Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát tổ chức đảng và đảng viên(tiếp theo)

Thứ ba, đổi mới và tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát của các cấp ủy đảng. Trong lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát, các cấp ủy cần quan tâm và coi trọng việc nghiên cứu lý luận và tổng kết phương pháp lãnh đạo đối với công tác kiểm tra, giám sát nhất là công tác giám sát, vì đây là vấn đề mới vừa được, quy định trong Điều lệ Đảng, tiếp tục tổ chức tốt việc quán triệt, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của toàn Đảng về vị trí, vai trò tầm quan trọng, hiệu quả của công tác kiểm tra, giám sát trong xây dựng Đảng và trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 

Lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát là nhiệm vụ thường xuyên, trực tiếp của các cấp ủy đảng. Cần đổi mới phương pháp lãnh đạo của các cấp ủy đảng từ khâu xây dựng, ban hành đến việc lãnh đạo tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quy định về công tác kiểm tra, giám sát và thực hiện tốt dân chủ trong nội bộ Đảng. Hiện nay, sự lãnh đạo của cấp ủy về công tác kiểm tra, giám sát cần tập trung vào đổi mới phương thức lãnh đạo đổi với các nội dung chủ yếu là: Triển khai, quán triệt Điều lệ Đảng, các quy định của Trung ương, của cấp ủy cấp trên và của cấp mình cho các tổ chức đảng, đảng viên trong toàn đảng bộ về công tác kiểm tra, giám sát; Xây dựng phương hướng, nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch, quy chế, quy trình kiểm tra, giám sát của đảng bộ và cấp ủy cấp mình trong nhiệm kỳ, đồng thời phân công, tổ chức lực lượng thực hiện chương trình, kế hoạch, quy chế đó nhằm bảo đảm quyền kiểm tra, giám sát của tập thể đối với cá nhân, của tổ chức đối với tổ chức, của cá nhân đối với cá nhân và tổ chức, kể cả đối với người lãnh đạo chủ chốt và tổ chức cấp trên nhằm mở rộng dân chủ trong Đảng; lãnh đạo và chỉ đạo ủy ban kiểm tra cùng với các ban của cấp ủy các cơ quan nhà nước có liên quan trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện các quy chế phối hợp thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo quy định của Điều lệ Đảng và quy định, hướng dẫn của Trung ương Đảng; lãnh đạo, chỉ đạo kiện toàn tổ chức, tăng cường cán bộ có năng lực, cải thiện điều kiện, phương tiện làm việc cho ủy ban kiểm tra của cấp ủy nhằm tạo thuận lợi nhất cho ủy ban kiếm tra hoạt động đúng Điều lệ Đảng và tham mưu tốt đối với cấp ủy về công tác kiểm tra, giám sát. 

Trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, các cấp ủy cần xây dựng và thực hiện chương trình, kế hoạch và quy trình kiểm tra, giám sát đối với từng nhiệm vụ, nội dung và đối tượng cụ thể, nhằm đưa hoạt động kiểm tra, giám sát của cấp ủy vào nền nếp, thành chế độ, coi đó là nhiệm vụ tự nhiên, là nhu cầu không thể thiếu đối với mỗi cấp ủy. Đích thân người đứng đầu các cấp ủy cần trực tiếp thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát; không được “khoán trắng” cho ủy ban kiếm tra. Việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của các cấp ủy có nội dung và phạm vi rất rộng, trên tất cả các lĩnh vực, nhưng hiện nay cần tập trung vào kiểm tra, giám sát các tổ chức đảng và đảng viên chấp hành Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, của cấp ủy, nhất là về lĩnh vực kinh tế, các dự án và công trình trọng điểm sử dụng ngân sách lớn; công tác cán bộ; xây dựng Đảng; phẩm chất, đạo đức và lối sống của cán bộ, đảng viên, làm cho quá trình tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, của cấp ủy đều được kiểm tra, giám sát với hình thức, phương pháp, cơ chế và chế tài thích hợp. 

Cần đưa lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của cấp ủy thành một trong những tiêu chí đánh giá phân loại cấp ủy và cấp ủy viên hằng năm. 

Thứ tư, đổi mới công tác kiểm tra đồng thời với xây dựng cơ chế giám sát của ủy ban kiểm tra các cấp. Đại hội X đã bổ sung chức năng giám sát cho ủy ban kiểm tra các cấp. Hiện nay ủy ban kiểm tra các cấp có chức năng tham mưu cho cấp ủy về công tác kiểm tra, giám sát, thực hiện nhiệm vụ cụ thể do cấp ủy giao; và chức năng vừa kiểm tra, vừa giám sát theo Điều lệ Đảng. Như vậy, nhiệm vụ của ủy ban kiểm tra các cấp rất nặng, khó khăn và phức tạp, nhất là nhiệm vụ: “Giám sát cấp ủy viên cùng cấp, cán bộ diện cấp ủy cùng cấp quản lý và tổ chức đảng cấp dưới về việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, nghị quyết của cấp ủy và đạo đức, lối sống theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương”. Để Ủy ban kiểm tra các cấp thực hiện có chất lượng, hiệu quả nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của mình, cần tăng thẩm quyền và trách nhiệm của ủy ban kiểm tra các cấp; củng cố, kiện toàn cơ quan giúp việc ủy ban kiểm tra; nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ kiểm tra, giám sát, bảo đảm công tâm trong sạch, đủ năng lực, kể cả năng lực kiểm tra, giám sát việc chấp hành đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đây là nhân tố có tính quyết định trực tiếp đến nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát;... Cần nhận thức và phân biệt rằng công tác kiểm tra, giám sát của ủy ban kiểm tra các cấp chi là bộ phận cấu thành quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát đảng. Vì vậy, trong quá trình hoạt động, ủy ban kiểm tra các cấp phải nắm vững chức năng, nhiệm vụ của mình được giới hạn trong Điều lệ Đảng để thực hiện đúng thẩm quyền và trách nhiệm của mình; đồng thời chủ động tranh thủ sự lãnh đạo của cấp ủy, sự chỉ đạo của ủy ban kiểm tra cấp trên để tạo sự đồng thuận và ủng hộ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình. Trong tình hình hiện nay, ủy ban kiểm tra các cấp cần tập trung vào thực hiện nhiệm vụ kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, nhiệm vụ cấp ủy giao và nhiệm vụ giám. Kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm là nhiệm vụ trọng tâm của ủy ban kiểm tra các cấp đã thực hiện hơn mười năm (từ nhiệm kỳ Đại hội VIII), nhưng nhiều khuyết điểm, sai phạm của tổ chức đảng và đảng viên chậm được khắc phục và phát hiện; chưa chủ động phát hiện dấu hiệu vị phạm để ngăn chặn kịp thời...Ủy ban kiểm tra các cấp cần phải tổng kết thực tiễn dưới hình thức chuyên đề về những dấu hiệu vị phạm thường gặp ở cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng trong một số lĩnh vực trọng điểm, ngành đặc thù, từ đó rút ra những nguyên nhân, bài học kinh nghiệm để phổ biến rộng rãi... Đối với nhiệm vụ giám sát của ủy ban kiểm tra các cấp, đây là nhiệm vụ mới. Do đó, cần xác định rõ phạm vi, đối tượng, nội dung, thẩm quyền giám sát của ủy ban là kiểm tra. Chú trọng việc xây dựng quy chế, hình thức và phương pháp giám sát là cụ thể đối với từng đối tượng, từng nội dung; tổ chức lực lượng và phân công cán bộ thực hiện nhiệm vụ giám sát, trong đó quy định rõ quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của cán bộ giám sát. Cán bộ giám sát phải thấm nhuần tư tưởng chỉ đạo và phương pháp cơ bản của công tác kiểm tra, giám sát, biết vận dụng vào thực tiễn, đồng thời phải có kiến thức nhất định và nắm chắc các quy định của Đảng, của các cấp ủy và Nhà nước để đối chiếu so sánh thì mới phát hiện được đảng viên, tổ chức đảng có thực hiện đúng những quy định hiện hành hay không. Trong quá trình giám sát cần phối hợp chặt chẽ với giám sát của các cơ quan chức năng nhà nước và giám sát của nhân dân. 

Thứ năm, phải thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ và các phương pháp cơ bản của công tác kiểm tra, giám sát đảng. Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Đảng và cũng là nguyên tắc xuyến suốt trong toàn bộ hoạt động kiểm tra, giám sát đảng. Chỉ khi nào công tác kiểm tra, giám sát chấp hành, nghiêm chỉnh và thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ thì một mặt hiệu quả thiết thực, không bị chệch hướng, không bị chi phối bởi sự độc đoán cá nhân hoặc bị sức ép của dân chủ cực đoan, vô chính phủ... Kiểm tra, giám sát đảng là công tác đảng, là sinh hoạt nội bô Đảng, được tiến hành trong hệ thống tổ chức đảng, nên có đặc thù cơ bản: đối tượng kiểm tra, giám sát là tổ chức đảng, đảng viên khi được kiểm tra, giám sát thì vừa là đối tượng vừa là chủ thể. Chính đặc thù này quyết định bản chất, phương thức hoạt động và phương pháp cơ bản của công tác kiểm tra, giám sát đảng, đó là: dựa vào tổ chức đảng; phát huy tinh thần tự giác tự phê bình và phê bình của tổ chức đảng, đảng viên; phát huy trách nhiệm xây dựng Đảng của nhân dân thực hiện tốt việc thẩm tra, xác minh; kết hợp chặt chẽ công tác kiểm tra, giám sát đảng với công tác thanh tra nhà nước, thanh tra nhân dân, công tác kiểm tra, giám sát của các đoàn thể chính trị - xã hội, nghề nghiệp và phối hợp các ban ngành liên quan. Đây là các phương pháp cơ bản của công tác kiểm tra, giám sát đảng đã được đúc kết qua nhiều nhiệm kỳ hoạt động và mang lại hiệu quả thiết thực. Vì vậy, trong quá trình tiến hành hoạt động kiểm tra, giám sát có thể sử dụng linh hoạt các phương pháp đối với từng đối tượng cụ thể, nhưng không được xa rời các phương pháp cơ bản đó. 

Công tác kiểm tra, giám sát đảng phái được tiến hành công khai, dân chủ, tập thể và có lãnh đạo, chỉ đạo không một cá nhân nào dù giữ bất cứ cương vị công tác nào, được quyền đứng ngoài hoặc đứng trên tổ chức đảng để áp đặt kiểm tra, giám sát; không được dung biện pháp bí mật điều tra trong Đảng, càng không được dùng thủ đoạn đối với tổ chức đảng, đảng viên đang là đối tượng kiểm tra, giám sát. Bởi phương pháp tiến hành công tác kiếm tra, giám sát đảng khác về bản chất với các phương pháp hoạt động thanh tra nhà nước và phương pháp điều tra của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Nhưng trong tình hình hiện nay, khi còn một số tổ chức đảng giám sút tính chiến đấu, nhiều đảng viên kém tự giác, nhiều lúc và nhiều nơi phê bình và tự phê bình chỉ còn là hình thức thức cần chú trọng đến việc phối hợp với các cơ quan thanh tra, điều tra, nhất là trong các vụ việc nôi cộm. 

Thứ sáu phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong công tác kiểm tra, giám sát đảng, đặc biệt là giám sát của nhân dân đối với tổ chức đảng đảng viên; kết hợp chặt chẽ giám sát trong Đảng với giám sát của Nhà nước và giám sát của nhân dân; coi trọng việc xây dựng hệ thống phản biện xã hội đối với hoạt động lãnh đạo của Đảng. Trong điều kiện Đảng ta là đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội thì việc phản biện xã hội của mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định, lớn của Đảng và việc tổ chức thực hiện, kể cả đối với công tác tổ chức và cán bộ, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Thông qua hệ thống phản biện xã hội chính thống mà Đảng mới biết được đường lối, chủ trương, chính sách của mình có đúng, có phù hợp và khả thi hay không; đây còn là một trong những điều kiện cơ bản để mở rộng dân chủ trong xã hội. Muốn vậy, Đảng phải có quy chế cụ thể và biết lắng nghe ý kiến phản biện, dù đó là ý kiến trái chiều. Qua phản biện xã hội để điều chỉnh chính sách, đổi mới phương thức lãnh đạo cho phù hợp với thực tiễn và các quy luật khách quan của tự nhiên, chính trị, kinh tế và xã hội trên cơ sở giữ vững các nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và nguyên tắc của Đảng. Muốn có ý kiến chính xác thì các thành viên trong hệ thống phản biện phải tăng cường giám sát, kiểm tra để nắm thật chắc tình hình thực tế. Bất kỳ một chế độ chính trị nào cũng chỉ tồn tại và phát triển vững bền khi nó có khả năng tập hợp, đoàn kết được quảng đại quần chúng nhân dân. Vì thế, khi nhân dân thật sự giám sát được tổ chức đảng và đảng viên sẽ chính là giúp cho Đảng củng cố được mối liên hệ mật thiết với nhân dân. Lênin đã chỉ rõ: Một trong những nguy cơ lớn nhất và đáng sợ nhất đối với một đảng cầm quyền là đảng bị cắt đứt mối liên hệ với quần chúng nhân dân và Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng căn dặn: cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng cũng như đứng lơ lửng giữa trời nhất định thất bại. Nếu Đảng xa dân, tách khỏi dân thì Đảng không thể tồn tại, Đảng không có dân thì cũng như cá không có nước đảng viên khó trở thành “người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”; tổ chức đảng và đảng viên dễ trở nên quan liêu, biến sứ mệnh cầm quyền cao cả của Đảng thành đảng lạm quyền, lộng quyền”, thậm chí còn dẫn đến thoái hóa biến chất. Nhận thức rõ vai trò của nhân dân trong lịch sử nói chung và trong xây dựng Đảng nói riêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã có nhiều chỉ thị kêu gọi nhân dân tích cực tham gia xây dựng và giám sát Đảng, nhưng trên thực tế hiện nay nhân dân chưa thật sự giám sát được tổ chức đảng và đảng viên. 

Điều lệ Đảng khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng”. Muốn thực sự đưa quan điểm này vào cuộc sống và hoạt động của Đảng nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả giám sát của nhân dân đối với tổ chức đảng đảng viên, trước hết, toàn Đảng phải nhận thức đầy đủ, đúng đắn mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với dân, để nhân dân bày tỏ ý kiến đối với những quyết định lớn, tham gia các công việc của Đảng và tự giác “chịu giám sát của nhân dân”. Hai là, đồng thời với xây dựng và ban hành quy chế nhân dân giám sát tổ chức đảng và đảng viên phải công khai hóa những việc tổ chức đảng, đảng viên phải thực hiện và những việc tổ chức đảng, đảng viên không được làm để nhân dân làm căn cứ đối chiếu khi thực hiện giám sát. Giám sát tổ chức đảng, đảng viên vừa là quyền không thể thiếu của công dân, vừa là nghĩa vụ, trách nhiệm vẻ vang của nhân dân đối với Đảng. Nhân dân giám sát tổ chức đảng, đảng viên là một nội dung về quyền làm chủ của nhân dân nhằm xây mạnh và từ đó bảo vệ lợi ích thiết thân, chính đáng, hợp pháp của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Quy chế nhân dân giám sát tổ chức đảng, đảng viên cần xác định rõ mục đích, đối tượng, nội dung, phương pháp. trách nhiệm và thẩm quyền giám sát. Về nội dung giám sát: cần tập trung giám sát đạo đức, lối sống của đảng viên, người thân và giám sát việc thực hiện chức trách nhiệm vụ của tổ chức đảng, đảng viên, nhưng cần phân biệt rõ giám sát của nhân dân với giám sát của các tổ chức đảng, cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp, với giám sát của các cơ quan nhà nước; về phương pháp giám sát của nhân dân cần coi trọng giám sát trực tiếp và giám sát từ dưới lên. Thông qua thực hiên quy chế dân chủ ở cơ sỏ, ở tổ dân cư để nhân dân giám sát trực tiếp hoặc phản ánh cho tổ chức đảng có thâm quyền về những biểu hiện không đúng của tổ chức đảng, đảng viên. Quy định rõ trách nhiệm, thái độ của tổ chức đảng, đảng viên khi được nhân dân giám sát; trách nhiệm và thái độ của các tổ chức đảng, cấp ủy đối với quy chế nhân dân giám sát tổ chức đảng, đảng viên. Có biện pháp kiên quyết bảo vệ nhân dân thực hiện quyền giám sát, nhất là bảo vệ những người trung thực, thẳng thắn, dám phát hiện và phản ánh những hành vi tiêu cực và suy thoái của tổ chức đảng, đảng viên. Kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm minh những tổ chức đảng, cơ quan hoặc đảng viên có hành vi cản trở, đối phó sự giám sát của nhận dân đặc biệt cần nghiêm trị những tổ chức, cá nhân có hành vi trù dập, trả thù, kể cả nghiêm trị những tổ chức, cá nhân làm chỗ dựa hoặc bao che, dung túng cho các phần tử cố tình chống lại quyền giám sát của nhân dân. Thái độ của nhân dân cũng phải khách quan, công tâm, trung thực, thấy tổ chức đảng, đảng viên làm tốt thực hiện đúng các quy định thì phải nói tốt, động viên, khích lệ để làm tốt hơn; thấy việc làm không đúng hoặc sai phạm thì góp ý một cách chân thành có bằng chứng rõ ràng: không được vì lợi ích cá nhân, cục bộ hoặc bị kích động mà phản ánh sai sự thật hoặc lợi dụng việc giám sát để đả kích, nói xấu tổ chức đảng, đảng viên. 

Công tác kiểm tra, giám sát luôn mang tính thời sự, nhưng trong bối cảnh hiện nay khi mà tình trạng suy thoái phẩm chất, đạo đức lối sống, quan liêu, tham nhũng ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng; sức chiến đấu của một số tổ chức đảng giảm sút,... thì việc nâng cao chất lượng hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát càng đòi hỏi cấp bách và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc thực hiện phương hướng và mục tiêu tổng quát của công tác xây dựng Đảng là: “tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng, tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng trong sáng, có tầm trí tuệ cao, có phương thức lãnh đạo khoa học, luôn gắn bó với nhân dân, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đáy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”. 

GS,TS Nguyễn Thị Đan, Uỷ viên trung ương Đảng, Phó chủ nhiệm UBKTTW

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng

(ĐCSVN) - Ngày 10/10, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký Quyết định số 190-QĐ/TW về việc ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng.

Kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công

(ĐCSVN) - Bộ Chính trị vừa ban hành Quy định số 189-QĐ/TW ngày 08/10/2024 về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công.

Bộ Chính trị ban hành quy định phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong điều tra, xét xử

(ĐCSVN) – Ngày 27/10/2023, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 132-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Tập trung tuyên truyền những chủ đề lớn, trọng tâm từ nay đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng

(ĐCSVN) - Ban Tuyên giáo Trung ương yêu cầu thông tin chính xác, kịp thời với nhiều hình thức linh hoạt, sáng tạo, phong phú, sinh động gắn với tuyên truyền đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và tuyên truyền kỷ niệm các ngày lễ lớn, sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước trong năm 2024, 2025.

Quy trình kỷ luật đảng viên thuộc thẩm quyền của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư

(ĐCSVN) - Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường vừa ký Quyết định số 165-QĐ/TW ngày 6/6/2024 của Bộ Chính trị ban hành Quy trình xem xét, thi hành kỷ luật đối với tổ chức Đảng, đảng viên thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Liên kết website