Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP); tên tiếng Anh United Nations Development Programme
là tổ chức trực thuộc Liên hợp quốc được thành lập năm 1965 tại Niu Oóc trên cơ sở hợp nhất hai cơ quan của Liên hợp quốc là Chương trình Hỗ trợ Kỹ thuật mở rộng (EPTA) và Quỹ Đặc biệt của Liên hợp quốc.
Tất cả các nước là thành viên Liên hợp quốc hoặc là thành viên của một trong những tổ chức chuyên môn của hệ thống Liên hợp quốc, hoặc là thành viên của Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) đều có thể trở thành thành viên của UNDP.Trong hệ thống Liên hợp quốc, UNDP đã trở thành cơ quan viện trợ kĩ thuật lớn nhất với hai tính chất viện trợ cơ bản là chuyển giao công nghệ và chuẩn bị cho đầu tư (hay tiền đầu tư) theo từng chu kì 5 năm cho chương trình quốc gia của các nước. Cơ quan lãnh đạo là Ban Điều hành gồm 36 thành viên (Châu Phi 8, Châu Á - Thái Bình Dương 7, Đông Âu 4, Mĩ Latinh và Caribê 5, Tây Âu và khu vực khác 12) do Đại hội đồng Liên hợp quốc bầu với nhiệm kì 3 năm; họp mỗi năm 2 lần, lần lượt tại Niu Yooc (New York) và Giơnevơ (Genève). Cơ quan thường trực là Ban Thư kí và các cục, vụ chuyên ngành tại trụ sở Niu Yook và cơ quan đại diện UNDP tại Giơnevơ. Tổng giám đốc hiện nay là ông Mark Malloch Brown (nhiệm kỳ 1999 - 2003 và 2003 đến 2007).
1. Cơ cấu - tổ chức và hoạt động
Cơ cấu tổ chức
UNDP là cơ quan trục thuộc Đại Hội đồng Liên hợp quốc, chịu sự chi phối của Đại Hội đồng và ECOSOC. Đại Hội đồng quyết định các vấn đề chính sách lớn, ECOSOC xác định các nguyên tắc, quy chế hoạt động.v.. Người đứng đầu UNDP được gọi là Tổng Giám đốc (Admmistrator) do Tổng Thư ký Liên hợp quốc bổ nhiệm.
Cơ quan quyền lực cao nhất là Hội đồng Chấp hành (Executive Board) gồm 36 nước thành viên phân bổ theo khu vực địa lý (châu Phi - 8; Châu Á- 7; Trung Âu - 4; Mỹ Latinh và Caribê - 5; Tây Âu và các nước khác - 12), có nhiệm kỳ 3 năm. Hội đồng Chấp hành là cơ quan tối cao xem xét, phê duyệt các chương trình viện trợ cho các nước, khu vực và kiến nghị chính sách và phương hướng hoạt động của mình lên ECOSOC.
Việt Nam là thành viên Hội đồng Chấp hành nhiệm kỳ 2000-2002, đồng thời là Phó Chủ tịch Hội đồng Chấp hành năm 2000 và 2001.
Nguồn vốn và cơ cấu viện trợ
UNDP là tổ chức viện trợ phát triển lớn nhất hệ thống Liên hợp quốc hiện nay: Vốn của UNDP chủ yếu là nguồn đóng góp tự nguyện của các nước thành viên, các tổ chức, cá nhân. Trung bình hàng năm UNDP quản lý khoảng 2,3 tỷ USD viện trợ thông qua các nguồn vốn thường xuyên (core resources), không thường xuyên (non-core resources) và các nguồn đồng tài trợ khác (co-financing or cost-sharing resources). 90% viện trợ từ nguồn vốn thường xuyên của UNDP được dành cho các nước nghèo, nơi chiếm 90% tỷ lệ nghèo đói của thế giới hiện nay.
Viện trợ của UNDP là viện trợ không hoàn lại được thực hiện dưới dạng chương trình quốc gia có thời gian 5 năm bao gồm hầu hết các lĩnh vực và ngành kinh tế của các quốc gia. Các chương trình quốc gia được xây dựng dựa trên những ưu tiên của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và kế hoạch 5 năm của nước nhận viện trợ và các mục tiêu ưu tiên trong từng thời kỳ của UNDP. Ngân sách dự kiến viện trợ cho các chương trình của các nước nhận viện trợ do hội đồng Chấp hành UNDP thông qua. Chương trình quốc gia là khuôn khổ hợp tác của UNDP với nước nhận viện trợ. Trên cơ sở chương trình quốc gia, UNDP phối hợp với chính phủ xây dựng các chương trình dự án cụ thể. Phương thức tiếp cận để thực hiện các chương trình quốc gia của UNDP từ trước năm 2000 là tiếp cận bằng các dự án cụ thể. Nhưng kể từ năm 2000, UNDP chuyển mạnh sang phương thức tiếp cận bằng các chương trình (cụm vấn đề).
UNDP đồng thời quản lý vốn của một số quỹ khác như Quỹ Đầu tư Phát triển của Liên hợp quốc (UNCDF), Quỹ Phát triển phụ nữ (UNIFEM), Chương trình Những người tình nguyện Liên hợp quốc (UNV)...Đối tác của UNDP gồm các Quỹ và Chương trình viện trợ khác thuộc hệ thống phát triển Liên hợp quốc, các tổ chức tài chính, tín dụng quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Qũy Tiền tệ quốc tế (IMF), các ngân hàng khu vực và các tổ chức phi Chính phủ.
Tôn chỉ mục đích và hoạt động
Giúp đỡ nỗ lực của các quốc gia nhằm đạt được mục tiêu phát triển con người bền vững, bằng cách hỗ trợ các quốc gia xây dựng năng lực trong việc thiết kế và thực hiện các chương trình phát triển nhằm xoá bỏ đói nghèo, tạo công ăn việc làm và tìm phương cách mưu cầu sự sống bền vững, nâng cao địa vị của phụ nữ, bảo vệ và tái tạo môi trường, ưu tiên hàng đầu cho xoá đói giảm nghèo. Các nguồn lực của UNDP cần phải được sử dụng một cách hợp lý và có hiệu quả nhất để đem lại tác động tối đa tới sự phát triển kinh tế, xã hội của các nước nhận viện trợ.
Khuyến khích nâng cao sự tự chủ của các nước đang phát triển đối với năng lực quản lý, kỹ thuật, hành chính và những nghiên cứu cần thiết để xây dựng và thực hiện các chính sách và kế hoạch phát triển của các nước.
Hoạt động của UNDP tập trung tăng cường hợp tác quốc tế vì sự nghiệp phát triển; trợ giúp việc tăng cường khả năng quản lý quốc gia, sự tham gia rộng rãi hơn của nhân dân, phát triển khu vực nhà nước và tư nhân, sự tăng trưởng công bằng. Các chương trình và dự án hỗ trợ của UNDP được xây dựng dựa trên cơ sở các kế hoạch và ưu tiên quốc gia và các ưu tiên trong chính sách củaUNDP.
Trợ giúp của UNDP xuất phát từ yêu cầu của các chính phủ và các lĩnh vực ưu tiên của UNDP. Các lĩnh vực hỗ trợ của UNDP là: Thực hiện các nghiên cứu về chiến lược, chính sách và đưa ra các khuyến nghị; cung cấp các dịch vụ về tư vấn kỹ thuật; thực hiện các nghiên cứu khả thi, tiền khả thi; tiến hành các phân tích và đánh giá thực trạng, nghiên cứu tổng quan và xây dựng các quy hoạch tổng thể; Thực hiện các nghiên cứu đánh giá thực trạng và đưa ra các khuyến nghị về phát triển tổ chức và thiết chế, nghiên cứu đánh giá các chính sách, luật lệ và quy chế có tác động đến việc thực thi thiết chế, hỗ trợ trong việc phân tích và phát triển, và lắp đặt các hệ thống quản lý như lập kế hoạch, thông tin, báo cáo lập ngân sách, kế toán... Đào tạo về khoa học kỹ thuật, quản lý, nghề nghiệp, kỹ năng chuyên môn. Trao đổi thông tin và tổ chức tham quan, khảo sát, hội thảo và tập huấn; Hỗ trợ nghiên cứu về phát triển và thực hiện các sắp xếp về tổ chức để đáp ứng chức năng, nhiệm vụ được giao. Giúp đánh giá và xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có liên quan trong công tác quản lý; Hỗ trợ chuyển giao công nghệ phù hợp, khuyến khích và giúp đỡ phát triển năng lực công nghệ quốc gia. Trợ giúp việc thiết lập và nâng cấp các phương tiện vật chất và trang thiết bị.
Từ năm 2000, UNDP chuyển mạnh theo hướng tư vấn vi mô các vấn đề về thể chế, chính sách cũng như tăng cường năng lực tập trung cho các hoạt động hỗ trợ các nước đang phát triển thực hiện tám Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ và xoá đói giảm nghèo. Các dự án trợ giúp kỹ thuật và tăng cường năng lực của UNDP cũng ngày càng gắn với hỗ trợ xây dựng các chính sách phục vụ phát triển của các nước nhận viện trợ.
2. Phương hướng hoạt động
Trong thời gian tới, UNDP sẽ tiếp tục tập trung phát huy bốn ưu tiên để giúp UNDP chuyển mạnh theo hướng tư vấn vĩ mô: thực hiện tám Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ; hoạt động có hiệu quả và phát triển nguồn nhân lực, phát triển công nghệ thông tin. Đồng thời, sẽ bổ sung thêm hai ưu tiên khác là: ủng hộ nỗ lực cải tổ Liên hợp quốc của Tổng Thư ký;cải thiện nguồn tài chính hiện có cụ thể:
Về các Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDG): UNDP sẽ tập trung: a) Đạt được những kết quả tại cấp độ quốc gia:UNDP giữ vững tốc độ hiện nay và tiếp tục tăng cường quá trình báo cáo MDG, các sản phẩm và các bước đi tiếp theo để các báo cáo MDG trở thành một công cụ thúc đẩy phát triển; b) Phối hợp với các tổ chức Liên hợp quốc tại quốc gia nâng cao nhận thức về MDG trong hệ thống Liên hợp quốc và trên thế giới; c) Tăng cường năng lực theo dõi và phân tích sử dụng quy định của MDG; d) Thúc đẩy phương thức điều hành quốc gia bằng cách giúp quốc gia bày tỏ những ưu tiên của mình trong quá trình tư vấn và cung cấp thông tin cơ bản giúp tất cả các bên có thế tham gia có ý nghĩa vào quá trình tư vấn; e) Hợp tác với Ngân hàng Thế giới và các ngân hàng phát triển khu vực; f) Sắp xếp các chương trình và chính sách để thể hiện tầm quan trọng của nhiệm vụ mới của UNDP về MDG.
Ngăn chặn khủng hoảng và tái thiết sẽ là mục tiêu được quan tâm đặc biệt trong thời gian tới. UNĐP sẽ tăng cường năng lực của các nhân viên, vận động các nhà tài trợ, và đảm bảo việc phân phối các dịch vụ xã hội cơ bản.
Trong lĩnh vực hoạt động có hiệu quả và phát triển nguồn nhân lực, UNDP sẽ tập trung vào tính thống nhất của kế hoạch hành động, đánh giá tính khả thi của chương trình. Với các cơ sở hạ tầng cơ bản đã có, trọng tâm hoạt động sẽ được chuyển sang phát triển các nội dung bổ sung cho các sản phẩm và dịch vụ sáng tạo và nhạy bén hơn mà các văn phòng quốc gia có thể đóng góp cho các kế hoạch ưu tiên quốc gia. UNDP sẽ mở rộng mạng lưới toàn cầu để các khách hàng từ bất cứ đâu, bên trong UNDP, tại các quốc gia các tổ chức Liên hợp quốc và cộng đồng phát triển, đều có thể hưởng lợi từ kiến thức, tri thức, và các kinh nghiệm.
Về cải tổ Liên hợp quốc, UNDP sẽ tích cực hỗ trợ nỗ lực của Tổng Thư ký nhằm cải tổ Liên hợp quốc. Một số hoạt động chính gồm đơn giản và hài hoà hoá các mô hình thực hiện chương trình của các tổ chức Liên hợp quốc tại quốc gia để tăng hiệu quả viện trợ và sự hợp tác, giảm chi phí giao dịch cho các đối tác.
Về nguồn tài chính, UNĐP sẽ tiếp tục sắp xếp các chương trình toàn cầu và quốc gia phù hợp với các lĩnh vực hoạt động, quá trình hoạt động, nguồn huy động tài chính. Những khoản đầu tư cho UNDP thông qua các kế hoạch công tác sẽ được thể chế hoá.
3. Quan hệ hợp tác Việt Nam- UNDP
Việt Nam ký Hiệp định hợp tác với UNDP ngày 21 tháng 3 năm 1978.
Với vai trò là một cơ quan tài trợ của Liên hợp quốc, UNDP bắt đầu thực hiện chương trình hỗ trợ tại Việt Nam từ 1978. Từ đó đến nay, UNDP đã thực hiện cho nước ta sáu chương trình viện trợ với tổng số vốn khoảng 430 triệu USD. Nhìn chung các chương trình viện trợ của UNDP cho Việt Nam được đánh giá là thực hiện tốt, có hiệu quả. UNDP coi Việt Nam là một điển hình trong quan hệ hợp tác giữa UNDP với các nước. Qua các chương trình dự án của mình, UNDP đóng góp đáng kể vào quá trình xây dựng và thực hiện chính sách đổi mới, nhất là trong các lĩnh vực kinh tế, pháp luật, hành chính. Xây dựng kế hoạch phát triển tổng thể cho nhiều ngành, địa phương và tích cực hỗ trợ công cuộc xoá đói giảm nghèo ở nước ta, (đặc biệt là trong việc huy động viện trợ, giúp Chính phủ điều phôí viện trợ, hội nhập khu vực và thế giới và một số lĩnh vực cải cách thể chế nhạy cảm bao gồm việc phát triển khuôn khổ pháp lý và cải cách hành chính.
Quan hệ hợp tác Việt Nam - UNDP có thể chia làm ba giai đoạn.
Từ 1977 đến giữa thập kỷ 80: Hỗ trợ tái thiết đất nước và chuyển giao công nghệ. Theo yêu cầu của Việt Nam, các dự án của UNDP chủ yếu tập trung vào hỗ trợ phục hồi và nâng cấp năng lực sản xuất, đặc biệt đẩy mạnh sản xuất hàng hoá thiết yếu phục vụ đời sống nhân dân. Các dự án giai đoạn này thường có tỷ trọng lớn về thiết bị (chiếm tới 50 - 70% tổng ngân sách dự án) như dự án phục hồi nhà máy điện Thủ Đức máy dệt và nhà máy đường ở Thành phố Hồ Chí Minh, cải thiện trang thiết bị dịch vụ mặt đất cho các sân bay Nội Bài, Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng, Quy Nhơn... Ngoài ra, để đáp ứng nhu cầu phát triển trong tương lai UNDP đã rất coi trọng chuyển giao công nghệ, bí quyết kỹ thuật thông qua việc hỗ trợ Việt Nam xây dựng và nâng cao năng lực cho một loạt các viện nghiên cứu và quy hoạch nông nghiệp (như Viện Khoa học Nông nghiệp, Viện Phân bón và Thổ nhưỡng...); cải tiến các giống cây trồng và vật nuôi (lúa, ngô, cây công nghiệp, cá, tôm...); và nâng cao chất lượng các sản phẩm công nghiệp (hàng dệt, nhựa, cao su, hoá chất cơ bản...)
Từ giữa thập kỷ 80 đến giữa thập kỷ 90: Hỗ trợ thực hiện tiến trình đổi mới và mở cửa
UNDP đã giúp Việt Nam đánh giá và xây dựng quy hoạch phát triển một số vùng lãnh thổ và ngành kinh tế như: quy hoạch tổng thể đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng; quy hoạch tổng thể ngành du lịch và hàng không dân dụng; báo cáo tổng quan ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, giáo dục. UNDP cũng đã chủ động hỗ trợ Chính phủ chuẩn bị báo cáo phân tích tình hình kinh tế Việt Nam. Những báo cáo và tài liệu này đã giúp Việt Nam, Ngân hàng thế giới và UNDP cùng phối hợp tổ chức thành công Hội nghị Tài trợ quốc tế đầu tiên năm 1998, đặt nền móng cho thành công tiếp theo của các Hội nghị thường niên của Nhóm các nhà tài trợ sau này.
Từ giữa thập kỷ 90 đến nay: Thúc đẩy cải cách thể chế, xóa đói giảm nghèo và phát triển bền vững
Từ 4-1995, theo yêu cầu của Việt Nam, UNDP tổ chức và chủ trì Diễn đàn Nhóm các nhà tài trợ. Diễn đàn đã góp phần tăng cường sự tin cậy lẫn nhau và sự hiểu biết chung về các vấn đề và ưu tiên phát triển quốc gia, trong đó có xoá đói giảm nghèo, cải cách tài chính công, hiệu quả sự dụng ODA, cải cách luật pháp, cải cách hành chính công, cải cách thương mại..
UNDP đã hỗ trợ tư vấn cho Việt Nam xây dựng và đưa vào thực hiện có hiệu quả Luật Doanh nghiệp, góp phần đơn giản hoá thủ tục hành chính và bãi bỏ nhiều loại giấy phép, qua đó cắt giảm đáng kể gánh nặng và chi phí về thủ tục hành chính trong việc thành lập doanh nghiệp. UNDP cũng đã hỗ trợ xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010, hiện đang là đường lối chỉ đạo quá trình phát triển đất nước trong những năm tới. Trong chu kỳ 2001-2005, UNDP đã cung cấp 41,30 triệu USD viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam. Với sự hỗ trợ của UNDP và một số nhà tài trợ khác. Việt Nam đã phê duyệt và công bố chiến lược cải cách hành chính quốc gia 2001-2010 và dự thảo chiến lược cải cách luật pháp cho l0 năm tới, đặt nền móng cho những bước cải cách hành chính và luật pháp mạnh mẽ sâu rộng hơn.
UNDP đã có nhiều hoạt động hỗ trợ việc xây dựng khung pháp luật kinh tế cho Việt Nam như. tổ chức nghiên cứu chuyên đề, cung cấp chuyên gia tư vấn pháp luật quốc tế, tổ chức toạ đàm. Các hoạt động này đã góp phần giúp các cơ quan có thẩm quyền xây dựng, sửa đổi và ban hành một hệ thống pháp luật kinh tế đồng bộ, toàn diện, minh bạch hơn và có tính khả thi cao hơn: Luật Ngân sách, Luật Thương mại, Luật Khoáng sản, luật dầu khí, luật đầu tư nước ngoài... Đồng thời, UNDP giúp tăng cường năng lực chỗ nhiều cơ quan pháp luật như: Văn phòng Quốc hội, Bộ Tư pháp, Toà án Nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ, và nhiều cơ quan của các tỉnh thành.
UNDP cung bắt đầu tập trung nhiều hơn và giúp Việt Nam thực hiện xoá đói, giảm nghèo, phát triển con người bền vững. Nhiều dự án đã được thực hiện ở một số tỉnh nghèo nhất ở miền Bắc, miền Trung, và miền Nam. Những bài học kinh nghiệm của các dự án này đã được lồng ghép vào chương trình.
Mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo và tạo việc làm và Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói- giảm nghèo mà UNDP đóng vai trò tư vấn. Bên cạnh đó, UNDP đã và đang hỗ trợ Việt Nam tăng cường các chính sách hỗ trợ những nhóm và cộng đồng dễ bị xâm hại như các dân tộc thiểu số, những người di dân ở khu vực nông thôn và những người bị nhiễm HIV/AIDS. UNDP đã phối hợp hỗ trợ Việt Nam tăng cường vai trò của phụ nữ trong quá trình ra quyết định, nâng cao nhận thức của công chúng về bình đẳng nam nữ, thúc đẩy sự tiến bộ và nâng cao vị thế của phụ nữ trong xã hội.