Dân chủ xã hội chủ nghĩa – Bản chất của chế độ, mục tiêu và động lực phát triển đất nước PGS. TS. Lê Minh Quân

Tổng kết 25 năm đổi mới và 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991 - 2011), Đại hội XI của Đảng (1/2011) khẳng định dân chủ là bản chất của chế độ, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước.

1.Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và do nhân dân làm chủ là 2 trong 8 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là 1 trong 8 phương hướng cơ bản cho việc thực hiện mục tiêu chiến lược đến giữa thế kỷ XXI và mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Với tư cách là mục tiêu của sự phát triển đất nước, dân chủ được đưa lên trước công bằng để trở thành mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Dân chủ trở thành tiền đề cho công bằng và văn minh. Có dân chủ mới có công bằng, mới có văn minh. Việc mở rộng dân chủ và phát huy tối đa nhân tố con người trong phát triển được xem là 1 trong 5 quan điểm phát triển và mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020; là 1 trong 10 mục tiêu tổng quát 5 năm (2011 - 2015) và 1 trong 5 nhiệm vụ chủ yếu phát triển đất nước 5 năm 2011 - 2015.1

2. Việc Đại hội XI của Đảng xác định dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta bắt nguồn từ chỗ ở nước ta tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân, mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều thể hiện lợi ích của nhân dân. Đảng và Nhà nước gắn bó chặt chẽ với nhân dân, phục vụ nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân. Mọi cán bộ, công chức đều phải tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân, có trách nhiệm hoàn thành tốt chức trách và nhiệm vụ được nhân dân giao phó. Mọi hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân và lợi dụng dân chủ làm tổn hại lợi ích của nhân dân và Tổ quốc đều phải được phê phán và nghiêm trị. Những tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và vô trách nhiệm, lạm quyền và xâm phạm quyền làm chủ của nhân dân đều phải được ngăn ngừa và trừng trị. Pháp chế xã hội chủ nghĩa cần được tăng cường, trách nhiệm công dân cần được đề cao, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các cơ chế và biện pháp kiểm soát quyền lực nhà nước, phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý nghiêm những sai phạm làm suy thoái và biến chất quyền lực nhà nước của nhân dân.

3. Dân chủ được Đại hội XI của Đảng xác định là một nội dung quan trọng và cần thiết trong hệ các mục tiêu chung của công cuộc đổi mới xuất phát từ những thành tựu và hạn chế, thời cơ và thách thức trong quá trình thực hiện dân chủ ở nước ta những năm qua. Trong những thành tựu, trước hết phải nói đến sự phát triển và hoàn thiện quan điểm của Đảng ta về xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Năng lực nhận thức và thực hành dân chủ của cán bộ, đảng viên và nhân dân ngày càng được nâng cao. Chúng ta đã tạo được những chuyển biến tích cực và tương đổi ổn định trong nhận thức, phương pháp và phong cách làm việc, ứng xử của cán bộ đảng viên và nhân dân theo hướng dân chủ. Yêu cầu và điều kiện thực hiện dân chủ của các tầng lớp nhân dân, các tổ chức xã hội ngày càng rộng lớn. Ý thức xã hội về vị thế, quyền hạn và trách nhiệm của cá nhân và cộng đồng cũng như mối tương quan với các tổ chức, các thiết chế trong việc xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng sâu sắc. Các giá trị mới trong văn hoá chính trị, văn hoá dân chủ, kỹ năng giao tiếp, ứng xử ngày càng cao. Dân chủ không dừng lại ở quan điểm và định hướng mà còn trở thành phương pháp làm việc, phong cách giao tiếp và thái độ ứng xử của cán bộ, đảng viên và công chức với nhân dân cũng như của nhân dân đối với cán bộ, đảng viên và công chức.

Các thể chế và cơ chế dân chủ ngày càng bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, tính tích cực chính trị của công dân ngày tăng, không khí dân chủ ngày càng lành mạnh và sự quan tâm và tham gia chính trị, tham gia quản lý nhà nước của nhân dân ngày càng rộng rãi. Nhân dân ý thức rõ ràng và cụ thể hơn về quyền và trách nhiệm công dân của mình trước pháp luật, thực hiện đầy đủ hơn quyền và trách nhiệm của mình trong sản xuất và đời sống. Các quyền dân chủ của nhân dân - từ tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất, kinh doanh đến trao đổi, phân phối và hưởng thụ kết quả lao động; từ tự do làm ăn đến tự do ngôn luận ngày càng hiện thực hoá. Các quyền đề cử, ứng cử và lựa chọn của nhân dân trong các cuộc bầu cử mỗi ngày một đầy đủ và hoàn thiện hơn.

Nội dung và hình thức, phương pháp và công cụ thực hiện dân chủ ngày càng sâu sắc và đa dạng. Về nội dung, quá trình thực hiện dân chủ ngày càng mở rộng và phát triển đến về các lĩnh vực, các ngành, các cấp; cụ thể và chi tiết về tiêu chí và chuẩn mực. Về hình thức, trong quá trình thực hiện dân chủ ngày càng tìm kiếm và khẳng định được những quy tắc, quy định và quy trình mới cho dân chủ ở cả hình thức dân chủ gián tiếp và dân chủ trực tiếp. Về tính chất, quá trình thực hiện dân chủ ngày càng toàn diện và triệt để, thiết thực và hiệu quả. Cùng với việc hoàn thiện các hình thức dân chủ gián tiếp, nhất là đổi mới và hoàn thiện tổ chức và hoạt động các cơ quan dân cử, là quá trình xúc tiến mạnh mạnh mẽ các hình thức dân chủ trực tiếp, nhất là ở cơ sở.

Hệ thống các thể chế, cơ chế dân chủ hình thành và phát triển hơn, tạo nền tảng pháp lý cho quá trình thực hiện dân chủ. Thực hiện dân chủ ngày càng trở thành quá trình xác định và thực hiện các cơ chế và thể chế về các quyền và lợi ích của Nhà nước và của nhân dân. Đời sống xã hội ngày càng được tổ chức và vận hành trên cơ sở các thể chế; tính ổn định của hệ thống ngày càng cao; tính chủ quan, duy ý chí của các tổ chức và người lãnh đạo, quản lý được giảm thiểu. Trong chủ trương và đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, nội dung và chương trình hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, vấn đề thể chế và xây dựng thể chế ngày càng được chú trọng. Thể chế, cơ chế quy định tổ chức và hoạt động của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp ngày càng hiện hữu và phát huy tác dụng. Thể chế, quy chế quy định quyền hạn và trách nhiệm của các tổ chức và cá nhân trong các mối quan hệ chính trị và xã hội làm cho dân chủ ngày càng được xác định, ngày càng được lượng hoá, ngày càng được trở nên hiện thực.

Với việc xây dựng các quy chế và pháp lệnh dân chủ cơ sở, dân chủ không còn dừng lại ở những nguyên tắc chung, trừu tượng, mà được cụ thể hóa ở từng cấp, ngành, địa phương và đơn vị. Dân chủ ngày càng thoát ra khỏi tính hình thức để trở nên thực chất hơn. Dân chủ ngày càng thiết thực, thật sự và có kết quả rõ ràng. Dân chủ và nhất là dân chủ ở cơ sở đang là chiếc chìa khoá vạn năng để giải quyết hết thảy mọi vần đề khó khăn và bức xúc trong sản xuất và đời sống, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tuy nhiên, tình trạng thiếu dân chủ vẫn còn những biểu hiện và diễn biến phức tạp. Cho đến nay không ít quyền làm chủ của nhân dân vẫn còn bị vi phạm. Tình trạng buông lỏng kỷ cương, pháp luật, dân chủ hình thức, cán bộ cửa quyền, hách dịch vẫn còn không nhỏ. Khi bị nhân dân phát hiện, khiếu kiện thì cá cơ quan có trách nhiệm chậm giải quyết và giải quyết chưa dứt điểm, chưa khách quan. Tình trạng tồn đọng trong xử lý khiếu kiện còn khá phổ biến, nhiều hiện tượng lợi dụng dân chủ, coi thường kỷ cương phép nước vẫn tồn tại. Hiện tượng mất dân chủ, vi phạm pháp luật diễn ra trên nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội với những biểu hiện mới, tinh vi và phức tạp hơn. Thiếu dân chủ từ khâu chuẩn bị và ra quyết định đến triển khai thực hiện và đánh giá quyết định, chính sách.

Tính phức tạp của đời sống xã hội tăng lên đòi hỏi phải tiếp tục đa dạng hoá hơn nữa các hình thức và cấp độ thực hiện dân chủ. Làm thế nào tạo ra những khả năng và điều kiện để nhân dân ngày càng tham gia đầy đủ hơn, thực chất hơn vào quá trình quản lý và phát triển đất nước là vấn đề lớn hiện nay. Trình độ dân trí thấp, hiểu biết pháp luật ít, thiếu bình tĩnh trong xử lý các vụ việc tiêu cực lại bị kẻ xấu lợi dụng kích động dẫn đến tình trạng vô chính phủ, coi thường kỷ cương phép nước ở một số địa phương, trong quá trình đấu tranh cho cái tốt lại bị kẻ xấu lợi dụng. Nhiều hiện tượng quan liêu, tham nhũng vẫn chưa được ngăn chặn và xử lý. Nạn hành chính, giấy tờ, quan liêu, nhũng nhiễu vẫn còn. Không ít quyền dân chủ đương nhiên của công dân vẫn chưa được thực hiện đầy đủ.

Trong những năm đầu thời kỳ đổi mới, hiện tượng mất dân chủ thường xảy ra ở một số lĩnh vực như huy động quá mức và sử dụng sai mục đích những khoản đóng góp của nhân dân, lạm dụng công quỹ, chia bán đất đai trái pháp luật, v.v.. Còn hiện nay, hiện tượng thiếu dân chủ lại diễn ra ở những lĩnh vực như xây dựng và thực hiện chính sách, trao quyền và trách nhiệm giải trình, chống quan liêu và tham nhũng, quản lý đất đai và đầu tư, quy hoạch và xây dựng cơ bản, đền bù và giải phóng mặt bằng, quản lý và xử lý các xung đột công nghiệp, quản lý và bảo vệ môi trường, quản lý và điều hành các các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế nhà nước, v.v..

Thể chế, quy chế dân chủ còn chưa hoàn thiện và đồng bộ. Những quy định pháp lý để nhân dân được quyền phúc quyết hiến pháp và những công việc liên quan đến vận mệnh quốc gia thông qua trưng cầu dân ý, lựa chọn phương án phát triển và người lãnh đạo thông qua tranh cử trong tổng tuyển cử như là một nội dung và yêu cầu cơ bản của dân chủ, v.v. còn chưa hoàn thiện. Các thể chế, quy chế cho các hoạt động tự nguyện của các cộng đồng, các tầng lớp nhân dân nhằm phát huy nguồn lực xã hội và phản biện xã hội theo hướng xây dựng xã hội dân sự còn nghèo nàn và hạn chế.

Do thiếu những thể chế, cơ chế pháp lý cần thiết, nhiều cấp chính quyền vẫn còn lúng túng trong giải quyết các tình huống phức tạp về kinh tế, chính trị và xã hội. Nhân dân vẫn thiếu những cơ sở pháp lý để đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình, để tự vệ dân sự. Sự bất cập của các thể chế, thiết chế pháp lý trong bước chuyển sang kinh tế thị trường trở thành nguyên nhân của hiện tượng trật tự, kỷ cương bị vi phạm và mất dân chủ. Vẫn còn những chậm trễ trong việc dỡ bỏ những quy định, những chính sách ít hoặc không còn tác dụng, lạc hậu với cuộc sống hiện tại.

Những điều kiện và tiền đề cho dân chủ còn chưa vững chắc. Nền kinh tế nước ta phát triển vẫn chưa bền vững, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp; chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn chậm; các cân đối vĩ mô chưa vững chắc; chế độ phân phối chưa hợp lý và phân hoá xã hội tăng lên. Thu nhập bình quân đầu người còn cách xa với các nước phát triển. Nền kinh tế thi trường, nền kinh tế tri thức đang trong giai đoạn hình thành và chưa phát triển, nguy cơ rủi ro do cơ chế thị trường tạo ra còn lớn, v.v. là những yếu tố cản trở và thách thức quá trình thực hiện dân chủ. Nhiều nhóm dân cư ngày càng mất tư liệu sản xuất, phải làm thuê và có nguy cơ mất đi quyền làm chủ trong thực tế của mình.

Sự phân hoá giàu nghèo, bất công bằng xã hội gia tăng đang hạn chế và gây khó khăn cho việc thực hiện dân chủ. Cùng với quá trình chuyển đổi cơ chế và cơ cấu kinh tế là chuyển đổi cơ cấu xã hội, nhiều tầng lớp xã hội mới hình thành trong lúc các thể chế nhà nước và pháp luật vẫn còn những bất cập trong việc xác định, bảo vệ và thực hiện quyền làm chủ của họ. Những hạn chế và chậm trễ trong quá trình công khai hoá, minh bạch hoá các lĩnh vực chính sách, hành chính, tài chính, quản trị và dịch vụ công, v.v. cũng là những sức cản đối với quá trình thực hiện dân chủ.

Trình độ dân trí còn hạn chế, văn hoá dân chủ, văn hoá pháp luật, nhận thức về pháp luật, pháp chế mới đang hình thành, chưa trở thành lối sống và nếp sống của đại bộ phận dân cư. Nhận thức về dân chủ, kỷ cương và mối quan hệ giữa dân chủ và kỷ cương còn nhiều bất cập dẫn đến những biểu hiện lợi dụng dân chủ, lạm dụng dân chủ. Những tàn dư của các nền văn hoá gia trưởng, phong kiến và tư sản cũng tác động không nhỏ. Trong lúc nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta chỉ có thể hình thành và phát triển trong điều kiện chúng ta xây dựng và phát triển được nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; xã hội công dân hay xã hội dân sự xã hội chủ nghĩa và nền văn hoá xã hội chủ nghĩa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

4. Đồng thời, dân chủ còn được Đại hội XI của Đảng xác định là động lực của đổi mới và phát triển đất nước. Thực hiện dân chủ, như thực tế cho thấy, đã làm cho hệ thống chính trị nước ta ngày thêm vững mạnh, năng lực cầm quyền của Đảng ta ngày càng được nâng cao. Quá trình chính sách ngày càng được công khai và minh bạch hoá, tầm nhìn và chất lượng của các chủ trương và chính sách, chiến lược và chương trình phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ngày càng cao. Sự tham gia của các tổ chức và cá nhân vào các quá trình chính trị, chính sách ngày càng mở rộng và hiệu quả hơn. Nâng cao chất lượng và hiệu quả của việc cung cấp các hàng hoá, dịch vụ công theo hướng xã hội hoá, chuyển giao ngày càng nhiều trách nhiệm này cho chính quyền cơ sở, các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ và người dân. Niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị được khôi phục và củng cố.

Việc thực hiện dân chủ đã phát huy ngày càng nhiều sáng kiến của nhân dân, khơi dậy ngày càng nhiều nguồn lực, huy động được những khối lượng của cải vật chất và tinh thần to lớn cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế - xã hội và văn hóa, cải thiện đời sống của phần lớn dân cư, nhất là nông thôn. Với việc thực hiện dân chủ, quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, tự do làm ăn của nhân dân ngày càng được bảo đảm. Các thành phần (khu vực) kinh tế tư nhân ngày càng phát triển, đóng góp tích cực và có hiệu quả vào thu nhập quốc dân, vào tăng trưởng kinh tế.

Việc thực hiện dân chủ còn góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, hạn chế các xu hướng bất đồng xã hội. Xã hội có xu hướng ngày càng cởi mở hơn, đề cao hơn sự tranh luận, sự tham gia của nhân dân vào các quá trình nhà nước; tăng cường sự kiểm tra giám sát của nhân dân đối với Nhà nước, nâng cao ý thức trách nhiệm công cộng, phẩm hạnh công dân và lợi ích cộng đồng. Tình trạng thiếu thông tin và bất đối xứng thông tin từng bước được khắc phục. Các tầng lớp xã hội trở nên hiểu biết và chia sẻ, dân chủ và đồng thuận hơn. Dân chủ ngày càng trở thành chiếc chìa khoá giải quyết hết thảy mọi vấn đề.

Những tiến bộ về quy trình lựa chọn, bổ nhiệm và miễn nhiệm cán bộ, công chức; về trách nhiệm giải trình của chính quyền trước nhân dân, khả năng và tính hiệu quả quản lý của chính quyền, chất lượng giám sát, xây dựng và thực thi chính sách; về sự tôn trọng của người dân và Nhà nước đối với các thể chế chính trị và pháp lý, cải cách hành chính, quy trình và chất lượng bầu cử các cơ quan dân cử; về dân chủ hóa trong Đảng, v.v. thực sự là những động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới nói chung và đổi mới hệ thống chính trị nói riêng. Việc thực hiện dân chủ ở nước ta còn làm tăng tình cảm và ý thức chính trị, sự tôn trọng và niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước, vào chế độ xã hội và thể chế nhà nước.

Những kết quả từ quá trình thực hiện dân chủ đã góp phần tích cực vào việc đưa nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá để đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, tăng trưởng kinh tế liên tục ở mức cao, thu nhập bình quân đầu người liên tục tăng, tiềm lực kinh tế của đất nước không ngừng được củng cố, tích luỹ và tái đầu tư từ nội bộ nền kinh tế không ngừng được tăng cường, việc xoá đói giảm nghèo không ngừng được phát triển, đời sống nhân dân ngày không ngừng được cải thiện, v.v..

5. Việc Đại hội XI của Đảng xác định dân chủ là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước là một chủ trương đúng đắn, thể hiện tầm nhìn xa, trông rộng và quyết tâm chính trị ở tầm chiến lược. Những quan điểm và giải pháp, phương hướng và nhiệm vụ của Đại hội XI của Đảng về dân chủ và thực hiện dân chủ ngày càng được bổ sung và phát triển theo hướng cụ thể hoá, khả thi hóa. Theo đó, dân chủ ngày càng được thể hiện cụ thể trong cuộc sống, thông qua Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, với những nội dung và hình thức ngày càng phong phú, đa dạng. Thực hiện dân chủ là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị; kết hợp phát triển và hoàn thiện cả hai hình thức dân chủ gián tiếp và dân chủ trực tiếp; gắn thực hiện dân chủ với ổn định chính trị - xã hội và phát triển kinh tế, nâng cao dân trí và cải thiện đời sống nhân dân; thực hiện dân chủ đi đôi với kỷ cương, quyền hạn đi đôi với trách nhiệm.

Thực hiện dân chủ hoá, do vậy, cần được tiến hành trên quan điểm nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật và đánh giá đúng sự thật; thực hiện dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra; thận trọng và vững chắc, bắt đầu từ việc giải quyết những vấn đề bức xúc và chín muồi. Thực hiện dân chủ là việc làm cần thiết nhưng phức tạp và nhạy cảm, vội vã sẽ làm nảy sinh những sai lầm, sẽ phải trả giá đắt, thậm chí không thể cứu vãn nổi. Ngược lại, làm chậm chễ hay ngăn cản quá trình thực hiện dân chủ cũng sẽ để lại những hậu quả tiêu cực, hạn chế các động lực phát triển đất nước.

Trong quá trình hội nhập quốc tế, tác động của quá trình dân chủ từ các nước đến nước ta là tất yếu khách quan, do vậy, chúng ta cần chủ động và thận trọng trong việc tham khảo và kế thừa những giá trị, những kinh nghiệm về dân chủ ấy. Dân chủ và thực hiện dân chủ cần phải xuất phát từ những yêu cầu nội tại của đất nước, hướng vào sự ổn định và phát triển đất nước một cách bền vững. Thực hiện dân chủ ở nước ta, do vậy, phải là một quá trình với những nguyên tắc, phương châm, khâu đột phá và bước đi cụ thể trong hiện thực./.

_________________________

1. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng ta luôn xác định dân chủ là vấn đề quan trọng và cơ bản của cách mạng Việt Nam. Trong thời kỳ đổi mới, Đại hội VI của Đảng (1986), với bài học lấy dân làm gốc, xác định cơ sở cho việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Từ đây, cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ từng bước trở thành cơ chế quản lý xã hội theo hướng dân chủ. Đại hội VII của Đảng (1991) xác định dân chủ là 1 trong 6 đặc trưng và 1 trong 7 phương hướng cơ bản trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội VIII của Đảng (1996) lần đầu tiên đề ra cơ chế cụ thể thực hiện phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra; thực hiện quyền làm chủ của nhân dân thông qua các cơ quan dân cử và các tổ chức chính trị - xã hội, với các hình thức nhân dân tự quản, bằng các quy ước, hương ước ở cơ sở trong khuôn khổ pháp luật. Đại hội IX của Đảng (2001) xác định dân chủ là một trong những nội dung trong mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đại hội X của Đảng (2006) xác định dân chủ là 1 trong 8 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa và 1 trong 8 phương hướng cơ bản cho việc thực hiện các mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Các tin khác

Hướng dẫn kiểm tra, giám sát phục vụ đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng

(ĐCSVN) - Tại văn bản số 08-HD/UBKTTW ngày 18/11/2024, Ủy ban Kiểm tra Trung ương hướng dẫn công tác kiểm tra, giám sát phục vụ đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.

Phương án nghiên cứu sắp xếp, sáp nhập các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ

(ĐCSVN) - Theo phương án nghiên cứu sắp xếp, sáp nhập được Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Minh Hưng nêu tại Hội nghị toàn quốc sáng 1/12, sẽ tối thiểu giảm được 5 bộ, 2 cơ quan trực thuộc Chính phủ.

Phương án sáp nhập các ủy ban của Quốc hội và cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội

(ĐCSVN) - Sáng 1/12, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Minh Hưng thông báo chuyên đề về các nội dung chính, trọng tâm việc triển khai tổng kết Nghị quyết 18. Theo phương án định hướng được nêu sẽ giảm 4 ủy ban của Quốc hội và 1 cơ quan trực thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Phương án giảm 4 cơ quan Đảng, 25 ban cán sự đảng, 16 đảng đoàn trực thuộc Trung ương

(ĐCSVN) - Sáng 1/12, đồng chí Lê Minh Hưng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương đã trình bày các nội dung chính, trọng tâm việc triển khai tổng kết Nghị quyết 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII.

Quy trình kỷ luật đảng viên thuộc thẩm quyền của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư

(ĐCSVN) - Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường vừa ký Quyết định số 165-QĐ/TW ngày 6/6/2024 của Bộ Chính trị ban hành Quy trình xem xét, thi hành kỷ luật đối với tổ chức Đảng, đảng viên thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Liên kết website