Được thành lập ngày 15/12/1972 theo Nghị quyết 2997 (XXVII) của Đại hội đồng Liên hợp quốc. Ngày 05/6 hàng năm là Ngày môi trường thế giới (ngày05/6/1972 là ngày khai mạc Hội nghị Stockhom về môi trường).
Tôn chỉ, mục đích, hoạt động của UNEP
UNEP là tổ chức duy nhất của hệ thống Liên hợp quốc được thành lập nhằm mục đích đưa ra những đường lối có tính chỉ đạo và các chương trình hành động toàn cầu nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống mà không gây tổn hại cho thế hệ tương lai; đóng vai trò xúc tác, điều phối; cung cấp tư vấn kỹ thuật, pháp lý và cơ cấu tổ chức cho các chính phủ nâng cao về khả năng xây dựng thể chế và các sáng kiến phát triển bền vững. Vai trò làm xúc tác và điều phối của UNEP càng được tăng cường từ khi Hội nghị thượng đỉnh Liên hợp quốc về môi trường và phát triển (1992) thông qua Chương trình nghị sự 21.
Do nguồn vốn hạn chế và quy mô nhỏ, UNEP tập trung giải quyết các vấn đề môi trường được quy định trong Chương trình nghị sự 21: Bảo vệ bầu khí quyển, đối phó với sự thay đổi khí hậu và sự nóng lên của trái đất, tầng ô-zôn, ô nhiễm không khí; bảo vệ chất lượng nước sạch; bảo vệ đại dương và các vùng ven biển; bảo vệ tài nguyên đất đai, chống phá rừng và sa mạc hoá; bảo vệ đa dạng sinh học; quản lý các chất thải độc hại và hoá chất độc; bảo vệ sức khoẻ con người và chất lượng cuộc sống trước sự xuống cấp về môi trường; thương mại và môi trương v.v...
Về lĩnh vực trao đổi thông tin môi trường, UNEP đã xây dựng được hệ thống hướng dẫn toàn cầu (GEMS) và nguồn dữ liệu thông tin toàn cầu (GRID) hoạt động trên 142 nước. Hệ thống thông tin mặt đất (INFOTERRA) gồm các điểm quốc gia của 170 nước. Đăng ký quốc tế các hoá chất độc hại (IRPTC) giúp cho khi sử dụng biết được hoá chất đó là gì (khoảng 70.000 hoá chất được sử dụng) và UNEP có quan hệ với 120 nước.
UNEP đã đóng góp tích cực trong lĩnh vực xây dựng hệ thống pháp lý quốc tế. Hiện nay, UNEP đã hình thành một hệ thống các điều ước quốc tế về các lĩnh vực môi trường. Mỗi khi một điều ước tế có hiệu lực, thì một Ban Thư ký được hình thành để thúc đẩy việc thực hiện điều ước đó. Thí dụ: Công ước về các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế, đặc biệt là nơi cư trú của các loài chim; Công ước đa dạng sinh học; Công ước về buôn bán quốc tế các loài động thực vật hoang dã có nguy cơ diệt chủng; Công ước Viên 1985 về bảo vệ tầng ô zôn; Công ước khung của LHQ về biến đổi khí hậu, Công ước Basel về kiểm soát vận chuyển chất thải nguy hại qua biên giới và việc tiểu huỷ chúng; Công ước chống hoang mạc hoá.
Môi trường ngày càng trở thành vấn đề toàn cầu và được toàn thế giới quan tâm. Nó cũng đặt ra cho nhân loại nhiều vấn đề đa dạng, phức tạp và nan giải. Đây cũng là một thách thức lớn cho toàn nhân loại. Do vây, UNEP cũng đang bàn nhiều về cải tổ lại cơ cấu tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động và quản trị quốc tế về môi trường để thích ứng với tình hình phát triển mới của vấn đề môi trường.
Cơ cấu tổ chức của UNEP
Hội đồng quản trị: Hội đồng quản trị gồm 58 nước thành viên với nhiệm kỳ 3 năm do Đại hội đồng Liên hợp quốc bầu theo phân vùng địa lý như sau: 16 ghế cho châu Phi; 13 ghế cho châu Á; 6 ghế cho Đông Âu; 10 ghế cho châu Mỹ Latinh; 13 ghế cho Tây Âu và các nước khác. Hội đồng quản trị họp mỗi năm một lần nhằm kiểm điểm việc thực hiện các nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc và đưa ra các chương trình hoạt động có tính chất chiến lược toàn cầu trong lĩnh vực môi trường.
Ban thư ký: Đứng đầu Ban Thư ký là Giám đốc chấp hành do Đại hội đồng Liên hợp quốc bầu ra với nhiệm kỳ 5 năm. Ngày 16/3/2006, theo đề nghị của Tổng hư ký LHQ, Đại hội đồng LHQ đã bầu ông Achim Steiner (người Đức) làm giám đốc chấp hành UNEP với nhiệm ký từ ngày 15/6/2006 đến 15/6/2010.
Ban điều phối về môi trường: Ban điều phối về môi trường bao gồm những người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống Liên hợp quốc, do Giám đốc chấp hành của UNEP làm Chủ tịch. Qua Ban điều phối này, UNEP là tổ chức duy nhất của Liên hợp quốc thực hiện được vai trò phối hợp và xúc tác trong lĩnh vực môi trường.
Nguồn tài chính của UNEP
Theo Nghị quyết 2997 (XXVII) năm 1972 của Đại hội đồng Liên hợp quốc, ngân sách của UNEP có từ hai nguồn: Từ ngân sách thường niên của Liên hợp quốc; Quỹ Môi trường (được thành lập theo Nghị quyết trên).
Phần ngân sách có được từ ngân sách thường kỳ của Liên hợp quốc chỉ đủ chi cho Hội động quản trị, Ban Thư ký và các hoạt động làm chính sách, quản lý, xây dựng chương trình và hỗ trợ chương trình. Phần ngân sách này cho năm 2002 là 4,5 triệu đô la (chiếm khoảng 3,9% tổng ngân sách hàng năm của UNEP).
Quỹ Môi trường do các nước đóng góp tự nguyện là nguồn ngân sách chủ yếu tài trợ cho việc thực hiện các chương trình của UNEP. Từ năm 2002 ta đã tăng mức đóng góp tự nguyện từ 1000 đô la lên 5000 đô la mỗi năm cho Quỹ Môi trường. Năm 2003, các nước cam kết đóng góp tự nguyện cho Quỹ Môi trường là 49,051,265 đô la.
Quan hệ Việt Nam – UNEP
UNEP là tổ chức trực thuộc Đại hội đồng Liên hợp quốc, nên các nước thành viên của Liên hợp quốc có đủ tư cách tham gia UNEP. Việt Nam tham gia UNEP từ năm 1977, khi Việt Nam trở thành thành viên của Liên hợp quốc.
UNEP đã hỗ trợ Việt Nam về kỹ thuật, chuyên gia tư vấn trong việc xây dựng luật lệ và chính sách về môi trường, cung cấp học bổng về môi trường của để đào tạo nguồn nhân lực về môi trường của Việt Nam. Việt Nam đóng góp tự nguyện cho Quỹ Môi trường tự nguyện của UNEP với mức đóng góp 7.000 đô la Mỹ một năm. Đến nay, Việt Nam đã tham gia các điều ước quốc tế sau về môi trường: Công ước về thông báo sớm sự cố hạt nhân (9/1987); Công ước về trợ giúp trong sự cố hạt nhân hoặc cấp cứu phóng xạ (9/1987); Công ước liên quan đến bảo vệ các di sản văn hoá và tự nhiên (10/87); Công ước về các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế, đặc biệt là nơi cư trú của các loài chim (1/1989); Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm do tầu biển gây ra (5/1991); Công ước đa dạng sinh học (5/1993); Công ước về buôn bán quốc tế các loài động thực vật hoang dã có nguy cơ diệt chủng (1/1994); Công ước Viên 1985 về bảo vệ tầng ô zôn (1994); Nghị định thư Montreal 1987 về các chất làm suy giảm tầng ô zôn (1/1994); Công ước khung của LHQ về biến đổi khí hậu (16/11/1994); Công ước Basel về kiểm soát vận chuyển chất thải nguy hại qua biên giới và việc tiểu huỷ chúng (3/1995); Công ước chống hoang mạc hoá (1996); Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân huỷ (6/2002); Nghị định thư Kyoto (25/9/2002); Nghị định thư Cartagena về an toàn sinh học của Công ước đa dạng sinh học (01/2004); Công ước Rotterdam về các thủ tục thỏa thuận thông báo trước một số hóa chất và thuốc trừ sâu nguy hại trong thương mai quốc tế (PIC - có hiệu lực từ ngày 05/ 8/ 2007).