Từ ngày 12 đến ngày 19 tháng 1 năm 2011, tại Hà Nội đã diễn ra Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại hội lần thứ XI của Đảng đã tổ chức thảo luận và thông qua nhiều nội dung quan trọng trong đó có chiến lược xây dựng và phát triển giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ mới, trong đó khẳng định: "Quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Phát huy vai trò của giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng, thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam"1. Có thể thấy, quan điểm trên đây của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Đại hội XI không chỉ là sự tiếp tục kiên trì khẳng định các quan điểm của các kỳ Đại hội, các Hội nghị Trung ương trước đó, đặc biệt là Nghị quyết số 20-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương khóa X về "Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", mà còn thể hiện của tư duy mới, sách lược mới trong xây dựng và phát triển giai cấp công nhân Việt Nam trong điều kiện mới. Tuy nhiên, nhìn từ thực thực trạng phát triển giai cấp công nhân Việt Nam những năm vừa qua cho thấy bên cạnh những thành tựu nhất định thì cũng còn bộc lộ rất nhiều hạn chế, trong đó nhìn tổng quát về số lượng, chất lượng đội ngũ còn chưa ngang tầm với vai trò là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là giai cấp đóng vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam như chúng ta kỳ vọng. Bài viết này muốn xuất phát từ việc đanh giá thực trạng, nguyên nhân để đi đến góp phần đề xuất một số giải pháp bước đầu nhằm xây dựng và phát triển giai cấp công nhân Việt Nam đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, xứng đáng là giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Trong suốt tiến trình lịch sử của cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn khẳng định: giai cấp công nhân luôn là động lực chính, là lực lượng lãnh đạo của cách mạng Việt Nam. Mặc dù là đội tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam những kể từ khi ra đời Đảng lại luôn chú trọng tới việc xây dựng và phát triển giai cấp công nhân và sự phát triển của giai cấp công nhân trong suốt tiến trình cách mạng đã qua càng không thể thiếu vai trò lãnh đạo của Đảng. Lịch sử xây dựng và trưởng thành của giai cấp công nhân Việt Nam trong các giai đoạn cách mạng đã qua, đặc biệt trong tiến trình đổi mới hiện nay đã chứng minh điều đó.
Ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, vừa mới lớn lên đã tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân quốc tế, nhanh chóng trở thành lực lượng chính trị tự giác thống nhất, được Chủ tịch Hồ Chí Minh giáo dục, đã sớm giác ngộ, mục tiêu, lý tưởng chân lý của thời đại: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân Việt Nam luôn luôn có tinh thần và bản chất cách mạng triệt để. Trong thời gian chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc trở đi, do ảnh hưởng sâu sắc của cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và sự truyền bá Chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân Việt Nam đã có bước chuyển biến sâu sắc về chất. Giai cấp công nhân đã từng bước giác ngộ về mình, về địa vị, vai trò của mình trong xã hội, trong cách mạng Việt Nam và ngày càng tiến tới sự tự giác. Sự ra đời của Công hội đỏ Bắc Kỳ (28/7/1929) và Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930) là mốc lịch sử đánh dấu bước phát triển mới về chất của giai cấp công nhân Việt Nam: từ sự tự phát lên sự tự giác.
Từ đây, giai cấp công nhân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu, lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân - đã không ngừng vươn lên và phát triển mọi mặt, từng bước giác ngộ và thực hiện hoá sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình. Và cũng từ đây giai cấp công nhân Việt Nam - thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam - bước lên vũ đài chính trị nắm quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Cao trào cách mạng năm 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh và cao trào cách mạng dân chủ 1936-1939 chứng tỏ sự trưởng thành nhanh chóng vượt bậc của giai cấp công nhân Việt Nam về mặt chính trị, về ý thức giai cấp, về tinh thần đoàn kết, tính kỷ luật trong đấu tranh cách mạng. Với thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945, không những mở ra một kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc, cho cách mạng thế giới mà còn là dấu mốc đưa giai cấp công nhân và nhân dân lao động từ địa vị của người dân mất nước, người lao động làm thuê lên địa vị người làm chủ của đất nước. Sự thành công của cuộc cách mạng Tháng Tám 1945 cũng chứng tỏ vai trò lãnh đạo không thế thay thế của giai cấp công nhân Việt Nam thông qua đội tiền phong của mình là Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cuộc cách mạng mới ở Việt Nam. Lịch sử cách mạng Việt Nam hiện đại đã trao cho giai cấp công nhân Việt Nam vai trò sứ mệnh lịch sử ấy và giai cấp công nhân Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử của mình trong giai đoạn cách mạng này. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất cách mạng nhất, luôn luôn đương đầu với bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cách mạng tiên phong và kinh nghiệm của phong trào vô sản quốc tế, giai cấp công nhân ta đã tỏ ra là người lãnh đạo xứng đáng nhất và đáng tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam”2.
Tuy nhiên, trong bối cảnh mới hiện nay gắn liền với quá trình đổi mới thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế, giai cấp công nhân Việt Nam đang có sự biến đổi to lớn cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu đội ngũ. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ Sáu (Khóa X) khẳng định: đội ngũ công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển "bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công và hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp"3; thuộc các doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, hay thuộc tư nhân, hợp tác đầu tư với nước ngoài. Họ hình thành giai cấp thống nhất đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam được vũ trang bằng Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đang lãnh đạo công cuộc đổi mới và phát triển đất nước.
Theo số liệu thống kê của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, tính đến hết năm 2010, tổng số công nhân nước ta ước tính có khoảng 12,6 triệu người4, bao gồm số công nhân đang làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế (doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp của tư nhân và tập thể, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài); số công nhân làm việc trong các hộ sản xuất kinh doanh cá thể (trong lĩnh vực công nghiệp hoặc có tính chất công nghiệp); số lao động Việt Nam đang làm việc theo hợp đồng ở nước ngoài (chủ yếu làm việc trong các doanh nghiệp); số lao động chân tay trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể.
Sau gần 30 năm đổi mới, giai cấp công nhân nước ta đã có những chuyển biến quan trọng, đang tiếp tục phát huy vai trò là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng; đóng góp trực tiếp to lớn vào sự phát triển của đất nước. Về mặt sản xuất, giai cấp công nhân là lực lượng cơ bản, chủ yếu, có vai trò to lớn trong nền kinh tế quốc dân. Mặc dù về số lượng giai cấp công nhân ở nước ta chiếm tỷ lệ không lớn trong tổng số dân cư (chiếm tỷ lệ 11% dân số và 21% lực lượng lao động xã hội) nhưng nắm giữ những cơ sở vật chất và các phương tiện sản xuất hiện đại nhất của xã hội, quyết định phương hướng phát triển chủ yếu của nền kinh tế. Giai cấp công nhân là lực lượng lao động đóng góp nhiều nhất vào ngân sách nhà nước. Hằng năm giai cấp công nhân "đóng góp hơn 60% tổng sản phẩm xã hội và 70% ngân sách nhà nước"5.
Tuy nhiên, trong điều kiện mới hiện nay bên cạnh những thành tựu thì giai cấp công nhân ở nước ta hiện nay còn bộc lộ những hạn chế, đó là:
- Sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng, cơ cấu và trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế, quốc tế. Có thống kê của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam năm 2009, trình độ chuyên môn của công nhân Việt Nam tại các doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế còn khá khiêm tốn, cụ thể: 57,08% lao động phổ thông, 26,97% là lao động có trình độ chuyên môn từ sơ cấp học nghề trở lên, 6,26% công nhân có trình độ trung cấp và 10,09% tỷ lệ công nhân có trình độ đại học, cao đẳng6. Còn theo số liệu thống kê từ cuộc điều tra khảo sát về "tiền lương thu nhập của người lao động trong các khu công nghiệp" do Viện Công nhân Công đoàn (thuộc Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam) tiến hành năm 2010 cho thấy trình độ chất lượng công nhân tại các khu công nghiệp trong cả nước vẫn còn rất hạn chế. Cụ thể theo điều tra, công nhân có 10,5% trình độ tiểu học; 43,7% trình độ, trung học cơ sở 45,5% có trình độ tiểu học phổ thông, đặc biệt vẫn còn 0,28% người lao động không biết chữ. Kết quả khảo sát cũng cho thấy, lao động của ta chủ yếu là lao động giản đơn chưa qua đào tạo nghề. Có tới 75% lao động chưa qua học nghề tại các cơ sở đào tạo ngoài doanh nghiệp, trong số này có khoảng 94% người được đào tạo ngắn hạn tại doanh nghiệp trước khi bắt đầu công việc của mình. Chỉ có 9,5% công nhân lao động kỹ thuật, 3,7% công nhân có trình độ trung cấp, 3% cao đẳng và 5,6% có trình độ đại học. Nếu tính chung số công nhân được đào tạo nghề (cả ở các cơ sở và doanh nghiệp) thì tỷ lệ công nhân lao động bậc cao là rất ít. Số công nhân bậc 4 chiếm 8,4% và bậc 6-7 chỉ chiếm 3,2%7.
Đặc biệt, hiện chúng ta còn thiếu nghiêm trọng các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề; tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động còn nhiều hạn chế; đa phần công nhân từ nông dân chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống, một bộ phận công nhân chậm thích nghi với cơ chế thị trường.
- Địa vị chính trị của giai cấp công nhân chưa thể hiện đầy đủ. Giai cấp công nhân còn hạn chế về phát huy vai trò nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị của công nhân không đồng đều; sự hiểu biết về chính sách, pháp luật còn nhiều hạn chế. Tỷ lệ đảng viên và cán bộ lãnh đạo xuất thân từ công nhân còn thấp. Một bộ phận công nhân chưa thiết tha phấn đấu vào Đảng và tham gia hoạt động trong các tổ chức chính trị - xã hội. Đặc biệt, tỷ lệ công nhân là đảng viên trong tổng số đảng viên của Đảng những năm gần đây đang giảm dần là một xu hướng rất đáng lo ngại. Do công tác phát triển Đảng trong công nhân chưa thực sự được quan tâm, nên ở khu vực kinh tế ngoài nhà nước, có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), tỉ lệ doanh nghiệp có tổ chức cơ sở Đảng rất thấp. Theo Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, hiện cả nước mới có 1,2% số doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có chi bộ đảng, với số đảng viên chỉ bằng 0,84% tổng số đảng viên của cả nước8. Đặc biệt, từ năm 2000 đến nay, tỉ lệ đảng viên là công nhân trong số đảng viên mới kết nạp chưa năm nào vượt quá 10%. Theo số liệu của Ban Tuyên giáo Trung ương (2008): Năm 2003, số người được kết nạp Đảng là công nhân trực tiếp sản xuất chiếm 7,69% tổng số được kết nạp Đảng (10.723/143.550); năm 2004, tỷ lệ này là 8,19 % (12.899/157.510); năm 2005 là 6,87% (11.646/169.461)9.
- Tuy trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đời sống của đội ngũ công nhân trong các thành phần ngày càng được cải thiện, những lợi ích của một bộ phận công nhân được hưởng chưa tương xứng với những thành tựu của công cuộc đổi mới và những đóng góp của chính mình; việc làm, đời sống vật chất và tinh thần của công nhân đang có nhiều khó khăn, bức xúc, đặc biệt là ở bộ phận công nhân lao động giản đơn tại các doanh nghiệp của tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Theo số liệu điều tra của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam năm 2008 cho thấy hiện ở nước ta còn có 14,7% công nhân trong tình trạng thường xuyên không có việc làm hoặc có việc làm nhưng không ổn định, 51,7% công nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, 35,6% công nhân trong các doanh nghiệp tư nhân phải đi thuê nhà ở trọ10. Đặc biệt, sự an toàn đối với người lao động chưa được bảo đảm. Theo số liệu thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, từ năm 2005-2010, cả nước đã xảy ra hàng chục nghìn vụ tai nạn lao động dẫn đến những thiệt hại rất lớn về người và vật chất. Riêng năm 2010, xảy ra 5.125 vụ tai nạn lao động, trong đó có 554 vụ tai nạn lao động chết người. Tổng số người bị nạn là 5.307 người, trong đó có 600 người chết, 1.260 người bị thương nặng. Tổng thiệt hại về vật chất lên tới 137,5 tỷ đồng; số ngày nghỉ do tai nạn lao động cũng lên đến 75.454 ngày11.
Theo guồng quay của nền kinh tế thị trường, người công nhân ngày càng chịu nhiều áp lực hơn. Công việc khiến họ không còn có thời gian để quan tâm nhiều tới đời sống tinh thần, chính trị xã hội. Nếu những công nhân trí thức làm quản lý, làm chủ doanh nghiệp có mức thu nhập cao có điều kiện để tiếp xúc với các phương tiện truyền thông, các dịch vụ giải trí thì những công nhân lao động phổ thông với mức lương thấp phải làm thêm mới đủ sống dường như không có điều kiện. Tại Việt Nam hiện nay theo số liệu thống kê, tỷ lệ công nhân tập trung đông nhất là ở Thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Một thực tế đặt ra là hầu hết họ là những công nhân từ các tỉnh lẻ lên làm thuê với mức lương thấp mà chi phí cho cuộc sống ở hai thành phố này rất đắt đỏ do lượng người tập trung đông. Với mức lương từ 1,5 đến 2 triệu đồng/tháng rất khó khăn trong việc duy trì một cuộc sống vật chất tối thiểu của mình.
Những hạn chế, yếu kém trên đây do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân do vai trò lãnh đạo của Đảng trong công tác xây dựng đội ngũ còn nhiều bất cập, thể hiện trên các phương diện sau:
Thứ nhất, trong những năm qua, mặc dù Đảng có chú trọng xây dựng giai cấp công nhân, nhưng quan tâm chưa đầy đủ, chưa ngang tầm với vị trí, vai trò của giai cấp công nhân trong thời kỳ mới . Mặc dù giai cấp công nhân luôn được coi là giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn khẳng định: Đảng là đội tiền phong của giai cấp công nhân nhưng trong thực tế từ trước khi có Đại hội VII của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị chưa có nghị quyết, chỉ thị chuyên đề về xây dựng giai cấp công nhân. Từ sau Đại hội VII, đặc biệt thực hiện triển khai Nghị quyết Đại hội X, lần đầu tiên Đảng ta đã ban hành được nghị quyết chuyên đề về giai cấp công nhân, nhưng việc triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng, đặc biệt việc triển khai thực hiện Nghị quyết hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa X "Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" trong thực tiễn hiện nay còn chậm, do còn thiếu cơ chế đồng bộ để thực hiện, hoặc do nhận thức của các cấp các ngành về các giải pháp thực hiện xây dựng giai cấp công nhân trong tình hình mới vẫn còn có sự khác nhau.
Thứ hai, sự lãnh đạo của một số cấp ủy Đảng địa phương chưa được quyết liệt sát sao; chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với người lao động chưa được thực hiện nghiêm túc; vai trò, trách nhiệm của tổ chức Công đoàn chưa được phát huy đầy đủ; sự phối kết hợp của cả hệ thống chính trị đối với việc xây dựng giai cấp công nhân, chăm lo đến đời sống chưa đạt hiệu quả cao; chưa thường xuyên quan tâm tổ chức các cuộc tiếp xúc, gặp gỡ và đối thoại trực tiếp giữa cán bộ của Đảng, Nhà nước với CNLĐ; ít có hình thức tôn vinh người lao động tiêu biểu, nhằm kịp thời động viên những người lao động trực tiếp làm ra của cải vật chất cho đất nước. Hệ thống cơ chế, chính sách đối với giai cấp công nhân chưa đồng bộ, có những chủ trương chính sách không còn phù hợp, nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung kịp thời, v.v...
Thứ ba, tình trạng người sử dụng lao động vi phạm pháp luật lao động vẫn còn diễn ra phổ biến nhưng chưa được xử lý nghiêm. Sự phân hoá giàu nghèo giữa đông đảo công nhân với một bộ phận cán bộ quản lý trong doanh nghiệp và một số giai tầng trong xã hội ngày càng tăng. Một số địa phương chỉ chú trọng đưa ra các cơ chế, chính sách ưu đãi kêu gọi đầu tư, mà chưa chú ý đúng mức đến sự phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, chăm lo đời sống, thu nhập, nhà ở, cải thiện môi trường sống, điều kiện lao động cho công nhân nên đã xảy ra nhiều vụ tranh chấp lao động, đình công, ngừng việc tập thể trong thời gian qua12.
Thứ tư, công tác đào tạo bồi dưỡng, nâng cao trình độ công nhân lao động, đào tạo cán bộ xuất thân từ công nhân ưu tú, công tác phát triển đảng trong công nhân lao động, nhất là trong công nhân lao động tại khu vực kinh tế ngoài nhà nước cũng chưa được quan tâm đứng mức. Nhận thức của các cấp ủy đảng ở một số địa phương về vai trò công nhân và các tổ chức Công đoàn Việt Nam chưa đầy đủ, trong khi bản thân một bộ phận không nhỏ người lao động còn có trình độ còn thấp, ý thức tổ chức kỷ luật còn hạn chế, quan hệ lao động còn có diễn biến phức tạp; việc thu hút, tập hợp người lao động tham gia các tổ chức chính trị - xã hội trong doanh nghiệp còn khó khăn, v.v...
Cố nhiên, để xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh, xứng đáng là giai cấp tiên phong trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, làm cơ sở xã hội, chỗ dựa vững chắc cho Đảng, Nhà nước và khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trên thực tế có rất nhiều giải pháp. Tuy nhiên trong phạm vi bài báo này, chúng tôi mạnh dạn đề xuất một số giải pháp cơ bản sau:
Một là, cần phải cụ thể hóa những quan điểm, chủ trương lớn của Đảng về giai cấp công nhân, nhanh chóng đưa Nghị quyết hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X "Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", đặc biệt là những quan điểm, những quyết sách của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng về "Quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động; đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”13 vào cuộc sống. Phải sử dụng tổng hợp các biện pháp thực sự đưa nghị quyết của Trung ương Đảng vào cuộc sống, phải làm cho giai cấp công nhân Việt Nam nói riêng và những người lao động Việt Nam nói chung cảm nhận được những thay đổi tích cực khi thực hiện Nghị quyết của Đảng trong đời sống thực tế.
Hai là, Đảng và Nhà nước sớm thể chế hoá những quan điểm, chủ trương lớn đã được thể hiện trong nghị quyết của Đảng thành cơ chế chính sách cụ thể, nhằm giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức xúc, cấp bách của giai cấp công nhân, tạo chuyển biến mạnh mẽ và rõ rệt trong việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người lao động tương xứng với những thành quả của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước và những đóng góp của giai cấp công nhân. Trước mắt, cần giải quyết những bức xúc hiện nay đối với công nhân như: Nhà ở, nhà trẻ tại các khu công nghiệp, tiền lương và thu nhập bảo hiểm xã hội, nơi sinh hoạt văn hoá, an toàn vệ sinh lao động và bảo vệ môi trường.
Ba là, quan tâm lãnh đạo sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật có liên quan trực tiếp tới người lao động và tổ chức Công đoàn, nhất là Bộ luật Lao động, Luật Công đoàn, Luật Bảo hiểm xã hội. Việc sửa đổi, bổ sung các luật trên vừa phải đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, vừa phải tạo điều kiện để tổ chức Công đoàn năng động, tự chủ và sáng tạo trong hoạt động, thực sự trở thành người đại diện tin cậy, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động - đối tượng yếu thế nhất trong quan hệ lao động. Tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật lao động, xử lý nghiêm những vi phạm pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền lợi người lao động, không vì thu hút đầu tư mà xem nhẹ người lao động, yếu tố có tính quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, nhằm xây dựng quan hệ lao động hài hoà, tiến bộ trong doanh nghiệp.
Thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng "Phát triển về số lượng, chất lượng và tổ chức nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và tay nghề, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước"14. Muốn vậy, cần triển khai một cách có hiệu quả chủ trương từng bước trí thức hoá giai cấp công nhân. Theo xu hướng mới hiện nay, chất lượng giai cấp công nhân có vai trò quyết định đến năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Vì vậy, cần đầu tư mạnh hơn cho đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề cho công nhân, đặc biệt là công nhân trẻ, công nhân xuất thân từ nông dân, công nhân nữ, nhằm phát triển về số lượng, nâng cao về chất lượng, hợp lý về cơ cấu. Tăng nhanh số lượng tỷ lệ công nhân là công nhân trí thức trong các doanh nghiệp có ngành nghề kinh doanh dịch vụ xã hội, dịch vụ công nghiệp, trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, v.v..
Bốn là, chỉ đạo kiểm tra các doanh nghiệp trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện quy chế dân chủ; tăng cường các hoạt động đối thoại, thương lượng giữa người sử dụng lao động và người lao động nhằm xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ. Các cấp chính quyền tăng cường công tác kiểm tra, hướng dẫn việc thực hiện quy chế dân chủ trong các doanh nghiệp. Tiến hành rà soát, bổ sung quy hoạch các khu, cụm công nghiệp thêm hướng gắn với phát triển các khu đô thị mới, trong đó chú trọng xây dựng nhà ở và các công trình phúc lợi thiết yếu phục vụ chăm sóc sức khỏe, nhu cầu sinh hoạt tinh thần cho công nhân và nhân dân. Trong từng doanh nghiệp phải có quy hoạch bố trí quỹ đất để xây dựng nơi sinh hoạt văn hóa cho công nhân.
Năm là, Đảng cần quan tâm bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, ý thức giai cấp, tinh thần dân tộc cho công nhân lao động, để họ luôn gắn bó với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, có ý chí vươn lên thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, tinh thần phấn đấu vươn lên trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế; xây dựng tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động, lương tâm nghề nghiệp. Muốn vậy, cần phải tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng với hoạt động của tổ chức Công đoàn trong công tác tuyên truyền, giáo dục công nhân lan rộng, đảm bảo định hướng thống nhất nội dung và nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục từ Trung ương đến cơ sở, nhằm tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng với công nhân và công đoàn. Nhà nước cần đầu tư và có chính sách ưu đãi đầu tư xây dựng thiết chế văn hóa và tổ chức hoạt động của các nhà văn hoá lao động, câu lạc bộ công nhân, hệ thống truyền thông đại chúng, tạo môi trường lành mạnh để xây dựng đời sống văn hóa trong công nhân lao động, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Sáu là, vấn đề cấp bách hiện nay là phải xem công tác xây dựng Đảng, củng cố các đoàn thể quần chúng là nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn đối với phong trào công nhân hiện nay. Để làm được điều này chúng ta phải thẳng thắn trả lời một câu hỏi lớn. Vì sao Đảng của giai cấp công nhân, Công đoàn của công nhân, Đoàn Thanh niên là tổ chức chính trị của tuổi trẻ công nhân, nhưng một bộ phận công nhân chưa thiết tha vào Đảng, vào Đoàn, chưa hoàn toàn xem công đoàn là tổ chức của họ. Thực tế cho thấy công tác xây dựng đảng và tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên chưa theo kịp yêu cầu phát triển của sự nghiệp đổi mới. Một mặt do áp lực của những điều kiện khách quan, mặt khác bản thân các tổ chức đảng, công đoàn cũng bộc lộ những bất cập yếu kém, tự thân không theo kịp yêu cầu của sự phát triển, nhưng không có những chấn chỉnh kịp thời. Đã đến lúc không chỉ dừng lại ở những chỉ thị, nghị quyết mà nên có những văn bản pháp luật thể chế rõ chỉ thị nghị quyết thành những quy định cụ thể. Đảng ta là Đảng cầm quyền, hoạt động của các tổ chức đảng, công đoàn, đoàn thanh niên phải được hình thành trong từng doanh nghiệp bất kỳ thuộc thành phần kinh tế nào. Tuy nhiên hoạt động của các tổ chức trên đây phải góp phần làm cho doanh nghiệp phát triển, sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao. Đời sống vật chất, tinh thần và các quyền lợi khác của người công nhân phải được bảo đảm tốt hơn. Các chủ trương đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước phải được thực thi và chấp hành nghiêm túc15.
Với niềm tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng cũng như thành công của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI chúng ta tin tưởng rằng với việc quán triệt vận dụng thành công những quan điểm cơ bản của Đảng xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ cách mạng mới sẽ cho phép chúng ta nhìn thấy giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, xứng đáng là giai cấp lãnh đạo cách mạng và là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá và hội nhập quốc tế.
____________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, trang 240-241.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội – 2000, Tập 10, tr.9.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành trung ương khóa X. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008, tr. 23.
4. Đặng Ngọc Tùng: Báo cáo tổng hợp đề tài: “Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020” (chương trình KX.04.06/10), Hà Nội, tr.47.
5. Dẫn theo bài viết: “Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam vững mạnh: Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách”, Nguồn tài liệu đã dẫn.
6. Đặng Ngọc Tùng: Báo cáo tổng hợp đề tài: “Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020” (chương trình KX.04.06/10), Hà Nội, tr.147.
7. Xem thêm tác giả Lục Bình: “Tìm lời giải nâng cao chất lượng giai cấp công nhan” (http://daidoanket.vn, ngày 20/5/2011).
8. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, năm 2011.
9. Xem thêm: Ban Tuyên giáo Trung ương: Tài liệu nghiên cứu các nghị quyết Nghị quyết Trung ương 6, Khóa X. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.24-25.
10. Ban Tuyên giáo Trung ương: Tài liệu nghiên cứu các nghị quyết Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6, Khóa X, Sđd, tr.25.
11. Dẫn theo: http://dantri.com.vn, ngày 28/02/2011.
12. Số liệu thống kê của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam năm 2011 cho thấy trong giai đoạn 2009-2010, có 3.620 vụ đình công trong khắp nước. Riêng trong quý đầu năm 2011 này cũng đã xảy ra 220 cuộc đình công.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, trang 49.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, trang 118.
15. Xem thêm Trương Giang Long: Giai cấp công nhân Việt Nam – thực trạng và suy ngẫm. Tạp chí Cộng sản số 23 (143) năm 2007.