Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề “tam nông” trong giai đoạn hiện nayThs. Trần Thanh Giang - Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị, ĐHQGHN

Nông nghiệp nông dân, nông thôn hay còn gọi là "tam nông" (theo cách nói tắt, phổ biến hiện nay) là vấn đề được Đảng Cộng sản Việt Nam rất quan tâm và coi trọng trong suốt quá trình lãnh đạo đất nước. Bởi lẽ, điểm xuất phát của Việt Nam đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân là lực lượng đông đảo, chiếm đa số trong xã hội. Bước vào thời kỳ đổi mới, sự đột phá về chính sách của Đảng cũng được khởi đầu thực hiện ở lĩnh vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (tháng 4/2006), Đảng ta nhấn mạnh: "Hiện nay và trong nhiều năm tới, vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng”. Hội nghị lần thứ Bảy, Ban Chấp hành Trung ương khóa X (tháng 8/2008), Đảng đã ra Nghị quyết chuyên về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, trong đó khẳng định: "Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước"1. Thực tiễn xây dựng, bảo vệ Tổ quốc cũng như quá trình đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong những năm qua đều khẳng định vị trí quan trọng của nông nghiệp, nông dân, nông thôn, đồng thời khẳng định nhận thức đúng đắn của Đảng ta về tầm chiến lược của vấn đề “tam nông”.

Nông nghiệp, nông dân, nông thôn là một vấn rất đề lớn, luôn mang tính thời sự nóng hổi đối với nước ta. Để giải quyết thành công "đại vấn đề" này, Đảng phải có quan điểm chỉ đạo đúng đắn và những giải pháp, lộ trình thực hiện phù hợp với từng giai đoạn cụ thể. Quan điểm chỉ đạo của Đảng đối với vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn thường xuyên được Đảng ta bổ sung, hoàn thiện dựa trên sự tổng kết thực tiễn tình hình nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở mỗi giai đoạn phát triển của đất nước. Chính vì vậy, việc quán triệt quan điểm của Đảng về vấn đề "tam nông" vào giải quyết các vấn đề thực tiễn của nông nghiệp, nông dân, nông thôn cũng là một nhiệm vụ thường xuyên đối với các cấp, các ngành, các địa phương, đội ngũ cán bộ quản lý có liên quan và chính bản thân nông dân.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng diễn ra vào đầu năm nay (tháng 1/2011) đã thông qua nhiều văn kiện quan trọng, quyết định đối với sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước trong giai đoạn cách mạng mới. Lồng ghép trong các văn kiện đó, Đảng ta tiếp tục đưa ra những quan điểm chỉ đạo đối với vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Để góp phần nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết của Đảng đang được triển khai rộng khắp trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, dưới đây tác giả bài viết phân tích và làm rõ những nội dung quan điểm cơ bản của Đảng về vấn đề "tam nông" cần được quán triệt vận dụng vào giải quyết những vấn đề thực tiễn nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta trong giai đoạn hiện nay.

Đại hội XI của Đảng đã khẳng định và đánh giá cao những thành tựu trong phát triển kinh tế - xã hội nói chung, những kết quả đạt được của nông nghiệp, nông dân, nông thôn nói riêng, trong đó nhấn mạnh: "Sự phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là sản xuất lương thực đã đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Kinh tế nông thôn và đời sống nông dân được cải thiện hơn trước. Việc tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, đầu tư phát triển giống mới có năng suất, chất lượng cao, phát triển các cụm công nghiệp, làng nghề, tiểu thủ công nghiệp... đã có tác động tích cực đến việc sản xuất, tạo việc làm và xóa đói, giảm nghèo"2.

Đúng như sự nhận định của Đảng, những kết quả đạt được trong nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta là khá toàn diện và to lớn. Nhìn lại chặng đường 1/4 thế kỷ thực hiện đường lối đổi mới, từ chỗ đất nước đang khủng hoảng lương thực nghiêm trọng, hàng năm phải nhập hàng triệu tấn lương thực của nước ngoài, nhưng chỉ trong hơn một thập niên chúng ta đã vươn lên trở thành quốc gia xuất khẩu gạo đứng vào hàng thứ ba trên thế giới và xuất khẩu các mặt hàng nông sản nhiệt đới đứng hàng đầu thế giới. Năm 1989, lần đầu tiên sản lượng lương thực của Việt Nam vượt mức 20 triệu tấn, xuất khẩu 1,4 triệu tấn gạo, đạt kim ngạch 310 triệu USD. Năm 2007 sản lượng lương thực của nước ta đã là 39 triệu tấn, xuất khẩu gạo 4,5 triệu tấn gạo, đạt kim ngạch xuất khẩu 1,7 tỷ USD3. Năm 2010, tổng sản lượng lương thực của Việt Nam đạt 44,6 triệu tấn, tăng 1,27 triệu tấn và tăng 2,9% so với năm 20094; đạt kỷ lục về số lượng và giá trị xuất khẩu gạo với 6,88 triệu tấn kim ngạch xuất khẩu là 3,23 tỷ USD, tăng 15,4% về lượng, trên 21% về giá trị so cùng kỳ năm 20095.

Những thành tựu trong nông nghiệp, nông dân, nông thôn không chỉ góp phần quan trọng vào việc ổn định chính trị - xã hội nông thôn và nâng cao đời sống nông dân trên phạm vi cả nước, mà còn ngày càng tạo thêm những tiền đề vật chất cần thiết, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Gần 3 năm trước đây, nông nghiệp chính là một yếu tố quan trọng giúp nước ta đứng vững trước những tác động mạnh của cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực và thế giới.

Tuy nhiên, cùng với những thành tựu đạt được, nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta trong giai đoạn hiện nay cũng còn tồn tại nhiều hạn chế và yếu kém như Nghị quyết Trung ương bảy khóa X của Đảng đã nhận định: Nông nghiệp phát triển còn kém bền vững, thiếu quy hoạch; tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần, sức cạnh tranh thấp. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cách thức sản xuất trong nông nghiệp còn chậm, phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ phân tán, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển mạnh sản xuất hàng hóa. Nông thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn yếu kém, năng lực thích ứng, đối phó với thiên tai còn nhiều hạn chế, môi trường ngày càng ô nhiễm. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn còn thấp; chênh lệch giàu, nghèo giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng còn lớn, phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc; tỉ lệ hộ nghèo cao, nhất là vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng tiếp tục chỉ rõ: "chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa chậm”6; "Tình trạng thiếu việc làm còn cao"; "Đời sống của một bộ phận dân cư, nhất là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn. Xóa đói, giảm nghèo chưa bền vững, tình trạng tái nghèo cao. Khoảng cách chênh lệch giàu nghèo còn khá lớn và ngày càng doãng ra. Chất lượng công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe còn thấp, hệ thống y tế và chất lượng dịch vụ y tế chưa đáp ứng được yêu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số”7; "Hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển chậm, thiếu đồng bộ, đặc biệt đối với khu vực đồng bào dân tộc thiếu số"; "Trình độ phát triển giữa các vùng cách biệt lớn và có xu hướng mở rộng”8; Môi trường ở nhiều nơi đang bị ô nhiễm nặng; tài nguyên đất đai chưa được quản lý tốt, khai thác và sử dụng kém hiệu quả, chính sách đất đai có mặt chưa phù hợp"9.

Nguyên nhân của những hạn chế và yếu kém trong nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã được Đảng ta xác định từ Hội nghị lần thứ Bảy, Ban Chấp hành khóa X là do cả chủ quan và khách quan, trong đó chủ yếu là nguyên nhân chủ quản: "nhận thức về vị trí, vai trò của nông nghiệp, nông dân, nông thôn còn bất cập so với thực tiễn; chưa hình thành một cách có hệ thống các quan điểm lý luận về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn; cơ chế, chính sách phát triển các lĩnh vực này thiếu đồng bộ, thiếu tính đột phá; một số chủ trương, chính sách không hợp lý, thiếu tính khả thi những chậm được điều chỉnh, bổ sung kịp thời; đầu tư từ ngân sách nhà nước và các thành phần kinh tế vào nông nghiệp, nông dân, nông thôn còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; tổ chức chỉ đạo thực hiện và công tác quản lý nhà nước còn nhiều bất cập, yếu kém; vai trò của các cấp uỷ, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng trong việc triển khai các chủ trương, chính sách của và Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở nhiều nơi còn hạn chế” 10. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng cũng đã chỉ rõ những hạn chế, khuyết điểm chung trong phát triển kinh tế - xã hội trong 5 năm qua là có nguyên nhân khách quan, "nhưng trực tiếp và quyết định nhất vẫn là nguyên nhân chủ quan”; "Nhận thức trên nhiều vấn đề cụ thể của công cuộc đổi mới còn hạn chế, thiếu thống nhất”; "Năng lực, phẩm chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức còn bất cập"11.

Đứng trước những hạn chế và yếu kém, cũng như thời cơ và thách thức cho sự phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, cùng các vấn đề mang tính toàn cầu như biến đổi khí hậu, khan hiếm năng lượng, gia tăng nhu cầu về lương thực và thực phẩm trên thế giới đã đặt ra những yêu cầu mới đối với chiến lược nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta. Ngay từ Hội nghị Trung ương Đảng khóa X, Đảng ta đã xác định quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp nhằm phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong giai đoạn mới, trong đó có xác định mục tiêu phát triển đến năm 2020: phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng nông, lâm, thuỷ sản đạt 3,5 – 4%/năm; phát triển nông nghiệp kết hợp với phát triển công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề nông thôn, giải quyết cơ bản việc làm, nâng cao thu nhập của dân cư nông thôn gấp trên 2,5 lần so với hiện nay; lao động nông nghiệp còn khoảng 30% lao động xã hội, tỉ lệ lao động nông thôn qua đào tạo đạt trên 50%, số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới khoảng 50%; thực hiện có hiệu quả công cuộc xoá đói, giảm nghèo và nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn, ngăn chặn và xử lý tình trạng ô nhiễm môi trường? phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn; tạo điều kiện để nông dân tham gia đóng góp và hưởng lợi nhiều hơn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Để từng bước hiện thực hóa mục tiêu phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2020 được xác định tại Nghị quyết Trung ương Bảy khóa X Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đặt chỉ tiêu trong 5 năm (giai đoạn 2011- 2015): "Phấn đấu giá trị gia tăng nông nghiệp bình quân 5 năm đạt 2,6 - 3%/năm. Tỉ trọng lao động nông nghiệp năm 2015 chiếm 40 - 41% lao động xã hội. Thu nhập của người dân nông thôn tăng 1,8 - 2 lần so với năm 2010”.12 Quan điểm chỉ đạo thực hiện mục tiêu phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong giai đoạn này cũng được Nghị quyết Đại hội XI của Đảng xác định rõ. Chúng ta có thể nhận thức những quan điểm này trên những nội dung chính sau:

Thứ nhất: Phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả bền vững trên cơ sở phát huy những lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới gắn với giải quyết tốt các vấn đề nông dân, nông thôn

Trong điều kiện hiện nay, "phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững” theo quan điểm của Đảng cần được hiểu đó là nền sản xuất nông nghiệp hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh cao; đảm bảo vững chắc an ninh lương thực, thực phẩm quốc gia cả trước mắt và lâu dài; sản xuất một số sản phẩm nông nghiệp hàng hóa ứng dụng công nghệ cao, có năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng cao; đồng thời, phát triển nông nghiệp cũng tính tới những yếu tố bảo vệ môi trường và các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đảm bảo sự hài hòa về kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn.

Sản xuất các mặt hàng nông sản nhiệt đới từ trước tới nay vẫn là một thế mạnh của Việt Nam. Nghị quyết của Đảng chỉ rõ: "Khai thác lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới để phát triển sản xuất hàng hóa lớn với năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao”13. Theo đó, việc tổ chức và quản lý sản xuất nông nghiệp phải theo các quy hoạch, các chương trình, đề án được phê duyệt; tập trung phát triển vùng sản xuất hàng hóa cho từng cây, con, từng vùng, nhằm mục tiêu nâng tỷ trọng sản phẩm hàng hóa, nhất là hàng hóa xuất khẩu.

Muốn đẩy mạnh phát triển nông nghiệp toàn diện, hiện đại và sản xuất hàng hóa lớn, đất đai là yếu tố quyết định và quan trọng hàng đầu, do đó quan điểm của Đảng là "khuyến khích tập trung ruộng đất, phát triển trang trại, doanh nghiệp nông nghiệp phù hợp về quy mô và điều kiện của từng vùng”14; “Trên cơ sở tích tụ đất đai, đẩy mạnh cơ giới hoá, áp dụng công nghệ hiện đại (nhất là công nghệ sinh học); bố trí lại cơ cấu cây trồng, vật nuôi; phát triển kinh tế hộ, trang trại, tổ hợp tác, hợp tác xã nông nghiệp, vùng chuyên môn hoá, khu nông nghiệp công nghệ cao, các tổ hợp sản xuất lớn”15.

Trong sản xuất nông nghiệp toàn diện, lúa gạo là mặt hàng quan trọng đối với an ninh lương thực quốc gia và đem lại giá trị xuất khẩu cao, quan điểm của Đảng: "giữ vững diện tích đất trồng lúa theo quy hoạch”16; “Kiểm soát chặt chẽ việc chuyển đất nông nghiệp, nhất là đất trồng lúa sang sử dụng vào mục đích khác đi đôi với việc bảo đảm lợi ích của người trồng lúa và địa phương trồng lúa”17. Đối với các loại rau, màu, cây ăn quả, cây công nghiệp có lợi thế khác cũng cần mở rộng diện tích, áp dụng công nghệ cao để tăng năng suất, chất lượng. Đối với ngành chăn nuôi cần mở rộng theo phương thức công nghiệp, bán công nghiệp với công nghệ tiên tiến. Một yếu tố quan trọng khác đối với sản xuất nông nghiệp toàn diện, hiện đại và sản xuất hàng hóa lớn là sự hỗ trợ và đầu tư đối với nông nghiệp, Đảng ta xác định: "thực hiện gắn kết chặt chẽ nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà nước; phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ ở khu vực nông thôn; phát triển các hiệp hội nông dân; tiếp tục đổi mới, xây dựng mô hình tổ chức để phát triển kinh tế hợp tác phù hợp với cơ chế thị trường; phát triển các hình thức bảo hiểm phù hợp trong nông nghiệp; đẩy nhanh áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất”18.

Thứ hai: Xây dựng, phát huy vai trò của giai cấp nông dân, chủ thể của quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn

Trong toàn bộ quá trình phát triển nông nghiệp và nông thôn hiện nay, nông dân giữ vị trí là "chủ thể", đây là sự khẳng định đúng đắn, cần thiết nhằm khơi dậy và phát huy mọi tiềm năng của nông dân trong sự nghiệp xây dựng nông thôn mới trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; đồng thời nhằm bảo đảm những quyền lợi chính đáng của nông dân.

Vai trò chủ thể của nông dân trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn thể hiện ở chỗ: trực tiếp tham gia phát triển kinh tế, tổ chức sản xuất thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; chủ động và sáng tạo trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn; chủ thể tích cực tham gia vào quá trình xây dựng quy hoạch và thực hiện quy hoạch xây dựng nông thôn mới; xây dựng và gìn giữ đời sống văn hoá - xã hội, môi trường ở nông thôn; đảm bảo an ninh trật tự xã hội ở nông thôn, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở.

Để phát huy vai trò của nông dân hiện nay, Nghị quyết Đại hội XI của Đảng nêu rõ: "Nâng cao trình độ giác ngộ của giai cấp nông dân, tạo điều kiện để nông dân tham gia đóng góp và hưởng lợi nhiều hơn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hỗ trợ, khuyến khích nông dân học nghề, chuyển dịch cơ cấu lao động, tiếp nhận và áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi để nông dân chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ. Nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn; thực hiện có hiệu quả bền vững công cuộc xóa đói, giảm nghèo, làm giàu hợp pháp"19. Quan điểm đó của Đảng, thực sự là những giải pháp quan trọng để khơi dậy và phát huy vai trò chủ thể của người nông dân trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới ở nước ta.

Thứ ba: Xây dựng nông thôn mới theo hướng văn minh, giàu đẹp, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nông dân

Nhằm khắc phục những hạn chế và bất cập trong phát triển nông thôn nước ta hiện nay, Đảng ta xác định "xây dựng nông thôn mới theo hướng văn minh, giàu đẹp, đi đôi với nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nông dân”20. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng nêu rõ: "Quy hoạch phát triển nông thôn và phát triển đô thị và bố trí các điểm dân cư. Phát triển mạnh công nghiệp, dịch vụ và làng nghề gắn với bảo vệ môi trường”. Khi triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới, Đảng ta nhấn mạnh: đảm bảo sự phù hợp với đặc điểm từng vùng theo các bước đi cụ thể, vững chắc trong từng giai đoạn; giữ gìn và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của nông thôn Việt Nam; đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn; tạo môi trường thuận lợi để khai thác mọi khả năng đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn, nhất là đầu tư của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, thu hút nhiều lao động.

Mặt khác, xây dựng nông thôn mới văn minh, giàu đẹp phải gắn với việc không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nông dân. Trong giai đoạn hiện nay cần tập trung triển khai có hiệu quả chương trình đào tạo nghề cho 1 triệu lao động nông thôn mỗi năm; thực hiện tốt các chương trình hỗ trợ nhà ở cho người nghèo và các đối tượng chính sách, chương trình nhà ở cho đồng bào vùng bão, lũ; bố trí hợp lý dân cư, bảo đảm an toàn ở những vùng ngập lũ, sạt lở núi, ven sông, ven biển”21.

Như vậy, Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã đề cập đến cả 3 nội dung của vấn đề "tam nông”, đó là nông nghiệp - nông dân - nông thôn. Những quan điểm về vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng là sự khẳng định, bổ sung và tiếp tục phát triển chủ trương, đường lối lãnh đạo đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn được đặt ra từ Nghị quyết Trung ương Bảy khóa X của Đảng. Quán triệt sâu sắc và vận dụng hiệu quả những quan điểm chỉ đạo trên của Đảng là cơ sở vững chắc để nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta có những bước phát triển mới trong những năm tới đây.

_____________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr.151,152.

3. Báo Đầu tư, ngày 10/9/2008, Báo nông thôn ngày 19 và ngày 25/8/2008.

4. Http://www.baomoi.com/Nam-2010-Tong-san-luong-luong-thuc-co-hat-tang-29-so-voi-nam 2009/148/5449921.epi.

5. Http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&Newsld=125589.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd tr.17.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd tr.1168-169.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd tr.166.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd tr.93.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.

11.  Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd tr.179.

12. Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd tr.198.

13. Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd tr.113.

14. Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd tr.114.

15. Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd tr.195.

16. Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd tr.196.

17. Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd tr.114.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd tr.196.

19. Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd tr.241.

20. Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd tr.39.

21. Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd tr.197.

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Hướng dẫn kiểm tra, giám sát phục vụ đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng

(ĐCSVN) - Tại văn bản số 08-HD/UBKTTW ngày 18/11/2024, Ủy ban Kiểm tra Trung ương hướng dẫn công tác kiểm tra, giám sát phục vụ đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.

Phương án nghiên cứu sắp xếp, sáp nhập các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ

(ĐCSVN) - Theo phương án nghiên cứu sắp xếp, sáp nhập được Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Minh Hưng nêu tại Hội nghị toàn quốc sáng 1/12, sẽ tối thiểu giảm được 5 bộ, 2 cơ quan trực thuộc Chính phủ.

Phương án sáp nhập các ủy ban của Quốc hội và cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội

(ĐCSVN) - Sáng 1/12, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Minh Hưng thông báo chuyên đề về các nội dung chính, trọng tâm việc triển khai tổng kết Nghị quyết 18. Theo phương án định hướng được nêu sẽ giảm 4 ủy ban của Quốc hội và 1 cơ quan trực thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Phương án giảm 4 cơ quan Đảng, 25 ban cán sự đảng, 16 đảng đoàn trực thuộc Trung ương

(ĐCSVN) - Sáng 1/12, đồng chí Lê Minh Hưng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương đã trình bày các nội dung chính, trọng tâm việc triển khai tổng kết Nghị quyết 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII.

Quy trình kỷ luật đảng viên thuộc thẩm quyền của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư

(ĐCSVN) - Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường vừa ký Quyết định số 165-QĐ/TW ngày 6/6/2024 của Bộ Chính trị ban hành Quy trình xem xét, thi hành kỷ luật đối với tổ chức Đảng, đảng viên thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Liên kết website