Góp phần tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh

Đào Duy Tùng

Kỷ niệm 70 năm ngày truyền thống nghành tư tưởng - văn hoá 

Tư tưởng Hồ Chí Minh - sản phẩm của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn Việt Nam - rất phong phú, bao trùm nhiều lĩnh vực. Trong các lĩnh vực đó, Người đã để lại dấu ấn của một thiên tài trí tuệ.Việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh để hiểu rõ hơn, sâu hơn tầm vóc, quy mô, chiều sâu của những di sản quý báu mà Người để lại đòi hỏi công phu của nhiều nhà nghiên cứu. Để góp phần vào việc nghiên cứu nói trên, tôi xin trình bày hiểu biết của tôi về một số nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ yếu là những quan điểm lý luận cách mạng của Người. 

Một là, tư tưởng lớn và sâu sắc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đem lại cho nhân dân Việt Nam là ở chỗ: toàn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng của Người ở trong nước cũng như ở ngoài nước là cuộc đời vì dân, vì nước, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Điều đó được thể hiện rất cô đọng trong câu nói: "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành"(1); "Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì"(2). Đó là ham muốn của Người đối với nhân dân Việt Nam đồng thời cũng là ham muốn của Người đối với nhân dân các dân tộc khác. Đó là lý tưởng, là mục tiêu chiến đấu trong suốt cuộc đời của Người. Lý tưởng ấy, mục tiêu ấy được hình thành không phải ngẫu nhiên, mà trong những điều kiện lịch sử nhất định: truyền thống của gia đình, của quê hương, của dân tộc; thực tiễn của đất nước và thực tiễn của thế giới đương thời mà Người đã trải qua. Lý tưởng của Người được hình thành đầy đủ và có cơ sở khoa học khi Người từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Điều quan trọng là Người đã đưa được lý tưởng ấy vào nhân dân, dẫn dắt nhân dân thực hiện. Làm sáng tỏ bản sắc nội dung, mục tiêu, lý tưởng mà Người đã lựa chọn và căn cứ khoa học của mục tiêu, lý tưởng đó là điều rất quan trọng, nhất là trong tình hình hiện nay. 

Hai là, qua quá trình tìm tòi gian khổ, Người đã tìm ra con đường để thực hiện mục tiêu, lý tưởng nói trên. Đó là con đường gắn chặt độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội mà sau này Đảng gọi là đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Với tư tưởng đó, Người đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, nhiệm vụ dân tộc và nghĩa vụ quốc tế... ở đây nổi lên tài năng của Người trong việc phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về cách mạng ở các nước thuộc địa. Tư tưởng giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử cách mạng Việt Nam từ khi Đảng lãnh đạo tới nay và từ nay về sau. Để hiểu sâu tư tưởng giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội cần dành nhiều thời gian và công sức hơn nữa vào việc nghiên cứu những luận điểm quan trọng của Người như: tư tưởng "Không có gì quý hơn độc lập, tự do"; "con đường cứu nước duy nhất đúng đắn là con đường cách mạng vô sản"; quan hệ giữa cách mạng ở các nước thuộc địa với cách mạng vô sản ở các nước tư bản với hình ảnh hai cánh của con chim và hình ảnh "con đỉa hai vòi"; quan hệ giữa cách mạng dân tộc chủ nghĩa với cách mạng xã hội chủ nghĩa... 

Những vấn đề trên chứa đựng nội dung lý luận sáng tạo của Người. Ví dụ, Người đã nêu lên quan điểm cách mạng ở các nước thuộc địa có quan hệ chặt chẽ nhưng không lệ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc và có thể giành được thắng lợi trước khi cách mạng vô sản ở "chính quốc" thành công. Tư tưởng "Không có gì quý hơn độc lập, tự do", của Người chứa đựng nội dung rất phong phú, một chân lý vĩ đại, được thể hiện súc tích, ngắn gọn và dễ hiểu đối với đồng bào ta, là sản phẩm của quá trình tư duy khoa học lâu dài. Đây không chỉ là sự đúc kết những ước mơ, nguyện vọng, yêu cầu lớn nhất và sâu xa nhất mà còn là sự đúc kết cả những thành công, thất bại, những bài học đấu tranh giành quyền làm chủ đất nước trong hàng nghìn năm lịch sử của dân tộc. "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" không chỉ là mục tiêu, phương châm chỉ đạo cuộc đấu tranh giành độc lập mà còn là tiếng gọi thiêng liêng của non sông, đất nước, động viên nhân dân ta quyết hy sinh để giành và bảo vệ cuộc sống của mình. Tiếng gọi thiêng liêng ấy nảy sinh trên mảnh đất Việt Nam là điều tự nhiên, vì Việt Nam là đất nước có truyền thống chống ngoại xâm rất oanh liệt. ý nghĩa và tầm vóc của khẩu hiệu: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" đã vượt ra khỏi không gian nước ta, được nhiều dân tộc coi như chân lý. 

Khi nghiên cứu để vận dụng tư tưởng giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng rất coi trọng tư tưởng của Người về xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là trong tình hình đổi mới hiện nay. Người không đưa ra những định nghĩa cao xa về chủ nghĩa xã hội. Qua những câu nói rất dễ hiểu chúng ta thấy toát lên quan niệm của Người về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là xây dựng sự phồn vinh cho đất nước; tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, nhân dân lao động là người chủ của đất nước. Để đạt được mục tiêu ấy, phải tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất, cấu trúc thượng tầng. Đảng phải vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ của nhân dân. Đảng phải vững mạnh và trong sạch, Nhà nước phải là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Muốn có chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của nhân dân... Đảng đang vận dụng tư tưởng về xây dựng chủ nghĩa xã hội của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới, trong sự nghiệp lãnh đạo đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 

Ba là, nói đến tư tưởng Hồ Chí Minh, cần nói đến sự sáng tạo vĩ đại của Người về phương pháp cách mạng. Đó là phương pháp cách mạng tổng hợp. Với phương pháp đó, Đảng ta đã khơi dậy được mọi tiềm năng, mọi lực lượng, đủ sức đánh thắng quân thù. Đó là sức mạnh của bạo lực chính trị của quần chúng kết hợp với bạo lực vũ trang, sức mạnh của truyền thống kết hợp với sức mạnh hiện đại, sức mạnh của dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại. Phương pháp cách mạng bạo lực được vận dụng sáng tạo vào điều kiện Việt Nam thể hiện rất rõ nét trong chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc thành lập "Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân", trong chủ trương khởi nghĩa từng phần, thành lập các khu căn cứ cách mạng, trong cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, trong chủ trương toàn dân kháng chiến, kháng chiến toàn diện thời kháng chiến chống thực dân Pháp. Và, đến cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thì phương pháp cách mạng đó được phát triển đến đỉnh cao. 

Phương pháp cách mạng tổng hợp không chỉ có giá trị chỉ đạo trong chiến tranh, mà còn có giá trị chỉ đạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Khi Đảng đề ra chủ trương tiến hành ba cuộc cách mạng (hiện nay ta gọi là tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực: quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất cấu trúc thượng tầng) thì đó cũng chính là chúng ta đã sử dụng phương pháp cách mạng tổng hợp trong điều kiện mới. Hoặc như hiện nay, để khai thác được mọi tiềm năng của nhân dân, của đất nước cho việc phát triển sản xuất, Đảng thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, chủ trương mở rộng hợp tác, liên doanh, liên kết... 

Bốn là, tư tưởng Hồ Chí Minh còn được thể hiện rất rõ nét ở sự chỉ đạo chiến lược, sách lược rất tài tình của Người. Trong quá trình cách mạng Việt Nam nảy sinh rất nhiều vấn đề về chỉ đạo chiến lược, sách lược phải xử lý; mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến trong cách mạng dân tộc dân chủ; mối quan hệ giữa cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở miền nam; quan hệ giữa mục tiêu cơ bản và mục tiêu trước mắt, vấn đề tạo thời cơ và nắm thời cơ; vấn đề lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù; vấn đề giành thắng lợi từng bước tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn... Chỉ đạo chiến lược để giải quyết đúng đắn những vấn đề trên có thể nói là rất khó khăn và phức tạp. Hơn đâu hết, ở đây đòi hỏi sự nhạy cảm về chính trị, óc thông minh sáng tạo, sự dày dạn kinh nghiệm, khả năng đánh giá chính xác tình hình, tính quyết đoán... Chủ tịch Hồ Chí Minh là người tiêu biểu trong những phẩm chất đó, là người thầy về nghệ thuật chỉ đạo chiến lược và sách lược trong cách mạng. Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (năm 1941) do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì đi tới những quyết định lớn về điều chỉnh chiến lược, trong đó có việc tạm thời gác khẩu hiệu đòi ruộng đất, chủ trương tạo ra thời cơ và nắm thời cơ để tiến hành thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 và việc ký Hiệp định sơ bộ ngày 6-3-1946... là những chứng minh cụ thể về thiên tài chỉ đạo chiến lược, sách lược của Bác Hồ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đúng là con người của những quyết định lịch sử ở những bước ngoặt lịch sử. Hiện nay, Đảng đang vận dụng tư tưởng trên của Người phù hợp với điều kiện mới để giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quá trình đổi mới, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. 

Năm là, Chủ tịch Hồ Chí Minh không những là nhà tư tưởng lớn, nhà chiến lược thiên tài, mà còn là nhà tổ chức vĩ đại với hệ thống quan điểm về tổ chức rất sáng tạo. Lê-nin đã từng nói: Tổ chức, tổ chức và tổ chức, "hãy cho chúng tôi một tổ chức những người cách mạng, và chúng tôi sẽ đảo ngược nước Nga lên"(3). Chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta đã suốt đời làm công tác tổ chức, khi hoạt động ở nước ngoài cũng như ở trong nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh là Người sáng lập và rèn luyện Đảng, sáng lập Mặt trận dân tộc thống nhất, sáng lập lực lượng vũ trang nhân dân, sáng lập chính quyền nhân dân. Những quan điểm lý luận của Người trên lĩnh vực tổ chức giữ vị trí rất quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều đó được thể hiện ở những phương châm, những chủ trương, những biện pháp xây dựng các tổ chức cách mạng, điều hành việc thực hiện các nhiệm vụ cách mạng... 

Trong việc thành lập và xây dựng Đảng, Người đã đề ra nhiều luận điểm, trong đó có luận điểm có tính chất bao trùm làm cơ sở cho việc xây dựng Đảng, đó là luận điểm: Đảng ta là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lê-nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. 

Người đã xây dựng lực lượng vũ trang với quan điểm "từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu"; lực lượng ấy đã được nhân dân tin yêu tặng cho danh hiệu cao quý "Anh bộ đội Cụ Hồ". Câu nói của Người mà nhân dân ta từ già đến trẻ trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước ai cũng nhớ: "Trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng" là tư tưởng chỉ đạo việc xây dựng thành công lực lượng vũ trang anh hùng của nhân dân ta. 

Người đã xây dựng Nhà nước ta với quan điểm "nhân dân là người chủ đất nước", "chính quyền từ cơ sở đến trung ương đều do nhân dân bầu ra, vì nhân dân mà phục vụ", "cán bộ Nhà nước là đầy tớ của nhân dân chứ không phải là ông quan cách mạng". 

Người đã xây dựng khối đoàn kết toàn dân với chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Tư tưởng vĩ đại chỉ đạo việc xây dựng khối đoàn kết toàn dân, xây dựng Mặt trận dẫn tới thống nhất, một nhân tố quyết định những thắng lợi của cách mạng Việt Nam là: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công". Tư tưởng lớn đó đã cổ vũ, tập hợp lực lượng toàn dân trong cuộc đấu tranh lâu dài giành độc lập. Tư tưởng lớn đó đang tiếp tục cổ vũ, tập hợp lực lượng toàn dân trong công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 

Từ trong việc tổ chức các lực lượng cách mạng, toát lên tư tưởng bao trùm của Người: "nước lấy dân làm gốc", "cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào", "mọi việc đều do dân và vì dân", "nhân dân là lực lượng quyết định thắng lợi của cách mạng". Trong kháng chiến chống Mỹ, Người thường nhắc đến câu nói của nhân dân: "Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong". 

Sáu là, cái tạo nên con người Hồ Chí Minh vĩ đại không chỉ ở tư duy lý luận sáng tạo, ở những quyết định chiến lược thiên tài, ở những hoạt động tổ chức kiên trì, bền bỉ, rất có hiệu quả, mà còn ở đạo đức, phong cách hoạt động cách mạng của Người. Hơn ai hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng việc rèn luyện đạo đức cách mạng, bởi vì "sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang"(4). Người cho rằng đạo đức cách mạng là "nền tảng", là "cái gốc" là "sức mạnh" của người cán bộ cách mạng. Với Người, đạo đức cách mạng là những giá trị đạo đức truyền thống được nâng cao bởi các quan điểm đạo đức mác-xít - lê-nin-nít. Nó không phải là cái gì trừu tượng, cao xa, mà là những điều bình thường, hết sức cụ thể và dễ hiểu. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta là hiện thân của người cách mạng suốt đời sống vì dân, vì nước, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng con người; con người "giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục", "cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư", con người, vĩ đại nhưng rất bình dị, lời nói đi đôi với việc làm... Nhà thơ Tố Hữu đã có nhận xét về Người: 

Bác sống như trời đất của ta 
Yêu từng ngọn lúa, mỗi nhành hoa, 
Tự do cho mỗi đời nô lệ, 
Sữa để em thơ, lụa tặng già. 


Với những giá trị tư tưởng nói trên, Người không những đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, mà còn góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin. 

Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân ta đang tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện theo tinh thần Nghị quyết Đại hội VI và Đại hội VII của Đảng. Trong quá trình đổi mới, Đảng ta luôn luôn kiên trì và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm giải quyết kịp thời và đúng đắn những vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn cách mạng. 

Quán triệt những tư tưởng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh và thực hiện Di chúc thiêng liêng của Người, chúng ta kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa mà Người đã chọn, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, quyết tâm phấn đấu xây dựng Việt Nam thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, giàu mạnh, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, công bằng và dân chủ. Đó chính là cách tốt nhất thể hiện lòng trung thành của chúng ta với lý tưởng và sự nghiệp của Người, thể hiện tình cảm và lòng biết ơn sâu sắc của chúng ta đối với người.

(*) Rút trong sách: Một số vấn đề về công tác tư tưởng, NXB Chính trị quốc gia (xuất bản lần thứ 2) 1999, trang 155-163 
(1)- Hồ Chí Minh: Tuyển tập, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1980, t.I, tr.381. 
(2)- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1984, t.4, tr.35. 
(3)- V.I.Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1978, t.6, tr.162. 
(4)- Hồ Chí Minh: Tuyển tập: Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1980, t.2, tr.94.

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Quy trình kỷ luật đảng viên thuộc thẩm quyền của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư

(ĐCSVN) - Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường vừa ký Quyết định số 165-QĐ/TW ngày 6/6/2024 của Bộ Chính trị ban hành Quy trình xem xét, thi hành kỷ luật đối với tổ chức Đảng, đảng viên thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Về thẩm quyền của người đứng đầu trong việc tạm đình chỉ công tác với cán bộ cấp dưới

(ĐCSVN) - Ngày 23/5/2024, đồng chí Lương Cường đã ký ban hành Quy định 148-QĐ/TW về thẩm quyền của người đứng đầu trong việc tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ cấp dưới trong trường hợp cần thiết hoặc khi có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Quy định về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới

(ĐCSVN) - Ngày 9/5, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Quy định số 144-QĐ/TW của Bộ Chính trị về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới.

Bộ Chính trị ban hành quy định phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong điều tra, xét xử

(ĐCSVN) – Ngày 27/10/2023, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 132-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Liên kết website