng 4,4%.
- Nếu xét trong khoảng thời gian một thập kỷ thì kỷ lục về tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình của một quốc gia thuộc về các nước Đông Á. Nhật Bản, Trung Quốc và Singapore đều đã từng đạt được trong một hoặc hai thập kỷ tăng trưởng trung bình trên 10%/năm, còn Hàn Quốc, Đài Loan và Malaysia cũng giữ được mức xấp xỉ 10%.
Bài học lịch sử đó cho thấy rằng đối với một quốc gia, dù ở bất kỳ trình độ phát triển nào, có rất ít khả năng đạt được tốc độ tăng trưởng GDP đầu người trung bình trên 5% trong một giai đoạn dài. Tuy nhiên trong trung hạn, tức là trong vòng khoảng một thập kỷ, khi ở vào những điều kiện thuận lợi cả bên trong và bên ngoài, một nền kinh tế quốc gia có thể đạt tới tốc độ tăng trưởng trung bình xấp xỉ 10%, tức là tỷ lệ tăng trưởng GDP/đầu người khoảng 8%/năm. Tuy nhiên thành tích này rấ ít khi đạt được. Một tỷ lệ tăng trưởng - GDP khoảng 8% (GDP đầu người khoảng 6-6,5%) trong vòng 1 thập kỷ có thề coi là một kết quả khá cao đối với bất kỳ quốc gia nào.
Từ nhận xét trên cho thấy, quốc gia thành công là quốc gia giữ được tốc độ tăng trưởng bền vững trong quá trình phát triển, nhiều quốc gia đã nghiên cứu phân tích các mối quan hệ giữa giữa các yếu tố kinh tế với thể chế quản lý cùng các mối quan hệ khác, để tìm ra mô hình phát triển thích hợp nhất cho quá trình phát triển của mình. Có thể khái quát thành các quan điểm cơ bản về mô hình phát triển cho quá trình phát triển như sau:
- Mô hình dựa trên quan điểm ''Tăng trưởng kinh tế tất yếu dẫn đến bất bình đẳng''. Quan điểm này cho rằng, chỉ có tầng lớp thu nhập cao mới có khả năng tích luỹ, và cũng chính nhờ sự tích tụ tập trung tư bản này đã tạo động lực cho phát triển. Đi kèm theo đó là sự tất yếu của bần cùng hoá. Theo tư tưởng của quan điểm này, trong giai đoạn đầu của phát triển tất yếu phải chấp nhận bất bình đẳng và các vấn đề khác như bất ổn xã hội, môi trường môi sinh. Mọi cố gắng tạo ra bình đẳng đều có thể làm ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Chỉ khi kinh tế phát triển đến một trình độ nhất định khi thu nhập bình quân đầu người đạt đến mọt mức độ nhất định thì sự phân phối lại thu nhập và việc tăng cường chi tiêu công cộng mới không làm ảnh hưởng đến phát triển kinh tế.
- Mô hình dựa trên quan điểm “ưu tiên bình đẳng, giải quyết thỏa đáng các vấn đề xã hội hơn tăng trưởng”. Có lẽ mọi quốc gia đều hướng tới một xã hội công bằng và lành mạnh, chính vì vậy công bằng xã hội ở một khía cạnh nào đó đánh giá như độ phát triển của xã hội đó. Mô hình có bình đẳng và phát triển lành mạnh trước, tăng trưởng sau được áp dụng rộng rãi trong hệ thống xã hội chủ nghĩa (XHCN) trước đây. Nhưng bên cạnh sự tiến bộ của sự bình đẳng thì động lực phát triển của những mô hình này cũng bị triệt tiêu và gánh nặng của chi tiêu công cộng cũng quá lớn. Kết quả các quốc gia đi theo mô hình này không mấy thành công.
- Mô hình dựa trên quan điểm “tăng trưởng đi liền với bình đẳng, giải quyết hợp lý các vấn đề xã hội”. Nó dựa trên quan điểm song song với tăng trưởng là giải quyết bất bình đẳng bằng các chính sách, sự đầu tư hợp lý, như đầu tư đồng đều giữa các khu vực, giải quyết sự chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, giữa doanh nghiệp lớn với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tăng cường chế độ giáo dục, y tế miễn phí vì theo quan điểm này sự bất bình đẳng về học vấn và thể chất sẽ kéo theo bất bình đăng về thu nhập và xã hội trong nhiều thế hệ. Tóm lại, theo quan điểm này bên cạnh tăng trưởng việc nâng cao chất lượng tăng trưởng luôn được coi trọng.
Trên thế giới, nhiều quốc gia tăng trưởng kinh tế nhanh nhưng vẫn ở trong tình cảnh tồi tệ nếu xét ở các góc độ như trình độ học vấn, sức khỏe, tuổi thọ và dinh dưỡng trung bình của người dân. Hai quốc gia điển hình của sự trái ngược nhau là Hàn Quốc và Brazil. Nếu như Hàn Quốc gắn tăng trưởng với công bằng xã hội, thì Brazil, ngược lại, chú trọng đến tập trung phát triển doanh nghiệp quy mô lớn, sử dụng nhiều vốn, các chính sách xã hội ít quan tâm đến dân nghèo. Chính vì vậy, mặc dù có tốc độ tăng trưởng cao trong nhiều năm nhưng họ không giải quyết được vấn đề bất bình đẳng, và chính điều này là nguyên nhân của sự chững lại trong tăng trưởng, thậm chí có nguy cơ khủng hoảng. Trong khi đó, Hàn Quốc là quốc gia có mức độ bất bình đẳng thấp và giữ được tốc độ tăng trưởng cao trong thời gian dài.
Thực tế cho thấy, các nước Đông Á như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc giữ được tốc độ tăng trưởng ổn định trong dài hạn là nhờ giải quyết tốt vấn đề tiến bộ và công bằng xã hội, trong khi các nước châu Mỹ La tinh sau giai đoạn tăng trưởng tốc độ cao đầu thập kỷ 80 thế kỷ trước đã đột ngột dừng lại bởi sự tăng trưởng đó chỉ phiến diện về mặt kinh tế, theo chiều rộng.
2. Kinh tế thị trường định hướng XHCN – con đường phát triển tất yếu của Việt Nam trong thời kỳ quá độ
Hiện nay nhiều nền kinh tế thị trường (KTTT) trên thế giới với sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học công nghệ đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, kéo theo những biến đổi mạnh mẽ về mọi mặt, tuy nhiên, cùng với đó là những nguy cơ không thể tự giải quyết nổi, như:
- Kinh tế phát triển mạnh mẽ, nhưng đi liền với nó là bất công xã hội. Nước Mỹ và các nước tư bản phát triển là minh chứng cho những xã hội mà sự giàu có tăng lên nhưng cùng với nó là bất công xã hội, dẫn đến đa số nhân dân không được hưởng thành quả của chính sự phát triển đó. Hiện nay 20% số dân giàu của họ chiếm gần 90% thu nhập, trong khi 20% số dân nghèo nhất chỉ chiếm chưa đầy 2% thu nhập. Sự bất công này trở thành lực cản, phá hoại tăng trưởng các nền kinh tế đó.
- Thế giới hiện nay đang có sự mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế với sự phát triển xã hội. Nhiều quốc gia, đi kèm với tăng trưởng kinh tế là khủng hoảng xã hội về đạo lý và đời sống tinh thần. Tăng trưởng kinh tế không có mục đích tự thân. Tăng trưởng kinh tế nhằm phát triển xã hội, phát triển con người, nhưng ở các nước này đi cùng với tăng trưởng kinh tế là sự băng hoại của xã hội và con người, là sự xuống cấp của đời sống tinh thần đạo đức.
- Sự mất ổn định về chính trị ở nhiều quốc gia. Sự giàu có về vật chất nhưng không đem lại ổn định về chính trị, là hậu quả của tăng trưởng phiến diện, tăng trưởng không đi đôi với giải quyết các vấn đề xã hội và nhân sinh. Tình hình bất ổn ở các nước khu vực Nam Mỹ, Đông Âu cuối thế kỷ trước, và của các nước Trung Đông và Bắc Phi hiện tại là một minh chứng rõ rệt nhất.
Đương thời, khi khái quát tính nghịch lý trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, Phuriê đã cho rằng trong giai đoạn văn minh, sự nghèo khổ chính là do sự dồi dào mà ra. Cũng trên tinh thần đó C.Mác viết: ''Trong chủ nghĩa tư bản, sự phát triển của kinh tế đi liền với sự suy đồi về đạo đức''.
Vấn đề đặt ra là làm thế nào để có tăng trưởng nhanh mà vẫn bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội. Phát triển kinh tế mà không đảm bảo các xu hướng phát triển này tất yếu sẽ dẫn đến đổ vỡ. Nhà nước tư sản với bản chất là đại điện và bảo vệ quyền lợi chủ yếu cho một nhóm người, mà trước hết là những tập đoàn lớn sẽ không bao giờ bào đảm được tuyệt đối sự phát triển của các xu hướng đó. Để làm được điều này, nền kinh tế đó phải chịu sự chi phối của một nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân. Chỉ có nhà nước đó mới bảo đảm được lợi ích của đại đa số nhân dân lao động, mới định hướng vào sự phát triển của tìm cá nhân, đồng thời là sự phát triển của tập thể cộng đồng và xã hội. Trong lịch sử phát triển của mình, mô hình kinh tế của các nước XHCN (cũ) đã giải quyết tốt tính công bằng và tiến bộ trong phát triển. Nhưng do nhấn mạnh quá đến công bằng và bình đẳng trong các khía cạnh khác để phát triển kinh tế, đặc biệt với trình độ phát triển còn thấp thì sẽ dẫn đến khủng hoảng, thậm chí sụp đổ. Kinh nghiệm của Liên Xô (cũ) và các nước Đông Âu trước đây là một bài học.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục khẳng định một trong nhưng phương hướng cơ bản là phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Như ta biết, KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam là một kiểu tổ chức nền kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của KTTT vừa dựa trên và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối.
Về bản chất, KTTT định hướng XHCN mà chúng ta xây dựng hoàn toàn khác với KTTT của các nước tư bản bởi một số đặc trưng cơ bản sau:
Một là, nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta có mục đích phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH. Chúng ta sử dụng cơ chế thị trường để kích thích sản xuất, phát huy tinh thần năng động, sáng tạo của người lao động, giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhưng mặt khác vẫn lãnh đạo, quản lý nền kinh tế để không đi chệch hướng theo con đường tư bản chủ nghĩa.
Hai là, cũng như các nền kinh tế thị trường ở các nước tư bản, có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế khác nhau, nhưng nếu như trong nền KTTT tư bản chủ nghĩa sở hữu tư bản tư nhân chiếm vị trí thống trị, thì ở nước ta kinh tế nhà nước chiếm vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Ba là, KTTT ở Việt Nam cũng như KTTT ở các nước tư bản đều chịu sự quản lý của nhà nước, nhưng hai nhà nước khác nhau về bản chất. Nhà nước tư sản chủ yếu bảo vệ quyền lợi của giai cấp tư sản, trước hết là những tập đoàn tư bản lớn, còn Nhà nước của ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân nên sẽ bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động và toàn thể nhân dân.
Bốn là, KTTT ở các nước tư bản chủ nghĩa phân phối chủ yếu theo tiền vốn, dẫn đến bất công xã hội, phân chia xã hội thành hai cực giàu nghèo đối lập, còn KTTT định hướng XHCN, thực hiện phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả sản xuất là chủ yếu, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác nhau vào sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Trong nền KTTT định hướng XHCN, tăng trưởng kinh tế gắn với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trong toàn bộ quá trình phát triển và ngay trong từng bước phát triển.
3. Những vấn đề đặt ra và một số giải pháp nhằm bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước phát triển ở Việt Nam
3.1 – Những vấn đề đặt ra ở Việt Nam trong mục tiêu bảo đảm tăng trưởng với tiến độ, công bằng xã hội
Trong 25 năm qua, với việc phát triển KTTT định hướng XHCN, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tích trong phát triển kinh tế (trong l0 năm từ 2010 tốc độ phát triển trung bình là 7,26%) cũng như trong việc bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội (chỉ số HDI cao so với mức GDP/đầu người, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 26% năm 2000 xuống còn khoảng l0% năm 2010, hệ thống an sinh xã hội phát triển tương đối tốt, …), Việt Nam cũng cơ bản hoàn thành Mục tiêu Thiên niên kỷ, tuy nhiên, vẫn còn nhiều bất cập, cụ thể trên một số mặt sau:
Hệ số GINI của Việt Nam
Hệ số GINI được sử dụng làm thước đo về tiến bộ và công bằng xã hội trong phạm vi một quốc gia hoặc vùng, tỉnh. Mức độ bất bình đẳng về thu nhập tăng dần cùng quá trình tăng trưởng, tăng từ 0,33 năm 1992 lên 0,37 năm 2002-2004.
Tuy hệ số Gini tính từ chi tiêu chỉ dao động trong khoảng 0,34 (năm 1993) tới 0,36 (năm 2006) hoặc 0,37 (năm 2004) nhưng Gini tính từ thu nhập lại tăng nhanh từ 0,35 (năm 1993) lên 0,43 (năm 2006), xấp xỉ 0,45 (năm 2010).
Chỉ số phát triển con người (HDI)
Các số liệu thống kê cho thấy Việt Nam hiện có trình độ phát triển con người cao hơn những nước có trình độ kinh tế tương đương do chỉ số phát triển giáo dục cao và chỉ số tuổi thọ tương đối cao. Từ năm 1994 đến năm 2007, xếp hạng chỉ số HDI của Việt Nam đã được nâng lên, từ 120 trên 174 nước lên 105 trên 177 nước. Nhưng, theo Báo cáo Phát triển con người năm 2010, Việt Nam ở vị trí 113 trên 169 quốc gia được đánh giá. Như vây, Việt Nam vẫn nằm ở nhóm cuối của thế giới và ngay cả so với trong khu vực.
Chênh lệch giàu nghèo
- Giữa các nhóm dân cư
Trước hết, sự phân hóa này thể hiện rõ nhất ở mức chênh lệch về thu nhập giữa nhóm giàu và nhóm nghèo: Mức thu nhập bình quân của nhóm giàu (20% người có thu nhập cao nhất) luôn cao hơn 7-8 lần so với nhóm nghèo (20% người có thu nhập thấp nhất) và mức chênh lệch này từ 7.3 lần năm 1996 lên 8.4 lần năm 2006 và hiện nay, hơn 9 lần.
Ngoài ra, Ngân hàng Thế giới thường tính toán tỷ trọng thu nhập của 40% số hộ có thu nhập thấp nhất chiếm trong tổng thu nhập của tất cả các hộ dân cư. Nếu tỷ trọng này nhỏ hơn 12% là có sự bất bình đẳng cao; nằn trong khoảng 12-17% là có sự bất bình đẳng vừa và lớn hơn 17% là có sự tương đối bình đẳng. Trên cơ sở kết quả các cuộc điều tra mức sống hộ gia đình trong những năm qua, có thể tính ra tỷ trọng thu nhập của 40% số hộ có thu nhập thấp nhất so với tổng thu nhập của tất cả các hộ dân cư như sau: Năm 1998 là 18,7%, năm 2002 là 17,98%, năm 2004 là 17,40% và đến nay chỉ còn xấp xỉ 17%. Tỷ trọng này cho thấy xu hướng bất bình đẳng ngày một gia tăng.
- Giữa các vùng
Bên cạnh đó, khoảng cách thu nhập giữa các vùng có xu hướng tăng lên. Trong 10 năm trở lại đây, mức thu nhập của các vùng đều tăng nhưng mức tăng không đồng đều. Ở đồng bằng Sông Hồng và Đông Nam Bộ tăng khoảng 3-4 lần, song ở Tây Bắc và Tây Nguyên chỉ tăng xấp xỉ khoảng 2 lần. Theo số liệu thống kê, chênh lệch về thu nhập giữa các vùng giàu nhất và nghèo nhất tăng từ 2 lần năm 1996 lên 3,5 lần năm 2009.
- Thành thị và nông thôn
Khoảng cách về thu nhập cũng như mức sống giữa thành thị và nông thôn khá lớn cũng là vấn đề. Ở nông thôn nơi có trên 70% dân số sinh sống, song chỉ chiếm 40% thu nhập của cả nước. Trong khi cư dân đô thị sống trên địa bàn vùng 2 và vùng 6 chỉ chiếm 10% dân cư của cả nước nhưng cũng chiếm tới 40% thu nhập của cả nước. Một nghiên cứu gần đây cho biết, thành thị có tới hơn 18% là người giàu, nhiều hơn gấp ba ở nông thôn. Trong khi đó, tỉ lệ người nghèo ở thành thị là gần 8%, bằng một nửa nông thôn. Cùng với sự phân hóa về mức sống và thu nhập là sự phân hóa về giáo dục, y tế, chi tiêu cho văn hóa, giải trí,... và sự khác biệt trong tiếp cận các phúc lợi xã hội khác.
Thực trạng tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường
Việt Nam đã đưa ra chủ trương tăng trưởng bền vững, tức là tăng trưởng nhanh gắn với sự phát triển bền vững, bởi chỉ như vậy mới có được tiến bộ xã hội.
Tuy nhiên, sự phát triển trong thời gian qua của Việt Nam mang trong mình những hiểm họa về môi trường sinh thái. Những năm qua, chúng ta chú trọng vào tăng trưởng kinh tế ít chú ý tới bảo vệ môi trường, nên hiện tượng khai thác bừa bãi và sử dụng lãng phí tài nguyên thiên nhiên, gây nên suy thoái môi trường và làm mất cân đối các hệ sinh thái đang diễn ra phổ biến.
Cùng với đó, là quá trình đô thị hoá tăng nhanh kéo theo sự khai thác quá mức nguồn nước ngầm, ô nhiễm nguồn nước mặt, không khí và ứ đọng chất thải rắn... làm ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường. Sự suy giảm chất lượng môi trường đang ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất và sức khoẻ của con người, trở thành một trong những vấn đề bức xúc đòi hỏi phải giải quyết hiện nay ở Việt Nam.
3.2- Đề xuất một số giải pháp
Những hạn chế nêu trên cần khắc phục kịp thời nếu không sẽ trở thành lực cản cho chính sự phát triển. Quan điểm của Đảng trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 là: ''Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội''3
Trên tinh thần Nghị quyết Đại hội XI về gắn kết hợp lý giữa phát triển kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội ở nước ta giai đoạn tới, chúng tôi xin đưa ra một số giải pháp sau:
Một là, thực hiện phát triến kinh tế nhanh và bền vững. Để đặt được mục tiêu này, cần các biện pháp cụ thể tập trung và chuyên đổi mô hình phát triển kinh tê từ chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững. Cùng với đó, cần phải tái cơ cấu nền kinh tế kết hợp với nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
Hai là, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định XHCN, chú trọng các chính sách nhằm gắn kết hợp lý giữa phát triển kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội.
Bao gồm các giải pháp cụ thể là:
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và các chính sách kinh tế nhằm bảo đảm gắn kết hợp lý giữa phát triển kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội.
- Tiếp tục hoàn thiện chính sách tài khóa, các chính sách xã hội nhằm bảo đảm gắn kết hợp lý giữa phát triển kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội.
- Hoàn thiện chính sách giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ nhằm bảo đảm gắn kết kết hợp lý giữa phát triền kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội.
Thứ ba, gắn kết hợp lý giữa phát triển kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội trên từng lĩnh vực.
Bao gồm các giải pháp cụ thể là:
- Tạo việc làm, kết hợp giáo dục, đào tạo nghề với phát triển thị trường lao động cạnh tranh và chất lượng cao.
- Giải pháp đầu tư phát triển khoa học, công nghệ và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
- Chú trọng an sinh xã hội, chăm sóc sức khỏe con người kết hợp với xóa đói giảm nghèo.
- Bảo đảm các quyền cơ bản của con người, giảm dần những bất bình đẳng và phân tầng xã hội.
- Khắc phục dần sự phát triển chênh lệch giữa các vùng, miền và khu vực.
- Kết hợp các chính sách bảo vệ môi trường với sử dụng tài nguyên hợp lý.
____________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 124.
2. Bosworth and Collins (2003). “The Empiric of Growth: An Updatet”. Brooking Panel on Economic Activity, September 4-5, 2003.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr.98