GS, TS. Hoàng Chí Bảo
Chuyên gia cao cấp, Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương
1. Tiếp cận và quan niệm
Hồ Chí Minh, trong lòng nhân dân và dân tộc Việt Nam được ngưỡng mộ và tôn vinh là con người Việt Nam đẹp nhất. Một trong những học trò ưu tú của Người đồng thời cũng là một nhà văn hóa lớn, một nhân vật lỗi lạc trong số những nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã có nhiều chục năm sống và làm việc bên cạnh Người, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhận xét rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh là tinh hoa và khí phách của dân tộc. Nhận xét đó là một khái quát rất điển hình, nêu lên được tầm vóc tư tưởng và ảnh hưởng lớn lao của nhân cách Hồ Chí Minh đối với dân tộc. Người là sự kết tinh những gì ưu tú nhất, quy tụ những giá trị tốt đẹp nhất làm nên văn hóa của dân tộc Việt Nam, từ tư tưởng và trí tuệ, tâm hồn và tình cảm, đạo đức và lối sống, cốt cách và bản lĩnh Việt Nam. Từ mạch nguồn ấy như cái nôi sinh thành con người và văn hóa, Hồ Chí Minh còn thâu thái vào mình mọi tri thức Đông Tây, kim cổ, lại thêm sự tích lũy vô cùng phong phú và trải nghiệm cực kỳ sâu sắc những kinh nghiệm sống, lao động và tranh đấu trên những miền đất mà Người đã đi qua khắp các châu lục... Hồ Chí Minh đã hóa thân vào dân tộc - nhân dân và nhân loại, đã làm thăng hoa chính dân tộc và thời đại mình, đã để lại dấu ấn không phai mờ trong lịch sử thế giới hiện đại và đương đại.
Là một nhà tư tưởng, nhà mácxít sáng tạo lớn nhất của Việt Nam ở thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đồng thời mang cốt cách hiền triết Á Đông và bản sắc Việt Nam. Tư tưởng của Người là một hệ thống quan điểm và nguyên tắc, lý luận và phương pháp về cách mạng Việt Nam, liên hệ mật thiết với phong trào cách mạng thế giới. Người bàn về giải phóng và phát triển, về con đường giải phóng và cách mạng giải phóng dân tộc, tìm đường - nhận đường và dẫn đường cho dân tộc ta trên con đường lớn của lịch sử mà cũng là chân lý và quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam trong thời đại ngày nay: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đây là dòng tư tưởng nổi bật, chủ đạo, xuyên suốt hệ thống tư tưởng của Người. Hồ Chí Minh không chỉ truyền bá mà còn thực hành tư tưởng đó. Bởi kết hợp nhuần nhuyễn lý luận với thực tiễn nên tư tưởng cũng đồng thời là phương pháp của Người, định hình đường lối chính trị chiến lược Hồ Chí Minh. Người tự ý thức rằng, mình là một nhà chính trị chuyên nghiệp, cả cuộc đời và sự nghiệp là hoạt động chính trị vì Độc lập - Tự do - Hạnh phúc của nhân dân, của dân tộc và nhân loại. Chính trị Hồ Chí Minh đã trở thành văn hóa chính trị Hồ Chí Minh, trong đó cốt lõi lý luận là tư tưởng chính trị.
Là một nhà tổ chức thiên tài, Hồ Chí Minh chú trọng gây dựng tổ chức, phát triển lực lượng, chăm lo đào tạo cán bộ ngay từ khi cách mạng còn trứng nước. Người từng nói, cán bộ là tài sản, là vốn liếng quý giá nhất của Cách mạng. Từ năm 1925, trong Tuyên ngôn Hội Liên hiệp thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc đã nói với những người anh em, đồng chí của mình, dù khác màu da, tiếng nói rằng: “Vận dụng công thức của Các Mác, chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”1.
Hai mươi năm sau, vào tháng 8-1945, khi thời cơ giải phóng đã đến, Hồ Chí Minh kêu gọi: “Giờ quyết định vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”2.
Chú trọng tổ chức, Người đặc biệt chú trọng tới con người, biết nhìn xa trông rộng để sớm gây dựng chiến lược "trồng người", vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người. Cán bộ là quyết định, nên công tác cán bộ là công việc gốc của Đảng. Cán bộ phải đủ đức, đủ tài những đức là gốc. Đó là đạo đức cách mạng, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Sức mạnh của tổ chức, nhất là của Đảng phải bắt nguồn và nhân lên từ sức mạnh của nhân dân, từ mối liên hệ máu thịt giữa cán bộ đảng viên với quần chúng, giữa Đảng với dân. Trong lòng dân, được dân tin, dân yêu, dân ủng hộ, dân giúp đỡ và dân bảo vệ thì Đảng mới bền vững, cách mạng mới phát triển và thắng lợi. Vì thế, suốt đời, Người chăm lo củng cố, phát triển phong trào bằng cách dựa vào dân, phát triển sức dân, bồi dưỡng sức dân, tiết kiệm sức dân.
Là nhà hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng hành động và thực hành. Đó là phương châm mà cũng là phương pháp, nói ít làm nhiều, nói đi đôi với làm, thuyết phục dân bằng việc làm. Gương mẫu được xem là phương pháp, cách thức lãnh đạo tốt nhất, "một tấm gương tốt còn quý hơn hàng trăm bài diễn văn".
Chính vì thế, tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ hiện lên trong tác phẩm mà còn thấm sâu trong việc làm, trong hoạt động. Tri thức, kinh nghiệm, vốn sống, sự trải nghiệm thực tiễn trong trường đời tranh đấu hòa quyện làm một trong tư tưởng, cuộc đời và sự nghiệp của Người. Đó là tri thức trong trường học cuộc sống, chính đây mới là tri thức đích thực của khoa học xã hội.
Tổng hòa những sự kết hợp ấy, tư tưởng Hồ Chí Minh nổi bật một nét đặc sắc thuộc về phong cách của Người. Đó là sự giản dị mà sâu sắc và thâm thúy, sự cô đọng, hàm súc mà phong phú lạ thường, đa tầng đa nghĩa, lời ít ý nhiều, có sức lắng đọng và lan tỏa. Tư tưởng Hồ Chí Minh là cả một chuỗi liên kết giữa triết học với triết lý và minh triết. Có thể nhận xét rằng, triết học của Người gần như một thứ triết học vô ngôn, không câu nệ vào những luận lý khái niệm, phạm trù bản thể và nhận thức của truyền thống triết học xưa nay, nhưng tư tưởng của Người vẫn mang tầm tư tưởng triết học, thực sự của một triết gia.
Triết lý của Người, khái quát từ những trải nghiệm, tổng kết và suy ngẫm tỏ rõ là một triết lý nhân sinh và hành động. Nổi bật nhất là triết lý về con người và đạo đức, xoay quanh một câu hỏi lớn - Ở đời và làm người phải như thế nào?
Và minh triết Hồ Chí Minh, Người thực sự có minh triết của mình, ấy là sự sáng suốt lý trí của một trí tuệ mẫn tiệp, sự uyển chuyển, mềm mại của phương pháp - Người gần gũi với biện chứng thực hành hơn là giảng giải lý luận biện chứng pháp. Minh triết Hồ Chí Minh còn là sự kết hợp gần như tự nhiên, mà thật ra là cả một bản lĩnh văn hóa sáng tạo, giữa kinh nghiệm với trí khôn của cuộc sống mách bảo với sự hiểu biết lý luận được thâu thái từ sách vở cũng như từ thực tiễn tranh đấu. Trong sự kết hợp ấy, Hồ Chí Minh vừa kiểm chứng lý luận bằng thực tiễn lại vừa tổng kết thực tiễn để phát hiện và khái quát lý luận.
Với Hồ Chí Minh, thực tiễn hóa và kinh nghiệm hóa lý luận gắn chặt với lý luận hóa thực tiễn và lý luận hóa kinh nghiệm. Đó cũng là nhận thức gắn liền với hành động, tri và hành. Do nhuần nhuyễn, thành thục mà trở thành tự nhiên, không chút nào gượng gạo, gò bó.
Minh triết Hồ Chí Minh tỏ rõ sự thông tuệ, sự uyên bác và thông thái trí tuệ của Người, sự ung dung và thanh thản trong thái độ và tâm trạng của Người trước mọi hoàn cảnh và tình huống, tỏ rõ tính chủ động và năng lực tự do của Hồ Chí Minh.
Minh triết Hồ Chí Minh đã bao hàm trong đó triết học và triết lý của Người. Nó có sức nặng của trí tuệ và tư tưởng, lại có vẻ đẹp thanh cao của đạo đức, kích tấc rộng lớn của vĩ nhân nhưng không hề cao đạo mà luôn gần gũi với đời thường, người thường, vĩ đại trong sự giản dị, bởi thực sự vĩ đại nên vô cùng giản dị. Mỗi lời Người nói và viết ra mà ngày nay chúng ta gọi là những luận đề, luận điểm, mỗi việc Người làm, từ cử chỉ, thái độ đến hành vi, lối sống của Người đều rất đỗi tự nhiên, dường như nó phải thế và nó như thế, không thể khác. Làm nên tất cả và hội tụ tất cả những cái đó chính là văn hóa. Đó là Văn hóa Hồ Chí Minh.
Nhận diện văn hóa Hồ Chí Minh, không thể không nhấn mạnh Tư tưởng - Đạo đức và Nghệ thuật, tương ứng với ba chuẩn mực giá trị : Chân - Thiện - Mỹ.
Đó cũng là sản phẩm được tạo ra bởi hoạt động. Không đi qua hoạt động của chủ thể thì không có bất cứ một sản phẩm văn hóa nào có thể được tạo ra. Đó cũng là kết quả của định hướng giá trị đúng, trước hết là sự thúc đẩy từ một động cơ, một mục đích, một lẽ sống. Đó cũng là tư chất, năng lực sáng tạo và muốn có sáng tạo thì phải đổi mới. Sẽ không có một giá trị, một thành quả nào được gọi là văn hóa nếu nó không phải là con đẻ của sự sáng tạo. Hơn nữa, mọi sáng tạo đích thực đều phải là con đẻ máu thịt từ cuộc sống. Bản lĩnh sáng tạo của Hồ Chí Minh bền bỉ và mãnh liệt, bởi Người, suốt một đời gắn bó với nhân dân, suốt một đời lao động và tranh đấu, cùng với nhân dân, suốt một đời yêu thương, "nâng niu tất cả chỉ quên mình", dành cho nhân dân và nhân loại. Người là lãnh tụ của dân, gần dân, thương dân, tin dân và trọng dân. Bởi thế, dân chủ là một trong những điểm láp lánh nổi bật trong tư tưởng và trong hành động của Người. Cũng vì thế, Người biểu đạt chân thực và cảm động cuộc sống của dân, khát vọng giải phóng, quyền dân chủ và làm chủ của dân. Người thể hiện những giá trị cơ bản của phát triển mà nhân dân hướng tới: Độc lập, Tự do, Hạnh phúc. Người chính là cuộc sống của dân, trong lòng dân Người bất tử và vĩnh hằng.
Những điều trình bày trên đây cho thấy, tiếp cận văn hóa Hồ Chí Minh là tiếp cận hệ thống, phức hợp với một cấu trúc đa chiều. Cách tiếp cận này xuất phát từ bản chất của văn hóa cũng như từ bản thân đối tượng nghiên cứu là Hồ Chí Minh với tất cả sự phong phú của tư tưởng và cuộc đời của Người.
Để nhận thức được bản chất của văn hóa, đó là trình độ người trong phát triển, là thước đo con người, thước đo nhân tính của phát triển,văn hóa phải được nhìn nhận từ nhiều chiều cạnh. Ba chiều cạnh tiêu biểu trong tiếp cận văn hóa đã nói trên là Hoạt động, Giá trị và Sáng tạo. Nó thỏa mãn nhu cầu tìm hiểu con đường dẫn tới văn hóa (Hoạt động), thành tựu và kết quả của văn hóa (Giá trị) cũng như thuộc tính căn bản trong văn hóa và thuộc về chủ thể sản xuất ra nó (Sáng tạo). Con người sáng tạo ra văn hóa và chính văn hóa làm hoàn thiện con người, đó là sự hoàn thiện của nhân cách, làm bộc lộ ngày càng đầy đủ hơn những “năng lực bản chất người của con người” theo cách nói của Mác.
Cho nên, giá trị cao nhất - giá trị của mọi giá trị văn hóa là con người. Nhân văn, có nghĩa là một con người văn hóa, nhân văn chính là văn hóa được hiểu theo nghĩa đó.
Để hiểu giá trị và ý nghĩa văn hóa Hồ Chí Minh, theo đó, phải nhận biết những mối liên hệ, những mối quan hệ tạo nên chủ thể văn hóa Hồ Chí Minh, tạo nên Hồ Chí Minh như một hiện tượng văn hóa độc đáo.
Đó là những mối liên hệ, quan hệ sau đây:
- Mối liên hệ giữa Con người - Cuộc đời và Sự nghiệp.
- Mối quan hệ giữa Tư tưởng - Phương pháp và Phong cách.
- Mối quan hệ giữa Đạo đức - Lối sống và Nhân cách.
Chung đúc tất cả những lớp quan hệ, liên hệ như thế dẫn tới Hồ Chí Minh và văn hóa Hồ Chí Minh.
Trong những liên hệ, quan hệ như thế ở Hồ Chí Minh, bao giờ cũng có ở trong đó cả gia đình, quê hương, xứ sở, dân tộc và truyền thống, quốc tế, thế giới và thời đại. Đó chính là hoàn cảnh, môi trường xã hội và lịch sử tạo nên Hồ Chí Minh và văn hóa Hồ Chí Minh. Cũng không thể không nói tới môi trường, ở đây là tự nhiên, là thiên nhiên - một nhân tố không thể thiếu để hiểu Hồ Chí Minh. Sẽ thiếu đi một phần sinh động, có thể nói là đặc sắc, thấm đẫm chất nhân văn và sự hài hòa, sự tinh tế văn hóa, chất thơ trong tâm hồn thi nhân, cốt cách hiền triết Á Đông và tinh thần minh triết Việt Nam ở Hồ Chí Minh nếu không cảm thụ được trí và tình của Người với thiên nhiên trong cả cuộc đời, trong sự sống của Người, từ tuổi thơ cho đến lúc về già và khi trở về với thế giới người hiền. Di chúc cho ta một cứ liệu về điều ấy. Đó không chỉ là một văn kiện chính trị đề cập tới nhiều điều hệ trọng của vận nước và vận Đảng mà còn là tâm huyết của một con người, một đời người với nhân dân, với dân tộc và nhân loại. Hơn nữa, đó còn là tâm tình của Hồ Chí Minh với Đất và Nước, Đất và Người. Người mong muốn, khi mất đi, Người được nằm trong lòng Đất Mẹ, thả hồn trên đồi cao rộng gió, giữa cây rừng xanh tươi, thanh thản và tĩnh lặng, đỡ tốn đất ruộng của dân, ngay trên nấm mộ cũng không cần bia đá tượng đồng, chỉ cần một ngôi nhà giản dị, thoáng mát để mọi người có chỗ nghỉ ngơi khi đến thăm Người3. Đó là gì nếu không phải là văn hóa và nhân cách văn hóa Hồ Chí Minh.
Tiến sĩ M.Átmét, Giám đốc UNESCO khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đã viết về Hồ Chí Minh, nhân kỷ niệm ngày sinh lần thứ 100 của Người: "Chỉ có ít nhân vật trong lịch sử trở thành một bộ phận của huyền thoại ngay từ khi còn sống và rõ ràng Hồ Chí Minh là một trong những số đó. Người sẽ được ghi nhớ không phải chỉ là người Giải phóng cho Tổ quốc và nhân dân bị đô hộ mà còn là một nhà hiền triết hiện đại đã mang lại một viễn cảnh và hy vọng mới cho những người đang đấu tranh không khoan nhượng để loại bỏ bất công, bất bình đẳng trên trái đất này"4.
Ngay từ năm 1923, khi tiếp xúc với Nguyễn Ái Quốc, nhà thơ Xôviết, Ôxíp Manđenxtam đã nhận xét, từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa Âu châu, mà có lẽ là một nền văn hóa tương lai. Dân An Nam là một dân tộc giản dị và lịch thiệp. Qua phong thái thanh cao, trong giọng nói trầm ấm của Nguyễn Ái Quốc chúng ta như nghe thấy ngày mai, như thấy sự yên tĩnh mênh mông của tình hữu ái toàn thế giới5.
Nói văn hóa là nói tới con người, cũng như văn học là nhân học theo quan niệm của Goócki.
Trong rất nhiều nhận xét mang ý nghĩa triết lý về văn hóa, có thể dẫn ra ba nhận xét sau đây, mà nhận xét nào cũng có thể tìm thấy sự chứng thực điển hình ở Hồ Chí Minh.
Nêru, nhà văn hóa lỗi lạc của Ấn Độ cho rằng, văn hóa là khả năng mình hiểu biết người khác và làm cho người khác hiểu mình. Đây chính là sự đồng cảm, đồng điệu tình cảm và tinh thần, sự tinh tế trong ứng xử, trong giao tiếp, trong lối sống. Trong quan hệ giữa người với người, sự chân thực, lòng thành thật tạo nên sức thuyết phục lớn nhất, nó mở ra sự hiểu biết, nó củng cố sự tin cậy, nhờ đó con người gắn kết với nhau bằng sự đoàn kết, sự đồng thuận. Hồ Chí Minh là một kiểu mẫu như thế về văn hóa đạo đức trong ứng xử.
Xukhômlinxki, nhà giáo dục và nhà văn hóa Xôviết, nói tới văn hóa như một nhu cầu tự biểu hiện nhân tính, sự quan tâm tới người khác - những cảnh đời, những số phận. Đó là đặc trưng văn hóa đạo đức của con người, "văn hóa là biết nhìn thấy người bên cạnh". Điều chắc chắn, đó không phải là cái nhìn sinh học mà là một cái nhìn nhân bản, nhân đạo và nhân văn. Những chiều cạnh giá trị như thế của văn hóa được thể hiện gần như lý tưởng ở Hồ Chí Minh, trong tư tưởng cũng như trong cuộc sống của Người .
Chỉ riêng điều này cũng làm cảm động triệu triệu tấm lòng. Người nói lúc sinh thời, mỗi người có một nỗi khổ riêng. Mỗi nhà có một nỗi khổ riêng. Cộng tất cả mọi nỗi khổ đau ấy, là nỗi khổ đau của tôi. Tình thương yêu của tôi với nhân dân và nhân loại mãi mãi không bao giờ thay đổi. Lớn lao và cao thượng của Hồ Chí Minh là như vậy.
Trong kháng chiến, được tin người con trai của Bộ trưởng Vũ Đình Tụng hy sinh trên chiến trường, Người đã có thư chia buồn. Trong thư, Người viết: "tôi không có gia đình, tất cả thanh niên Việt Nam đều là con cháu của tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột. Nhưng cháu và anh em thanh niên khác dũng cảm hy sinh để giữ gìn đất nước... Từ đây chắc ngài sẽ thêm ra sức giúp việc kháng chiến để bảo vệ nước nhà thì linh hồn cháu ở trên trời cũng bằng lòng và sung sướng"6.
Trong chiến tranh, đổ máu là điều khó tránh khỏi. Đế quốc thực dân xâm lược là một lũ ác quỷ, phải đánh đuổi nó đi. Song những người lính thực dân đã đổ máu vô ích trên chiến trường chỉ vì bị cuốn vào dã tâm của kẻ xâm lược thì họ cũng chỉ là những nạn nhân. Bởi vậy, Người cũng ngậm ngùi đau xót cho những số phận con người, ở đời này, máu nào cũng là máu đỏ. Với tù binh bại trận, Người có thể cảm thông đến mức, khoác cho họ tấm áo, chiếc khăn mà mình đang dùng giữa mùa đông giá lạnh và người lính ấy đã khóc trước tấm lòng cao thượng của Người.
Trên giường bệnh, những giây phút cuối cùng, Người đã "quên nỗi mình đau để nhớ chung", ngày đêm ngóng trông miền Nam, nơi tuyến lửa, đầu sóng ngọn gió, biết bao đồng bào, đồng chí đã chịu đựng gian khổ hy sinh vì độc lập, tự do cho Tổ quốc... Cũng như trong Di chúc, Người nhắc tới mọi người, mọi việc, không sót một ai. Con người ấy, trong trái tim mênh mông, sống chỉ để yêu thương, ôm trọn mọi kiếp người.
Đồng chí Phạm Văn Đồng cũng từng nêu một nhận xét thấm thía rằng, trong trái tim của Người, có chỗ cho tất cả mọi người, mỗi người chúng ta đều thấy sự quan tâm, chăm sóc, thương yêu của Người dành cho mình, từ trái tim ấy.
Nhà tư tưởng, bậc hiền triết và minh triết ấy, sống thanh tao bình dị trong ngôi nhà sàn đơn sơ, trong khu vườn ngát hương cây cỏ, nhưng tâm hồn và tư tưởng của Người thì lộng gió bốn phương thời đại. Bởi sự quên mình và đức hy sinh cho dân tộc mình và cho nhân loại mà Hồ Chí Minh, văn hóa Hồ Chí Minh trở thành biểu tượng của Văn hoá làm người. Người sống mãi trong trái tim nhân loại, không chỉ thuộc về dân tộc Việt Nam mà còn thuộc về thế giới nhân loại.
Bản Di chúc lịch sử mà Người để lại, chỉ có 1.000 từ thôi mà Người công phu suốt 4, 5 năm liền, cân nhắc từng lời, từng ý, sửa chữa từng câu, từng chữ, kết tinh tất cả trí tuệ và tâm hồn của Người. Người để lại cho chúng ta bản Di chúc như một di sản quý báu và thiêng liêng, cho đến 4 tháng trước khi ra đi, Người còn sửa chữa lần cuối cùng, căn dặn chúng ta, việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng và đầu tiên là công việc đối với con người.
Di chúc không chỉ là một đại tổng kết lý luận - thực tiễn về cách mạng Việt Nam mà còn là một tác phẩm mẫu mực về văn chương, thể hiện đậm nét phong cách Hồ Chí Minh.
Như thế, văn hóa Hồ Chí Minh trước hết là tư tưởng lý luận của Người về văn hóa với những trù tính chiến lược về xây dựng nền văn hóa Việt Nam. Người nhấn mạnh phải phát huy vai trò của văn hóa, đem văn hóa soi đường cho quốc dân đi, xây dựng đời sống văn hóa mới. Trong chiến lược phát triển xã hội, Người đề cập tới phát triển kinh tế, xây dựng nền chính trị dân chủ, chấn hưng giáo dục để chấn hưng dân tộc, dùng văn hóa để sửa chữa thói phù hoa xa xỉ, đẩy lùi quan liêu, lãng phí, tham ô, giáo dục văn hóa hướng vào giáo dục cán bộ đảng viên, đào tạo công chức... làm cho dân tộc Việt Nam trở thành một dân tộc thông thái, xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam trở thành một xã hội văn hóa cao, con người có tri thức, học vấn, có đạo đức và sức khỏe, xứng đáng là người làm chủ, có cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc.
Văn hóa Hồ Chí Minh, ngoài cốt yếu tư tưởng lý luận về văn hóa còn là thực tiễn văn hóa sống động trong đời sống và hoạt động của Người với tính biểu cảm chân thực đầy sức thuyết phục. Đó là sự nêu gương, là mẫu mực trong lối sống, hành vi, trong ứng xử vô cùng tinh tế, lòng nhân ái, tính vị tha và tinh thần khoan dung của Người. Thế giới tinh thần Hồ Chí Minh phong phú, đa diện. Người chẳng những có sức sáng tạo lớn về văn hóa mà còn thể hiện một năng lực cảm thụ vô cùng tinh tế, sâu sắc, bởi Người không chỉ là nhà tư tưởng mà còn là một nhà thơ lớn, một nhà báo tài hoa, nhà chính luận và nghệ sĩ đa tài. Với thiên nhiên mà Người vô cùng yêu thích và gắn bó, ai ai cũng đều biết, Người đề xướng tết trồng cây vào mùa xuân hàng năm, chăm chút từng bông hoa nhành lá, thân thiết với vườn cây, ao cá mỗi ngày. Hồ Chí Minh là một hiện tượng văn hóa có sức lôi cuốn và thu hút con người, đến mức, ngay kẻ thù cũng phải kính trọng. Nói cho rõ hơn, Hồ Chí Minh quy tụ lòng người, đoàn kết, đoàn kết và đại đoàn kết, vì sự nghiệp lớn của dân, của Đảng mà phải đồng tâm, hiệp lực, đồng thuận để phát huy tối đa sức mạnh dân tộc, hướng vào công cuộc giai phóng và phát triển. Người có sức thuyết phục, cảm hóa mọi người, thu phục nhân tâm bởi sự chân thành, lòng thành thục, không một chút gợn riêng tư, chỉ toàn tâm, toàn ý vì dời, vì người, vì dân, vì nước, vì đạo lý và đạo nghĩa lớn nhất "Không có gì quý hơn Độc lập, Tự do". Đây không chỉ là một nguyên lý chính trị, sâu xa hơn, đó còn là phẩm giá của nhân cách, là lòng tự trọng và tôn trọng giá trị con người và cuộc sống, của từng cá nhân, của mỗi dân tộc cũng như của cả loài người. Cho nên, có một nhận xét rất đúng rằng, ở Hồ Chí Minh, dường như Người chỉ có đối thủ chứ không có kẻ thù.
Một học giả nước ngoài đã viết: Cụ Hồ là người xây dựng lương tri, xây dựng khi nó thiếu, tái tạo khi nó mất. Cụ thức tỉnh kẻ mê, ân cần đỡ dậy người trượt ngã, biến vạn ức người bình thường thành anh hùng vô danh và hữu danh, trong lao động, trên chiến trường, trong ngục tối, trước máy chém7.
Tại cuộc Hội thảo quốc tế, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tổ chức tại Hà Nội, tháng 5-1990, một đại biểu Mỹ đã nói: Nếu chủ nghĩa cộng sản như chủ nghĩa cộng sản Hồ Chí Minh thì cũng chấp nhận được8.
Lại một nữ học giả khác, phát biểu rất chân thành rằng, chúng tôi đến đây, có người theo Đạo Hồi, có người theo Đạo Phật, Đạo Tin Lành, Đạo Thiên Chúa, trước chúng tôi không hiểu nhau. Qua hai ngày hội thảo, chúng tôi có thể ngồi lại, nói chuyện vui vẻ với nhau, vì chúng tôi có cái chung là lý tưởng Hồ Chí Minh: muốn cho nhân loại được Tự do và Hạnh phúc9.
Nhà văn hóa Hữu Ngọc, trong tác phẩm "Phác thảo chân dung văn hóa Pháp" cho chúng ta biết một điều. Đó là, Etmông Misơlê, Bộ trưởng các quân chủng Pháp, người được ủy nhiệm tiếp Bác Hồ năm 1946 tại Pari, khi đó, Bác là thượng khách của Chính phủ Pháp, sang thăm Pháp với tư cách là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đã nói: "Đó là một người cộng sản theo lý tưởng. Tôi thấy ông dường như luôn luôn chịu ảnh hưởng của tác giả lớn là ông Mác, chắc chắn là cả Lênin nữa. Nhưng trong ông cũng có cả Giôrex. Ông Hồ là người đã chọn chủ nghĩa cộng sản, đúng thế, nhưng có một chủ nghĩa nhân văn sâu sắc. Tôi cho là trong thế giới cộng sản, chắc chắn ông là một trong những người chấp nhận cách mạng cộng sản chủ nghĩa. Phải, nhưng trong Tự do. Đó là một chủ nghĩa cộng sản có tình người, một chủ nghĩa cộng sản tôn trọng cá nhân, biết khóc, biết cười, biết ngâm vịnh"l0.
Etmông Misơlê nhìn nhận chủ nghĩa cộng sản còn có nhiều thiên kiến sai lệch, do nhãn quan và ý thức hệ của ông khác chúng ta. Đó cũng là chuyện thường tình dễ hiểu. Song có một điều chắc chắn là ông đã nhận xét đúng về con người nhân văn Hồ Chí Minh. Điều ấy thuộc về giá trị và cốt cách văn hóa Hồ Chí Minh.
Lại một nhận xét nữa về văn hóa, ngoài ý kiến của Nêru và Xukhômlinxki đã dẫn ở trên. Đó là nhận xét của Viện sĩ Likhachốp: "Văn hóa là biết lắng nghe". Trong luận điểm này, Likhachốp muốn nói tới văn hóa đối thoại trên tinh thần dân chủ, biết lắng nghe cũng có nghĩa là biết tôn trọng những ý kiến khác biệt. Điều đó đúng, bởi văn hóa là sự thống nhất trong da dạng, thống nhất của những cái khác biệt. Văn hóa, nhất là văn hóa tinh thần, tự nó đã xa lạ với tính giản lược đơn nhất và đồng nhất, nó chỉ dẫn tới sự nghèo nàn văn hóa, thậm chí dẫn tới cái chết của văn hóa. Giao lưu, tiếp xúc và đối thoại giữa các nền văn hóa làm phong phú, sống động văn hóa và là con đường giúp cho các dân tộc xích lại gần nhau. Muốn vậy, phải có chuẩn mực dân chủ và sự tôn trọng nhân cách của từng chủ thể. Hồ Chí Minh là hiện thân của văn hóa đó. Người chỉ gợi mở mà không áp đặt. Người tôn trọng và tin cậy những ai đối thoại, cùng nhau tìm tòi chân lý qua thảo luận, tranh luận. Khi chân lý đã tìm thấy rồi, thì quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý. Đây là một trong những luận điểm đặc sắc của Người về văn hóa dân chủ, nhất là dân chủ trong sinh hoạt tư tưởng, trong lý luận, trong nghiên cứu của giới học thức. Điều này cũng làm cho ta hiểu rõ thêm, vì sao Người có sức thu hút và quy tụ những nhân tài trí thức đến như vậy.
Văn hóa Hồ Chí Minh được dệt nên từ toàn bộ cuộc sống, sự trải nghiệm cực kỳ phong phú và sâu sắc trong hoạt động sống của Người. Chưa ai tìm thấy hết và thống kê được cuộc đời Người kèm theo bao nhiêu cái tên. Cũng chưa có công trình khảo cứu nào khả dĩ vẽ lên đầy đủ hành trình của Người, rằng lúc sinh thời, Người đã đến những đâu, đã làm những gì, từ khi Người đi tìm hình của Nước11 cho đến khi "từ biệt thế giới này"12. Chỉ riêng cuộc hành trình tìm đường cứu nước, kéo dài 30 năm (1911 - 1941), Người đã đi qua 40 nước khác nhau và mang trong mình hàng trăm cái tên, bút danh, bí danh khác nhau. Trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, nước mất nhà tan, thực dân đế quốc vây lùng mà Người đã đi, đã hoạt động, đã đến những miền không gian rộng lớn như thế thì quả thật là một kỳ tích. Mặc dù vậy, vẫn nổi bật ở ba cái tên tiêu biểu cho những bước ngoặt cuộc đời Hồ Chí Minh, đó là Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh.
Mọi thế hệ người Việt Nam ở trong nước và đồng bào ta làm ăn, sinh sống ở nước ngoài đều chỉ gọi Người bằng hai tiếng thân yêu "Bác Hồ". Người dân tộc Pacô ở miền núi Trị Thiên - Huế và các tỉnh miền Trung đều lấy họ của mình và con cháu mình là họ Hồ để muôn đời kính yêu và biết ơn Người.
Từ những tháng năm gian khổ của chiến tranh, ở nơi xa, rất xa Hà Nội, đồng bào miền Nam vẫn hướng về Người với một câu ca dao bình dị:
“Tháp Mười đẹp nhất bông sen
Nước Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ”.
Bốn mươi năm đã trôi qua kể từ ngày Bác mất, nhưng mỗi chúng ta vẫn luôn cảm thấy Người có mặt trong cuộc sống đời thường, trong mỗi người, mỗi nhà, mỗi cơ quan, đơn vị, trường học và trong cả nước. Người vẫn hằng sống, hằng tin trong lòng dân, lòng Đảng. Trong cõi tâm linh sâu thẳm, ai ai cũng hướng tới Người, nghĩ về Người như hướng tới khát vọng hoàn thiện và tự hoàn thiện, như nghĩ về những điều tốt đẹp, lòng nhân ái và sự khoan dung. Khó mà thống kê cho hết được trong cả nước ta và ở cả nước ngoài, cho đến nay đã có bao nhiêu ngôi đền thờ, nhà tưởng niệm Bác Hồ. Nhiều gia đình Việt Nam, đã lập bàn thờ Bác như thờ chính ông, cha của mình vậy, hàng năm vẫn làm giỗ Bác vào đúng ngày mất theo âm lịch (21-7), khói hương trầm vẫn tỏa ngát mọi nơi. Bạn bè quốc tế cũng gọi Người theo hai tiếng "Bác Hồ" như chúng ta vậy. Điều giản dị ấy chính là chỗ cao sâu của văn hóa, đó là văn hóa Hồ Chí Minh.
2. Loại hình và hệ giá trị
Nội dung phong phú và tính đa diện của văn hóa Hồ Chí Minh có thể nhận biết được qua cấu trúc loại hình. Việc xác định loại hình văn hóa Hồ Chí Minh cũng giả định là tương đối, bởi không thể bao quát hết toàn bộ những gì tạo nên và chứa đựng trong văn hóa Hồ Chí Minh. Song đề cập tới những loại hình trong di sản tinh thần và sự nghiệp sáng tạo văn hóa của Người cần phải chú trọng vào những điều cốt yếu, căn bản nhất của tư tưởng, lý luận văn hóa Hồ Chí Minh và những mặt nổi bật, đặc sắc nhất trong hoạt động văn hóa của Người. Đó là nói trên phương diện phân tích lý luận.
Nếu cảm nhận một cách trực tiếp, có thể nói, văn hóa Hồ Chí Minh là tất cả những gì tốt đẹp, ưu tú nhất toát lên từ con người, cuộc đời và sự nghiệp Hồ Chí Minh.
Về những giá trị và ý nghĩa văn hóa Hồ Chí Minh, nhiều người mong muốn được hiểu rõ những ngọn nguồn nào dẫn tới văn hóa ấy, cũng như vậy, cùng với thời gian, chúng ta mong muốn được thấu hiểu và thấu cảm về Người, về hiện tượng văn hóa Hồ Chí Minh. Càng thấu hiểu và thấu cảm Hồ Chí Minh bao nhiêu, chúng ta càng không khỏi ngạc nhiên khi khám phá thêm những điều mới mẻ về Người, từ sự vĩ đại ở tầm tư tưởng đến những điều giản dị trong sinh hoạt đời thường của Người. Hiện tượng văn hóa Hồ Chí Minh không chỉ được cắt nghĩa một cách duy lý theo kiểu nghiên cứu học thuật mà còn được cảm nhận và cảm thụ trực tiếp với sức mạnh của những hồi tưởng và liên tưởng của mỗi người, tùy thuộc vào kinh nghiệm sống, sự trải nghiệm thực tế của từng người.
Có bao nhiêu câu hỏi đặt ra trong khái quát tổng thể cũng như trong từng sự kiện, từng trường hợp nói lên văn hóa Hồ Chí Minh. Có người muốn tìm hiểu xem vì sao Hồ Chí Minh có được động cơ cao thượng và nghị lực sống phi thường đến như vậy? Vì sao tài năng của Người lại đa dạng, phong phú đến như vậy, mặc dù Người trải qua rất ít, rất ngắn sự đào tạo học đường? Nhà tư tưởng hài hòa trong nhà nghệ sĩ Hồ Chí Minh có được là do đâu? Chỉ xét riêng về thơ đã thấy ở Hồ Chí Minh hiện ra với bao điều hấp dẫn. Người không coi mình là một nhà thơ, chỉ khiêm tốn nhận rằng, mình yêu thơ mà thôi. Trong thơ Hồ Chí Minh, có những câu thơ nổi bật lý trí:
"Không có việc gì khó,
Chỉ sợ lòng không bền,
Đào núi và lấp biển,
Quyết chí ắt làm nên"13.
Vậy mà, khi thi hứng tới, hồn thơ của Người dạt dào cảm xúc, cảm xúc của trí tuệ hòa chung với nỗi xúc động của con tim. Người viết:
"Ngẩng đầu: mặt trời đỏ,
Bên suối một nhành mai"14.
Người cũng viết:
"Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền"l5.
Với Hồ Chí Minh, thơ dùng cho tuyên truyền, bằng khẩu hiệu, chính trị hơn là văn chương nhưng tâm hồn thi sĩ trong con người Hồ Chí Minh cũng hết sức bay bổng, trữ tình:
"Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết, lò than đã rực hồng"16.
Hoặc là:
"Núi ấp ôm mây, mây ấp núi,
Lòng sông gương sáng, bụi không mờ.
Bồi hồi dạo bước Tây Phong lĩnh,
Trông lại trời Nam, nhớ bạn xưa”17.
Ý chí chiến đấu và sự nhất quán của Người là mạnh mẽ, cương quyết, là diệt lũ xâm lăng, là tiêu diệt lũ ác quỷ thực dân, vậy mà tầm cao nhân đạo chủ nghĩa của Người vẫn là nổi bật nhất. Hẳn là Người cân nhắc rất nhiều rồi mới hạ bút viết lời thơ "đánh cho Mỹ cút đánh cho Ngụy nhào", tránh tới mức cao nhất, để không đổ máu, đúng hơn là đỡ đổ máu.
Những mâu thuẫn và thống nhất được xử lý qua trí và tình của Hồ Chí Minh là điều rất lạ, rất độc đáo. Điều này không chỉ thể hiện trong thơ và trong văn của Người mà còn được thể hiện và chứng thực trong hoạt động tư tưởng lý luận và trong hoạt động thực tiễn vô cùng phong phú của Hồ Chí Minh, đặc biệt là trong thực tiễn chính trị. Xét đến cùng, đó là những phương diện khác nhau hợp thành văn hóa Hồ Chí Minh, nói lên bản lĩnh Hồ Chí Minh.
Những điều trình bày trên đây, như đã nói, cho thấy sự phong phú, tính đa dạng, nét đặc sắc và sự cách tân, mới mẻ của Hồ Chí Minh, tạo nên nội dung và giá trị văn hóa của Người.
Vậy, về mặt loại hình, văn hóa Hồ Chí Minh cần được nhận biết như thế nào?
- Trước hết, văn hóa Hồ Chí Minh nổi bật ở văn hóa chính trị. Đặt vấn đề như vậy, phù hợp với thực tiễn hoạt động của Hồ Chí Minh mà cũng đúng như tự đánh giá của Người.
Ai nấy đều biết, Người đã từng tham dự nhiều đại hội của Quốc tế Cộng sản. Trong hồ sơ đại biểu, mục khai về nghề nghiệp, Người chỉ ghi vắn tắt: làm chính trị, dường như là hoạt động chính trị chuyên nghiệp, là nhà chính trị chuyên nghiệp. Mục đích hoạt động chính trị của Người là để giải phóng cho dân tộc và nhân loại. Khi xây dựng chính thể dân chủ cộng hòa, lập quốc và lập pháp, Người nhận được sự tín nhiệm gần như tuyệt đối của quốc dân đồng bào. Vậy mà Người cũng chỉ xác định mình “như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi lui, thì tôi rất vui lòng lui... Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn cùng với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi”18. Cả cuộc đời chính trị của Người là như vậy. Trong định nghĩa về chính trị, Người đặc biệt nhấn mạnh: "Đoàn kết và thanh khiết. Đó là đạo đức trong chính trị.
Người căn dặn thanh niên, tuổi trẻ phải có hoài bão, khát vọng làm việc lớn vì dân vì nước. Phải tránh xa tiền bạc, quyền lực, địa vị và danh vọng. Những cái đó nếu không làm chủ được thì sẽ rất dễ hư hỏng. Thanh niên không bao giờ đòi hỏi Tổ quốc đem lại cho mình những gì mà phải luôn luôn tự hỏi, mình đã làm gì cho Tổ quốc. Đó là đức hy sinh, sự quên mình, là ý thức sâu sắc về bổn phận, nghĩa vụ. Người căn dặn bộ đội và mọi cán bộ đảng viên: "Trung với nước, Hiếu với dân". Người có 6 điều dạy cán bộ chiến sĩ công an mà nghĩ kỹ ra là dạy tất cả mọi người chúng ta: Với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính; với công việc phải tận tụy; với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép; với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành; với đồng sự, phải thân ái giúp đỡ; với địch, phải cương quyết, khôn khéo19. Đó là điển hình đạo đức trong chính trị.
Chính trị Hồ Chí Minh là đề cao tuyệt đối chữ Dân. Trong một nước dân chủ thì nhân dân là người chủ. Dân đã là chủ thì cán bộ đảng viên là công bộc, là đầy tớ của dân. Đảng và Chính phủ (Nhà nước) chỉ vì dân mà tồn tại, vì dân mà phục vụ. Chỉ làm điều lợi cho dân, tránh mọi điều có hại tới dân, trù tính rằng, Cách mạng thành công, quyền hành phải trao vào tay dân chúng, lợi và quyền đều là của dân, đều thuộc về dân. Suốt 24 năm ở cương vị Chủ tịch Đảng và Chủ tịch nước mà Người vẫn thực hành sự giản dị và tiết kiệm, hiểu rõ mỗi đồng tiền bát gạo mà chúng ta tiêu dùng là mồ hôi nước mắt của dân làm ra, thương dân thì phải tiết kiệm, lãng phí là không thương dân, tham ô là ăn cắp của dân, có tội với dân. Trong giờ phút lâm chung, Người vẫn chỉ nghĩ tới dân, không thể bỏ dân mà đi được. Rõ ràng, Hồ Chí Minh là một kiểu mẫu về đạo đức chính trị, nhờ đó mà chính trị quyền lực và cầm quyền tránh được sự tha hóa. Cũng nhờ đó, văn hóa chính trị không chỉ là trí tuệ, mưu lược, bản lĩnh mà sâu xa ra là đạo đức. Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh thể hiện rất rõ qua thực hành văn hóa trong Đảng, trong Nhà nước, trong các đoàn thể, trong thể chế, bộ máy, trong con người và qua hành vi, lấy dân làm hệ quy chiếu. Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh là loại hình văn hóa nổi bật trong văn hóa Hồ Chí Minh.
- Văn hóa Hồ Chí Minh còn nổi bật và nổi trội ở văn hóa đạo đức. Đó là đạo đức cách mạng và thực hành đạo đức cách mạng trong các mối quan hệ với tự mình, với người, với công việc và tổ chức. Đạo đức cách mạng mà Hồ Chí Minh suốt đời rèn luyện và thực hành, suốt đời chăm lo giáo dục, bồi dưỡng cho cán bộ đảng viên, nêu gương cho mọi người noi theo là đạo đức cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư đối với dân, với nước. Theo Hồ Chí Minh, ở đời phải có bốn đức để làm người, thiếu một đức thì không thành người. Phải có đủ cả bốn đức mới là người hoàn toàn. Có cần, có kiệm, có liêm thì mới chính được, mới toàn tâm toàn ý phục vụ cách mạng và nhân dân được, mới nêu cao được tinh thần trách nhiệm, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc và nhân dân. Bài báo cuối cùng mà Người viết vào năm 1969 cũng như Di chúc mà Người để lại cũng xoay quanh chủ đề lớn: Ra sức nâng cao đạo đức cách mạng, kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân20. Để thực hành đạo đức cách mạng, Người nêu cao đức hy sinh, tự nguyện, tự giác, rèn luyện suốt đời, chú trọng phương châm xây đi liền với chống, lời nói đi đôi với việc làm, nói ít làm nhiều, chủ yếu là hành động.
Các giá trị chuẩn mực cần, kiệm, liêm, chính cùng với nguyên tắc ứng xử chí công vô tư hợp thành lý luận đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh. Đó là đạo đức cộng sản, thấm nhuần chủ nghĩa nhân đạo cách mạng. Người kế thừa đạo đức truyền thống dân tộc: yêu nước, thương dân, vị tha nhân ái, Người cũng kế thừa hình thức biểu đạt trong di sản đạo đức phương Đông nhưng đưa vào đó nội dung tư tưởng đạo đức mới, mang tinh thần thời đại. Trong thực hành đạo đức, Hồ Chí Minh đã kết hợp nhuần nhuyễn truyền thống và hiện đại, dân tộc với quốc tế và thời đại.
Người đặc biệt chú trọng xây dựng đạo đức trong Đảng, nhất là khi Đảng đã cầm quyền. Phải làm cho Đảng thực sự trở thành một Đảng chân chính Cách mạng, Đảng là đạo đức, là văn minh. Trong sạch, vững mạnh, đạo đức và văn minh, đó làm đảm bảo đạo đức cho một Đảng chính trị kiểu mẫu sẽ bền vững trong lòng dân mà ngày nay Đảng ta đang ra sức phấn đấu thực hành theo di huấn của Hồ Chí Minh. Trong Di chúc, những điều Người căn dặn về Đảng và chỉnh đốn Đảng cũng nổi bật yêu cầu về đạo đức. Đó là giữ gìn đoàn kết trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Trong Đảng, từ chi bộ tới Trung ương phải thực hành đoàn kết, thực hành dân chủ rộng rãi, đẩy mạnh phê bình và tự phê bình, có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Đạo đức của cán bộ đảng viên và công chức nhà nước đòi hỏi mỗi người phải ra sức thực hành chữ Liêm, Chính, tức là liêm khiết, ngay thẳng, công bằng, chính trực, phải dựa vào dân mà xây dựng Đảng, Nhà nước và các đoàn thể sao cho xứng đáng là người lãnh đạo và người đầy tớ, công bộc trung thành và tận tụy của dân. Văn hóa đạo đức Hồ Chí Minh không chỉ nhấn mạnh vào các giá trị chuẩn mực, thực hành đạo làm người, được thực hành rộng rãi ở mọi đối tượng mà Người đã cụ thể hóa cho phù hợp với từng nghề nghiệp, từng lứa tuổi, từng cương vị và trách nhiệm xã hội mà còn chú trọng rèn các đức tính để hoàn thiện nhân cách. Trung thực, khiêm tốn, giản dị, nghiêm với mình và rộng lòng khoan thứ với người là những điều cốt yếu, thường trực được Hồ Chí Minh chỉ dẫn cho mỗi chúng ta, trong mỗi việc làm, trong các mối quan hệ ứng xử hàng ngày.
Văn hóa đạo đức Hồ Chí Minh thấm nhuần sâu sắc chất nhân văn, đó là tình thương yêu, tin cậy ở mỗi con người, nâng niu giá trị con người, tin vào sự tốt đẹp và con người trở nên tốt đẹp, cái Thiện sẽ chiến thắng cái Ác. Người nêu rõ, chủ nghĩa cá nhân là giặc ở trong lòng, một kẻ thù nội xâm, ở bên trong, phải kiên quyết chống. Nó là một thứ bệnh mẹ, bệnh gốc, đẻ ra trăm thứ bệnh con, những điều xấu xa, hư hỏng, nếu không đủ dũng khí chống lại, nó sẽ làm hỏng không chỉ từng người mà còn làm hỏng cả cơ đồ, sự nghiệp. Vì thế, phải kiên trì chống chủ nghĩa cá nhân và nên biết rằng, cuộc chiến đấu thầm lặng này sẽ có không ít sự đau đớn ở trong lòng vì phải vượt qua những sự yếu kém, những thói xấu của chính mình để trở nên tốt đẹp, chống chủ nghĩa cá nhân không có nghĩa là phủ nhận cá nhân, trái lại phải phát triển và vun trồng cho mỗi cá nhân phát triển. Cái gì thuộc về lợi ích, nhu cầu hợp lý, chính đáng của cá nhân, không trái với xã hội thì không phải là xấu, không chống lại mà còn tạo điều kiện cho nó phát triển. Mỗi người là một cá nhân, ai cũng có cá tính, sở trường, lợi ích riêng, phải biết tôn trọng nhân cách của mỗi người. Phê bình cũng phải thấu lý, đạt tình. Ăn ở với nhau phải có tình có nghĩa. Phê bình công việc chứ không xúc phạm con người.
Phải làm sao cho cái hay, cái tốt nảy nở như hoa mùa xuân, cái xấu, cái dở thì mất dần đi rồi tiến tới chỗ mất hẳn. Muốn làm cho mỗi người được như vậy thì phải biết thương yêu, tin cậy, nâng đỡ, động viên, thuyết phục và cảm hóa. Con người ta dù xấu tốt, văn minh hay dã man thì xét ra đều có tình. Có thể nói, đây là sự thấu hiểu. Suốt đời, Hồ Chí Minh đã làm tất cả, dồn tất cả nỗ lực và tinh lực vào việc giáo dục, đào tạo con người, vun trồng đạo đức, chăm lo gây dựng phong trào người tốt việc tốt, bởi mỗi người tốt là một bông hoa đẹp, cả nước ta là một vườn hoa đẹp, xã hội lành mạnh, văn minh.
- Văn hóa Hồ Chí Minh là một mẫu mực về văn hóa ứng xử, tinh tế, khoan dung, vị tha và nhân ái. Có thể xem đây là loại hình mà cũng làgiá trị văn hóa, là lối sống văn hóa Hồ Chí Minh, thấm sâu vào mọi lĩnh vực hoạt động của Người.
Ứng xử của Hồ Chí Minh là một kiểu mẫu của ứng xử văn hóa, ân cần, chu đáo, chân thành, hài hòa giữa lý trí và tình cảm, lịch thiệp và tinh tế, rộng mở lòng khoan dung, giàu lòng nhân ái, vị tha. Người căn dặn chúng ta, sông sâu, bể rộng bao nhiêu nước cũng vừa, cái điã cạn, cái chén nhỏ thì chỉ một giọt nước cũng tràn đầy. Chỉ sợ mình không có lòng vị tha, nhân ái chứ không sợ người ta không theo mình.
Người cũng nhắc nhở chúng ta. Trong ứng xử và trong phê bình phải đúng lại phải khéo, không làm điều gì chạm tới lòng tự ái, nỗi đau của người khác. Phải biết cảm thông và chia sẻ, tin yêu và nâng đỡ, làm cho ai ai cũng tin tưởng, phấn đấu, trở nên tốt đẹp và hoàn thiện.
Ứng xử Hồ Chí Minh có sức mạnh cảm hóa, lôi cuốn và thúc đẩy mọi người làm điều hay, điều tốt, có tình người, tự tu dưỡng, tự ý thức về bản thân mình, gieo vào lòng người niềm tin và hy vọng vào mọi điều tốt đẹp của cuộc sống và hướng tới những giá trị Chân - Thiện - Mỹ ở đời.
Những ai đã ở bên Người, được tiếp xúc với Người hay được nghe nói, được biết về Người đều xúc động tự đáy lòng trước một con người cao quý, với tình người bao la tâm hồn rộng mở, trái tim nhân hậu, tình nghĩa thủy chung, đằm thắm.
Từ những lãnh tụ, chính khách, học giả nổi tiếng trên thế giới đến mọi người dân bình thường, từ cụ già đến cháu nhỏ, ở đâu đâu, ở bất cứ ai, khi nói đến Hồ Chí Minh, đến Bác Hồ đều có chung một ý nghĩ, một cảm xúc, đó là tình thương mến.
Tình thương yêu của Hồ Chí Minh dành cho con người và cuộc đời này làm nên sự diệu kỳ và sức hấp dẫn không bao giờ phai mờ mà Người đem đến và đọng lại sâu thẳm, bền bỉ trong mỗi chúng ta. Tố Hữu đã nói lên điều đó bằng thơ, nói cho lòng mình và cho tất cả:
“Ôi lòng Bác vậy cứ thương ta.
Thương cuộc đời chung, thương cỏ hoa.
Chỉ biết quên mình cho hết thảy.
Như dòng sông đỏ nặng phù sa”...
Giản dị mà vĩ đại, sự chân thành và đức khiêm nhường làm nên giá trị của Người, trong văn hóa ứng xử của Người. Đồng chí Phạm Văn Đồng đã khái quát rất đúng về Người: "Hồ Chí Minh cao mà không xa, mới mà không lạ, to lớn mà không làm ra vĩ đại, chói sáng mà không làm ai choáng ngợp, mới gặp lần đầu mà ai cũng cảm thấy thân thiết từ lâu21.
Ảnh hưởng rộng lớn, sâu xa đến mọi người, mọi nhà, mọi miền quê hương đất nước, từ dân tộc và Tổ quốc mình đến với nhân loại, Người là hiện thân của sự sống và sự phát triển, từ ngọn nguồn phát sinh đến hướng đích hành động. Jean Lacouture đã viết: “Trên thế giới hiện nay không có lãnh tụ nào đối với nhân dân của mình vừa là người phát sinh, vừa là người bảo vệ, vừa là nguồn gốc, vừa là phương hướng, vừa là tư tưởng, vừa là thực hành, vừa là dân tộc, vừa là cách mạng, vừa là người “Bác” nhân hậu, vừa là vị tướng cầm quân…”22.
Văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh, là sự thể hiện chân thực của văn hóa Hồ Chí Minh trong đời sống hàng ngày, trong lối sống của Người, nêu gương thực hành cho mỗi người chúng ta noi theo, làm theo.
Đó là ba loại hình tiên biểu nhất cho văn hóa Hồ Chí Minh, cho thực hành dân chủ - đoàn kết và đồng thuận, thực hành đạo đức cần kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, thực hành vô ngã vị tha, khoan dung, nhân ái của Hồ Chí Minh. Văn hóa Hồ Chí Minh là một minh chứng đầy thuyết phục và cảm động về lý tưởng trở thành hiện thực, rằng, Con người viết HOA, với hệ giá trị Chân, Thiện, Mỹ mà Goócki hằng khát khao đã tìm thấy sự xác thực trong cuộc đời qua hình tượng Hồ Chí Minh, tượng trưng cao quý cho dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX, thế kỷ của Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trong Thời đại Hồ Chí Minh, thời đại vẻ vang nhất trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh và văn hóa Chân - Thiện - Mỹ Hồ Chí Minh thấm nhuần các giá trị bản chất Khoa học - Cách mạng và Nhân văn, là sự kết hợp đẹp đẽ giữa truyền thống và hiện đại, giữa dân tộc và thời đại, đó là sản phẩm tốt đẹp nhất của dân tộc Việt Nam được kết tinh lại, được thăng hoa bởi Hồ Chí Minh.
Đúng như Đảng ta đã nhận định và đánh giá: "Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta"23.
3. Tiếp nối và phát triển
Văn hóa Hồ Chí Minh cũng đồng thời là toàn bộ di sản tinh thần vô giá mà Người để lại cho dân tộc ta, cho mọi thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau, mãi mãi kế tục sự nghiệp của Người. Văn hóa Hồ Chí Minh và di sản tinh thần Hồ Chí Minh cũng đồng thời là đóng góp đầy tự hào của dân tộc Việt Nam vào kho tàng văn hóa của nhân loại. Hồ Chí Minh đã đưa dân tộc Việt Nam vào hàng ngũ các dân tộc tiên phong của thời đại, có mặt một cách xứng đáng trong thế giới nhân loại.
Nói tới văn hóa Hồ Chí Minh, chúng ta nói tới văn hóa chính trị, văn hóa đạo đức và văn hóa ứng xử chỉ như những loại hình văn hóa tiêu biểu.
Hồ Chí Minh còn rất nổi bật ở nhiều loại hình văn hóa khác: Văn hóa tư duy và tư tưởng, văn hóa thẩm mỹ (tức là sự sáng tạo cái đẹp của Hồ Chí Minh qua hoạt động sáng tác văn học nghệ thuật của Người, đặc biệt là thơ và văn); Hồ Chí Minh còn là một nhà giáo dục và văn hóa giáo dục Hồ Chí Minh cũng lấp lánh nhiều tư tưởng quý giá, mới mẻ và hiện đại mãi tới ngày nay. Người cũng được nhắc tới như một nhà thiết kế tư tưởng, lý luận về dân chủ và người thực hành tiên phong, mẫu mực về dân chủ và xây dựng thể chế dân chủ. Văn hoá dân chủ của Hồ Chí Minh chứa đựng những kiến giải và sự trải nghiệm sâu sắc và phong phú của Người. Đó vẫn còn là một đề tài lớn cần huy động nhiều tài năng và công phu nghiên cứu để ứng dụng vào thực tiễn xây dựng và phát triển dân chủ ở Việt Nam.
Là nhà cách tân lớn ở thế kỷ XX, Người đã đem lại sinh khí mới cho dân tộc và thời đại của Người, cả lý luận lẫn thực tiễn đổi mới. Người không chỉ cải cách mà còn cách mạng và cách mạng hóa, tạo nên những bước nhảy vọt lớn, những bước ngoặt trong lịch sử dân tộc Việt Nam, trong cuộc hành trình phát triển tới Tự do và Hạnh phúc.
Với Hồ Chí Minh, Đổi mới và Sáng tạo, Giải phóng và Phát triển không chỉ là những chủ đề, những triết lý của văn hóa đổi mới và đổi mới văn hóa mà còn thực sự là những trù tính chiến lược cho tương lai phát triển và hiện đại hóa Việt Nam. Người chỉ đúc vào mấy chữ: "xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, tự do, phú cường"24. Mục đích, nhiệm vụ, chính sách của Đảng, theo Hồ Chí Minh là như vậy. Người nói điều đó khi Đảng ta đã ra hoạt động công khai từ Đại hội II (1951), cách đây 60 năm mà ngày nay vẫn còn có tính thời sự, mới mẻ và hiện đại. Tâm nguyện cuối cùng, Người gửi vào Di chúc, hơn 40 năm về trước, giờ đây đang chỉ dẫn chúng ta trong sự nghiệp Đổi mới: Xây dựng thành công một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ, giàu mạnh. Tiếp tục thực hiện những chỉ dẫn của Người, Đảng ta đang lãnh đạo toàn dân trong công cuộc đổi mới vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Phát triển đất nước, chấn hưng dân tộc là phát triển toàn diện, đó chính là phát triển văn hóa theo nghĩa rộng nhất của khái niệm này. Trong chủ kiến và chủ thuyết phát triển của Hồ Chí Minh, Người kỳ vọng xã hội Việt Nam là một xã hội văn hóa cao và dân tộc Việt Nam là một dân tộc thông thái, sánh vai cùng các cường quốc năm châu. Lớp lớp con cháu của Người hôm nay và mai sau đang tiếp nối và phát triển sự nghiệp của Người. Chính điều đó đã tỏ rõ giá trị - ý nghĩa và sức sống của tư tưởng Hồ Chí Minh, của văn hóa Hồ Chí Minh.
____________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2002, t.2, tr.128.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2002, t.3, tr.554.
3. Xem các bản thảo Di chúc của Hồ Chí Minh.
4. Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn, Nxb. Khoa học xã hội, H.1995, tr.28-29.
5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2002, t.1, tr.478.
6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2002, t.5, tr.40.
7. Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hoá lớn, Nxb. Khoa học xã hội, H.1995, tr.290.
8,9. Xem Võ Nguyên Giáp: Tư tưởng Hồ Chí Minh, quá trình hình thành và phát triển. Nxb.Sự thật, H.1993, tr.9
10. Hữu Ngọc: Phác thảo chân dung văn hóa Pháp, Nxb. Ngoại văn, H.1991, tr.21
11. Tên một bài thơ của nhà thơ Chế Lan Viên
12. Chữ dùng của Người trong Di chúc
13. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2002, t.6, tr.95.
14. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2002, t.3, tr.234.
15. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2002, t.5, tr.378.
16,17. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2002, t.3, tr.439.
18. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2002, t.4, tr.161.
19. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2002, t.5, tr.406.
20. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2002, t.2, tr.439.
21. Phạm Văn Đồng: Hồ Chí Minh, một con người, một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp, Nxb.Chính trị quốc gia, H.1996, tr.17.
22. Jean Lacouture: Hồ Chí Minh, Paris, Seuil, 1967, tr.71.
23. Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam tại Lễ truy điệu trọng thể Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 9-9-1969.
24. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H,2002, t.6, tr.173.