Kết hợp sức mạnh với sức mạnh thời đại trong xây dựng và phát triển đất nước hiện nay PGS. TS Nguyễn Văn Phúc - Viện Triết học, VKHXHVN

Trong những khuôn khổ và những mức độ nhất định, việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại đã từng được thực hiện trong lịch sử phát triển của nhân loại cũng như ở Việt Nam. Tuy vậy, không phải bao giờ vấn đề cũng được nhận thức một cách đầy đủ và xử lí một cách hợp lí. Sự sùng ngoại hoặc bài ngoại đều là sai lầm về một nhận thức dẫn đến trì trệ trong phát triển. Lịch sử Việt Nam từng trải qua những giai đoạn như vậy. Chẳng hạn, sự sùng ngoại cuối thời Trần, sự bài ngoại cuối thời Nguyễn đã từng làm đất nước và dân tộc rơi vào tình trạng suy yếu và thất bại trước sự xâm lược của ngoại bang.

Ngày nay, toàn cầu hoá mà trước hết là toàn cầu hoá về kinh tế đang tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống xã hội, đến mọi quốc gia, dân tộc. Không một quốc gia, dân tộc nào có thể phát triển được mà lại tách biệt, cô lập với thế giới. Mở cửa, hội nhập, chủ động gia nhập vào quá trình toàn cầu hoá, đó chính là đòi hỏi của toàn cầu hoá, nhưng cũng chính là điều kiện thuận lợi để kết hợp và phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong phát triển. Nhận thức sâu sắc tính tất yếu và cơ hội đó, Đảng ta luôn coi việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để tạo nên sức mạnh tổng hợp là một trong những yêu cầu, một trong những bài học kinh nghiệm lớn trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Tại Đại hội Đảng lần thứ XI, một lần nữa, bài học kinh nghiệm này lại được nhấn mạnh: "Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế ... phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại".1

1. Sức mạnh dân tộc hay nội lực của một dân tộc, một quốc gia chính là tổng hợp những lợi thế, những nguồn lực nội sinh của dân tộc, quốc gia đó. Những lợi thế, những nguồn lực này bao hàm trong toàn bộ các lĩnh vực kinh tế chính trị văn hoá, xã hội; chúng là tài nguyên thiên nhiên, nguồn lực con người, là tổng thể những giá trị vật chất, tinh thần, truyền thống văn hoá,... Sức mạnh dân tộc, vì thế là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của một dân tộc. Như vậy, sức mạnh dân tộc, nội lực của chúng ta bao gồm cả những nguồn lực, những tiềm lực tự nhiên và xã hội.

Trên bình diện nguồn lực tự nhiên, Việt Nam có lợi thế về vị trí địa lí, giao thông, có bờ biển dài rất thuận lợi cho phát triển kinh tế biển; lâm sản, hải sản, khoáng sản tuy không thật nhiều nhưng khá đa dạng và phong phú. Cố nhiên, những nguồn lực tự nhiên, tự nó, chỉ tồn tại như là tiềm năng. Vấn đề là làm sao khơi dậy, huy động được những nguồn lực, những lợi thế đó trong phát triển. Ngày nay, cơ chế thị trường tỏ ra là cơ chế kinh tế có hiệu quả nhất. Với việc thừa nhận và khuyến khích lợi ích cá nhân (cố nhiên, đó là lợi ích cá nhân chính đáng), cơ chế thị trường đã tạo ra động lực hết sức mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế. Cũng chính trong điều kiện kinh tế thị trường, những nghiên cứu và áp dụng khoa học - công nghệ được xúc tiến mạnh mẽ. Nhờ thế những nguồn lực tự nhiên được khai thác và huy động tối đa cho phát triển. Tuy nhiên, những nguồn lực tự nhiên không phải là vô tận. Việc khai thác tự nhiên, do vậy, cần đi liền với quá trình bảo vệ tự nhiên, phát triển những nguồn tài nguyên có thể tái tạo. Chỉ có như vậy, những nguồn lực tự nhiên mới trở thành nguồn nội lực bền vững cho xây dựng và phát triển đất nước...

Trên bình diện nguồn lực xã hội, Việt Nam cũng có những ưu thế về mặt văn hoá và con người. Có thể nói, đó là những nguồn lực nội sinh giữ vị trí trung tâm của phát triển; bởi con người với những sức mạnh về văn hoá, chính là chủ thể của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, là chủ thể của sự khai thác, huy động và hợp nhất các lợi thế, các nguồn nội lực khác.

Văn hoá, như chúng ta biết, không chỉ là mục tiêu mà đồng thời còn là động lực của phát triển. Những giá trị văn hoá có khả năng liên kết, cố kết con người thành một cộng đồng thống nhất; đồng thời định hướng họ trong hoạt động sống, trong xây dựng và phát triển đất nước. Trải qua lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, những giá trị, những tinh hoa văn hoá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam đã được hình thành và trở thành truyền thống. "Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lí, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống”2. Những giá trị văn hoá truyền thống chính là nguồn lực tinh thần, nền tảng tinh thần để chúng ta xây dựng đất nước trong điều kiện mới. Những giá trị đó khi được phát huy và nội tâm hoá thành sức mạnh tinh thần của mỗi người dân thì nó không chỉ là động lực kích thích họ trong lao động sáng tạo, xây dựng và bảo vệ đất nước mà đồng thời, còn góp phần tạo nên bản sắc dân tộc trong điều kiện toàn cầu hoá. Bởi thế, chủ động và tích cực kế thừa, phát huy những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc trong điều kiện hiện nay chính là phát huy một trong những nguồn nội lực quan trọng nhất. Ngày nay, tính tất yếu của việc kế thừa các giá trị văn hoá truyền thống đã được thừa nhận rộng rãi. Tuy nhiên, điều cần lưu ý là kế thừa như thế nào để các giá trị văn hoá truyền thống có thể thực sự trở thành sức mạnh tinh thần, nội lực của sự phát triển. Trong trường hợp này, chúng tôi muốn nói tới cơ sở, tiêu chí của việc kế thừa. Kế thừa truyền thống không có nghĩa là phục cổ hoặc "lưu giữ giấy lộn”, theo cách nói của V. Lênin, mà là nhằm tạo ra nhân tố mới cho hiện tại và tương lai. Vì thế, cần phải lấy những yêu cầu của sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay làm cơ sở, tiêu chí cho việc thẩm định, kế thừa và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người mới với những đức tính được xác định tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ năm khoá VIII là những yêu cầu, những định hướng lớn của sự nghiệp đổi mới hiện nay. Đó chính là cơ sở, là những tiêu chí cơ bản cho việc kế thừa các giá trị văn hoá truyền thống với tư cách là nguồn nội lực tinh thần hiện nay.

Cùng với những giá trị văn hoá, con người là nguồn lực nội sinh có ý nghĩa quyết định nhất đối với sự phát triển đất nước. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội cần có những con người xã hội chủ nghĩa. Con người chính là chủ thể của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Nguồn lực con người, trên bình diện số lượng, được xác định bởi quy mô dân số, cơ cấu độ tuổi, giới tính, sự phân bố dân cư. Hiện Việt Nam đang có dân số khoảng 86 triệu người, trong đó hơn 50% thuộc độ tuổi lao động. Đó là một lợi thế cần được huy động tối đa. Trên bình diện chất lượng, nguồn lực con người là tổng hợp những sức mạnh về thể chất, tri thức, tay nghề, năng lực quản lí, phẩm chất đạo đức, ... Xét về chất lượng, mặc dù người Việt Nam có một số ưu thế, chẳng hạn, khéo léo, cần cù, ham hiểu biết, có lòng yêu nước, ý chí vượt khó,... nhưng chừng ấy là chưa đủ. Hiện nay, trong cơ cấu lực lượng lao động ở nước ta, nông dân vẫn chiếm tới 70%; công nhân chiếm xấp xỉ 10%; nguồn nhân lực trí thức chỉ chiếm 2,15%3. Thậm chí, lao động đã qua đào tạo vẫn còn bất cập so với yêu cầu một số cơ sở sản xuất sau khi nhận người đã phải đào tạo lại từ 1 đến 2 năm mới sử dụng được. Nhìn chung, lực lượng lao động hiện nay còn nhiều bất cập trước các yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Đó là những bất cập về thể lực, năng lực chuyên môn, tính chuyên nghiệp, kỉ luật lao động, khả năng thích ứng với những biến đổi kinh tế - xã hội,... Điểm tính cho năng lực cạnh tranh tổng hợp về nguồn nhân lực của Việt Nam hiện còn rất thấp, mới chỉ đạt 3,79 điểm theo thang điểm 104. Vì thế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là yêu cầu vừa có tính cấp thiết vừa có tính lâu dài nhằm tăng cường sức mạnh dân tộc trong điều kiện hiện nay. Để giải quyết vấn đề này, cần có những đầu tư thích đáng và những đổi mới hơn nữa trong hàng loạt các lĩnh vực liên quan đến sự phát triển con người, đặc biệt là lĩnh vực giáo dục, đào tạo. Cần "đặc biệt coi trọng giáo dục lí tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, năng lực thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội"5.

Sức mạnh con người không đơn thuần chỉ biểu hiện ở các cá nhân; nó còn biểu hiện ở sức mạnh tập thể, cộng đồng. Vì thế, sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam là nguồn lực nội sinh cực kì quan trọng; nó luôn được coi là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối, chiến lược của Đảng trong chiến tranh cũng như trong đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước. Tuy vậy, việc phát huy sức mạnh nội sinh này không phải là một điều đơn giản. Trong điều kiện hiện nay, dưới tác động của những biến đổi về cơ cấu thành phần kinh tế, của sự điều tiết bởi cơ chế thị trường, của mở cửa hội nhập, sự phân hoá các tầng lớp xã hội cũng như sự phân hoá giàu nghèo ngày một gia tăng, xuất hiện nhiều nhóm lợi ích khác biệt nhau, thậm chí đôi khi đối lập nhau, thì vấn đề phát huy sức mạnh dân tộc đang đứng trước những thách thức mới. Có sâu xa của sự đoàn kết xã hội là sự thống nhất về lợi ích. Điều đó có nghĩa là, "Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hoà quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội"6. Bởi thế, một mặt, cần đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục tinh thần "lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; xoá bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung... để tập hợp đoàn kết mọi người vào mặt trận chung, tăng cường đồng thuận xã hội"7mặt khác, các chính sách kinh tế, xã hội cần phải được hoạch định và thực thi sao cho sự khác biệt, đặc biệt là sự đối lập lợi ích giữa các nhóm, các tầng lớp xã hội ngày càng giảm thiểu. Có thể nói, đây là một vấn đề nan giải. Sự phát triển kinh tế thị trường luôn giả định phân hóa giàu nghèo; nhưng sự ổn định, sự bền vững lại đòi hỏi giảm thiểu sự phân hóa. Tuy nhiên, vấn đề không phải là không thể giải quyết được. Giữ vững và tăng cường định hướng xã hội chủ nghĩa đối với sự phát triển kinh tế thị trường không chỉ tạo điều kiện cho kinh tế phát triển mà còn là đảm bảo cho việc giải quyết hài hoà các quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội. Chỉ có như thế, sự đồng thuận xã hội mới ngày được gia tăng, khối đại đoàn kết dân tộc mới không ngừng được củng cố và phát triển. Ngoài ra, trong điều kiện mà các thế lực thù địch chủ nghĩa xã hội luôn tìm mọi cách thực hiện diễn biến hoà bình, chia rẽ các tôn giáo, các tầng lớp xã hội thì chính sách kinh tế, xã hội và tôn giáo càng cần phải chú ý hơn đến việc khắc phục những tác động tiêu cực từ những hoạt động đó nhằm tăng cường hơn nữa khối đại đoàn kết dân tộc với tư cách là sức mạnh nội sinh quyết định thắng lợi của sự nghiệp phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

2. Mặc dù có vai trò quyết định, nhưng sức mạnh dân tộc hay nội lực không phải là tất cả. Sẽ là hạn chế và khiếm khuyết nếu không biết đến những nguồn lực bên ngoài, những sức mạnh thời đại trong xây dựng và phát triển. Thực tế cho thấy, giao lưu kinh tế và văn hoá là quy luật phổ biến của sự phát triển lịch sử nhân loại; không dân tộc nào là không ít nhiều tiếp nhận và sử dụng những nguồn lực, những thành tựu, những tinh hoa văn hoá của các dân tộc khác để làm giàu thêm cho nội lực đồng thời tạo ra một sự thống nhất, một hợp lực cho phát triển. Chẳng hạn, việc tiếp nhận và bản địa hóa các giá trị của Phật giáo, Nho giáo,... biến chúng thành sức mạnh nội sinh đã từng được thực hiện rất thành công trong lịch sử Việt Nam. Những hệ tư tưởng này, dưới hình thức Việt hoá đã thực sự trở thành những yếu tố cấu thành của văn hóa Việt Nam, nghĩa là của sức mạnh Việt Nam. Điều đó có nghĩa rằng, sức mạnh của một dân tộc phải bao hàm nội lực và sự bổ sung, sự kết hợp với các nguồn lực từ bên ngoài, các yếu tố ngoại lực, tức sức mạnh của thời đại. Trước đây, trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, chính V. Lênin, người đã đối lập chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa xã hội trên nhiều phương diện, đã phê phán triệt để nhiều khiếm khuyết của chủ nghĩa tư bản vẫn khẳng định rằng: "Phải tiếp thu toàn bộ nền văn hoá do chủ nghĩa tư bản để lại và dùng văn hoá đó để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phải tiếp thu toàn bộ khoa học kĩ thuật, tất cả những kiến thức, tất cả nghệ thuật. Không có những cái đó, chúng ta không thể xây dựng cuộc sống của xã hội cộng sản được"8. Ông còn nhấn mạnh: "Dùng cả hai tay mà lấy những cái tốt của nước ngoài: Chính quyền Xô viết trật tự đường sắt Phổ kĩ thuật và cách tổ chức các Tơrớt ở Mỹ ngành giáo dục quốc dân Mỹ… = Chủ nghĩa xã hội”9.

Trong điều kiện hiện nay, sức mạnh thời đại là đa dạng, chẳng bao hàm các nguồn lực vật chất như vốn, máy móc, thiết bị, vật tư, công nghệ cùng các kiến thức, kinh nghiệm quản lý, những giá trị văn hoá tinh thần,... của các dân tộc khác, của thời đại nói chung. Những nguồn lực thuộc về vốn, công nghệ,... là những cái mà chúng ta còn thiếu hoặc hạn chế. Bởi thế, tiếp nhận những nguồn ngoại lực này là điều cần thiết và dễ hiểu. Vấn đề là làm sao để tăng cường được sự tiếp nhận cũng như sử dụng được một cách hiệu quả những nguồn lực đó. Trong trường hợp này, chúng tôi muốn nói tới sự thông thoáng của chính sách đầu tư, hợp tác, liên kết, liên doanh; đồng thời cũng muốn nói tới năng lực cũng như trách nhiệm của những cá nhân và các cấp có thẩm quyền đối với vấn đề này. Những yếu kém cũng như tình trạng thiếu trách nhiệm trong lĩnh vực đầu tư, hợp tác quốc tế đã được phê phán trong nhiều năm qua; nhưng sự khắc phục dường như là quá chậm. "Hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư còn thấp, còn thất thoát, lãng phí"10. Những tụt hậu về kinh tế, công nghệ của chúng ta so với khu vực và so với yêu cầu của thời đại đang đòi hỏi phải có những biện pháp có tính triệt để hơn nữa nhằm thúc đẩy việc "cải thiện môi trường đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút mạnh các nguồn vốn quốc tế"11 và "khai thác hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa học - công nghệ, trình độ quản lí tiên tiến”12. Điều đó có nghĩa là cần tận dụng tối đa ngoại lực, sức mạnh thời đại phục vụ cho sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh những nguồn lực thuộc về lĩnh vực vật chất, thì những giá trị tinh thần mà nhân loại đạt được, những giá trị được coi là thành quả và yêu cầu của xã hội hiện đại nghĩa là những sức mạnh thời đại, cũng là nguồn ngoại lực cần thiết, quý giá mà chúng ta cần tiếp thu.

Trong số những giá trị mang tính quốc tế, thời đại, tinh thần sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật là có ý nghĩa cực kì quan trọng. Đây là giá trị gắn liền với kinh tế thị trường. Chính sự phát triển kinh tế thị trường đòi hỏi con người tôn trọng và hoạt động theo hiến pháp và pháp luật. Những ảnh hưởng của tâm lí và thói quen từ xã hội nông nghiệp truyền thống khiến cho ý thức pháp luật của xã hội ta hiện nay chưa đáp ứng được đòi hỏi của sự phát triển. Cũng như vậy, tính tích cực về mặt xã hội của công dân là một giá trị gắn liền với dân chủ. Dân chủ hoá xã hội tạo điều kiện cho công dân phát huy tính tích cực về mặt xã hội. Nhờ thế, cùng với những hoạt động sống mang tính cá nhân, con người đồng thời quan tâm đến trách nhiệm xã hội, tích cực tham gia vào các hoạt động mang tính cộng đồng. Ngược lại, tính tích cực về mặt xã hội của công dân được thực hiện thông qua những hoạt động mang tính cộng đồng, đặc biệt là các hoạt động chính trị (bầu cử, tham gia quản lí xã hội, giám sát, phản biện,...) không chỉ là biểu hiện mà còn là nhân tố để mở rộng và phát huy dân chủ. Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa đang là một trong những yêu cầu, một trong những phương diện được nhấn mạnh trong "Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020". Điều đó đòi hỏi nâng cao hơn nữa tính tích cực về mặt xã hội của công dân trong điều kiện hiện nay. Tính chuyên nghiệp trong hoạt động nghề nghiệp cũng là một trong những yêu cầu mang tính thời đại. Với sự phát triển của kinh tế thị trường và tiến bộ công nghệ, sự phân công lao động ngày một chuyên sâu đã dẫn đến sự đa dạng của các loại hình lao động nghĩa là các loại hình nghề nghiệp. Những yêu cầu của hoạt động nghề nghiệp trong điều kiện hiện đại đòi hỏi người lao động phải có sự phát triển tương ứng về trách nhiệm nghề nghiệp, trình độ chuyên môn, phong cách làm việc. Những phẩm chất đó tạo nên tính chuyên nghiệp và do đó tính hiệu quả của hoạt động. Dưới ảnh hưởng của lề lối làm ăn cũ cùng những yếu kém trong quản lí, sự thiếu gương mẫu của những người có trách nhiệm, tính thiếu chuyên nghiệp đang là một trong những hạn chế cần khắc phục trong hoạt động nghề nghiệp ở nước ta hiện nay. Cũng với sự phát triển của kinh tế thị trường và tiến bộ công nghệ, nhu cầu và khả năng khai thác tự nhiên phục vụ sản xuất và tiêu dùng đang vượt quá sức chịu đựng của tự nhiên. Cạn kiệt tài nguyên và biến đổi khí hậu đang tác động bất lợi đến sự phát triển của mọi quốc gia và trở thành vần đề toàn cầu. Bảo vệ môi trường là đòi hỏi của thời đại và do đó, ý thức sinh thái trở thành yêu cầu, trở thành sức mạnh mà chúng ta không thể xem nhẹ được.

Như vậy, tinh thần sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, tính tích cực về mặt xã hội của công dân, tính chuyên nghiệp của hoạt động nghề nghiệp, ý thức sinh thái, cùng nhiều giá trị khác nữa là những giá trị, những sức mạnh đặc trưng cho thời đại mà chúng ta còn yếu hoặc thiếu; và do đó, cần học tập, tiếp thu để bổ sung, làm phong phú Bảng giá trị tinh thần của xã hội Việt Nam - động lực, nguồn lực tinh thần của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.

3. Với tư cách là nguồn lực của phát triển, sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại là thống nhất. Tuy nhiên, việc huy động và kết hợp hai nguồn lực này trong thực tế là có một vấn đề mà nếu không giải quyết hợp lý thì hiệu quả sẽ không cao. Tuyệt đối hoá sức mạnh dân tộc, xem nhẹ sức mạnh thời đại hay ngược lại, tuyệt đối hoá sức mạnh thời đại, xem nhẹ sức mạnh dân tộc đều là cách nhìn nhận phiến diện và bất lợi cho phát triển.

Ngày nay, việc tuyệt đối hoá sức mạnh dân tộc thường được lí giải rằng, chỉ những nhân tố bên trong là trực tiếp quyết định sự phát triển của sự vật. Nếu quá chú ý đến sức mạnh thời đại có nghĩa là hạn chế việc phát huy các yếu tố nội lực; là lệ thuộc vào nước ngoài, là dẫn tới mất độc lập, mất bản sắc trong phát triển. Ngược lại, việc tuyệt đối hoá sức mạnh bên ngoài lại được biện minh bằng tính quy định của thời đại đối với phát triển. Những giá trị thời đại là những giá trị hình thành trong quá trình hiện đại hoá đã dẫn đến những thành công, đặc biệt là những thành công về kinh tế, công nghệ ở các nước phát triển. Chúng mang ý nghĩa phổ quát và đặc trưng cho thời đại. Hiện đại hoá xã hội, do vậy, không thể xem nhẹ tính quy luật này; không thể không coi trọng và tiếp nhận những nguồn lực, những giá trị mang tính quốc tế, tính thời đại. Nếu quá chú ý đến nội lực thì sẽ rơi vào bảo thủ, biệt lập, trì trệ, tụt hậu.

Từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa cái giai cấp, cái dân tộc và cái nhân loại phổ biến, có thể khẳng định rằng, giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại có mối quan hệ biện chứng. Trong quan hệ này, việc phát huy sức mạnh dân tộc là có ý nghĩa quyết định, là cơ sở để mở rộng và tăng cường việc tranh thủ một cách có hiệu quả sức mạnh thời đại, và ngược lại, việc tận dụng sức mạnh thời đại là nhân tố không thể thiếu để phát triển và khơi dậy tiềm năng, sức mạnh dân tộc.

Trong quá trình lãnh đạo Cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh không khi nào xem nhẹ ngoại lực, sức mạnh thời đại, nhưng Người luôn nêu cao tinh thần "tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính”. Dựa vào sức mình là chính đòi hỏi phải đẩy mạnh việc tạo dựng nội lực, phát huy sức mạnh dân tộc. Sức mạnh dân tộc bao gồm cả những nguồn lực tự nhiên, kinh tế, văn hoá, con người,... Do vậy, việc phát huy sức mạnh dân tộc đòi hỏi không chỉ đẩy mạnh tạo dựng, phát triển từng nguồn lực với tư cách là yếu tố cấu thành sức mạnh dân tộc, mà còn đòi hỏi kết hợp các yếu tố đó thành một hợp lực. Nói cách khác, yêu cầu phát huy sức mạnh dân tộc đòi hỏi phát triển đồng bộ các thành phần, các yếu tố của nội lực, sức mạnh dân tộc. Chủ động và tích cực xây dựng nội lực không chỉ có nghĩa là làm gia tăng bản thân nội lực, mà còn có nghĩa là tạo ra điều kiện để tiếp nhận ngoại lực. Hồ Chí Minh từng khẳng định rằng, muốn người ta giúp mình thì trước hết mình phải tự giúp mình đã. Phải đẩy mạnh xây dựng lực lượng bản thân mới tạo ra được "thế" và "lực" để tiếp nhận sự giúp đỡ từ bên ngoài. Hơn thế, từ bình diện chính trị có thể thấy, có xây dựng được nội lực, phát huy được sức mạnh dân tộc mới bảo đảm giữ vững được độc lập, tự chủ trên mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, an ninh,... Đại hội Đảng lần thứ XI khẳng định : "Trong bất kì hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ và nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế”13. Độc lập, tự chủ chính là yêu cầu sống còn, là bản sắc, lẽ sống của dân tộc ta.

Trong điều kiện hiện nay, những thành quả mà nhân loại đạt được trong thế giới hiện đại là những yếu tố vô cùng quan trọng đối với sự phát triển đất nước ta. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (2011) và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011- 2020 đã khẳng định rằng, mục tiêu của chúng ta là làm sao đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, đến giữa thế kỉ XXI trở thành nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu đó, một mặt, đòi hỏi phải hiện đại hoá các yếu tố nội lực, mặt khác, đòi hỏi phải chủ động tích cực tiếp như các yếu tố ngoại lực, hiện đại tiêu biểu cho thời đại. Vốn nước ngoài, công nghệ hiện đại cùng những giá trị văn hoá tinh thần gắn liền với công nghệ hiện đại là nguồn ngoại lực, sức mạnh thời đại cần thiết cho sự phát triển đất nước hiện nay. Các yếu tố ngoại lực đó chính là tác nhân quan trọng không thể thiếu để hiện đại hoá đất nước. Nhưng, như đã phân tích, những vấn đề ngoại lực chỉ có thể phát huy tác dụng khi được tiếp nhận và chuyển hóa thành sức mạnh bên trong, thành nội lực. Về vấn đề này, Hồ Chí Minh từng viết: "Các nước bạn giúp ta cũng như thêm vốn cho ta, ta khéo dùng cái vốn ấy để bồi bổ lực lượng của ta, phát triển khả năng của ta”14. Đó chính là biện chứng của quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại .

Như vậy, biện chứng của quan hệ giữa nội lực và ngoại lực, giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại dẫn đến yêu cầu là: tăng cường và phát huy những sức mạnh dân tộc cho phát triển, tạo cơ sở và điều kiện để tiếp nhận những sức mạnh của thời đại. Đồng thời chủ động và tích cực tiếp sức thời đại, dân tộc hoá chúng, biến chúng thành sức mạnh bên trong cho phát triển. Thực hiện đồng bộ và hiệu quả hai yêu cầu đó sẽ tạo ra hợp lực, sức mạnh tổng hợp cho sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

___________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.66.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.56.

3. Xem: http://vietbao.vn/xa-hoi/Nguon-nhan-luc-Viet-Nam-thua-ma-van-thieu/30158150/157/

4. Xem: http://nhantainhanluc.com/vn/644/3197/contents.sapx

5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.216.

6. Sđd, tr.240.

7. Sđd, tr.240.

8. V.I.Lênin, Toàn tập (Tiếng Việt), Nxb Tiến bộ, M.1978, t.38, tr.67.

9. Sđd, t.36, tr.684.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.166.

11. Sđd, tr.139.

12. Sđd, tr.236.

13. Sđd, tr.66.

14. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1966, tr.30.

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng

(ĐCSVN) - Ngày 10/10, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký Quyết định số 190-QĐ/TW về việc ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng.

Kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công

(ĐCSVN) - Bộ Chính trị vừa ban hành Quy định số 189-QĐ/TW ngày 08/10/2024 về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công.

Bộ Chính trị ban hành quy định phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong điều tra, xét xử

(ĐCSVN) – Ngày 27/10/2023, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 132-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Tập trung tuyên truyền những chủ đề lớn, trọng tâm từ nay đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng

(ĐCSVN) - Ban Tuyên giáo Trung ương yêu cầu thông tin chính xác, kịp thời với nhiều hình thức linh hoạt, sáng tạo, phong phú, sinh động gắn với tuyên truyền đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và tuyên truyền kỷ niệm các ngày lễ lớn, sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước trong năm 2024, 2025.

Quy trình kỷ luật đảng viên thuộc thẩm quyền của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư

(ĐCSVN) - Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường vừa ký Quyết định số 165-QĐ/TW ngày 6/6/2024 của Bộ Chính trị ban hành Quy trình xem xét, thi hành kỷ luật đối với tổ chức Đảng, đảng viên thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Liên kết website