Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa X đã ban hành Nghị quyết về đổi mới, kiện toàn bộ máy các cơ quan đảng, định hướng đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Đây là Nghị quyết thể hiện rõ quan điểm và quyết tâm đổi mới tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả, gắn với cải cách hành chính. Nghị quyết được triển khai đồng bộ từ Trung ương đến các địa phương. Sau 4 năm thực hiện, cho thấy:
Tổ chức bộ máy của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội đã giảm đầu mối, tinh gọn, ổn định và từng bước nâng cao chất lượng hoạt động tốt
l. Các cơ quan tham mưu của Trung ương đã giảm từ 13 xuống 6: Ban Tuyên giáo Trung ương (hợp nhất Ban Tư tưởng – Văn hóa và Ban Khoa giáo), Ban Tổ chức Trung ương (hợp nhất Ban Tổ chức và Ban Bảo vệ chính trị nội bộ), Văn phòng Trung ương Đảng (hợp nhất Văn phòng với Ban Nội chính, Ban Kinh tế, Ban Tài chính - Quản trị), Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Ban Dân vận Trung ương, Ban Đối ngoại Trung ương. Tổ chức lại Ban Cán sự đảng Ngoài nước thành Đảng ủy Ngoài nước và chuyển về trực thuộc Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương. Kết thúc hoạt động Ban Nghiên cứu của Bộ Chính trị về an ninh quốc gia, chuyển nhiệm vụ theo dõi, tham mưu, tổng hợp về an ninh quốc gia về Văn phòng Trung ương Đảng. Hợp nhất Học viện CTQG Hồ Chí Minh và Học viện HCQG thành Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Thành lập Học viện Chính trị khu vực 4, Học viện Xây dựng Đảng. Đổi tên Phân viện Chính trị - Hành chính các khu vực thuộc Học viện trung tâm thành Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh khu vực l, 2, 3. Giữ nguyên cơ cấu tổ chức cơ quan Báo Nhân dân, Tạp chí Cộng sản, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
Bộ Chính trị đã quyết định kết thúc hoạt động của 7 đảng bộ khối trực thuộc Trung ương để thành lập Đảng bộ khối các cơ quan Trung ương và Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung ương. Tổng kết, đánh giá mô hình đảng đoàn, ban cán sự đảng ở Trung ương và địa phương. Kết thúc hoạt động của 6 ban cán sự đảng ở các đơn vị sự nghiệp trung ương, 9 đảng đoàn các hội văn học, nghệ thuật chuyên ngành trung ương. Tổ chức lại Đảng đoàn Liên hiệp các hội văn học, nghệ thuật Việt Nam. Ban hành quy định chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của các cơ quan tham mưu giúp việc, đơn vị sự nghiệp và các đảng ủy khối trực thuộc Trung ương. Các cơ quan tham mưu được hợp nhất theo hệ thống từ Trung ương đến cấp huyện, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác chỉ đạo, hướng dẫn và hoạt động của Đảng. Coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Trình độ cán bộ từng bước được nâng lên. Đặc biệt quan tâm chính sách đối với cán bộ diện sắp xếp lại, từng bước nghiên cứu sửa đổi những bất hợp lý về lương đối với cán bộ khối đảng, đoàn thể.
2. Đổi mới tổ chức bộ máy của Quốc hội. Tách Ủy ban Pháp luật thành Ủy ban Tư pháp và Ủy ban Pháp luật, tách Ủy ban Kinh tế và ngân sách thành Ủy ban Kinh tế và Ủy ban Tài chính. Tăng thêm ủy ban theo hướng chuyên sâu giúp giảm tải công việc và chuyên môn hóa hoạt động để mỗi uỷ ban thực hiện sâu, đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Quy trình hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội được cải tiến. Điều chỉnh về tổ chức bộ máy, xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức giữa các cơ quan giúp việc theo hướng cụ thể, hạn chế trùng lắp. Giải thể Ban Công tác lập pháp, thành lập Viện nghiên cứu lập pháp. Nâng cấp và đổi tên Báo Người đại biểu nhân dân, hợp nhất Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Văn phòng HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Đến nay, cơ bản đã thống nhất về mô hình tổ chức văn phòng giúp việc cơ quan dân cử, ổn định về tổ chức bộ máy. Số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách nhiệm kỳ khóa XII tăng hơn so với nhiệm kỳ XI là 145 đại biểu, chiếm 29,4% tổng số đại biểu Quốc hội. Số đại biểu có trình độ đại học trở lên chiếm 96% (khóa XI là 93,7%). Tăng số lượng đại biểu chuyên trách tạo điều kiện thuận lợi sắp xếp, bố trí cán bộ, kiện toàn bộ máy, nâng chất lượng hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các ủy ban và các đoàn đại biểu Quốc hội.
3. Cơ cấu tổ chức bộ máy của Chính phủ và chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện được điều chỉnh theo hướng tinh gọn, hợp lý, nâng cao hiệu lực, hiệu quả. Các bộ và cơ quan ngang bộ cơ bản thực hiện chức năng quản lý nhà nước đa ngành, đa lĩnh vực. Các cơ quan thuộc Chính phủ có chức năng quản lý nhà nước đã chuyển vào các bộ tương ứng. Chính phủ khoá XII so với khóa XI giảm 4 bộ, 4 cơ quan ngang bộ. Hiện có 18 bộ, 4 cơ quan ngang bộ và 8 cơ quan trực thuộc Chính phủ. Đầu mối tổ chức bên trong của các bộ, cơ quan ngang bộ được sắp xếp, điều chỉnh xem xét một bước. Quản lý, điều hành của Chính phủ, các bộ năng động, tập trung nhiều hơn vào quản lý vĩ mô và giải quyết những vấn đề lớn, quan trọng. Nhìn chung, các bộ được tổ chức theo mô hình quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, hoạt động ổn định, cơ chế phối hợp rõ ràng hơn. Các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh được sắp xếp, kiện toàn gọn và thống nhất thành 17 đầu mối. Một số tỉnh do đặc thù riêng nên có thêm 3 đầu mối (ngoại vụ, ban dân tộc, sở quy hoạch-kiến trúc đối với TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh). Cơ quan chuyên môn cấp huyện được tổ chức thống nhất thành 10. Một số huyện đặc thù được tổ chức thêm phòng dân tộc.
4. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã thành lập mới 2 đơn vị cấp vụ, đồng thời củng cố, kiện toàn bộ máy các đơn vị trực thuộc để tăng cường công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động pháp lý, tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn hoạt động của các viện kiểm sát địa phương. Tòa án nhân dân tối cao thành lập mới 2 đơn vị cấp vụ và kiện toàn các tòa chuyên trách, các đơn vị tham mưu, giúp việc. Hệ thống tổ chức bộ máy của viện kiểm sát nhân dân và tòa án nhân dân các cấp từng bước được củng cố, kiện toàn đáp ứng yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Hệ thống quy chuẩn về công tác tổ chức, cán bộ cơ bản được hoàn thiện, tạo cơ sở đảm bảo cho công tác tổ chức, cán bộ của 2 ngành được thực hiện thống nhất theo quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên, thẩm phán được tăng cường về số lượng và từng bước nâng cao chất lượng. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục, rèn luyện cán bộ được chú trọng, từng bước đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong tình hình mới.
5. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội được rà soát chức năng, nhiệm vụ các ban tham mưu, các đơn vị trực thuộc, giảm 17 đầu mối cấp vụ, ban trực thuộc. Tổ chức bộ máy của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể từ Trung ương tới cơ sở gọn, chức năng, nhiệm vụ được phân định rõ ràng hơn, giảm bớt tình trạng cồng kềnh, chồng chéo và hành chính hóa trong hoạt động. Chất lượng cán bộ của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội ở Trung ương và địa phương được nâng lên một bước. Các cơ quan đã xây dựng được tiêu chí chức danh, tiêu chuẩn tuyển dụng cán bộ. Quan tâm công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển cán bộ.
6. Các doanh nghiệp của Đảng đã được sắp xếp lại theo Thông báo Kết luận số 146-TB/TW, ngày 01-4-2008. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội đã tiến hành sắp xếp lại các đơn vị sự nghiệp có thu theo hướng tinh giảm đầu mối, từng bước chuyển sang hoạt động tự chủ theo Nghị định 43-NĐ/CP của Chính phủ. Đến nay hầu hết các doanh nghiệp của Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội được cổ phần hóa hoặc chuyển sang công ty TNHH một thành viên. Bộ Quốc phòng và Bộ Công an đã chuyển một số công ty vốn nhà nước thành công ty TNHH một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu phục vụ quốc phòng, an ninh.
Bên cạnh những kết quả đạt được, thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa X còn bộc lộ hạn chế, thiếu sót sau:
- Tổ chức bộ máy các cơ quan trong hệ thống chính trị tuy có giảm đầu mối, nhưng lại thành lập nhiều đơn vị trực thuộc bên trong nên vẫn còn cồng kềnh, hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa cao. Cải cách hành chính có tiến bộ nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đặt ra.
- Hệ thống quy định, quy chế tuy được rà soát, bổ sung nhưng chức năng, nhiệm vụ vẫn còn một số chồng chéo. Mô hình tổ chức bộ máy, hệ thống luật chưa đủ sức điều chỉnh những bất hợp lý do thực tiễn đặt ra. Chưa phân biệt thật rõ bộ máy giữa chính quyền đô thị và nông thôn, nhất là đô thị lớn là những trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội. Việc chuyển đổi các doanh nghiệp thuộc bộ, tách chức năng sản xuất, kinh doanh ra khỏi chức năng quản lý nhà nước của các bộ thực hiện còn chậm, chưa thống nhất nhận thức.
- Biên chế cán bộ, công chức nhìn chung chưa thực hiện được mục tiêu tinh giản. Việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chưa gắn đồng bộ với các chế độ, chính sách đào tạo, sử dụng, đãi ngộ, nhất là khuyến khích tuyển chọn, sử dụng nhân tài vào công tác trong cơ quan của hệ thống chính trị. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhất là đào tạo theo chức danh chưa làm được nhiều. Cơ cấu, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức còn bất cập so với yêu cầu. Tinh thần trách nhiệm, thái độ làm việc của cán bộ, công chức, viên chức nhiều nơi chưa đáp ứng được mục tiêu cải cách hành chính và phục vụ nhân dân.
- Chế độ, chính sách tiền lương chưa được cải thiện nhiều, đời sống của đại bộ phận cán bộ, công chức còn khó khăn. Đã có tình trạng cán bộ, công chức có trình độ cao xin nghỉ việc hoặc chuyển lĩnh vực công tác khác, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức của cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể.
Những hạn chế trên một phần là do:
- Nhận thức của một số cấp ủy, cơ quan, đơn vị, địa phương và người đứng đầu về đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy chưa đầy đủ, thiếu thống nhất. Quan điểm về phát huy vai trò trách nhiệm các tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan nhà nước thực hiện chức năng tham mưu, phản biện cho Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư hiệu quả chưa cao. Nhận thức thực hiện chức năng quản lý nhà nước đa ngành, đa lĩnh vực còn khác nhau, chưa thống nhất.
- Việc thể chế hóa phương thức lãnh đạo của Đảng nhằm phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động, sáng tạo, tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội còn chậm và chưa đồng bộ. Chế độ chính sách còn bất cập, nhất là chính sách tiền lương.
Để tiếp tục thực hiện Nghị quyết trong thời gian tới, cần thực hiện có hiệu quả một số nội dung sau:
Một là, tiếp tục xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, mô hình tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị. Từ kết quả tổng kết việc thực hiện sáp nhập một số ban, bộ, ngành trung ương có chủ trương phù hợp. Tiếp tục kiện toàn, nâng cao chất lượng các cơ quan tham mưu, đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu, nhất là cấp chiến lược.
Hai là, hoàn thiện quy định về chức năng, nhiệm vụ tổ chức bộ máy, mối quan hệ của các cơ quan tham mưu, giúp việc, đơn vị sự nghiệp của cấp ủy các cấp. Xây dựng hoàn chỉnh hệ thống quy định về mối quan hệ giữa các tổ chức đảng, giữa các cấp, các ngành trong việc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nghiên cứu phân biệt rõ mô hình cơ cấu chính quyền nông thôn và chính quyền đô thị phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương.
Ba là, tổ chức bộ máy các cơ quan trong hệ thống chính trị đang trong quá trình hoàn thiện, bổ sung, điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ cho phù hợp. Vì vậy không đặt vấn đề tách, sát nhập tổ chức bộ máy mà hướng cơ bản giữ ổn định như hiện nay. Chỉ xem xét, điều chỉnh mộtsố tổ chức thật cần thiết mà qua thời gian sắp xếp đã bộc lộ bất cập, đủ căn cứ khoa học và thực tiễn để chia, tách hoặc sát nhập. Đối với các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, huyện sắp xếp theo hướng không nhất thiết ở Trung ương có bộ, ngành nào thì địa phương có sở, ngành đó. Mô hình tổ chức thống nhất trên phạm vi toàn quốc nhưng chú ý đến đặc thù của một số địa phương để có thể lập sở, phòng chuyên môn cần thiết.
Bốn là, thực hiện tinh giản biên chế trên cơ sở xây dựng chức trách nhiệm vụ, chức danh tiêu chuẩn hóa của từng cán bộ, công chức gắn với vị trí làm việc. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đạo đức lành mạnh, vững chính trị, tinh thông nghiệp vụ, chuyên môn. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng theo chức danh cán bộ, công chức. Giải quyết chế độ, chính sách hợp lý tạo điều kiện để cán bộ, công chức yên tâm cống hiến, thu hút nhân tài vào làm việc trong các cơ quan đảng, nhà nước và các đoàn thể. Tiếp tục thực hiện cải cách chính sách tiền lương theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 7 khóa VIII và kết luận Hội nghị Trung ương 6 khóa X: “Tiền lương gắn liền với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trả lương đúng cho người 1ao động chính là thực hiện đầu tư cho phát triển; góp phần quan trọng làm lành mạnh, trong sạch đội ngũ cán bộ, nâng cao tinh thần trách nhiệm và hiệu suất công tác. Cải cách chính sách tiền lương phải tính tới bảo đảm cho cán bộ, công chức, viên chức sống được bằng tiền lương ở mức độ khá trong xã hội''.