Tầm nhìn chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn độc lập
Tuyên ngôn độc lập năm 1945 thể hiện tầm nhìn chiến lược về ngoại giao và nghệ thuật đấu tranh với kẻ thù của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tác phẩm đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam.Cách đây 58 năm, ngày 2 - 9 - 1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt nhân dân Việt Nam long trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước toàn thế giới thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á. 

Bản Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện lịch sử có giá trị to lớn về nhiều lĩnh vực như: chính trị, pháp lý, ngoại giao, tư tưởng, văn hóa... đồng thời là một tác phẩm chính luận mang tính cách mạng và khoa học sâu sắc, góp phần tích cực đặt nền tảng cho một trật tự pháp lý hiện đại trong thế kỷ 20.Ngay trong phần mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn lời bất hủ trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 Của nước Mỹ: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyển tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Người còn trân trọng viện dẫn trong Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1791 của nước Pháp một triết lý nổi tiếng, đó là: "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi". “Đó là những lẽ phải không ai có thể chối cãi được". 

Việc trân trọng viện dẫn những tinh hoa trong hai cuộc cách mạng tiêu biểu của nước Pháp và nước Mỹ để mở đầu cho Tuyên ngôn lập quốc của nước mình, vừa thể hiện nét độc đáo, sáng tạo, đầy tính nhân văn cao cả và cử chỉ ngoại giao rất tinh tế, sắc bén của chủ nhân một quốc gia độc lập; nhưng cũng vừa mang tính chủ động tiến công cách mạng của một nhà lãnh đạo có tầm nhìn chiến lược sâu rộng trên nhiều lĩnh vực chính trị, ngoại giao, văn hóa, quân sự... 

Bằng tầm nhìn chiến lược về ngoại giao, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt toàn thể nhân dân Việt Nam tuyên bố mong muốn xây dựng mối quan hệ thân thiện giữa nước ta với nước Pháp và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Điều đó càng thêm sáng ngời tư tưởng đại nghĩa, lòng khoan dung cao cả của nhân dân Việt Nam. 

Bởi vì, trong hơn 30 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đi tìm đường cứu nước, Người đã hiểu thấu tận tim gan bản chất bóc lột dã man, tàn bạo của chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Nhưng đến khi thực dân Pháp thất thế và rút chạy, nhân dân Việt Nam vẫn độ lượng khoan hồng, dang tay cứu giúp cho nhiều người Pháp và tài sản của họ thoát khỏi bàn tay tàn bạo của phát xít Nhật lúc đó.Đối với nhân dân Mỹ, họ rất tự hào về nhà tư tưởng vĩ đại Thomas Jefferson, người đã khởi thảo bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. 

Niềm tự hào đó càng được đề cao khi trong bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam mới lại được mở đầu bằng chính những nội dung tinh túy nhất trong Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ, đúng vào thời điểm quân Đồng minh vừa chiến thắng phe phát-xít. 

Nhưng điều còn lý thú hơn, chính vị lãnh tụ của nhân dân Việt Nam đã cho người đại diện của quân đội Mỹ ở Hà Nội khi đó là thiếu tá tình báo L.A Patti, được xem trước bản Tuyên ngôn Độc lập mà Người sẽ đọc tại cuộc mít tinh lớn ở Hà Nội, khiến cho Patti thú thực rằng "không còn tin ở tai mình nữa”. Sau hơn ba thập kỷ với biết bao chính biến thăng trầm của lịch sử, viên sĩ quan tình báo Mỹ L.A Patti đã công khai tự thuật sự kiện trên một cách sinh động, hấp dẫn và nghiêm túc trong tác phẩm Why Việt Nam? (Tại sao Việt Nam?). Rõ ràng, ngay trong thời kỳ đầu lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động đặt nền móng mối quan hệ ngoại giao thân thiện giữa Việt Nam với Chính phủ và nhân dân các nước trên thế giới, trong đó có nước Mỹ và nước Pháp. Thế nhưng, cơ hội lịch sử đó đã bị chính phủ đương thời ở Mỹ và ở Pháp bỏ qua, đúng vào thời điểm nhân dân Việt Nam cùng sát cánh đứng về phía phe Đồng minh để loại trừ chủ nghĩa phát xít tàn bạo.Như vậy, xét trên nhiều phương diện, có thể khẳng định bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945 là sự kết tinh tâm huyết của dân tộc Việt Nam trong hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước; thể hiện truyền thống, khí phách quật cường, bản lĩnh và ý chí quyết tâm sắt đá trong đấu tranh để giành và giữ vững nền độc lập, tự do của dân tộc. 

Nhưng thực dân Pháp vẫn không chịu từ bỏ âm mưu biến Việt Nam thành thuộc địa vĩnh viễn của chúng. Lúc này, đế quốc Mỹ cũng đang thừa cơ lăm le tìm mọi thủ đoạn để nhảy vào độc chiếm Đông Dương nói chung và xâm chiếm nước Việt Nam độc lập nói riêng. Trong bối cảnh lịch sử đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận rõ đối tượng kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm của cách mạng Việt Nam và của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Nếu như trong hơn 30 năm trước, Chủ tịch Hồ Chí Minh tập trung lên án đối tượng kẻ thù chủ yếu của cách mạng là chủ nghĩa thực dân Pháp, với bản "Yêu sách 8 điểm" nổi tiếng, gửi Hội nghị Versailles vào đầu năm 1919; hay "Bản án chế độ thực dân Pháp” năm 1925..., thì nay, trước tình hình thế giới và trong nước phát triển rất mau chóng, bằng sự nhạy cảm về chính trị và tầm nhìn chiến lược sâu rộng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích và nhận rõ nguy cơ nền độc lập của dân tộc vừa mới giành được đang đứng trước sự đe dọa từ đối tượng kẻ thù mới là đế quốc Mỹ. Chính vì vậy, Người đã làm tất cả để phân hóa kẻ thù, tranh thủ từng đối tượng, kể cả khi long trọng khởi đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của dân tộc mình bằng sự viện dẫn những nội dung tinh túy nhất trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.Trên cơ sở pháp lý và chính nghĩa, Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 đã trở thành một văn kiện mẫu mực về nghệ thuật phân hóa,cô lập kẻ thù để loại bỏ từng kẻ thù nguy hiểm của cách mạng. Đứng trước dã tâm xâm lược trở lại Việt Nam của thực dân Pháp, bản Tuyên ngôn Độc lập cũng đã lột rõ bộ mặt "bảo hộ" giả nhân, giả nghĩa, núp dưới bóng cờ quân Đồng minh của thực dân Pháp. 

Bằng những lập luận đanh thép và vững chắc, Tuyên ngôn Độc lập đã chỉ cho toàn thế giới thấy rõ một thực tế lịch sử là: Từ mùa thu năm 1940, thực dân Pháp đã quỳ gối đầu hàng, dâng đất nước ta cho bọn phát xít Nhật. Cho nên, sự thực cũng từ đó, Việt Nam đã trở thành thuộc địa của Nhật. Chính từ đây, Mặt trận Việt Minh đã lãnh đạo toàn dân đứng lên đấu tranh để giành lại nước Việt Nam từ tay phát xít Nhật.Do đó, cơ sở pháp lý về sự tồn tại quyền lợi của thực dân Pháp ở Việt Nam cũng như trên toàn Đông Dương không còn nữa. Các Hiệp nghị Teheran và Cựu Kim Sơn đã chỉ rõ: nếu các nước Đồng minh đã công nhận quyền dân tộc tự quyết của các nước đã bị phát xít chiếm đóng, thì "quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam".Những lập luận dựa trên cơ sở pháp lý quốc tế và rất đanh thép đã đặt cả chủ nghĩa thực dân cũ và mới vào tư thế của những kẻ can thiệp và xâm lược, khi chúng núp dưới bóng cờ của quân Đồng minh để thôn tính đất Việt Nam. 

Vì vậy, bản Tuyên ngôn Độc lập đã thể hiện tầm nhìn chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xác định rõ đối tượng cần tranh thủ, cần phân hóa; đồng thời, thể hiện tính chủ động, linh hoạt, cần kíp trong tiến công cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết thúc bản Tuyên ngôn Độc lập hùng tráng bằng lời tuyên bố trịnh trọng và đanh thép, đáp ứng nguyện vọng thiết tha ngàn đời của nhân dân Việt Nam: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết tâm đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy".Đã 58 năm trôi qua kể từ khi bản Tuyên ngôn Độc lập được Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại Quảng trường Ba Đình lịch sử ngày 2-9-1945, đất nước Việt Nam ta đã có nhiều đổi thay lớn lao trên con đường tiến lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" , dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuyên ngôn Độc lập năm 1945; đã đóng góp xứng đáng vào cuộc đấu tranh chung của nhân loại vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người khỏi mọi sự áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân, đế quốc; mở ra một kỷ nguyên mới-kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên đất nước Việt Nam thân yêu. 
Thượng tá Nguyễn Đức Thắng

Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự
 
(Báo Quân đội nhân dân) 

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Quy trình kỷ luật đảng viên thuộc thẩm quyền của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư

(ĐCSVN) - Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường vừa ký Quyết định số 165-QĐ/TW ngày 6/6/2024 của Bộ Chính trị ban hành Quy trình xem xét, thi hành kỷ luật đối với tổ chức Đảng, đảng viên thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Về thẩm quyền của người đứng đầu trong việc tạm đình chỉ công tác với cán bộ cấp dưới

(ĐCSVN) - Ngày 23/5/2024, đồng chí Lương Cường đã ký ban hành Quy định 148-QĐ/TW về thẩm quyền của người đứng đầu trong việc tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ cấp dưới trong trường hợp cần thiết hoặc khi có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Quy định về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới

(ĐCSVN) - Ngày 9/5, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Quy định số 144-QĐ/TW của Bộ Chính trị về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới.

Bộ Chính trị ban hành quy định phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong điều tra, xét xử

(ĐCSVN) – Ngày 27/10/2023, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 132-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Liên kết website