Chủ tịch Hồ Chí Minh với mối quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Lào

PGS, TS. Nguyễn Hoàng Giáp

Viện Quan hệ quốc tế, Học viện CT- HCQG Hồ Chí Minh 

Là vị lãnh tụ kính yêu của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam, chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản, công nhân và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, một danh nhân văn hoá kiệt xuất của nhân loại ở thế kỷ XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Trên phương diện quan hệ quốc tế, Hồ Chí Minh đã nêu một mẫu mực điển hình phấn đấu cho sự phát triển tình đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc, kết hợp một cách nhuần nhuyễn, tài tình chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân, trong đó sự đóng góp to lớn của Người đối với sự phát triển quan hệ giữa Việt Nam và Lào là một biểu hiện sinh động nhất.

Thật vậy, ngay từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định rõ tình đoàn kết và liên minh chiến đấu Việt - Lào có vai trò đặc biệt quan trọng trong tiến trình cách mạng mỗi nước. Hồ Chí Minh trở thành người đặt nền móng, đồng thời đã cống hiến không mệt mỏi xây dựng, vun đắp mối quan hệ hữu nghị, tình đoàn kết đặc biệt giữa hai dân tộc Việt Nam và Lào. Những thắng lợi của cách mạng Việt Nam, của cách mạng Lào hơn nửa thế kỷ qua, là sự khẳng định trên thực tế tính đúng đắn và sự sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế nói chung và tình đoàn kết hữu nghị thuỷ trung trong quan hệ Việt - Lào nói riêng.    

Trên hành trình tìm đường giải phóng dân tộc, với lòng yêu nước nồng nàn và sự nhạy cảm chính trị thông tuệ, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã từng bước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tiếp cận tư tưởng giải phóng của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Từ thực tế tình hình trong nước cùng với những kinh nghiệm trực tiếp tham gia hoạt động cách mạng và nghiên cứu lý luận sau nhiều năm bôn ba ở nước ngoài, Người đưa ra đường lối cứu nước mới mang tính nhân văn cao cả và có ý nghĩa thời đại sâu sắc: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản". Trong hoàn cảnh Việt Nam và các nước Đông Dương còn chìm trong đêm tối của chủ nghĩa thực dân và phong kiến, với việc tìm ra con đường cứu nước đúng đắn, Nguyễn Ái Quốc chẳng những là người có công đầu trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước ở Việt Nam, mà cũng là người đầu tiên góp phần giải quyết cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước ở Lào, đưa sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Việt Nam và Lào hoà quyện vào nhau, nương tựa lẫn nhau, mở ra một trang mới trong quan hệ giữa nhân dân hai nước cùng hướng tới mục tiêu chung là giải phóng dân tộc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Xuất phát từ nhận thức đúng đắn rằng: muốn làm cách mạng, trước hết phải có chính đảng cách mạng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã khẩn trương chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho sự thành lập một chính đảng mácxít-lêninit. Thời kỳ vận động thành lập Đảng, Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng về con đường cứu nước mới vào Việt Nam và Lào, trước hết thông qua hoạt động sôi nổi của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên được đích thân Người sáng lập từ tháng 6 năm 1925. Đặc biệt, những năm hoạt động trong phong trào Việt kiều ở Đông Bắc Thái Lan, giáp biên giới Thái - Lào (1928 - 1929), Người đã trực tiếp tìm hiểu thực tế tình hình đời sống các bộ tộc Lào, chỉ đạo xây dựng các chi hội của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Lào. Sự truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng cứu nước mới của Nguyễn Ái Quốc và  các hội viên Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã từng bước chuẩn bị về nội dung và phương hướng phát triển cho cách mạng giải phóng dân tộc, đồng thời thúc đẩy và làm chuyển biến thật sự phong trào đấu tranh cách mạng ở Việt Nam và Lào. Mặt khác, bằng những dẫn chứng xác thực, tiêu biểu với lý lẽ rất đanh thép, Người tố cáo mạnh mẽ những tội ác của đế quốc thực dân và phong kiến ở ba nước Đông Dương, khơi dậy trong nhân dân lao động bị áp bức lòng căm thù sâu sắc đối với chế độ đương thời lúc đó, khích lệ tinh thần yêu nước thương nòi, ý chí độc lập tự cường, vùng lên đấu tranh cứu nước, giải phóng dân tộc.

Khi các điều kiện khách quan và chủ quan đã chín muồi, Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 2-1930, sau đổi thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Sự ra đời của Đảng thực sự trở thành sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân, phong trào yêu nước ở Việt Nam và các nước Đông Dương. Những vấn đề cơ bản của Cương lĩnh cách mạng (Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt) do Hồ Chí Minh đề ra tại Hội nghị thành lập Đảng đã được Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tiếp thu, cụ thể hoá trong Luận cương chính trị (10-1930) trở thành ngọn cờ tổ chức và lãnh đạo chung nhân dân ba nước Đông Dưong. Cũng từ đây, sự nghiệp giải phóng dân tộc của hai nước Việt Nam và Lào gắn liền với sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Cách mạng hai nước bước sang giai đoạn phát triển mới, gắn bó mật thiết với nhau và hoà vào dòng thác tiến bộ của lịch sử, trở thành bộ phận cấu thành hữu cơ của trào lưu cách mạng thế giới. Đánh giá về sự kiện này, cố Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản từng khẳng định: "Từ đó dưới sự lãnh đạo của Đảng Mác - Lênin chân chính, với ngọn cờ cách mạng dân tộc, dân chủ, cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân các bộ tộc Lào bước sang thời kỳ mới với chất lượng hoàn toàn mới"1.

Những hoạt động cách mạng không mệt mỏi của Hồ Chí Minh, đặc biệt kể từ khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời, đã tạo ra những chuyển biến có ý nghĩa bước ngoặt trong tiến trình cách mạng của cả Việt Nam và Lào. Tại Lào, từ đầu những năm 30, nhiều chi bộ của Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập ở Viêngchăn, Pakxế, Thàkhẹt, Savannakhệt, Boneng, Phônchiu. Các tổ chức quần chúng như công hội, thanh niên, phụ nữ, hội tương tế... ra đời ở các thành phố, thị xã và các khu công nghiệp. Sự lớn mạnh của phong trào cách mạng đòi hỏi phải có sự lãnh đạo thống nhất trong toàn quốc, do đó vào tháng 9/1934, Xứ uỷ Ai Lao của ĐCS Đông Dương được thành lập, đảm nhận sứ mệnh trực tiếp đưa phong trào cách mạng ở Lào tiếp tục tiến lên. Dưới sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng thuộc Xứ uỷ Ai Lao, những cuộc đấu tranh lớn của quần chúng xuất hiện, tiêu biểu là hai cuộc đình công lớn của công nhân đầu năm 1936 ở Boneng và Phônchiu chống chế độ hà khắc của giới chủ, đòi tăng lương, cải thiện điều kiện làm việc. Những năm 1937-1938, phong trào đấu tranh lan rộng đến công nhân đồn điền ở Xiêngkhoảng; nông dân ở Thàkhẹt biểu tình chống thuế, tiểu thương ở chợ Viêng Chăn bãi thị,...

Trong hoàn cảnh nêu trên, Hồ Chí Minh với cương vị là người sáng lập, lãnh đạo Đảng Cộng sản Đông Dương, càng có điều kiện thông qua những hoạt động phong phú, trên nhiều lĩnh vực, ở nhiều địa bàn khác nhau, đặc biệt thông qua hệ thống tổ chức của Đảng, phát triển tình đoàn kết chiến đấu và sự phối hợp hành động giữa các lực lượng cách mạng hai nước Việt - Lào, giúp đỡ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các bộ tộc Lào. Quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam, trên thực tế, đã tạo ra những điều kiện khách quan hết sức thuận lợi cho tiến trình phát triển của cách mạng Lào giành thắng lợi; và ngược lại, cuộc đấu tranh của nhân dân các bộ tộc Lào đã hỗ trợ tích cực đối với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam.

Bước sang thời kỳ 1939-1945, trên cơ sở phân tích một cách đúng đắn những chuyển biến mau lẹ của tình hình thế giới cũng như ở trong nước, có ảnh hưởng trực tiếp tới vận mệnh cách mạng ba nước Đông Dương, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Đông Dương đã có sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng. Hội nghị Trung ương 8 của Đảng (3-1941), do Hồ Chí Minh chủ trì, xác định giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của nhân dân Đông Dương, do đó tập trung cao độ cho nhiệm vụ chống đế quốc. Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược này thể hiện rõ tính sáng tạo, linh hoạt độc đáo của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Đông Dương về đường lối cách mạng giải phóng dân tộc, tạo chuyển biến có ý nghĩa quyết định dẫn đến thắng lợi của cách mạng hai nước Việt Nam và Lào năm 1945.

Hồ Chí Minh luôn quan tâm sâu sắc vấn đề giúp đỡ xây dựng, phát triển lực lượng, phát huy tinh thần độc lập tự chủ của cách mạng Lào, coi đây là một nội dung quan trọng nhất của tình đoàn kết và liên minh chiến đấu Việt - Lào. Đúng như đồng chí Cayxỏn Phômvihản đã viết: "Bác Hồ luôn luôn giáo dục chúng tôi phải nắm vững: Sự nghiệp cách mạng Lào là của nhân dân Lào", phải "nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường" vì có như vậy "cách mạng mới phát triển nhanh chóng, đoàn kết quốc tế mới vững chắc"2. Hồ Chí Minh chủ trương thi hành đúng chính sách dân tộc tự quyết trong quan hệ Việt - Lào nhằm nêu cao hơn nữa ý thức dân tộc, tạo ra sức mạnh của từng dân tộc để đoàn kết quốc tế có hiệu quả hơn. Người nhiều lần nhấn mạnh, để phát huy tinh thần độc lập tự chủ của cách mạng Lào, cần phải tăng cường đoàn kết, giúp đỡ, phối hợp với những người cách mạng và nhân dân các bộ tộc Lào, từng bước xây dựng và phát triển những nhân tố chủ quan của cách mạng Lào. Năm 1941 khi về nước trực tiếp chỉ đạo cách mạng Việt Nam và Đông Dương, Hồ Chí Minh chủ trương thành lập ở mỗi nước một mặt trận dân tộc thống nhất riêng, ở Việt Nam sẽ thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh), còn ở Lào có thể lấy tên là Ai Lao độc lập đồng minh"3. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Hồ Chí Minh càng quan tâm hơn đến việc giúp đỡ xây dựng, củng cố mặt trận dân tộc thống nhất, chính quyền các cấp, lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng đội ngũ cán bộ cách mạng và đặ biệt là chính đảng của giai cấp công nhân Lào.

Năm 1946, ngay trong lần gặp làm việc đầu tiên với đồng chí Cayxỏn Phômvihản, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định vấn đề xây dựng cơ sở chính trị và các căn cứ cách mạng trên đất Lào là một trong những vấn đề quan trọng nhất. Trước đó, bản chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc" của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (25-11-1945) đã đề ra cho Xứ uỷ Ai Lao nhiệm vụ tăng cường tuyên truyền vận động quần chúng nhân dân Lào ở thôn quê làm cho mặt trận thống nhất kháng Pháp của Lào - Việt lan rộng và chiến tranh du kích nảy nở ở các vùng nông thôn. Ngày 27-2-1948, Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định thành lập Ban xung phong Lào Bắc đặt dưới sự lãnh đạo của đồng chí Cayxỏn Phômvihản. Trong thiếp gửi Ban xung phong Lào Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Kiến lập căn cứ địa Lào độc lập là nhiệm vụ cần kíp. Ban xung phong Lào Bắc phải ra sức gây cơ sở quần chúng trong vùng địch kiểm soát"4. Từ những năm đầu của cuộc kháng chiến, với sự giúp đỡ của các chiến sĩ tình nguyện Việt Nam, các cán bộ và chiến sĩ cách mạng Lào đã kiên trì vận dụng phương thức vừa đánh địch, vừa vận động tổ chức quần chúng, gây dựng cơ sở cách mạng, phát triển chiến tranh du kích. Nhiều khu căn cứ địa cách mạng đã ra đời ở các địa phương trong cả nước Lào, tại đó, chính quyền cách mạng và các đội du kích vũ trang được thành lập, nhân dân được tổ chức vào các đoàn thể quần chúng như: "Hội Lào cụ xạt", "Hội Yêu nước Côm-ma-đam", "Hội người H'mông cụ xạt"... Ngày 20-01-1949 đã đi vào lịch sử cách mạng Lào, khi tại chiến khu Xiềng Khọ tỉnh Sầm Nưa, Quân đội giải phóng Lào tự do (ngày nay là Quân đội nhân dân Lào) tuyên bố thành lập. Sự kiện này đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của cách mạng Lào và sự giúp đỡ, chỉ đạo sát sao, hiệu quả của Hồ Chí Minh.

Cùng với mối quan tâm xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất, các căn cứ địa cách mạng và lực lượng vũ trang nhân dân, Hồ Chí Minh đặc biệt trăn trở về việc thành lập một chính đảng mácxit-lêninit riêng ở Lào. Sau hơn 20 năm dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng Cộng sản Đông Dương, tình hình cách mạng Lào đã có những bước phát triển về chất, chín muồi những điều kiện chủ quan và khách quan cho sự ra đời chính đảng mácxit-lêninit. Đầu năm 1951, tại Đại hội II Đảng Cộng sản Đông Dương, Đại hội đầu tiên có các đồng chí Lào tham dự, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trực tiếp gặp gỡ đồng chí Cayxỏn Phômvihản, Trưởng đoàn Xứ uỷ Ai Lào và căn dặn: "Ở Lào cần phải cố gắng thành lập Đảng cách mạng và củng cố Đảng cho có đủ khả năng lãnh đạo cuộc cách mạng ở Lào". Ở những lần gặp gỡ khác với đồng chí Cayxỏn Phômvihản, "Người khuyên nên lấy tên Đảng là Đảng Nhân dân Lào để tập hợp mọi người yêu nước, có giác ngộ lý tưởng của toàn dân tộc vào cuộc đấu tranh cứu nước"5. Bốn năm sau Đại hội II, từ 22-3 đến 6-4-1955, 19 đại biểu ưu tú, thay mặt cho hơn 200 chiến sĩ cộng sản Lào, đã họp Đại hội thành lập Đảng Nhân dân Lào (từ năm 1972 đổi tên là Đảng Nhân dân cách mạng Lào). Đảng Nhân dân Lào được xây dựng theo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là sự kế tục truyền thống và sự nghiệp vẻ vang của Đảng Cộng sản Đông Dương do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo, trở thành nhân tố quyết định hàng đầu bảo đảm thắng lợi cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân các bộ tộc Lào. Sau này, khi đánh giá quyết định của Hồ Chí Minh tại Đại hội II Đảng Cộng sản Đông Dương về việc thành lập ở mỗi nước Việt Nam, Lào, Campuchia một chính đảng mácxit - lêninit riêng, đồng chí Cayxỏn Phômvihản khẳng định: "Quyết định lịch sử hết sức đúng đắn đó đã phát huy cao độ tinh thần độc lập tự chủ và ý thức trách nhiệm của những người cách mạng ở mỗi nước đối với vận mệnh của dân tộc mình và thúc đẩy cuộc đấu tranh cứu nước của ba nước Đông Dương phát triển vượt bậc"6.

Trên cương vị là người sáng lập, rèn luyện, lãnh đạo Đảng Cộng sản Đông Dương thời kỳ trước đây và người đứng đầu Đảng và Nhà nước Việt Nam sau này, Chủ tịch Hồ Chí Minh được sự tín nhiệm của những người cách mạng và nhân dân các bộ tộc Lào, đã tham gia chỉ đạo quá trình cách mạng giải phóng dân tộc ở Lào. Liên tục trong nhiều thập niên, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã ra nhiều chỉ thị, nghị quyết về cách mạng Lào. Đây cũng là một trong những trường hợp hiếm có trong lịch sử Phong trào cộng sản quốc tế, thể hiện tầm vóc lãnh tụ Hồ Chí Minh đối với cách mạng Đông Dương nói riêng, cách mạng thế giới nói chung; đồng thời là một biểu hiện sống động về mối quan hệ hữu nghị, tình đoàn kết đặc biệt giữa nhân dân hai nước Việt - Lào.

Trong suốt cuộc kháng chiến, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Đông Dương đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân dân hai nước Việt - Lào luôn kề vai sát cánh, phối hợp, hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau thực hiện toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, từng bước chuyển từ thế phòng ngự sang phản công và tổng phản công để giành thắng lợi. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (7-1954) ở Việt Nam và Hội nghị Giơnevơ về lập lại hoà bình ở Đông Dương được triệu tập là thành quả chung của cách mạng Đông Dương, trong đó tình đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân hai nước Việt - Lào được thể hiện nổi bật nhất. 

Mặc dù còn phải giải quyết nhiều công việc nặng nề và quan trọng của đất nước sau khi hoà bình được lập lại, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng Lao động Việt Nam tổ chức nhiều hội nghị bàn về tình hình Lào và tìm biện pháp tăng cường tình đoàn kết, phối hợp giúp đỡ cách mạng nước bạn. Trong Nghị quyết ra ngày 19-10-1954, Bộ Chính trị và Hồ Chí Minh khẳng định: "Vô luận tình hình phát triển như thế nào, ta cũng phải hết sức giúp bạn tăng cường công tác củng cố 2 tỉnh (Sầm Nưa và Phongxalỳ - khu tập kết của Chính phủ kháng chiến Lào Itxala theo Hiệp định Giơnevơ), xây dựng quân đội, xây dựng cơ sở nhân dân và đẩy mạnh đấu tranh chính trị trong toàn quốc". Cuối những năm 50, khi lực lượng cách mạng Lào đang ở trong tình thế hết sức khó khăn do sự tấn công điên cuồng của đế quốc Mỹ và tay sai, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã thông qua Nghị quyết (7-1959) về Lào, gợi ý một số vấn đề cấp bách đối với Đảng bạn. Nghị quyết nêu rõ nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Lào là đoàn kết rộng rãi tất cả các dân tộc, các giai cấp yêu nước, yêu hoà bình, đấu tranh đòi triệt để thi hành Hiệp định Giơnevơ, xây dựng nước Lào hoà bình, trung lập, độc lập, dân chủ, thống nhất và thịnh vượng. Trong tình hình mới, về sách lược đấu tranh cần chú trọng chuyển từ hình thức đấu tranh công khai hợp pháp là chủ yếu sang hình thức đấu tranh vũ trang là chủ yếu, đồng thời kết hợp với các hình thức đấu tranh khác. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng cũng xác định rõ sự ủng hộ và giúp đỡ toàn diện cách mạng Lào là một nhiệm vụ quốc tế có ý nghĩa trọng đại đối với sự nghiệp củng cố miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước của Việt Nam. Theo tinh thần đó, ngày 6-7-1959, Đảng quyết định thành lập Ban công tác Lào của Trung ương do Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Trưởng ban và cử đoàn cán bộ chính trị, quân sự, chuyên viên kỹ thuật sang giúp bạn. Trong hoàn cảnh khắc nghiệt của cuộc đọ đầu với kẻ thù chung là đế quốc Mỹ, tình đoàn kết hữu nghị Việt - Lào lại thêm một lần nữa được thử thách và càng trở lên gắn bó chặt chẽ với nhau, tạo lên nguồn sức mạnh to lớn để cả hai dân tộc giành thắng lợi trong đấu tranh cách mạng.

Những năm cuối thập niên 60, đế quốc Mỹ ráo riết đẩy mạnh chiến tranh xâm lược ở cả Việt Nam và Lào. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Bộ Chính trị cũng đã kịp thời đưa ra những chủ trương về tình hình cách mạng Lào và sự phối hợp giữa chiến trường Việt Nam với chiến trường Lào. Trước những thay đổi cục diện so sánh lực lượng có lợi cho cách mạng hai nước, tháng 4-1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị một mặt nhấn mạnh cần trao đổi với bạn để bạn dự kiến sự phát triển của tình hình, nhất là góp ý kiến với bạn về phương hướng sắp tới; mặt khác, chỉ rõ: Lào có vị trí hết sức quan trọng đối với Việt Nam và cả Đông Dương, vì vậy không thể coi đây chỉ là giúp bạn, mà còn phải thấy rõ nghĩa vụ tham gia cách mạng ở Lào. Đối với chủ trương của Đảng bạn về xây dựng nền kinh tế dân chủ nhân dân, phát triển văn hoá dân tộc trong vùng giải phóng, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết (6-1967) hướng dẫn các cấp, các ngành của Việt Nam phối hợp và giúp đỡ bạn, trong đó xác định: Phương châm giúp bạn là toàn diện, cơ bản, liên tục và lâu dài, lấy việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công nhân kỹ thuật và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật là khâu quan trọng nhất.

Cùng với các chỉ thị, nghị quyết, Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng còn thường xuyên gặp gỡ, làm việc trực tiếp với các đồng chí lãnh đạo cách mạng Lào, góp phần quan trọng vào việc triển khai các nhiệm vụ cách mạng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Lào, tăng cường sự hiểu biết, giúp đỡ lẫn nhau giữa hai nước. Những cuộc gặp gỡ tràn đầy tình cảm hữu nghị anh em nồng thắm, giản dị mà chân tình giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh với Hoàng thân Xuphanuvông, với đồng chí Cayxỏn Phômvihản ngay từ những ngày đầu tiên của nước Việt Nam độc lập và sau này là hàng loạt cuộc gặp làm việc của Người với các đồng chí lãnh đạo nước bạn đã để lại những ấn tượng rất sâu đậm đối với bạn. Đồng chí Cayxỏn Phômvihản từng nhớ lại: "Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của tôi từ lúc còn thanh niên cho đến khi trưởng thành, tôi đã vinh dự được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần. Tất cả các lần gặp gỡ đều rất thân thiết, chân thành trên tình cảm đồng chí thủy chung và lòng kính trọng sâu sắc đối với Người thầy vĩ đại đã tận tình dạy bảo, rèn luyện, xây dựng và truyền lại cho tôi những kinh nghiệm phong phú.... Suốt đời tôi nhớ ơn công lao trời biển của Người"7. Chỉ tính từ năm 1961 đến cuối năm 1975, ở cấp cao nhất đã có 19 cuộc hội đàm chính thức. Ngoài ra còn có nhiều cuộc gặp, làm việc không chính thức giữa hai cơ quan cao nhất của hai nước và hàng trăm cuộc gặp gỡ của các ngành chức năng của hai bên. Sự gần gũi, chân tình, hiểu biết lẫn nhau giữa lãnh đạo từ cấp cao nhất đến các cấp các ngành ở Trung ương và địa phương, được Hồ Chí Minh và các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước của hai nước tạo dựng, trở thành nét đẹp truyền thống và là hạt nhân cố kết mối quan hệ đặc biệt Việt - Lào.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quán triệt, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa quốc tế trong sáng, kết hợp nhuần nhuyễn, đúng đắn lợi ích dân tộc với nghĩa vụ quốc tế trong quan hệ giữa ba nước Đông Dương nói chung cũng như trong Việt - Lào nói riêng. Trên cơ sở phân tích một cách khoa học và sâu sắc tính tất yếu khách quan của tình đoàn kết giữa ba nước Đông Dương, Người chỉ rõ: "Vì mọi quan hệ khăng khít về địa lý, quân sự, chính trị... mà ta với Miên, Lào cũng như môi với răng. Hai dân tộc Miên, Lào hoàn toàn giải phóng, thì cuộc giải phóng của ta mới chắc chắn, hoàn toàn. Cho nên nhiệm vụ của ta phải ra sức giúp đỡ kháng chiến Miên, Lào một cách tích cực, thiết thực hơn"8. Người nhấn mạnh: "Chỉ có đoàn kết chặt chẽ, giúp đỡ nhau hết lòng, mới là giải pháp hữu hiệu nhất để giành lại độc lập tự do cho mỗi nước và cho cả ba nước". "Đoàn kết chặt thì lực lượng to. Lực lượng to thì quyết thắng lợi"9. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đánh giá cao sức mạnh khối đoàn kết giữa ba nước Đông Dương, mà còn tin tưởng vào tương lai tươi sáng của khối đoàn kết đó. Người cũng luôn giáo dục cán bộ, chiến sĩ và nhân dân Việt Nam rằng, đoàn kết là phải thật thà, phải được thể hiện bằng những hành động cách mạng cụ thể, thiết thực, đoàn kết phải gắn liền với việc giúp đỡ lẫn nhau một cách có hiệu quả, bởi vì "giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình"10. Người cũng thường xuyên nhắc nhở rằng, càng đoàn kết giúp đỡ nhau hết lòng thì càng phải tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, kiên quyết chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc dưới mọi mầu sắc. 

Với phương châm chiến lược giúp bạn là tự giúp mình, do Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch ra và gương mẫu thực hiện, nhân dân hai nước Việt Nam, Lào trong mỗi thời kỳ của cuộc đấu tranh cách mạng đã phát huy truyền thống đoàn kết, nương tựa vào nhau, hỗ trợ lẫn nhau để giành thắng lợi, đưa mối quan hệ hữu nghị tốt đẹp giữa hai nước thật sự "tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long". Có thể thấy rằng, cùng với việc đặt nền móng cho quan hệ hữu nghị đoàn kết Việt - Lào, Chủ tịch Hồ Chí Minh đóng góp to lớn vào quá trình phát triển thắng lợi của cách mạng Lào thông qua sự chỉ đạo trực tiếp hoặc gián tiếp cả về lý luận cả về thực tiễn. Đồng chí Cayxỏn Phômvihản khẳng định: "Tư tưởng và tình cảm của Bác là ngọn đuốc soi đường, là nguồn cổ vũ sức mạnh đoàn kết đấu tranh của nhân dân các bộ tộc Lào chúng tôi. Từ ngày cách mạng Lào còn trứng nước cho đến lúc đã trưởng thành, Bác Hồ luôn luôn quan tâm dẫn đường chỉ lối"12.

Trong thời kỳ kháng chiến chống xâm lược Mỹ, quan hệ Việt - Lào phát triển lên đỉnh cao của hình thức liên minh chiến lược trực tiếp chống đế quốc, trở thành một mẫu mực về tình đoàn kết chiến đấu, hỗ trợ lẫn nhau trên mọi lĩnh vực. Thuỷ chung với tình hữu nghị truyền thống, trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, Đảng và nhân dân Việt Nam đã giúp đỡ, hỗ trợ đến mức cao nhất cả về vật chất cả về tinh thần cho cuộc kháng chiến của Lào. Đáp lại, Đảng và nhân dân Lào đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, hết lòng ủng hộ và giúp đỡ Việt Nam trong sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ đã mở ra một trang mới trong quan hệ hợp tác hữu nghị Việt - Lào. Trước đây, với nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc, quan hệ Việt - Lào đặt trọng tâm vào lĩnh vực chính trị - quân sự. Sau năm 1975, với nhiệm vụ khôi phục, phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường ổn định chính trị và củng cố an ninh - quốc phòng, quan hệ Việt - Lào được thúc đẩy và mở rộng trên tất cả các lĩnh vực, trở thành mối quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai Nhà nước và hai dân tộc anh em láng giềng. Chính trên tinh thần ấy, Hiệp ước hữu nghị Việt - Lào đã được ký kết ngày 18-7-1977, tạo khuôn khổ pháp lý đưa quan hệ hai nước lên tầm cao của tình hữu nghị đặc biệt, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới của hai nước, phù hợp với lợi ích căn bản của hai dân tộc trong hoà bình và phát triển, phù hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh về tình đoàn kết Việt - Lào. Những kết quả đạt được trong quan hệ Việt - Lào từ nửa cuối thập niên 70 đến cuối thập niên 80 của thế kỷ XX đã góp phần thiết thực phát triển kinh tế - xã hội và ổn định chính trị ở mỗi nước.

Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, tình hình thế giới diễn ra những biến đổi sâu sắc, tác động trực tiếp tới quan hệ Việt - Lào. Cả Việt nam và Lào đều đứng trước những khó khăn, thử thách to lớn do tình trạng trì trệ kinh tế kéo dài. Thêm vào đó, sự sụp đổ chế độ XHCN ở Liên xô và Đông Âu không chỉ tạo ra những hẫng hụt đột ngột trong quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam cũng như của Lào, mà còn gây ra tác động nhất định về chính trị, tư tưởng ở mỗi nước. Các thế lực đế quốc, thù địch lợi dụng tình hình này tăng cường chống phá cách mạng hai nước, chia rẽ khối đoàn kết Việt - Lào. Trong bối cảnh đó, quan hệ Việt - Lào đứng trước yêu cầu khách quan cần tiếp tục đổi mới cả về nội dung lẫn phương thức và cơ chế hợp tác. Gần hai thập niên qua, với tư duy chiến lược sáng tạo của hai chính đảng cách mạng cầm quyền và bằng những bước đi thích hợp, quan hệ hữu nghị truyền thống đặc biệt và sự hợp tác toàn diện Việt - Lào không ngừng phát triển theo hướng nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả hợp tác trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, dành sự ưu tiên ưu đãi hợp lý cho nhau, phù hợp với tính chất của quan hệ đặc biệt giữa hai nước.

Là chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của toàn dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam có lợi ích cơ bản trùng hợp, hoà quyện với lợi ích cơ bản và cao nhất của dân tộc Việt Nam là độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong giai đoạn hiện nay, lợi ích đó được biểu hiện cụ thể thông qua mục tiêu được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định từ Đại hội VIII, tiếp tục khẳng định tại Đại hội IX và Đại hội X là “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Để vươn tới mục tiêu - lợi ích chiến lược này, vai trò quyết định là khả năng huy động tối đa nội lực dân tộc, kết hợp với tận dụng triệt để nguồn lực bên ngoài. Lẽ dĩ nhiên, nguồn ngoại lực chỉ có thể được khai thác hiệu quả khi tạo lập được môi trường trong nước và quốc tế thuận lợi. Chính vì vậy, từ đầu thập niên 90 thế kỷ XX trở lại đây, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định nhất quán nhiệm vụ đối ngoại bao trùm là giữ vững hoà bình, mở rộng quan hệ hữu nghị hợp tác, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Mặt khác, Đảng Cộng sản Việt Nam từ Hội nghị Trung ương 3 (khoá VII) nhấn mạnh và đặt lên vị trí ưu tiên phuơng châm đối ngoại kết hợp lợi ích dân tộc chân chính với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân; đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, với tất cả các lực lượng cách mạng tiến bộ và hoà bình trên thế giới. Tư tưởng đối ngoại nhất quán đó được thể hiện rõ nét và sinh động nhất trong thực tiễn quan hệ Việt - Lào hiện nay. Thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hoá - đa dạng hoá, song Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn dành ưu tiên hàng đầu cho việc củng cố, phát triển quan hệ đoàn kết hữu nghị Việt - Lào. Cơ sở của sự ưu tiên xứng đáng ấy không chỉ bắt nguồn từ tình cảm trân trọng mối quan hệ truyền thống thuỷ chung trong sáng, do Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt nền móng xây dựng và đã được kiểm nghiệm qua thực tiễn đấu tranh cách mạng, mà còn từ tầm nhìn chiến lược, có hệ luỵ trực tiếp đến vận mệnh cách mạng Việt Nam.

Việc duy trì, củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị Việt - Lào là lợi ích, là đòi hỏi có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp cách mạng hai nước. Sự phát triển của quan hệ Việt - Lào trong những năm gần đây càng chứng tỏ trên thực tế tính đúng đắn của nhãn quan chiến lược đối ngoại của ĐCS Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa quan hệ hai nước lên tầm cao toàn diện và hữu nghị đặc biệt.

Quan hệ hữu nghị Việt - Lào đã vận động qua những chặng đường lịch sử khác nhau và trải qua không ít gian nan thử thách. Song, ở bất kỳ thời điểm nào, quan hệ đó vẫn ngời sáng tình nghĩa thuỷ chung, trong sáng và tràn đầy tình hữu nghị nồng thắm. Sự phát triển của mối quan hệ hữu nghị và tình đoàn kết đặc biệt giữa hai dân tộc Việt Nam và Lào có sự cống hiến to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, người đặt nền móng và suốt cuộc đời hoạt động cách mạng đã dày công chăm chút vun đắp. Thực tiễn cách mạng hai nước cũng luôn chứng tỏ: Tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt và sự hợp tác chặt chẽ toàn diện Việt - Lào có ý nghĩa chiến lược sống còn đối với mỗi nước. Bởi vậy, biên niên sử quan hệ Việt - Lào vốn đã đầy ắp các sự kiện trọng đại, vẫn đang chờ đợi những bước bứt phá mới trong thế kỷ XXI. Quan hệ hữu nghị Việt - Lào mãi là tài sản vô giá, là hành trang không thể thiếu của hai dân tộc trên con đường xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng XHCN. Đảng và nhân dân Việt Nam luôn tâm niệm sâu sắc rằng, vun đắp quan hệ hữu nghị đặc biệt giữa hai Đảng, hai Nhà nước, hai dân tộc không chỉ là trách nhiệm và nghĩa vụ thiêng liêng, mà còn là tình cảm său nặng của mỗi người dân Việt Nam yêu nước chân chính. Xuất phát từ thực tiễn đó, để tăng cường quan hệ Việt - Lào lên tầm cao mới, cần tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức, phương thức và cơ chế hợp tác theo hướng hiệu quả, khắc phục những khó khăn, hạn chế còn tồn tại.

Bài học kinh nghiệm quý giá nhất có thể rút ra từ quan hệ Việt - Lào, trước hết và chủ yếu là phải coi trọng, giải quyết đúng đắn giữa lợi ích dân tộc và nghĩa vụ quốc tế. Tôn trọng và bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Trong quan hệ Việt - Lào, phải lấy sự nhất trí về quan điểm, tư tưởng và đường lối chính trị làm cơ sở để phối hợp hành động, hỗ trợ lẫn nhau, bảo vệ lợi ích căn bản của mỗi dân tộc. Sự trường tồn của tình hữu nghị Việt - Lào không thể có, nếu không được xây dựng và phát triển trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, tự chủ sáng tạo của mỗi dân tộc, hợp tác bình đẳng, hai bên cùng có lợi. Đây là vấn đề mang tính quy luật đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và ĐCS Việt Nam trước đây cũng như hiện nay nhận thức và vận dụng sáng tạo trong thực tiễn quan hệ Việt - Lào suốt gần một thế kỷ qua.

___________

1. Cayxỏn Phômvihản: Một vài kinh nghiệm chính và một số vấn đề về phương hướng mới của cách mạng Lào, Nxb Sự thật, Hà Nội. 1979, tr.12

2. Bài phát biểu của đồng chí Cayxỏn Phômvihản, Báo Nhân dân, ngày 19-5-1990, tr.2-3

3. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng 1930-1945, tập II, Ban Nghiên cứu Lịch sử  Đảng Trung ương, H. 1977, tr. 196-197.

4. Quan hệ Việt - Lào, Lào - Việt, Nxb CTQG, Hà Nội, 1993, tr.24.

5. Cayxỏn Phômvihản: Sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại,  Báo Nhân dân, ngày 15-5-1990, tr.1-4

6. Bài phát biểu của đồng chí Cayxỏn Phômvihản, Báo Nhân dân, ngày 19-5-1990, tr.2-3

7. Cayxỏn Phômvihản: Sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, Báo Nhân dân, ngày 15-5-1990, tr.1-4

8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội. 2002, Tập 6, tr. 452

9. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội. 2000, Tập 4, tr. 139

10. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội. 2002, Tập 7, tr. 64

11. Bài phát biểu của đồng chí Cayxỏn Phômvihản, Báo Nhân dân, ngày 19-5-1990, tr.2-3. 

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Quy trình kỷ luật đảng viên thuộc thẩm quyền của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư

(ĐCSVN) - Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường vừa ký Quyết định số 165-QĐ/TW ngày 6/6/2024 của Bộ Chính trị ban hành Quy trình xem xét, thi hành kỷ luật đối với tổ chức Đảng, đảng viên thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Về thẩm quyền của người đứng đầu trong việc tạm đình chỉ công tác với cán bộ cấp dưới

(ĐCSVN) - Ngày 23/5/2024, đồng chí Lương Cường đã ký ban hành Quy định 148-QĐ/TW về thẩm quyền của người đứng đầu trong việc tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ cấp dưới trong trường hợp cần thiết hoặc khi có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Quy định về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới

(ĐCSVN) - Ngày 9/5, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Quy định số 144-QĐ/TW của Bộ Chính trị về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới.

Bộ Chính trị ban hành quy định phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong điều tra, xét xử

(ĐCSVN) – Ngày 27/10/2023, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 132-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Liên kết website