Quỹ Tiền tệ quốc tế là tổ chức tiền tệ - tín dụng quốc tế. Thành lập vào năm 1945 tại Oasinhtơn khi 29 chính phủ có 80% quota đóng góp ban đầu, ký quy chế do Hội nghị tiền tệ và tài chính của Liên hợp quốc xây dựng tại Bretton Woods (Hoa Kỳ) tháng 7 năm1944; bắt đầu thực sự hoạt động từ ngày 1 tháng 3 năm 1947. Được hưởng quy chế cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc.Tổng số vốn là 202 tỉ đôla Mỹ.Trụ sở chính của IMF đặt ở Oasinhtơn, thủ đô của Hoa Kỳ.
Vào năm 1930, khi hoạt động kinh tế ở những nước công nghiệp lớn bị thu hẹp, nhiều nước bắt đầu áp dụng tư tưởng trọng thương nhằm bảo vệ nền kinh tế của họ bằng việc hạn chế nhập khẩu. Để khỏi giảm dự trữ vàng, ngoại tệ, một số nước cắt giảm nhập khẩu, một số nước phá giá đồng tiền của họ, và một số nước khác áp đặt các hạn chế đối với tài khoản ngoại tệ của công dân. Những biện pháp này có hại đối với chính bản thân các nước đó vì, trên thực tế, mọi nước đều trở nên có lợi nhờ thương mại không hạn chế. Thương mại thế giới đã sa sút nghiêm trọng, khi việc làm và mức sống ở nhiều nước suy giảm.
Từ cuối Chiến thế giới lần thứ 2 cho đến cuối năm 1972, thế giới tư bản đã đạt được sự tăng trưởng thu nhập thực tế nhanh chưa từng thấy. Trong hệ thống tư bản chủ nghĩa, lợi ích thu được từ tăng trưởng đã không được chia đều cho tất cả, song hầu hết các nước tư bản đều trở nên thịnh vượng hơn, trái ngược hoàn toàn với thực tế của những nước tư bản trong thời kỳ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới.Kinh tế và hệ thống tiền tệ thế giới có thay đổi lớn làm tăng nhanh tầm quan trọng của những mục tiêu của IMF, điều đó cũng có nghĩa là IMF phải thích ứng và hoàn thiện hơn.
Trong tổ chức và cơ chế ban đầu của IMF có nhiều nhược điểm. Trải qua các thời kì biến chuyển của nền kinh tế và hệ thống tiền tệ thế giới, IMF đã cố gắng phát triển hoạt động của mình theo hai hướng: ổn định các tỉ giá hối đoái và đấu tranh chống những biện pháp hạn chế và phân biệt đối xử. Sự sụp đổ của hệ thống tỉ giá hối đoái cố định đặt ra sau chiến tranh bắt buộc phải thay đổi quy chế của IMF. Cuộc khủng hoảng đầu cơ gay gắt 1971 đã buộc Chính phủ Hoa Kỳ đình chỉ chế độ chuyển đổi đồng đôla lấy vàng vào 15.8.1971. Đến 1972, theo Hiệp định Jamaica, các tỉ giá hối đoái được thả nổi. Điều đó đẩy các nước thành viên của Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC) không duy trì tỉ giá đồng tiền của mình theo đồng đôla nữa, mỗi nước tự do quy định, tuyên bố hay không tuyên bố tỉ giá đồng tiền của mình và như vậy vàng bị gạt ra khỏi hệ thống tiền tệ và được thay thế bằng quyền rút vốn đặc biệt (special drawing rights - SDR).
Mục đích: IMF như "một tổ chức của 184 quốc gia", nuôi dưỡng tập đoàn tiền tệ toàn cầu, thiết lập tài chính an toàn, tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại quốc tế, đẩy mạnh việc làm và tăng trưởng kinh tế cao, và giảm bớt đói nghèo. Tất cả các nước thành viên của Liên hợp quốc tham gia trực tiếp vào IMF hoặc được đại diện cho bởi những nước thành viên khác. IMF điều chỉnh quan hệ tiền tệ giữa các thành viên và cho các nước bị thâm hụt cán cân thanh toán vay ngắn hạn và trung hạn (khác với Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển châu Á là các tổ chức ngân hàng cho vay các dự án và chương trình phát triển dài hạn).
Nguồn vốn của IMF chủ yếu do các thành viên đóng góp theo cổ phần. Hiện nay, Hoa Kỳ chiếm 18,38% cổ phần, Nhật Bản 5,7%, Cộng hoà Liên bang Đức 5,7%, Pháp 5,1%, Anh 5,1%. Số phiếu trong các cơ quan lãnh đạo được phân phối phù hợp với tỉ lệ góp vốn, vì vậy đa số phiếu tập trung vào các nước công nghiệp phát triển nhất.
Cơ cấu của IMF: Cơ quan lãnh đạo cao nhất là Hội đồng Thống đốc, họp mỗi năm một lần, quyết định những vấn đề cơ bản, nhiệm kì 5 năm. Ngoài Hội đồng Thống đốc còn có các uỷ ban phát triển, uỷ ban lâm thời của Hội đồng Thống đốc. Ban Giám đốc điều hành do tổng giám đốc làm chủ tịch, thực hiện công việc hàng ngày.
Các loại tín dụng: 1) Tín dụng thông thường: nước được vay phải có chương trình điều chỉnh kinh tế ngắn hạn; mức tối đa được vay là 100% cổ phần của nước đó tại quỹ; thời hạn 3 - 5 năm; ân hạn 3 năm với lãi suất khoảng 5 - 7,5%. 2) Vốn vay bổ sung: mức vay có thể từ 100% đến 350% cổ phần của nước đó, tuỳ theo mức độ thiếu hụt; thời hạn 3 - 5 năm; ân hạn 3,5 năm; lãi suất theo lãi suất thị trường. 3) Vay dự phòng: tối đa được 62,5% cổ phần; thời hạn 5 năm; ân hạn 3,5 năm; lãi suất thị trường. 4) Vay dài hạn: nước đi vay phải có chương trình điều chỉnh kinh tế trung hạn và mọi khoản vay phải theo sát với việc thực hiện chương trình theo từng quý, từng năm. Mức vay bằng 140% cổ phần; thời hạn 10 năm; ân hạn 4 năm; lãi suất 6 - 7,5% năm. 5) Vay bù đắp thất thu xuất khẩu: cho các nước đang phát triển có đột biến thiếu hụt cán cân thương mại trong năm. Mức vay tối đa bằng 100% cổ phần; thời hạn và lãi suất như tín dụng thông thường. 6) Vay chuyển tiếp nền kinh tế: loại tín dụng mới xuất hiện để hỗ trợ cho các nước chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang kinh tế thị trường; thời hạn vay 5 năm; ân hạn 3,25 năm; lãi suất thị trường. Ngoài ra, còn một số loại tín dụng khác như vay để duy trì dự trữ điều hoà, vay để điều chỉnh cơ cấu,vv.
Những tiến bộ nhanh chóng trong kỹ thuật công nghệ và thông tin liên lạc đã góp phần làm tăng hội nhập quốc tế của các thị trường, làm cho các nền kinh tế quốc dân gắn kết với nhau chặt chẽ hơn. Xu hướng hiện nay là mở rộng số quốc gia tham gia IMF.Ảnh hưởng của IMF trong kinh tế toàn cầu được gia tăng nhờ sự tham gia đông hơn của các quốc gia thành viên. Hiện IMF có 184 thành viên, nhiều hơn bốn lần so với con số 44 thành viên khi nó được thành lập.Việt Nam là thành viên IMF từ 1976, thừa kế quy chế thành viên từ chính quyền Sài Gòn cũ. Cổ phần lúc đó là 314 triệu đôla Mỹ, chiếm 0,12% tổng số vốn của IMF.
BVK (biên soạn theo TĐBKVN)