Sáng tạo là một quá trình, trong đó những cá nhân sáng tạo có tính nhạy cảm cao đối với một vấn đề mà người khác không có. Khi đứng trước những hoàn cảnh phức tạp, người có tính nhạy cảm cao sẽ biến những tình huống cực kỳ khó khăn thành vấn đề để giải quyết, từ đó cân nhắc, khám phá để tìm ra cách giải quyết. Sáng tạo là tạo ra cái mới. Hoạt động sáng tạo là vượt ra khỏi cái cũ, kinh nghiệm cũ. Sáng tạo là biểu hiện cao của đời sống nội tâm, của tâm hồn con người. Sáng tạo còn là sự lựa chọn những phương pháp mới, phương tiện mới với cách giải quyết mới.
Sáng tạo cách mạng khác với những hoạt động sáng tạo khác. Nó xuất hiện trong những tình huống cách mạng và có tác dụng to lớn làm thay đổi tình huống cách mạng. Sáng tạo cách mạng là sự thay đổi về chất phương pháp, phương thức và cách giải quyết các vấn đề cách mạng đặt ra. Đó là việc đưa ra chiến lược và sách lược cách mạng mới, cách biện giải hoàn toàn mới, phương pháp cách mạng mới. Sáng tạo cách mạng có vai trò to lớn thúc đẩy xã hội phát triển.
Xuất phát từ cách hiểu bản chất khái niệm sáng tạo cách mạng như vậy, chúng ta có thể đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu những sáng tạo cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Nhìn lại quá trình vận động của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX chúng ta thấy, vị lãnh tụ của Đảng, của cách mạng Việt Nam luôn luôn thể hiện tinh thần của một nhà cách mạng sáng tạo. Dù ở đâu, vào thời điểm nào Hồ Chí Minh cũng luôn luôn nắm vững bản chất các sự kiện và các mối liên hệ bên trong và bên ngoài, từ đó đưa ra chủ trương, giải pháp, cách ứng xử hợp lý nhất, sáng tạo nhất. Có nhiều tư liệu về cách ứng xử thông minh, tinh tế của Người, thể hiện một nhân cách sáng tạo cao cả. Bài viết này, chỉ khai thác và nhấn mạnh thêm một số hoạt động sáng tạo cách mạng của Hồ Chí Minh có tác dụng tạo ra những chuyển biến cách mạng đối với dân tộc và thời đại.
1. Sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc lựa chọn con đường giải phóng cho dân tộc Việt Nam.
Vào cuối thế kỷ thứ XIX và những năm đấu thế kỷ XX, cả dân tộc Việt Nam bị đè nén bởi hai tầng áp bức, bóc lột của đế quốc Pháp và chế độ phong kiến nhà Nguyễn. Không cam chịu làm nô lệ, nhân dân Việt Nam đã liên tiếp đứng lên chống bọn đế quốc thực dân nhưng không thành công. Các sĩ phu yêu nước đều trăn trở về con đường giải phóng dân tộc, nhưng chỉ có anh thanh niên Nguyễn Tất Thành đã hành động hết sức sáng tạo mang tính cách mạng. Được Phan Bội Châu định đưa sang Nhật để du học và để làm cách mạng, nhưng Nguyễn Tất Thành đã từ chối vì Anh nghĩ rằng, nhờ Nhật chống Pháp thì chẳng khác nào "đưa cọp cửa trước, rước beo cửa sau". Nguyễn Tất Thành cho rằng, cần phải tìm hiểu về thế giới, về nước Pháp trước khi lựa chọn con đường cách mạng cho dân tộc mình. Tháng 6- 1911, Nguyễn Tất Thành đã tâm sự: "Tôi muốn đi ra ngoài, xem nước pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, Tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta"l.
Điều này thể hiện trí tuệ và sự mẫn cảm chính trị đặc biệt của Anh. Trong tình thế cách mạng lúc đó, những con đường cách mạng, những phương pháp cũ như khởi nghĩa nông dân của Hoàng Hoa Thám, Đông du của Phan Bội Châu hay Đông kinh nghĩa thục của Lương Văn Can đều đi đến bế tắc, thì việc lựa chọn một con đường mới, độc đáo là một sáng tạo cách mạng. Trải qua gần l0 năm lăn lộn với cuộc sống khó khăn, với phong trào cách mạng các nước phương Tây, chịu ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga, người thanh niên yêu nước Nguyễn ái Quốc (bí danh của Nguyễn Tất Thành) mới tìm đến được với chủ nghĩa Mác - Lênin và nhận ra con đường tất yếu mà cách mạng Việt Nam phải đi để giải phóng cho dân tộc mình. Tháng 7- 1920, khi đọc "Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa" của V.I.Lênin, Nguyễn ái Quốc đã khẳng định con đường Cách mạng Việt Nam là tiến hành cách mạng vô sản giải phóng dân tộc và xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là kết quả quan trọng của tư duy sáng tạo cách mạng của Hồ Chí Minh trong việc lựa chọn con đường cách mạng. Nó vượt ra khỏi tư duy chính trị của người Việt Nam đương thời và đến với ánh sáng của thời đại mới là chủ nghĩa Mác - Lênin.
2. Hồ Chí Minh tích cực tham gia phong trào cộng sản quốc tế trước khi tiến hành vận động phong trào cách mạng Việt Nam.
Theo chúng tôi, đây cũng là một sự sáng tạo cách mạng của Người. Khi nghiên cứu về Hồ Chí Minh, chúng ta thấy nguyện vọng tha thiết nhất của Người là giải phóng dân tộc, nhưng không đi theo con đường đấu tranh cho độc lập dân tộc của các bậc tiền bối như Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, v.v. Mặt khác, trong khi tìm con đường giải phóng cho dân tộc, Người đã tích cực tham gia phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, tham gia ĐCS Pháp; tham gia các tổ chức chính trị, xã hội ở Pháp; viết báo, viết văn chống thực dân Pháp; tổ chức ra Hội liên hiệp thuộc địa; tham gia quốc tế nông dân; tham gia Ban phương Đông QTCS; dự Đại hội V QTCS; dự Đại hội III Quốc tế Công hội đỏ, v.v. Đây là nét đặc trưng của sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh. Người đã nhận ra rằng, kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa là của giai cấp vô sản là bọn đế quốc thực dân, Vì thế cần phải đấu tranh chống kẻ thù chung đó. Người viết: "Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nếu muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi còn lại kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản, con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt sẽ lại mọc ra"2.
Mặt khác, việc tham gia phong trào cộng sản quốc tế giúp cho Nguyễn ái Quốc có thêm những kinh nghiệm hoạt động cách mạng, tăng thêm những hiểu biết về chủ nghĩa Mác - Lênin, trau dồi phẩm chất, đạo đức uy tín của người cách mạng. Tham gia hoạt động cách mạng thế giới, Người đã xây dựng mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, với phong trào cộng sản quốc tế. Thực chất là, bắt đầu từ hoạt động sáng tạo của Nguyễn ái Quốc trong những năm 20 - 30 của thế kỷ XX, phong trào cách mạng Việt Nam đã gắn bó chặt chẽ với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
3. Chuẩn bị lực lượng tiên phong cho cách mạng Việt Nam
Xuất phát từ quan điểm cho rằng, muốn có phong trào cách mạng phải có lực lượng cách mạng tiên phong cho nên ngay từ những năm 1924 - 1925, Nguyễn ái Quốc đã đề nghị QTCS cử đi Quảng Châu để xúc tiến việc xây dựng phong trào công nhân và cộng sản ở Đông Nam á, chỉ đạo phong trào nông dân ở châu á, chuẩn bị thành lập ĐCS Việt Nam. ở đây, Người đã mở các lớp huấn luyện chính trị và tháng 6-1925 Người thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Trong thời gian này, Người đã đào tạo, bồi dưỡng được một thế hệ cách mạng đầu tiên, làm hạt nhân cho phong trào giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp ở Việt Nam. Khi phân tích sự sáng tạo của Nguyễn ái Quốc trong hoạt động này, có thể rút ra một số bài học sau:
- Việc Nguyễn ái Quốc về Quảng Châu để xây dựng phong trào cách mạng ở Đông Nam á và phong trào nông dân châu á là bước đi cách mạng hợp với lôgic phát triển của sự nghiệp cách mạng của Người. Sau khi tìm được con đường giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, Người xúc tiến ngay việc giác ngộ quần chúng về con đường cách mạng. Việc kết hợp nhiệm vụ chung do QTCS giao và nhiệm vụ đối với cách mạng Việt Nam là một sáng tạo độc đáo của Nguyễn ái Quốc.
- Để giác ngộ quần chúng về con đường cách mạng Việt Nam, Nguyễn ái Quốc đã tập hợp những thanh niên yêu nước đầy nhiệt huyết cách mạng để bồi dưỡng, giáo dục lý tưởng cách mạng, đường lối và phương pháp cách mạng. Đây là sự bắt đầu hết sức sáng tạo, vì Người đã nhìn thấy ở những người thanh niên trẻ này những triển vọng to lớn có thể tham gia vận động và lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Những học trò cách mạng đầu tiên của Người như Trần Phú, Lê Hồng Phong, Nguyễn Lương Bằng, Phạm Văn Đồng, v.v. đã có những cống hiến rất xứng đáng cho phong trào cách mạng Việt Nam. Từ lớp thanh niên đầu tiên này, chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá vào Việt Nam, ĐCS Việt Nam được thành lập với đường lối đúng đắn ngay từ đầu, đội quân cách mạng Việt Nam đã từng bước nhân lên, phát triển thành làn sóng cách mạng mạnh mẽ, nhấn chìm mọi lực lượng phản cách mạng, nhấn chìm mọi âm mưu xâm lược của các đế quốc, thực dân hùng mạnh như phát xít Nhật, thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Xuất phát từ luận điểm của Lênin: "Không có lý luận cách mạng thì không có cách mạng vận động... Chỉ có theo lý luận cách mạng tiên phong, Đảng cách mạng mới làm nổi trách nhiệm cách mạng tiên phong", Nguyễn ái Quốc chuẩn bị lực lượng bắt đầu bằng việc giáo dục lý luận cách mạng cho thanh niên. Bằng hoạt động giáo dục lý luận và đưa lý luận cách mạng vào phong trào quần chúng, Nguyễn ái Quốc đã thấm nhuần sâu sắc tư tưởng của Các Mác: "Lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bởi sức mạnh vật chất, nhưng lý luận sẽ trở thành sức mạnh vật chất khi thâm nhập vào quần chúng"3.
4. Chủ tịch Hồ Chí Minh phát hiện, khơi dậy và tổ chức thành công sức mạnh "dời non, lấp biển" của dân tộc Việt Nam.
Là người theo chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh nhận thức rất sâu sắc vai trò của quần chúng trong lịch sử. Nhưng sáng tạo của Người là ở chỗ, sớm nhận thấy nhân dân Việt Nam "có một lòng nồng nàn yêu nước, đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước"4. Hồ Chí Minh cũng nhận ra rằng, ngoài công nhân và nông dân, lực lượng "gốc" của cách mạng, thì tiểu tư sản trí thức, binh lính và những tầng lớp khác có thể tham gia cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, khi họ yêu nước, căm thù bọn đế quốc, thực dân, mong muốn đất nước độc lập. Đây là điểm đặc biệt sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Những quan điểm như vậy không hoàn toàn đồng nhất với một số đồng chí lãnh đạo của QTCS trong thời gian đó. Hơn ai hết, Hồ Chí Minh là người nhận thấy sức mạnh to lớn của dân tộc Việt Nam đang bị rên xiết dưới gót giày của bọn đế quốc, thực dân. Bằng sự kiên trì và sáng tạo của mình, Người đã khơi dậy tinh thần yêu nước quật cường của hàng chục triệu đồng bào cả nước, tổ chức thành một đội quân bách chiến, bách thắng. Sáng tạo lớn lao của Hồ Chí Minh là đã xây dựng được ĐCS cho giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu lợi ích của toàn dân tộc; xây dựng Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, của dân, do dân và vì dân, mà không xoá nhoà bản chất giai cấp của Đảng và Nhà nước. Hồ Chí Minh đã vượt qua bệnh giáo điều để vận dụng một cách tài tình lý luận về Đảng, về Nhà nước, về cách mạng trong những tình huống phức tạp nhất.
5. Sáng tạo trong cuộc chiến tranh nhân dân vĩ đại của dân tộc Việt Nam.
Một dân tộc nhỏ bé, nghèo nàn và lạc hậu đã vùng lên đấu tranh và chiến thắng những kẻ thù lớn nhất, hùng mạnh nhất thế giới như thực dân Pháp, đế quốc Mỹ. Từ những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra tương quan lực lượng giữa ta và thực dân Pháp:
"Chúng nhiều là mấy vạn
Mình mấy triệu đồng bào
Chúng đường xa mỏi mệt
Mình "dĩ dật đãi lao"5
ở đây đã thể hiện rõ tư tưởng cơ bản về chiến tranh nhân dân của Người. Theo Hồ Chí Minh, nếu toàn dân Việt Nam đoàn kết đồng lòng và được sự lãnh đạo đúng đắn của một chính đảng cách mạng thì không kẻ thù nào có thể đè bẹp được dân tộc ta. Ngày 8- 12- 1956, nói chuyện tại lớp nghiên cứu chính trị khoá II, trường Đại học nhân dân Việt Nam, Hồ Chí Minh đã mượn câu "Nhân chi sơ, tính bản thiện" trong Tam tự kinh làm đầu đề bài nói chuyện. Sau đó, Người nói: "Nhân nghĩa là nhân dân. Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân"6. Dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, dân tộc Việt Nam đã tiến hành một cuộc chiến tranh nhân dân vĩ đại chưa từng có trong lịch sử. Đó là sức mạnh của ý chí đoàn kết, sự hy sinh, lòng dũng cảm của nhân dân đã được phát huy cao độ và kẻ thù của chúng ta đã nếm mùi thất bại cay đắng khi chạm trán với đội quân cách mạng do Hồ Chí Minh tổ chức và lãnh đạo. Để chuẩn bị cho việc giải phóng và bảo vệ đất nước, bảo vệ chính quyền, Người đã nghiên cứu nghệ thuật chiến tranh của Trung Quốc cổ đại, đặc biệt là binh pháp của Tôn Tử và phép dùng binh của Khống Minh, kinh nghiệm truyền thống của Việt Nam và lý luận chiến tranh nhân dân của chủ nghĩa Mác - Lênin. Tin vào dân, tin vào sức mạnh của nhân dân là nguyên tắc cơ bản của tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh. Nó đã liên kết hàng triệu con người vào cuộc trường chinh vì độc lập tự do, vì CNXH. Nó tạo nên một đội quân điệp điệp, trung trùng như đại ngàn trường xuân bất lão. Nó nhấn chìm mọi thế lực xâm lăng và các thế lực phản động. Để phát huy sức mạnh to lớn của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng một hệ thống chính trị cách mạng, xây dựng, củng cố ĐCS Việt Nam làm hạt nhân của khối đại đoàn kết dân tộc, làm lãnh tụ của cuộc chiến tranh nhân dân. ĐCS Việt Nam đã trở thành danh dự, lương tâm và trí tuệ của dân tộc Việt Nam. Ngày nay, ĐCS Việt Nam là trung tâm của khối đại đoàn kết dân tộc, là đội quân tiên phong lãnh đạo sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam.
6. Sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại.
Hồ Chí Minh không chỉ là lãnh tụ thiên tài, anh hùng giải phóng dân tộc của nước Việt Nam, mà còn là một danh nhân văn hoá kiệt xuất của thế giới, là chiến sĩ lỗi lạc của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Tháng 5- 1924, Nguyễn ái Quốc viết bài "Đoàn kết giai cấp" ca ngợi tinh thần đấu tranh của công nhân hàng hải Braxin chống bọn thực dân; đồng thời ca ngợi tinh thần đoàn kết của những người công nhân da trắng và công nhân da đen sau cuộc đấu tranh này để bảo vệ anh công nhân dũng cảm Riô Đê Hanâyrô. Cuối bài viết, Người kết luận: "Vậy là dù da màu có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản"7. Người đứng về phía những người bị áp bức, bóc lột để chống lại bọn áp bức bóc lột. Theo lôgic đó, những người vô sản toàn thế giới và các dân tộc thuộc địa đều là anh em và phải đoàn kết lại chống kẻ thù chung là bọn đế quốc thực dân. Người viết lời kêu gọi đồng bào ta trong cuộc chống Mỹ, cứu nước: "Chúng ta có chính nghĩa, chúng ta có sức mạnh đoàn kết của hàng chục triệu đồng bào, lại được sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, trong đó có nhân dân Mỹ. Chúng ta nhất định thắng"8.
Yêu nước thiết tha nhưng không sa vào chủ nghĩa dân lộc hẹp hòi. Hồ Chí Minh tin rằng, nhân loại tiến bộ sẽ ủng hộ sự nghiệp của chúng ta, vì cuộc đấu tranh bảo vệ đất nước của chúng ta là chính nghĩa. Sự thật là cả thế giới đã ủng hộ nhân dân Việt Nam. Ngay tại nước Mỹ, nhiều thanh niên, trí thức Mỹ phản đối cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của đế quốc Mỹ, có người đã tự thiêu để phản đối. Chính vì biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại mà chúng ta đã làm nên những chiến công hiển hách, ghi vào lịch sử dân tộc những trang sủ hào hùng. "Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đã đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX một sự kiện có tầm quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc"9.
Những sáng tạo cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là hết sức phong phú và sinh động, cần phải có công trình khoa học lớn hơn, nghiên cứu một cách đầy đủ hơn và hệ thống hơn để khai thác như một di sản quý báu của dân tộc Việt Nam cho các thế hệ cách mạng tương lai kế thừa và phát triển.
Tạp chí Lịch sử Đảng, số 5/2000
In bài
1. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch. NXB CTQG - NXB Thanh niên, H, 1994, tr. 12
2. Hồ Chí Mitth Toàn tập, ST, H, 1980, T. 1, tr.454
3. Các Mác, Ph.Angghen, Tuyển tập, ST, H, 1980, T.1, tr.25
4. "Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng lao động Việt Nam", ngày 11-2-1951.
5. "Bài ca du kích" trong Hồ Chí Minh Toàn tập, CTQG, H, 1995, T.3, tr.244
6. Sđd, T.8, tr.276
7. Sđd, T. 1, tr.266
8. "Lời kêu gọi chống Mỹ cứu nước" trong Hồ Chí Minh Toàn tập. CTQG, H, 1996, T. 12, tr. l07
9. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam