Tư tưởng Hồ Chí Minh về thế giới quan và đường lối đối ngoại vì hoà bình, hợp tác và phát triển

Phạm Gia Khiêm

Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao 

Lịch sử quan hệ quốc tế cho thấy mỗi quốc gia đều cần đến một nền tảng tư tưởng đúng đắn để nhận thức thế giới và định hướng cho con thuyền quốc gia trong thế giới đó. Từ khi ra đời (1945) đến nay, nước Việt Nam hiện đại đã có một nền tảng tư tưởng vững chắc, đó là Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại - một hệ thống quan điểm về các vấn đề quốc tế, về chiến lược, sách lược cách mạng Việt Nam trong quan hệ với thế giới1. Trên thực tế, toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam nói chung cũng như công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta nói riêng từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời đã và đang mang đậm dấu ấn tư tưởng và hành động của Người. Một bộ phận quan trọng trong tư tuởng đối ngoại Hồ Chí Minh là thế giới quan và đường lối đối ngoại của Người vì hòa bình hợp tác và phát triển. Đây là kim chỉ nam đưa con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua bao thác ghềnh và đem lại những thắng lợi vẻ vang cho Ngoại giao Việt Nam. Tình hình thế giới và nhiệm vụ cách mạng Việt Nam dẫu trải qua nhiều thay đổi to lớn, nhưng tư tưởng của Người về thế giới quan và đường lối đối ngoại vẫn sáng ngời giá trị lý luận và thực tiễn. Những nghiên cứu sâu hơn về tư tưởng của Người về đối ngoại nói chung và về thế giới quan, chiến lược đối ngoại nói riêng vừa đem lại những nhận thức mới mẻ vừa góp phần làm phong phú và vững chắc hơn nền tảng lý luận của ngoại giao Việt Nam trong thời đại mang tên Hồ Chí Minh.

Thế giới quan Hồ Chí Minh

Thế giới quan Hồ Chí Minh là cách mà Người nhìn nhận về thế giới. Các đặc điểm nổi bật trong cách phân tích đánh giá thế giới của Người là luôn đặt Việt Nam trong dòng chảy của thế giới, coi trọng các trung tâm quyền lực lớn, các trào lưu lớn, đồng thời đề cao chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc.

Thực vậy, một trong những đặc điểm quan trọng của thế giới quan Hồ Chí Minh là Người luôn đặt Việt Nam vào sự phát triển chung của thế giới, tìm ra “muôn ngàn mối dây liên hệ” giữa Việt Nam với thế giới rộng lớn bên ngoài. Đó là bởi Người luôn xuất phát từ quan điểm “tình hình thế giới dính dáng mật thiết với nước ta”2, và “các cuộc đấu tranh cách mạng của các dân tộc, bất kỳ gần hay xa, to hay nhỏ, đều có quan hệ với nhau”3. Năm 1944, Người nêu rõ: “Mọi người đều phải theo trào lưu cách mạng thế giới... Việt Nam là một bộ phận của thế giới, cũng không thể đi ngược dòng lịch sử được”4.

Về mặt lý luận, mối quan hệ giữa Việt Nam và thế giới trong tư tưởng Hồ Chí Minh được xây dựng trên cơ sở phương pháp luận mácxít. Đó là xem xét các vấn đề quốc tế trong một trạng thái tổng thể, coi một nước là một bộ phận của thế giới với các mối quan hệ qua lại lẫn nhau. Người viết: “nước ta là một bộ phận của thế giới, mọi việc trong thế giới đều có quan hệ với nước ta, việc gì trong nước ta cũng quan hệ với thế giới”5. Đây là sự thể hiện rõ nhất của cách tiếp cận mang tính hệ thống, biện chứng và duy vật lịch sử mácxít trong quan hệ quốc tế. Hồ Chí Minh đã vận dụng phương pháp hệ thống trong đánh giá cục diện và tình hình thế giới của chủ nghĩa Mác để nắm bắt các vấn đề quốc tế một cách khoa học. Người thường nhắc tới một luận điểm quan trọng của Lênin: Chỉ có dựa trên cơ sở hiểu biết những đặc điểm cơ bản của một thời đại, chúng ta mới có thể tính đến những đặc điểm chi tiết của nước này hay nước nọ. Nói cách khác, chủ nghĩa Mác-Lênin đã tạo nên sức mạnh khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Trong đánh giá cục diện thế giới, Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh đến các trào lưu lớn. Đó là những tư tưởng tiến bộ của thời đại, những mô hình phát triển mới có tính chất khai sáng và giải phóng cho những phong trào cách mạng và tiến bộ xã hội, từ đó hình thành những trào lưu phát triển trong tình hình thế giới. Người đã phát hiện ra sức mạnh của chủ nghĩa xã hội với tư cách là một mô hình quan hệ quốc tế mới, sức mạnh của phong trào giải phóng dân tộc (được hỗ trợ bởi chủ nghĩa xã hội) với tư cách là một lực lượng mới trong quan hệ quốc tế, và sức mạnh của phong trào hòa bình với tư cách là nguyện vọng chung của nhân loại tiến bộ. Chính vì thế, Người nhấn mạnh, “điểm mấu chốt để làm cách mạng thành công là phải nhận thấy rõ luật thiên hạ tiến hoá để bước tới đường chính đạo” và “Mọi người đều phải theo trào lưu cách mạng thế giới”6.

Người nhìn thấy cuộc cách mạng ở nước Nga là đại diện cho một trào lưu mới, một thế lực mới trong nền chính trị quốc tế. Người cho rằng do cuộc cách mạng Nga mà tư tưởng cộng sản truyền bá khắp thế giới, trở thành “trào lưu tư tưởng của thời đại”. Người viết: Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu, mọi người đều bình đẳng về kinh tế, đời sống và sự sinh tồn của mỗi người dân đều được đảm bảo, đó là những tư tưởng từ thiện, tương thân tương ái, nhân dân ấm no, thế giới đại đồng. Với cách hiểu đó, Hồ Chí Minh nhận định: “Thời đại chúng ta là thời đại vẻ vang, thời đại thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, của độc lập dân tộc, của hòa bình và dân chủ; là thời đại suy yếu của chủ nghĩa đế quốc''7. Trong một hoàn cảnh khác, Người bổ sung: ''Thời đại chúng ta là thời đại các dân tộc bị áp bức đứng lên giành quyền độc lập và tự do của mình. Chủ nghĩa thực dân đang tan rã và không bao lâu nữa sẽ bị tan rã hoàn toàn''8.

Như vậy, với nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của những xu thế thời đại, việc đưa cách mạng Việt Nam đi đúng dòng chảy của thời đại sẽ tăng sức mạnh của cách mạng nước ta lên gấp bội. Hồ Chí Minh, bằng phương pháp khoa học, đã phát hiện được điều này: không chỉ tìm đồng minh ở các nước lớn và các nước bạn bè mà còn phải đưa vào xu thế lớn của thời đại. Trên cơ sở đó, Người đã khởi xướng con đường kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong chiều dài lịch sử hiện đại Việt Nam.

Bên cạnh những trào lưu lớn, Hồ Chí Minh cũng đề cao vai trò của các nước lớn, các trung tâm quyền lực lớn trong cục diện thế giới. Lênin khi phân tích về chủ nghĩa đế quốc đã lưu ý đến sự vận hành của quy luật phát triển không đồng đều của chủ nghĩa tư bản, theo đó một số nước đã phát triển nhanh hơn các nước khác và từ đó thách thức các nước mà nó đuổi kịp và vượt. Hệ quả là quan hệ quốc tế chủ yếu xoay xung quanh một số nước và trung tâm quyền lực lớn. Cũng với cách tiếp cận này, trong lĩnh vực chính trị quốc tế, Hồ Chí Minh luôn quan tâm tới sự xuất hiện của các trung tâm quyền lực lớn và phân tích mâu thuẫn giữa các trung tâm quyền lực đó để dự báo chiều hướng vận động của cục diện thế giới và khu vực. Khi phân tích về tình hình Việt Nam đầu thế kỷ XX, Hồ Chí Minh sớm thấy rằng các trung tâm quyền lực không chỉ là Trung Quốc, Nhật Bản mà bao gồm nhiều nước lớn như Đức, Anh, Mỹ9. Người đã nhận thức sâu sắc vai trò quyết định của nước lớn trong cơ cấu quyền lực thế giới, và cho rằng: Đời sống và xã hội hiện nay phụ thuộc trước hết vào những trung tâm công nghiệp lớn mạnh và vào những đường giao thông. Các nước lớn có vai trò quan trọng đối với vấn đề chiến tranh và hòa bình. Người nhận xét: ''Thế giới hòa bình có thể thực hiện nếu các nước trên thế giới, nhất là những nước lớn, đều sẵn sàng giải quyết những xích mích giữa các nước lớn bằng cách thương lượng''10. Nhưng như Người chỉ rõ, trở ngại lớn nhất để thực hiện hòa bình thế giới nằm trong chính sách ''thực lực'', chính sách tăng cường quân bị, chuẩn bị chiến tranh của vài cường quốc11. Khi thuyết ''châu Âu là trung tâm'' vẫn còn chi phối tư duy địa - chiến lược trên thế giới, trong bài “Đông Dương và Thái Bình Dương” viết năm 1924, Người phân tích: “Vì đã thành một trung tâm mà bọn đế quốc tham lam đều hướng cả vào nhòm ngó, nên Thái Bình Dương và các thuộc địa xung quanh Thái Bình Dương, tương lai có thể trở thành một lò lửa của cuộc chiến tranh thế giới mới”12.

Nhưng điểm then chốt trong thế giới quan của Hồ Chí Minh vẫn là chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc,  lợi ích dân tộc. Đây là những tiêu chí quan trọng để nhìn nhận các nước trong cộng đồng quốc tế, để phân biệt bạn - thù, để xác định đối tượng hợp tác và đấu tranh, để giúp tìm lối đi cho con thuyền cách mạng Việt Nam, phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc, độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Thực vậy, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa dân tộc là động lực của hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Người từng nhận xét: ''Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”13. Người đã nhận thấy sức mạnh vô địch của lòng yêu nước qua câu nói nổi tiếng: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nuớc”14. Từ chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh cũng nêu cao “lợi ích dân tộc”, nhấn mạnh “phải có tinh thần dân tộc vững chắc”15 . Người căn dặn: “muốn làm gì cũng cần vì lợi ích dân tộc mà làm”16 và “phải luôn luôn vì lợi ích của dân tộc mà phục vụ''17.

Nhưng theo Người, lợi ích dân tộc không trái với lợi ích của Đảng, của giai cấp mà có mối quan hệ khăng khít, chặt chẽ với nhau, đều phục vụ công cuộc giải phóng dân tộc, thống nhất và kiến thiết đất nước. Việc xử lý sáng tạo, khéo léo mối quan hệ giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp có ý nghĩa quan trọng đối với cách mạng nước ta. Trước khi cuộc Cách mạng Tháng Tám nổ ra, Người cho rằng thực hiện quyền lợi dân tộc trước sẽ tạo tiền đề cho thực hiện quyền lợi giai cấp. Người dạy: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”18.

Đối với người, chủ nghĩa Mác-Lênin không hạn chế việc theo đuổi lợi ích dân tộc. Lợi ích dân tộc sẽ được thực hiện bằng việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể. Viết cho độc giả Liên Xô, Người nhấn mạnh: “Phải có đường lối cách mạng đúng, có đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo đúng. Đường lối ấy chỉ có thể là đường lối của chủ nghĩa Mác-Lênin được vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của dân tộc”19. Trong một số hoàn cảnh nhất định, điều kiện cụ thể của dân tộc sẽ quyết định phương cách hành động và theo người, đó mới là mácxít.

Lợi ích dân tộc cũng là tiêu chí để đánh giá bạn - thù, phân hoá và tập hợp lực lượng. Người cho rằng: ''Đối với người, ai làm gì lợi ích cho dân, cho Tổ quốc ta đều là bạn. Bất kỳ ai làm điều gì có hại cho nhân dân và Tổ quốc ta tức là kẻ thù. Đối với mình, những tư tưởng và hành động có lợi cho Tổ quốc, cho đồng bào là bạn. Những tư tưởng và hành động có hại cho Tổ quốc và đồng bào là kẻ thù. Thế là chẳng những ở ngoài, mà chính trong mình ta cũng có bạn và thù. Vì vậy chúng ta cần phải ra sức tăng cường bạn ở trong và ở ngoài, kiên quyết chống lại kẻ thù ở ngoài và trong mình ta''20. Trong một hoàn cảnh khác, Người nói: “Muốn làm cách mạng thắng lợi thì phải phân biệt rõ ai là bạn ai là thù, phải thực hiện thêm bầu bạn, bớt kẻ thù. Mọi người yêu nước và tiến bộ là bạn của ta''21.

Tuy nhiên theo Người, chủ nghĩa dân tộc không được là thứ chủ nghĩa hẹp hòi và cần giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa quốc tế chân chính. Trong bối cảnh bất đồng của phong trào cộng sản công nhân quốc tế, ngày 3-8-1956, Hồ Chí Minh viết trên báo Sự thật (Liên Xô), đưa ra luận điểm sáng tạo về mối liên hệ nêu trên: “Trong tình hình quốc tế hiện nay, những đặc điểm dân tộc và những điều kiện riêng biệt ở từng nước ngày càng trở thành nhân tố quan trọng trong việc vạch ra chính sách của mỗi đảng cộng sản và mỗi đảng công nhân... nhưng đồng thời chúng tôi cũng hiểu rõ rằng không thể nào hạn chế những hoạt động hiện nay và tương lại của chúng tôi trong khuôn khổ dân tộc thuần túy, rằng những hoạt động đó có muôn ngàn sợi dây liên hệ với cuộc đấu tranh chung của thế giới tiến bộ''22.

Tóm lại, quá trình hoạt động cách mạng và đến với chủ nghĩa Mác-Lênin của Hồ Chí Minh đã giúp trang bị cho Người phương pháp luận biện chứng mácxít, chủ nghĩa duy vật lịch sử cùng quan điểm toàn diện cũng như hệ thống để tiếp cận cục diện thế giới với tư cách là một đối tượng nghiên cứu động và phức tạp. Trong thế giới quan Hồ Chí Minh, các nhân tố chi phối quan hệ quốc tế, bộ phận hoặc toàn cục, như các chủ thể chủ yếu trong quan hệ quốc tế, các quy luật chi phối sự vận động quanh giữa các nước lớn và các trung tâm chính trị - kinh tế lớn, các xu thế phát triển của tình hình và đặc điểm của thời đại đều có vị trí rất quan trọng. Đồng thời, nhân tố then chốt để “neo'' thế giới quan của Người chính là chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc và lợi ích dân tộc. Những tư tưởng này của người vẫn mang ý nghĩa thời sự trong thế giới đầu thế kỷ XXI và được kết tinh thành những nét chính của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhìn nhận và đánh giá thế giới một cách khoa học.

Hồ Chí Minh với đường lối đối ngoại vì hòa bình, hợp tác và phát triển

Hòa bình, hợp tác và phát triển luôn là nội dung xuyên suốt của ngoại giao Việt Nam. Hòa bình, độc lập tự chủ để phát triển và phát triển nhằm bảo vệ hòa bình, độc lập tự chủ là khát khao cháy bỏng và là mục tiêu của sự nghiệp đấu tranh anh dũng của dân tộc Việt Nam với sự hy sinh xương máu của biết bao thế hệ người Việt. Dưới thời đại Hồ Chí Minh, Người đã phát triển đường lối đối ngoại vì hòa bình, hợp tác và phát triển lên tầm cao mới.

Trước hết, đường lối đối ngoại vì hòa bình có vị trí quan trọng trong tư tưởng đối ngoại của Hồ Chí Minh, là mong mỏi của Người và của cả dân tộc trong bối cảnh đất nước bị xâm lược, chia cắt. Đường lối ấy cũng xuất phát từ truyền thống nhân văn, hòa bình, hòa hiếu của dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước và đến thời đại Hồ Chí Minh, nhân tố này được khái quát hóa và phát huy cao độ. Đối với Người, hòa bình không phải chỉ là nền hòa bình cho riêng dân tộc Việt Nam mà cho cả các dân tộc và thế giới nói chung. Trong bản thông cáo đầu tiên về chính sách đối ngoại của Chính Phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (3-10-1945), Người đã đề ra mục tiêu giữ gìn hòa bình thế giới: “Đối với các nước đồng minh, Việt Nam mong muốn duy trì hữu nghị và thành thật hợp tác trên cơ sở bình đẳng và tương trợ, để xây dựng nền hòa bình thế giới lâu dài”. Đầu năm 1947, Hồ Chí Minh nói: “Chúng tôi muốn hòa bình ngay để máu người Pháp và Việt ngừng chảy. Những dòng máu đó chúng tôi đều quý như nhau”. Người khẳng định: “nhân dân Việt Nam vĩnh viễn không để cho bất cứ kẻ nào xâm lược nước mình, đồng thời cũng vĩnh viễn không xâm lược nước khác''.

Hồ Chí Minh cũng chỉ ra “đế quốc chủ nghĩa là nguồn gốc chiến tranh'', ''muốn giữ gìn hòa bình một cách thiết thực thì phải ra sức chống đế quốc chủ nghĩa''. Đồng thời Người coi hòa bình trên thế giới có mối quan hệ chặt chẽ với cách mạng trong nước. Người nêu rõ ''phong trào hòa bình phải gắn liền với phong trào độc lập dân tộc'' và ''gìn giữ hòa bình thế giới tức là giữ gìn lợi ích của nước ta. Vì lợi ích của nhân dân lao động khắp thế giới là nhất trí. Tinh thần yêu nước và tinh thần quốc tế liên hệ khăng khít với nhau. Vì lẽ đó, ta vừa ra sức kháng chiến, vừa tham gia phong trào ủng hộ hòa bình''.

Chủ trương về thúc đẩy hợp tác quốc tế vì hòa bình, độc lập dân tộc và phát triển của Người được thể hiện cụ thể, sinh động trong các giai đoạn khác nhau của cách mạng Việt Nam. Trong sự nghiệp giải phóng dân tộc trên thế giới, Người thường tuyên truyền, cổ động cho lời hiệu triệu đanh thép của Lênin: ''Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức liên hiệp lại''. Người đã vận động và hoạt động tích cực cho sự ra đời của các tổ chức như Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa, Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông... nhằm thúc đẩy sự liên kết hợp tác giữa các dân tộc bị áp bức.

Không chỉ đoàn kết, hợp tác với các dân tộc đang bị áp bức, Người đặc biệt coi trọng hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa. Đến đầu những năm 1950, khi điều kiện trong nước và quốc tế đã thuận lợi hơn, Người đã đưa chủ trương mở rộng quan hệ quốc tế thành hiện thực với việc Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao với một loạt nước như Trung quốc, Liên Xô, Triều Tiên và các nước dân chủ nhân dân khác ở Đông Âu. Thực tiễn của quá trình hợp tác, đặc biệt là sự giúp đỡ vật chất và tinh thần to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa đã dành cho Việt Nam trong những năm đất nước tiến hành công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa trên miền Bắc và kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã thể hiện tính đúng đắn của đường lối đối ngoại này của Người.

Hồ Chí Minh cũng khẳng định đa dạng hóa quan hệ quốc tế, làm bạn với tất cả các nước dân chủ. Đây là một tư tưởng vượt thời đại khi xét đến bối cảnh phân cực sâu sắc của chính trị quốc tế từ sau Chiến tranh thế giới thứ II. Trả lời câu hỏi của S. Elie Maissie, phóng viên hãng tin Mỹ (lntemational News Service), tháng 9-1947, về những đại cương chính sách đối ngoại của nước Việt Nam dựa theo tình thế quốc tế hiện giờ, Hồ Chủ tịch khẳng định: Việt Nam muốn “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”23; “Việt Nam sẽ hợp tác với mọi nước vui lòng hợp tác thật thà và bình đẳng với Việt Nam”24. Trả lời phỏng vấn hãng tin AFP, tháng 7-1956, Hồ Chủ tịch khẳng định: “Chính sách đối ngoại của chúng tôi là lập quan hệ tốt với tất cả các nước muốn lập quan hệ ngoại giao với chúng tôi trên cơ sở có đi có lại, bình đẳng và tôn trọng năm nguyên tắc chung sống hòa bình”25.

Một phần quan trọng trong đường lối đối ngoại của Hồ Chí Minh là hợp tác với các nước láng giềng ở châu ÁNgười cho rằng: ''Thái độ của nước Việt Nam với những nước Á châu là một thái độ anh em'', để phân biệt thái độ “đối với ngũ cường (Liên Xô, Anh, Pháp, Mỹ và Trung Quốc) là một thái độ bạn bè”. Người nói: ''Số phận của tất cả dân Á châu buộc chặt với nhau. Các anh em Á châu, hãy giúp anh em Việt Nam trong cuộc đấu tranh cho độc lập và thống nhất. Chúng tôi trông cậy vào sự ủng hộ tinh thần và vật chất mà các anh em có thể giúp được''.

Đặc biệt, Người hết sức chú trọng đến quan hệ với các nước láng giềng có chung đường biên giới như Trung Quốc, Lào và Campuchia. Từ khi trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người đã mang lại nhiều nội dung mới mẻ cho mối quan hệ Việt-Trung thời kỳ hiện đại. Bằng trí tuệ ưu việt và tài năng ngoại giao xuất chúng, Hồ Chí Minh đã viết nên một chương mới đặc sắc cho lịch sử bang giao giữa hai nước láng giềng mà ở giai đoạn này được Người khái quát một cách chính xác ''vừa là đồng chí, vừa là anh em''.

Bí quyết thành công của chủ tịch Hồ Chí Minh trong quan hệ với Trung Quốc là đã vận dụng được kinh nghiệm ngoại giao của ông cha và ứng xử phù hợp với truyền thống lịch sử của quan hệ Việt Nam và Trung Quốc; đề cao những điểm đồng giữa hai dân tộc; xây đắp quan hệ thân thiết giữa nhân dân hai nước; không ngừng củng cố, xây dựng lòng tin giữa hai Đảng, hai Nhà nước; tăng cường đoàn kết Việt - Trung trong phong trào cộng sản quốc tế, đồng thời phát triển quan hệ hai nước phù hợp với các mối quan hệ toàn cầu mới và trong sự tương tác với các nước lớn khác. Hơn thế nữa, Hồ Chí Minh còn có sự hiểu biết sâu sắc về các giá trị truyền thống và hiện đại Trung Hoa, tâm thức văn hoá Trung Hoa, cũng như tâm lý và chính trị đối nội của Trung Quốc, nhờ đó tạo dựng được các quan hệ tốt đẹp, ổn định, thông cảm, tôn trọng lẫn nhau giữa hai Đảng, hai chính phủ và nhân dân hai nước, cũng như quan hệ cá nhân các nhà lãnh đạo, tranh thủ được sự ủng hộ vật chất và tinh thần to lớn của chính phủ và nhân dân Trung Quốc.

Với Lào và Campuchia, Hồ Chí Minh chủ trương thực hiện chính sách dân tộc tự quyết và tăng cường đoàn kết giữa ba nước Đông Dương nhằm đấu tranh chống kẻ thù chung. Nước Việt Nam độc lập do Người làm Chủ tịch khẳng định: “đặc biệt đối với nhân dân bạn Khơme và Lào, nước Việt Nam đặt mối quan hệ dựa trên nguyên tắc dân tộc tự quyết đã từng chịu ách đô hộ của Pháp, nhân dân ba nước lẽ dĩ nhiên phải cùng nhau đấu tranh để cởi ách đô hộ đó, giúp đỡ lẫn nhau giành lại và duy trì nền độc lập của mình... ba nước sẽ giúp đỡ lẫn nhau trong công cuộc kiến thiết và cùng nhau tiến lên trên con đường tiến bộ”26. Trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, Việt Nam đã triển khai các chính sách với Lào và Campuchia vừa nguyên tắc, vừa linh hoạt, phù hợp với tình hình mỗi nước. Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với các Vương quốc Lào và Campuchia dựa trên 5 nguyên tắc chung sống hòa bình, ủng hộ nền trung lập của Lào và Campuchia, mặt khác giúp đỡ các lực lượng kháng chiến ở hai nước này phù hợp với tình hình cụ thể ở từng thời kỳ.

Đặc biệt, cách ứng xử của Hồ Chí Minh trong quan hệ với các nước lớn là một phần không thể thiếu trong tư tưởng đối ngoại của Người. Vị trí địa - chiến lược của Việt Nam cũng như sự dính líu trực tiếp của hầu hết các nước lớn vào bán đảo Đông Dương đặt Hồ Chí Minh vào vị trí đặc biệt để xử lý quan hệ với các nước lớn. Những nguyên lý mà Người nêu ra liên quan đến mối quan hệ này là một trong những nội dung quan trọng nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh. Các nguyên tắc, sách lược và phương châm xử thế của Hồ Chí Minh, cũng như những bài học trong quan hệ với các nước lớn, là những di sản quí giá của ngoại giao Việt Nam.

Câu hỏi xuyên suốt đối với Hồ Chí Minh là làm thế nào để một nước tương đối nhỏ như Việt Nam tồn tại và phát triển trong vận động phức tạp giữa các nước lớn và làm sao một nước nhỏ có thể thắng được các “đế quốc to”? Đây là những vấn đề cốt lõi trong việc theo đuổi quyền lợi quốc gia của Việt Nam. Những đối sách của Hồ Chí Minh luôn xuất phát từ sự am hiểu các nước lớn là đồng minh, cũng như nước lớn là đối phương, biết được mối quan tâm và chiến lược cơ bản của họ, hiểu bản chất của nền chính trị, ngoại giao nước lớn và những giới hạn của các mối quan hệ đó. Điều quan trọng nữa là người đã tạo dựng được mối quan hệ thoả đáng, không vì quan hệ với nước lớn này gây ra đối kháng với nước lớn khác; giải quyết quan hệ trước mắt đã tính đến hệ quả và chiều hướng phát triển lâu dài; đồng thời luôn đặt quan hệ này trong tổng thể các mối quan hệ khu vực và toàn cầu.

Trong ứng xử với các nước lớn, Người luôn dựa trên cơ sở các nguyên tắc giữ vững độc lập tự chủ, tranh thủ hợp tác quốc tế, vừa hợp tác, vừa đấu tranh và bảo đảm lợi ích chính đáng của dân tộc. Trong những năm tháng kháng chiến, dù Việt Nam còn nhiều khó khăn, song Người nêu rõ yêu cầu cần phát huy tự lực cánh sinh, “muốn người ta giúp cho thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”. Đồng thời Người cũng coi trọng phương châm có đi có lại trong quan hệ với các nước, trong đó có các nước lớn. Việt Nam sẵn sàng hợp tác, trợ giúp các nước lớn trong chừng mực có thể và phù hợp với lợi ích dân tộc Việt Nam. Người nhấn mạnh ''mình được hưởng cái hay của người thì phải có cái hay cho người ta hưởng''.

Quan hệ với các nước lớn luôn đòi hỏi sự khôn khéo, nhạy bén và thực tế ứng xử tài tình của Hồ Chí Minh đã giúp đưa cách mạng Việt Nam đi đến thành công. Người nhận xét: nằm tại vị trí trung lập, giáp giới nhiều nước ''thì ta ngoại giao cho khéo''. Người nêu phương châm ngoại giao, trước hết trong quan hệ với nước lớn: ''dàn xếp sao cho đại sự thì thành tiểu sự và tiểu sự thì thanh vô sự''27. Trong hoạt động ngoại giao, Hồ Chủ tịch căn dặn: ''Người ta cương thì mình phải nhu, phải khôn khéo lấy nhu thắng cương thì mới là biết mình biết người'' và ''phải hiểu cả hai bên mới có thể làm tròn nhiệm vụ''28.

Một bộ phận quan trọng khác trong đương lối đối ngoại của Hồ Chí Minh là phục vụ phát triển, phục vụ kiến thiết đất nước. Không chỉ hợp tác với các nước láng giềng anh em, các nước xã hội chủ nghĩa, các nước dân chủ, Hồ Chí Minh còn chủ động hoan nghênh các nước tư bản. Ngày 23-10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố: “…Chúng ta hoan nghênh những người Pháp muốn đem tư bản vào xứ ta khai thác những nguồn nguyên liệu chưa có ai khai thác. Có thể rằng: chúng ta sẽ mời những nhà chuyên môn Pháp, cũng như Mỹ, Nga hay Tàu, đến đây giúp việc cho chúng ta trong cuộc kiến thiết quốc gia. Nhưng, phải nhắc lại rằng, điều kiện chính vẫn là họ phải thừa nhận nền độc lập của xứ này. Nếu không vậy, thì không thể nói được chuyện gì cả29. Sau này, trong kháng chiến chống Mỹ, Người nói rõ: “Người Mỹ đến Việt Nam để bắn giết, để bị giết chết là điều sỉ nhục, nhưng người Mỹ đến để giúp đỡ Việt Nam với tư cách là nhà kinh doanh, chuyên gia kỹ thuật thì họ sẽ được nhân dân Việt Nam nhiệt liệt hoan nghênh”30. Như vậy, hợp tác, phát triển đã được Người nhấn mạnh nhưng đồng thời Người cũng nêu rõ điều kiện của nó là phải bảo đảm độc lập tự chủ của Việt Nam. Theo đó, độc lập tự chủ là nguyên tắc không thay đổi, còn hợp tác quốc tế và cùng phát triển là để phục vụ kiến thiết (đất nước sau khi giành độc lập, nhưng không vì hợp tác, phát triển mà đánh mất độc lập tự chủ.  

Tháng 12-1946, Người đã chủ trương hướng nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ tới hợp tác, hội nhập quốc tế: “Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực: a) Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ thuật củn mình;  b) Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế; c) Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc”31.

Đường lối đối ngoại vì hòa bình, hợp tác và phát triển giữa các dân tộc của Hồ Chí Minh có sức sống vượt thời gian. Trên con đường phát triển của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục đường lối đối ngoại Hồ Chí Minh vì hòa bình, hợp tác và phát triển bởi lẽ đường lối ấy có lợi cho Việt Nam, có lợi cho các dân tộc ở khu vực và trên thế giới.

Tóm lại, những tư tưởng của Hồ Chí Minh về thế giới quan và đường lối đối ngoại vì hòa bình, hợp tác và phát triển giữa các dân tộc có cơ sở lý luận khoa học vững chắc từ cách tiếp cận của chủ nghĩa Mác-Lênin về sự phát triển xã hội và lý luận mác xít về cách mạng vô sản. Đồng thời, tư tưởng của Người còn bắt nguồn từ chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa dân tộc, tinh hoa văn hóa của người Việt Nam. Những tư tưởng của người do đó luôn có giá trị lớn trong nghiên cứu tình hình thế giới và xây dựng đường lối, chiến lược đối ngoại của nước ta qua các giai đoạn lịch sử khác nhau. Vận dụng tư tưởng của Người, chúng ta có được phương pháp luận đúng đắn để phân tích nhiều hiện tượng mới của đời sống quốc tế hiện đại nói chung và đặc biệt soi sáng cho hoạt động đối ngoại của Việt Nam trong thế kỷ XXI. Chính vì thế, tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại tiếp tục là kim chỉ nam dẫn đường cho cách mạng Việt Nam nói chung và sự nghiệp đối ngoại của Việt Nam nói riêng. Trong mỗi bước tiến của dân tộc, những người chiến sĩ trên mặt trận đối ngoại lại tìm được những triết lý và chỉ dẫn quý báu từ tư tưởng Hồ Chí Minh và càng nhận thức sâu sắc hơn kho tư tưởng đó, để thực hiện tốt hơn nhiệm vụ đối ngoại được Đảng, Bác Hồ và nhà nước giao phó.

______________

Chú thích:

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2001, tr.83. Xem Đinh Xuân Lý: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và sự vận dụng của Đảng trong thời kỳ đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2007, tr.8.

2,3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.6, tr.170, 452.

4,6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.3, tr.465, 464.

5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.7, tr.455

7,8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.9, tr.307, 357.

9. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.3, tr.171.

10. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.7, tr.281.

11. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.8, tr.201.

12. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.1, tr.243-244.

13. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.10, tr.128.

14. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.6, tr.171.

15. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.7, tr.455.

16,17. Hồ Chủ tịch nói chuyện tại Hội nghị ngoại giao 1964, Hồ sơ lưu trữ Bộ Ngoại giao Việt Nam.

18. Hồ Chí Minh: Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2006, t.2, tr.138.

19. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.11, tr.493.

20. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.7, tr.454.

21. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.10, tr.605.

22. Hồ Chí Minh: Tuyển tập, Nxb. Sự thật, H.1960, tr.596.

23, 24. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.5, tr.220, 676.

25. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.8, tr.219.

26. Thông cáo ngày 3-10-1945 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

27. Hồ Chí Minh: Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2006, t.3, tr.184.

28. Báo Văn nghệ số 36, ngày 4-9-1993.

29, 30. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.4, tr.74, 470.

31. Đặng Văn Thái: Tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác quốc tế và vận dụng trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2009, tr. 59.

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Quy trình kỷ luật đảng viên thuộc thẩm quyền của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư

(ĐCSVN) - Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường vừa ký Quyết định số 165-QĐ/TW ngày 6/6/2024 của Bộ Chính trị ban hành Quy trình xem xét, thi hành kỷ luật đối với tổ chức Đảng, đảng viên thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Về thẩm quyền của người đứng đầu trong việc tạm đình chỉ công tác với cán bộ cấp dưới

(ĐCSVN) - Ngày 23/5/2024, đồng chí Lương Cường đã ký ban hành Quy định 148-QĐ/TW về thẩm quyền của người đứng đầu trong việc tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ cấp dưới trong trường hợp cần thiết hoặc khi có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Quy định về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới

(ĐCSVN) - Ngày 9/5, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Quy định số 144-QĐ/TW của Bộ Chính trị về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới.

Bộ Chính trị ban hành quy định phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong điều tra, xét xử

(ĐCSVN) – Ngày 27/10/2023, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 132-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Liên kết website