Ðất nước ta bước vào năm 2006 với một sự kiện chính trị trọng đại: Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Ðảng Cộng sản Việt Nam.
Ðại hội chính thức họp trong 8 ngày, từ ngày 18 đến ngày 25-4-2006, nhưng công việc chuẩn bị cho Ðại hội thì đã bắt đầu từ gần hai năm về trước, một thời gian cần thiết và khá đủ để xây dựng chu đáo các văn kiện và phương án nhân sự, đồng thời tiến hành đại hội đảng các cấp.
Ðánh giá kết quả Ðại hội, trong Ðảng và trong nhân dân ta, đã có sự đồng tình rất cao với nhận định của Tổng Bí thư Nông Ðức Mạnh trong diễn văn bế mạc, rằng "Ðại hội đã thành công tốt đẹp". Trong khi đó, một số kẻ tự xưng là "cấp tiến" hay "chống đối", chủ yếu ở ngoài nước, lại tỏ rõ sự cay đắng và hằn học, rằng Ðại hội "không có thay đổi gì thực chất" hoặc "cực kỳ bảo thủ".
Những sự đánh giá khác nhau đó phản ánh đồng thời cả hai mặt của sự thật. Một là, Ðại hội, bằng những quyết sách của mình, đã thật sự đáp ứng nguyện vọng của cán bộ và nhân dân ta mong muốn sự nghiệp đổi mới ngày càng tiến lên, Ðảng ta ngày càng vững mạnh, đất nước ngày càng phát triển. Hai là, Ðại hội không chấp nhận những ý kiến cực đoan và kiên quyết bác bỏ những mưu toan đòi đưa đất nước đi theo một con đường khác, từ bỏ chủ nghĩa xã hội và sự lãnh đạo của Ðảng.
Ðể có cái nhìn tổng quát về thành công của Ðại hội X, bài viết này xin thử nêu lên một số nét chấm phá, chủ yếu là những cái mới so với các Ðại hội trước.
1- Ðại hội thứ 5 của thời kỳ đổi mới
Ðiều dễ dàng nhận thấy đối với mọi người là, trong thời kỳ đổi mới 20 năm qua, Ðảng ta đã họp năm kỳ Ðại hội mà đại hội nào cũng đều là một cột mốc quan trọng.
Ðại hội VI (1986) đề ra đường lối đổi mới toàn diện, được coi là Ðại hội mở đầu thời kỳ đổi mới.
Ðại hội VII (1991) là Ðại hội của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Ðại hội VIII (1996) đánh dấu sự chấm dứt hơn 15 năm khủng hoảng kinh tế - xã hội và mở ra thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Ðại hội IX (2001) đề ra Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010, theo đó trong 10 năm đầu thế kỷ 21, phấn đấu đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020, trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Ðại hội X (2006) là Ðại hội thứ 5 của thời kỳ đổi mới. Vậy đặc trưng của Ðại hội này là gì? Ðại hội đưa ra cái gì mới? Có là một cột mốc trong tiến trình đổi mới không? Từ những câu hỏi ấy, đã có nhiều sự phỏng đoán khác nhau. Và đó là lý do đầu tiên để mọi người đặc biệt quan tâm đến chủ đề của Ðại hội: "Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển".
Những cuộc thảo luận rộng rãi trong Ðảng và trong nhân dân cho thấy, không phải ngay từ đầu, chủ đề ấy đã được đón nhận hoàn toàn thuận lợi. Với những nhận thức khác nhau, đã có nhiều đề nghị bổ sung nhiều cụm từ như: "chủ nghĩa xã hội" hoặc "theo định hướng xã hội chủ nghĩa", "Ðảng phải giữ vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh"; "đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", "đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng và chống tham nhũng", "đưa nước ta trở thành nước phát triển", v.v. Rất mừng là Ðại hội, trên cơ sở cân nhắc kỹ mọi đề nghị bổ sung, đã đi đến kết luận: "Chủ đề Ðại hội là tư tưởng chỉ đạo định hướng hoạt động của Ðảng, xác định nhiệm vụ trọng tâm trong mỗi thời kỳ nhất định. Vì vậy, phải ngắn gọn, tập trung nêu bật những thành tố quan trọng nhất, những định hướng lớn nhất, có tính chỉ đạo tư tưởng của toàn Ðảng, toàn dân ta những năm tới. Trong chủ đề, không thể đưa vào quá nhiều nội dung, vả lại bổ sung bao nhiêu cũng không đủ, càng làm phân tán chủ đề. Bốn thành tố của chủ đề Ðại hội (cũng là tiêu đề của Báo cáo chính trị) hiện nay đã thể hiện được tinh thần đó".
Việc xác định chủ đề như trên mà nội dung được thể hiện đầy đủ trong các văn kiện của Ðại hội X tự nó đã nói lên cái mới và cái đặc trưng lớn của Ðại hội.
2- Hành trang 20 năm
Một trong những dấu ấn sâu sắc nhất gắn liền với thành công của Ðại hội X là cuộc "Tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn của 20 năm đổi mới". Cuộc tổng kết này do Bộ Chính trị quyết định tiến hành ngay từ đầu năm 2003 với mục đích chung là, thông qua tổng kết, đánh giá một cách đúng đắn toàn bộ quá trình đổi mới, cả những thành tựu và các mặt tồn tại, từ đó rút ra những bài học cần thiết để tiếp tục hoàn thiện đường lối, quan điểm chỉ đạo đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới trong những năm tiếp theo. Yêu cầu trực tiếp là cung cấp luận cứ khoa học cho việc soạn thảo các văn kiện của Ðại hội X.
Xuyên suốt các văn kiện trình ra Ðại hội X, ta thấy rất nhiều kết luận trong Báo cáo tổng kết đã được chấp nhận. Báo cáo chính trị tại Ðại hội X, phần nhìn lại 20 năm đổi mới, đã nêu rõ:
"Hai mươi năm qua với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
Ðất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Ðời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp".
Báo cáo chính trị cũng khẳng định: "Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Ðảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản". Và: "Từ thực tiễn 20 năm đổi mới, Ðảng và Nhà nước ta tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý".
Không phải ngẫu nhiên mà, trong khi Ðảng, Nhà nước và nhân dân ta đánh giá cao những thành tựu của 20 năm đổi mới (bao gồm cả những thành tựu của 5 năm thực hiện Nghị quyết Ðại hội IX), thì dư luận bên ngoài, dù với những mức độ khác nhau, đều thừa nhận đổi mới là "điều kỳ diệu" coi Việt Nam là một "tấm gương của ý chí", "một quốc gia phát triển năng động", coi những kinh nghiệm của chúng ta là đặc biệt có ích cho những nước nghèo muốn đi lên. Cũng không phải ngẫu nhiên mà trong khi nhìn vào Ðại hội X, người ta coi đó là Ðại hội của Việt Nam sau 20 năm đổi mới.
Với chúng ta, tuy không coi nhẹ chút nào những yếu kém và khuyết điểm đang mắc phải, những khó khăn và cả những nguy cơ cần vượt qua, những gì mà chúng ta gặt hái được sau 20 năm đổi mới thật sự trở thành hành trang vô cùng quý giá để đi lên trong thời kỳ mới. Không có hành trang đó, chúng ta không thể mạnh dạn đưa ra những quyết sách để đạt tới cái đích của 5 năm 2006-2010 và của 15 năm tới.
3- Mục tiêu phát triển
Thông qua chủ đề của Ðại hội, ta thấy mục tiêu đề ra cho 5 năm 2006-2010 là: "Sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại". Nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân trong 5 năm là 7,5 - 8%/năm, phấn đấu đạt trên 8%.
Có ý kiến cho rằng, mục tiêu đó là quá khiêm tốn. Nói "sớm" là chỉ nói định tính, không có định lượng. Dùng cụm từ "kém phát triển" đối với nước ta là không có ý nghĩa tích cực, v.v... Ðể đánh giá đúng, xin thử đọc một đoạn trong bản trình bày của Ðoàn Chủ tịch Ðại hội X về ý kiến thảo luận trong Ðại hội: "Sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển là mục tiêu trực tiếp của nhiệm kỳ 2006 - 2010. Ðại hội IX đã đề ra Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm (2001 - 2010) nhằm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển". Ðại hội X nêu quyết tâm sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, hàm ý phấn đấu hoàn thành chiến lược nói trên trước năm 2010. Ðây là điều mong mỏi thiết tha, là đòi hỏi bức xúc của toàn Ðảng, toàn dân ta. Nêu "sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển". Không có nghĩa là tiêu cực, bi quan, trái lại, thể hiện sự nhìn nhận nghiêm túc, khách quan về tình hình đất nước hiện nay, cổ vũ nhân dân ta vươn lên với tinh thần tự tôn dân tộc và quyết tâm cao để đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển, có nghĩa là thoát khỏi tình trạng thu nhập bình quân đầu người thấp, chỉ số phát triển con người thấp và tình trạng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội lạc hậu, thiếu thốn. Cũng cần nói thêm rằng, mục tiêu đó là có tính khả thi. Bởi vì theo tính toán của các cơ quan chức năng, nếu chúng ta thực hiện được mức tăng trưởng GDP 7,5 - 8%/năm thì đến năm 2009, nước ta sẽ đạt được mức GDP bình quân đầu người hơn 950 USD, tức là đạt mục tiêu ra khỏi tình trạng nước đang phát triển có thu nhập thấp (theo quy chuẩn của Liên hợp quốc)".
Vậy là tình trạng kém phát triển ở nước ta thể hiện trên cả ba mặt: thu nhập bình quân đầu người thấp, chỉ số phát triển con người thấp và tình trạng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội lạc hậu, thiếu thốn. Phấn đấu để trong vòng 5 năm thoát ra khỏi tình trạng kém phát triển trên cả ba mặt đó, sao có thể gọi là khiêm tốn được? Phải chăng đưa nước ta ra khỏi tình trạng thu nhập bình quân đầu người thấp là khả năng trong tầm tay, còn ra khỏi tình trạng kém phát triển ở hai mặt thứ hai và thứ ba thì còn cần nhiều thời gian hơn?
Ðể đạt được mục tiêu phát triển ấy, cần thực hiện những biện pháp gì? Ðại hội X nhấn mạnh một hệ thống đồng bộ các giải pháp: Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát triển nguồn nhân lực; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển.
Ðương nhiên, trong hệ thống các giải pháp nêu trên, có những nhiệm vụ cụ thể nhất thiết phải thực hiện ngay và làm xong trong 5 năm tới, có những nhiệm vụ còn phải tiếp tục trong nhiều năm nữa, bởi mục tiêu xa hơn của ta là phấn đấu đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
4- Nhiệm vụ then chốt
Trong khi đề ra một cách toàn diện những nhiệm vụ cơ bản của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới, từ kinh tế, văn hóa xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại đến xây dựng hệ thống chính trị, Ðại hội X đã dành một sự chú trọng đặc biệt đến nhiệm vụ then chốt: xây dựng, chỉnh đốn Ðảng. "Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng" là thành tố đầu tiên của chủ đề Ðại hội.
Ðiều này rất dễ hiểu. Ðảng ta là Ðảng cầm quyền, Ðảng duy nhất lãnh đạo cách mạng ở nước ta. Mọi thành tựu và khuyết điểm của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều gắn liền với trách nhiệm lãnh đạo và hoạt động của Ðảng.
Trong tình hình hiện nay, cơ hội và thách thức đan xen nhau, công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng phải đáp ứng bằng được yêu cầu vừa kiên định sự lãnh đạo của Ðảng vừa phải không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng để Ðảng ngang tầm với trọng trách của mình. Nâng cao năng lực lãnh đạo của Ðảng là nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chính sách; năng lực tổ chức chỉ đạo thực hiện; tổng kết lý luận thực tiễn, tạo thống nhất nhận thức và hành động trong Ðảng; lãnh đạo Mặt trận và các đoàn thể quần chúng, tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân. Nâng cao sức chiến đấu của Ðảng là làm cho từng cán bộ, đảng viên, từng tổ chức và cấp ủy đảng, nói chung là toàn Ðảng, phải có ý chí vươn lên, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao; thường xuyên rèn luyện phẩm chất đạo đức, không nể nang, né tránh, "dĩ hòa vi quý", kiên quyết đấu tranh với những luận điệu tiêu cực, tham nhũng, suy thoái ở ngay trong bản thân mỗi đảng viên, ở trong tổ chức đảng, cơ quan nơi mình sinh hoạt, công tác, ở trong Ðảng và trong xã hội, dũng cảm đấu tranh chống các tư tưởng, quan điểm và hành động sai trái, thù địch.
Có thể nói những nhiệm vụ đề ra cho xây dựng, chỉnh đốn Ðảng tại Ðại hội X là toàn diện và cụ thể, bao gồm từ tư tưởng, tổ chức và cán bộ đến phương thức lãnh đạo.
Cái mới lớn nhất về xây dựng Ðảng tại Ðại hội X là việc làm sáng tỏ bản chất của Ðảng và đưa ra cách diễn đạt mới về Ðảng.
Thay vì cách diễn đạt như Ðiều lệ hiện hành (trước Ðại hội X) "Ðảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc", Ðại hội X bổ sung thêm một vế, thành ra: "Ðảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc".
Một số ý kiến không đồng tình cho rằng, cách diễn đạt mới sẽ làm nhạt nhòa bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Ðảng và trượt theo quan điểm "Ðảng toàn dân".
Từ sự phân tích sâu sắc bản chất giai cấp công nhân và mối quan hệ khăng khít giữa giai cấp và dân tộc, những ý kiến diễn đạt về Ðảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời xuất phát từ thực tiễn xây dựng Ðảng của Ðảng ta, Ðại hội X đã khẳng định: cách diễn đạt mới vừa nói lên được bản chất giai cấp công nhân của Ðảng theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vừa nói lên được nét đặc thù của Ðảng ta theo sự phát triển sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp thực tế Việt Nam và đáp ứng nguyện vọng, tình cảm của nhân dân. Diễn đạt như thế hoàn toàn không phải là hạ thấp bản chất giai cấp công nhân của Ðảng, trượt sang quan điểm "Ðảng toàn dân", mà chính là hiểu bản chất giai cấp của Ðảng một cách sâu sắc hơn, nhuần nhuyễn hơn. Ðiều đó đòi hỏi Ðảng ta chẳng những phải trung thành với giai cấp công nhân, nâng cao lập trường, tư tưởng của giai cấp công nhân mà còn phải học tập, kế thừa, phát huy truyền thống dân tộc, tăng cường đoàn kết, tập hợp nhân dân, phấn đấu vì lợi ích của cả giai cấp và dân tộc.
Cái mới khác nữa trong xây dựng Ðảng là việc cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân (bao gồm cả tư bản tư nhân). Có sự lo lắng chính đáng rằng, làm như vậy sẽ có thể dẫn đến sự tha hóa, biến chất trong Ðảng. Sự thật thì, xuất phát từ chính sách của Ðảng ta ra sức phát triển lực lượng sản xuất, động viên mọi nguồn lực, mọi thành phần kinh tế vào việc xây dựng "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh", từ quan điểm không xem kinh tế tư nhân là gắn với chủ nghĩa tư bản, mà lãnh đạo kinh tế tư nhân phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cũng xuất phát từ thực tế hiện nay số đảng viên làm kinh tế tư nhân còn ít, nhưng phần lớn đều gương mẫu chấp hành Ðiều lệ Ðảng, pháp luật của Nhà nước, Ðảng ta đã đi đến quyết định cho đảng viên làm kinh tế tư nhân, nhưng phải gương mẫu chấp hành luật pháp, chính sách của Nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành Ðiều lệ Ðảng và quy định của Ban Chấp hành Trung ương. Có thể hiểu rằng, những quy định này là nhằm vừa phát huy khả năng làm kinh tế của đảng viên vừa giữ được tư cách của đảng viên, không làm biến chất Ðảng. Trong những quy định ấy, có hai điều không thể không có: Một là, đảng viên làm kinh tế tư nhân phải là những người không thuộc phạm vi điều chỉnh của Pháp lệnh công chức và Luật phòng, chống tham nhũng; đảng viên không ở trong biên chế của hệ thống chính trị (Ðảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị xã hội), không tại ngũ quân đội và công an. Hai là,phải trực tiếp tham gia lao động: lao động chân tay, lao động quản lý, lao động điều hành sản xuất, lao động kỹ thuật ở doanh nghiệp do đảng viên làm chủ...
5- Dân chủ và công khai
Nói đến Ðại hội X, cùng với việc chú tâm vào các vấn đề nội dung các quyết sách lớn được định đoạt tại Ðại hội, không ai không thừa nhận rằng cách thức tiến hành Ðại hội là rất mới mẻ, trước hết ở tính chất dân chủ và công khai. Ba điều nổi bật nhất là: công bố Báo cáo chính trị để toàn dân thảo luận và đóng góp ý kiến; công khai hóa ngay tại Ðại hội Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương khóa IX và Báo cáo về kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII trên lĩnh vực đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong nhiệm kỳ Ðại hội IX; tiến hành một cách dân chủ và công khai việc bầu cử Ban Chấp hành Trung ương khóa X và các cơ quan lãnh đạo của Trung ương.
Những kẻ chống đối chúng ta thường rêu rao rằng, Ðảng ta sợ dân chủ, không dám đưa những việc quốc gia đại sự cho nhân dân bàn, hoặc có đưa ra thì cũng chỉ là làm chiếu lệ, không chấp nhận bất cứ ý kiến nào khác với ý kiến của Ðảng. Rằng, Ðảng ta sợ công khai, chỉ thích những lời tán dương mà không dám nói rõ sai lầm và khuyết điểm của mình. Rằng, Ðảng ta coi chuẩn bị nhân sự là việc bí mật của Ðảng, một công việc áp đặt từ bên trên hoặc từ một "thế lực vô hình" nào đó.
Nhưng, những gì đã diễn ra trước và trong Ðại hội X đã chứng minh điều ngược lại.
Cuộc lấy ý kiến về Báo cáo chính trị đã trở thành một đợt sinh hoạt chính trị rộng lớn, qua đó, cán bộ và nhân dân, cả ở trong nước và ngoài nước, đều thể hiện tinh thần tự giác và ý thức trách nhiệm trong bàn thảo việc Ðảng, việc dân. Mọi ý kiến đều được phát biểu tự do. Báo chí đăng tải nhiều ý kiến tranh luận, cả tán thành và không tán thành, ủng hộ hay phản đối về bất cứ nội dung nào trong văn kiện Ðảng. Có cả những ý kiến phê bình rất gay gắt. Không có cấm đoán hay hạn chế. Ngay báo chí nước ngoài, khi nhìn vào những cuộc tranh luận đều nhận rằng đây là "dấu hiệu rất mới mẻ của sinh hoạt dân chủ". Về phần mình, Ðảng rất trân trọng và lắng nghe, tiếp thu nghiêm chỉnh những ý kiến xây dựng đúng đắn và hợp lý để bổ sung, chỉnh sửa văn kiện hoặc để vận dụng trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo. Ðương nhiên Ðảng cũng tỏ rõ thái độ không chấp nhận hay bác bỏ các loại ý kiến đả kích vô căn cứ sự lãnh đạo của Ðảng, đòi từ bỏ chủ nghĩa xã hội, đưa đất nước đi theo con đường khác.
Trong kiểm điểm sự lãnh đạo và chỉ đạo của mình, Ban Chấp hành Trung ương không chỉ khẳng định thành tích mà còn thành khẩn và nghiêm túc tự phê bình và phê bình, không hề giấu giếm và né tránh khuyết điểm, chứng tỏ Ðảng tự tin ở mình và tin dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân.
Trong bầu cử đại biểu dự Ðại hội và bầu cử Ban Chấp hành Trung ương, tất cả đều lấy tiêu chuẩn làm trọng, theo đúng quy trình dân chủ. Các tiêu chuẩn ấy đều công khai. Việc giới thiệu ứng cử vào Ban Chấp hành Trung ương không theo danh sách tròn, mà có số dư đáng kể; không chỉ Ban Chấp hành Trung ương khóa trước giới thiệu mà cả đại biểu Ðại hội cũng giới thiệu, tạo nên những điều kiện rất thuận lợi cho việc lựa chọn. Ai không đủ tiêu chuẩn thì rút ra khỏi danh sách. Tuy Ðại hội không trực tiếp bầu Tổng Bí thư, nhưng tất cả các đại biểu dự Ðại hội đều được ghi phiếu giới thiệu để làm cơ sở cho việc bầu cử ở Ban Chấp hành Trung ương.
Cách làm tốt đã góp phần dẫn tới kết quả tốt. Sự thành công của Ðại hội X thể hiện trên cả hai mặt chủ yếu nhất: nhất trí thông qua các văn kiện với nội dung rất phong phú, định hướng và đề ra các quyết sách cho sự phát triển đất nước và cho Ðảng ta trong những năm tới, đồng thời bầu ra một Ban Chấp hành Trung ương gồm các đồng chí đáp ứng các tiêu chuẩn về phẩm chất và năng lực.
Toàn bộ các văn kiện của Ðại hội đã được công bố. Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị về nghiên cứu, quán triệt, triển khai Nghị quyết của Ðại hội và xây dựng các chương trình hành động để thực hiện Nghị quyết. Một cuộc chiến đấu mới bắt đầu. Cuộc chiến đấu đưa Nghị quyết Ðại hội X vào cuộc sống.
Theo Đồng chí Hà Đăng, báo Nhân dân ngày 20/6/2006