Một trong những nội dung quan trọng của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương (BCHTƯ) Đảng lần thứ sáu (khoá X) là vấn đề tổ chức cơ sở đảng (TCCSĐ), cán bộ, đảng viên ở cơ sở. Đồng chí Nguyễn Đông Sương, Phó trưởng Ban Tổ chức Trung ương, Thường trực Ban Chỉ đạo, Tổ trưởng tổ biên tập xây dựng Đề án trình Hội nghị Trung ương về “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ sở” đã trả lời phóng viên báo chí về chủ đề này.
Xin Đồng chí cho biết những công việc Ban Chỉ đạo đã chuẩn bị để trình Hội nghị Trung ương?
Đây là công việc đã có trong Chương trình toàn khoá của BCHTƯ (khoá X). Từ ngày 18-5-2007, Ban Bí thư đã có quyết định thành lập Ban Chỉ đạo xây dựng Đề án. Từ đó đến nay, Ban Chỉ đạo đã có các bước tiến hành cụ thể như sau:
Hệ thống lại những việc đã làm, những nghị quyết đã có, tình hình trong toàn Đảng liên quan đến TCCSĐ và đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ sở. Đã phân công 5 đoàn công tác đi nghiên cứu, khảo sát ở 96 TCCSĐ, 25 cấp uỷ cấp trên trực tiếp cơ sở và 19 ban thường vụ tỉnh, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc Trung ương.
Đã xây dựng đề cương tổng quát, đề cương chi tiết của Đề án, dự thảo Đề án và Tờ trình, lấy ý kiến các cơ quan Trung ương và cấp uỷ địa phương, các đồng chí lãnh đạo, các nhà nghiên cứu, chuyên gia và đưa ra hội nghị cán bộ tổ chức toàn quốc, tổ chức hội thảo ở hai miền để tiếp tục đóng góp vào dự thảo Đề án.
Đánh giá của Dự thảo Đề án về tình hình của TCCSĐ, đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay?
Đây là vấn đề rất lớn và rất rộng, còn phải có sự đánh giá của BCHTƯ. Nhưng với trách nhiệm là thành viên Ban Chỉ đạo, tôi xin nêu những vấn đề mà Ban Chỉ đạo đã có ý kiến: Trong những năm qua, số lượng TCCSĐ và đảng viên tăng nhanh và có những thay đổi đáng kể. Hiện nay, toàn Đảng có trên 52.000 TCCSĐ gồm nhiều loại hình khác nhau với trên 3,2 triệu đảng viên. Do đặc điểm và chức năng, nhiệm vụ không giống nhau nên vai trò lãnh đạo và chất lượng hoạt động của từng loại hình TCCSĐ cũng khác nhau.
TCCSĐ trong lực lượng vũ trang: Có mô hình tổ chức cơ bản thống nhất, phù hợp; thực hiện nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với lực lượng vũ trang. Các TCCSĐ trong Quân đội thực hiện cơ chế chính uỷ, chính trị viên làm bí thư; các TCCSĐ trong Công an nhân dân thực hiện cơ chế thủ trưởng đơn vị kiêm bí thư. Do đó, vị trí hạt nhân chính trị và vai trò lãnh đạo của TCCSĐ trong các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang được thể hiện rõ nét. Tuy nhiên, một số cấp ủy cơ sở chưa làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng và quản lý cán bộ, đảng viên, nên một số cán bộ, đảng viên, chiến sĩ vi phạm quy định của ngành, có người phải xử lý kỷ luật đảng, hành chính, xử lý hình sự, làm giảm uy tín của tổ chức đảng và gây bức xúc trong dư luận xã hội.
TCCSĐ ở xã, phường, thị trấn: Được tổ chức cơ bản thống nhất, đồng bộ với đơn vị hành chính và các tổ chức trong hệ thống chính trị cùng cấp trên địa bàn. TCCSĐ lãnh đạo toàn diện các mặt công tác ở địa phương; có đội ngũ cán bộ đảng, chính quyền, đoàn thể chuyên trách nên vị trí hạt nhân chính trị và vai trò lãnh đạo của TCCSĐ được khẳng định; đội ngũ đảng viên được rèn luyện, có mặt hầu khắp đến tận thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố. Hạn chế là nhiều TCCSĐ lúng túng trong lãnh đạo để cụ thể hóa thực hiện nhiệm vụ CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Một số nơi chưa thực hiện tốt chức năng lãnh đạo quản lý hành chính, quản lý xã hội và trật tự xây dựng đô thị, quản lý và sử dụng đất đai. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên nhiều yếu kém, bất cập.
TCCSĐ trong cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp: Được tổ chức cơ bản thống nhất, đồng bộ với tổ chức cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng; trình độ, kiến thức các mặt của đội ngũ cán bộ, đảng viên khá cao; hầu hết các bí thư đều là thủ trưởng hoặc cán bộ lãnh đạo của cơ quan, đơn vị. Do đó, công tác xây dựng đảng được gắn với xây dựng cơ quan, đơn vị và thực hiện các nhiệm vụ chính trị, công tác chuyên môn. Nhưng còn nhiều chi ủy, đảng ủy, chi bộ sinh hoạt không đều. Nội dung sinh hoạt chi bộ thường trùng lặp với sinh hoạt chuyên môn. Tinh thần đấu tranh, tự phê bình và phê bình yếu. Tình trạng quan liêu, tham nhũng xảy ra ở cơ quan, đơn vị mà TCCSĐ không biết, không phát hiện được.
TCCSĐ trong doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà nước: Mặt tốt là đã có TCCSĐ ở hầu hết các doanh nghiệp. Cùng với sự đổi mới về cơ chế quản lý, nhiều TCCSĐ đã chú ý đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo thực hiện có kết quả nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh, hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước. Tuy đã có quan tâm xây dựng các tổ chức trong hệ thống chính trị ở doanh nghiệp, nhưng công tác xây dựng đảng chưa đáp ứng kịp quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý và tổ chức hoạt động của doanh nghiệp trong thời kỳ hội nhập, vai trò lãnh đạo của không ít tổ chức đảng bị giảm sút, cán bộ chuyên tâm làm công tác xây dựng đảng chưa nhiều.
TCCSĐ trong doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và trong các trường học, bệnh viện ngoài công lập là những loại hình TCCSĐ mới được định hình và chưa có mô hình tổ chức phù hợp. Nhiều nơi chưa có tổ chức đảng, chưa có đảng viên, việc xây dựng tổ chức đảng đang gặp nhiều khó khăn, thậm chí có nơi vai trò TCCSĐ bị mờ nhạt.
Qua nghiên cứu, khảo sát, theo đồng chí những khó khăn, vướng mắc ở cơ sở hiện nay là gì?
Trước khi đề cập đến một số vấn đề còn khó khăn, vướng mắc, thậm chí bất cập hiện nay, khách quan mà nói thì TCCSĐ và đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ sở đã có bước trưởng thành đáng khích lệ. Riêng đội ngũ cán bộ, ngoài tăng nhanh về số lượng, chất lượng cũng được nâng lên theo hướng trẻ hơn và được đào tạo, bồi dưỡng về chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ (trong số cấp uỷ viên cơ sở có 74,67% có học vấn trung học phổ thông, 82,09% có trình độ lý luận chính trị từ trung cấp trở lên, 42,25% được đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ từ sơ cấp trở lên). Tuy nhiên, còn nhiều vướng mắc, bất cập, trong đó nổi lên một số vấn đề chủ yếu sau:
Một là, việc xây dựng tổ chức đảng, phát triển đảng viên ở một số địa bàn, lĩnh vực, đơn vị còn gặp nhiều khó khăn. Hiện nay, vẫn còn nhiều thôn, làng, ấp, buôn, bản, tổ dân phố, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài chưa có chi bộ, chưa có đảng viên nhưng việc kết nạp đảng viên gặp nhiều khó khăn, chưa đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Thực hiện chủ trương cổ phần hoá, các doanh nghiệp nhà nước chuyển thành công ty cổ phần mà chủ yếu Nhà nước không giữ cổ phần chi phối, những doanh nghiệp mà chủ tịch hội đồng quản trị, giám đốc không phải người trong doanh nghiệp, không phải là đảng viên hoặc là đảng viên nhưng không tham gia cấp uỷ thì tổ chức đảng hoạt động gặp nhiều khó khăn, vai trò, vị trí của TCCSĐ bị giảm sút.
Hai là, hệ thống và mô hình tổ chức của tổ chức đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị ở nhiều cơ sở chưa đồng bộ, thống nhất. Ởxã, mô hình tổ chức của các chi bộ cơ bản thống nhất và đồng bộ với tổ chức chính quyền, các đoàn thể quần chúng nhưng lại có nhiều chi bộ thôn quá đông đảng viên. Ở phường, có nơi lập chi bộ theo tổ dân phố, có nơi lập theo khu phố; tổ chức của chi bộ không đồng bộ với các đoàn thể quần chúng trên địa bàn. Nhiều thôn, khu phố, cụm dân cư đông đảng viên phải thành lập nhiều chi bộ nhưng không lập đảng bộ bộ phận, việc lãnh đạo đối với các chi bộ và tổ chức chính quyền, các đoàn thể quần chúng trên địa bàn dân cư bị chia cắt. Nhiều đảng bộ cơ sở ở cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp hoạt động phân tán trên địa bàn nhiều tỉnh, thành phố nhưng tổ chức đảng và các đoàn thể quần chúng nơi trực thuộc ngành dọc, nơi trực thuộc cấp uỷ địa phương, công tác xây dựng đảng không gắn với lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và các đoàn thể quần chúng. Một số tập đoàn kinh tế và tổng công ty hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con, phạm vi hoạt động trong cả nước nhưng tổ chức đảng ở công ty mẹ và các công ty thành viên lại trực thuộc nhiều cấp uỷ khác nhau; công tác xây dựng đảng chưa gắn với lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh.
Ba là, công tác đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cấp uỷ viên và việc bố trí bí thư cấp uỷ cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu. Nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ cấp uỷ viên, bí thư chi bộ và cán bộ chủ chốt chưa coi trọng bồi dưỡng về kỹ năng, nghiệp vụ và kinh nghiệm xử lý các tình huống thường xảy ra ở cơ sở. Khi có những vấn đề phức tạp xảy ra ở cơ sở và thuộc trách nhiệm của cơ sở, phần lớn cán bộ lúng túng, bị động và không giải quyết dứt điểm. Một số cơ quan, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp có đông đảng viên nhưng không có cấp uỷ viên hoặc cán bộ chuyên trách công tác đảng. Hầu hết bí thư cấp uỷ đều kiêm nhiệm, ít được bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ nên hạn chế chất lượng, hiệu quả của công tác xây dựng đảng ở cơ sở.
Bốn là, đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở xã, phường, thị trấn còn yếu và chưa đáp ứng yêu cầu; chế độ, chính sách đối với cán bộ còn nhiều bất cập. Còn nhiều cán bộ, công chức cơ sở chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống. Tỷ lệ cán bộ chưa đạt tiêu chuẩn còn cao (trên 50%). Một số cán bộ chủ chốt ở xã, phường, thị trấn tuổi cao, năng lực hạn chế nhưng chưa đủ điều kiện về tuổi và năm công tác để nghỉ chế độ, nên không bố trí được cán bộ trẻ thay thế. Một số cán bộ chủ chốt ở cơ sở yếu kém về phẩm chất, năng lực, cấp trên phải điều động, tăng cường, luân chuyển cán bộ về, nhưng cơ quan cấp trên không được bổ sung biên chế, dẫn đến thiếu người làm việc. Trong khi đó, nhiều cán bộ chủ chốt ở cơ sở tuổi còn trẻ, đã được đào tạo cơ bản, có phẩm chất, năng lực và khả năng phát triển, nhưng không bố trí công tác ở cấp huyện được. Hiện nay, chức danh văn phòng đảng uỷ chưa có nên các đồng chí phó bí thư phải kiêm nhiệm công tác đảng vụ, ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả công tác xây dựng đảng. Chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức cơ sở còn có những điểm chưa phù hợp, nhất là chế độ tiền lương giữa cán bộ bầu cử với công chức chuyên môn, vấn đề chính sách bảo hiểm xã hội. Việc quyết định số lượng và mức phụ cấp đối với cán bộ không chuyên trách do hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định, nên nhiều địa phương quyết định mức phụ cấp khác nhau và quyết định một số chức danh ngoài Nghị định 121 của Chính phủ, tạo sự chênh lệch giữa các địa phương.
Năm là, công tác quản lý, kiểm tra, giám sát đảng viên còn bị buông lỏng, chất lượng đội ngũ đảng viên còn nhiều hạn chế, yếu kém.Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, nhiều mối quan hệ xã hội của cán bộ, đảng viên diễn ra ở ngoài cơ quan, đơn vị và ngoài giờ làm việc. Nhiều vụ việc tiêu cực, tham nhũng liên quan đến phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên nhưng lãnh đạo cơ quan, đơn vị và cấp uỷ, chi bộ không biết, không có biện pháp giúp đỡ, ngăn chặn kịp thời. Một số đảng viên hiện đang làm việc trong doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa công khai mình là đảng viên với chủ doanh nghiệp. Nhiều đảng viên ở khu vực nông thôn thường xuyên đi làm ăn lưu động dài ngày ở các thành phố, khu công nghiệp trong cả nước nhưng không chuyển sinh hoạt đảng về nơi làm việc, thực chất những đảng viên này không có tổ chức đảng nào quản lý. Hằng năm, số đảng viên được kết nạp nhiều nhưng số đảng viên được kết nạp ở địa bàn dân cư, là công nhân, lao động trong các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh còn rất ít. Nhiều chi bộ thôn, xóm, tổ dân phố, khu dân cư có trên 100 đảng viên, nhưng không có địa điểm sinh hoạt thích hợp, việc sinh hoạt của chi bộ và các đoàn thể quần chúng gặp khó khăn. Việc tổ chức học tập, quán triệt các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước còn hình thức, hiệu quả thấp.
Vậy trong thời gian tới, cần những giải pháp gì để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ sở?
Ban Chỉ đạo xây dựng Đề án yêu cầu phải đề ra các giải pháp mới, mạnh mẽ, có tính khả thi. Bước đầu kiến nghị một số điểm:
Một là, phải tập trung chỉ đạo xây dựng tổ chức đảng, phát triển đảng viên ở những nơi chưa có tổ chức đảng, chưa có đảng viên. Đối với các tỉnh, thành phố còn nhiều thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố, trường học, doanh nghiệp... chưa có tổ chức đảng, có ít hoặc chưa có đảng viên phải phân công một bộ phận chuyên trách của cấp uỷ để theo dõi, tham mưu cho cấp uỷ trong việc xây dựng TCCSĐ và phát triển đảng viên ở những nơi này. Cấp uỷ cấp trên phải chỉ đạo quyết liệt, đồng thời phân công nhiệm vụ cụ thể cho các cấp uỷ trực thuộc, các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể có liên quan trong việc xây dựng tổ chức đảng, phát triển đảng viên ở những nơi chưa có tổ chức đảng, có ít hoặc chưa có đảng viên.
Hai là, tiếp tục kiện toàn, sắp xếp mô hình TCCSĐ cho phù hợp, gắn công tác xây dựng đảng với lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và lãnh đạo các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương, cơ quan, đơn vị. Phải tiếp tục kiện toàn, sắp xếp tổ chức của hệ thống chính trị đồng bộ, thống nhất với tổ chức của Đảng ở cơ sở, gắn công tác xây dựng đảng với thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị. Đồng thời, xây dựng các mô hình tổ chức, phương thức hoạt động của các TCCSĐ có tính chất đặc thù cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh mới, vừa tạo sự thống nhất chung trong toàn Đảng, vừa phù hợp với đặc điểm cụ thể của từng địa phương, cơ quan, đơn vị.
Ba là, tiếp tục đổi mới nội dung và nâng cao chất lượng sinh hoạt của chi ủy, đảng uỷ, chi bộ, đảng bộ, trong các loại hình TCCSĐ. Các cấp uỷ, đảng bộ, chi bộ cơ sở và chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở phải thực hiện nghiêm túc, có nền nếp chế độ sinh hoạt đảng theo quy định của Điều lệ Đảng. Trên cơ sở thực hiện Chỉ thị 06-CT/TW của Bộ Chính trị về Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, Chỉ thị số 10-CT/TW của Ban Bí thư về “Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ”, tích cực đổi mới nội dung và hình thức sinh hoạt cho phù hợp với tình hình, đặc điểm và nhiệm vụ cụ thể của từng loại hình chi bộ. Nội dung sinh hoạt chi bộ cần tập trung vào bàn và giải quyết những vấn đề cụ thể, thiết thực, liên quan đến chức năng, nhiệm vụ lãnh đạo của chi bộ và quyền lợi, trách nhiệm của đảng viên; giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc xảy ra ở địa phương, cơ quan, đơn vị thuộc phạm vi lãnh đạo của chi bộ, không bàn việc của nơi khác, tổ chức khác. Thông qua sinh hoạt chi bộ phải giúp đảng viên hiểu và thực hiện đúng các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước; thực hiện tốt nghị quyết của chi bộ và các nghị quyết của cấp uỷ cấp trên; đề ra biện pháp cụ thể để quản lý, theo dõi và nắm chắc tình hình tư tưởng, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của đảng viên; đồng thời đấu tranh ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, các việc làm sai trái; có cam kết với cấp uỷ cấp trên không để xảy ra tiêu cực, tham nhũng trong chi bộ.
Bốn là, chọn ra các vấn đề cần tập trung để xây dựng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của cấp uỷ cơ sở, làm cho cơ sở đủ sức giải quyết các vụ việc xảy ra từ cơ sở; thí điểm thực hiện chủ trương nhất thể hoá cán bộ chủ chốt ở cơ sở. Để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của cấp uỷ cơ sở, phải nâng cao trình độ, kiến thức về văn hoá, khoa học - kỹ thuật, lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng cho các cấp uỷ viên cơ sở. Mỗi cấp uỷ viên, trước hết là đồng chí bí thư phải có khả năng nhận thức đúng, đầy đủ, sâu sắc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các nghị quyết, chỉ thị của cấp uỷ cấp trên để vận dụng, cụ thể hoá thành chủ trương công tác sát hợp với tình hình, đặc điểm của địa phương, cơ quan, đơn vị mình. Biết quy tụ, tập hợp quần chúng và phát huy được sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị cơ sở để thực hiện có kết quả nhiệm vụ của địa phương, cơ quan, đơn vị. Xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong cấp uỷ, đảng bộ, chi bộ; kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện sai trái về tư tưởng và hành động. Nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình, thẳng thắn đấu tranh với những cán bộ, đảng viên có sai phạm trên tinh thần thương yêu đồng chí, có biện pháp cụ thể để phòng ngừa sai phạm, đồng thời giáo dục, giúp đỡ và xử lý nghiêm minh, dứt điểm đối với những cán bộ, đảng viên có sai phạm.
Năm là, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở xã, phường, thị trấn vững mạnh. Đổi mới nội dung, hình thức và đẩy mạnh việc đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở xã, phường, thị trấn, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt, cán bộ chuyên trách và bí thư chi bộ. Bổ sung, hoàn thiện giáo trình bồi dưỡng cán bộ ở cơ sở theo hướng bám sát chức năng, nhiệm vụ của từng đối tượng và chức danh cán bộ; tăng cường bồi dưỡng nghiệp vụ và kỹ năng giải quyết những tình huống thường xảy ra ở cơ sở. Kết hợp giữa đào tạo chính quy với đào tạo tại chức; giữa nâng cao kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ với xây dựng bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống cho cán bộ cơ sở. Chú trọng và có nội dung, hình thức bồi dưỡng sát hợp cho số cán bộ cơ sở ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, cán bộ người dân tộc thiểu số. Thực hiện nhất quán chủ trương và có chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng về công tác ở xã, phường, thị trấn, công tác ở các cơ sở sản xuất - kinh doanh, xem đây là việc rèn luyện thực tế sau học tập, là thời gian tập sự, thử thách để sinh viên trở thành cán bộ, công chức, là nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý trong tương lai.
Sáu là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và quản lý đảng viên; nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, dựa vào dân để xây dựng Đảng. Thực hiện nghiêm túc quy định của Bộ Chính trị về công tác kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên ở cơ sở. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với cán bộ, đảng viên của cấp uỷ, chi bộ nơi công tác và nơi cư trú. Tổng kết, bổ sung, sửa đổi Quy định 76-QĐ/TW của Bộ Chính trị (khoá VIII) theo tinh thần đổi mới cho phù hợp với thực tiễn, đồng thời khắc phục những hạn chế, yếu kém trong tổ chức thực hiện ở cơ sở. Quá trình thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, các TCCSĐ tiến hành đợt sinh hoạt chính trị, tự phê bình, phê bình sâu sắc trong Đảng và tổ chức lấy ý kiến tham gia đóng góp của nhân dân thông qua các đoàn thể quần chúng. Biểu dương kịp thời những đảng viên tiền phong gương mẫu, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; xử lý nghiêm những đảng viên thiếu ý thức rèn luyện, suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống; kiên quyết đưa những người không còn đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng. Tiếp tục đổi mới nội dung và phương pháp đánh giá chất lượng TCCSĐ và đảng viên hằng năm, bảo đảm việc đánh giá đúng thực chất. Khi đánh giá chất lượng TCCSĐ và đảng viên, cấp uỷ cơ sở tổ chức lấy ý kiến của lãnh đạo các đoàn thể quần chúng về sự lãnh đạo của tổ chức đảng và phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, vai trò tiền phong gương mẫu của đảng viên, nhất là đảng viên là cán bộ chủ chốt. Coi trọng chất lượng công tác kết nạp đảng viên. Chú trọng bồi dưỡng, tạo nguồn kết nạp đảng viên là đoàn viên Đoàn TNCS Hồ Chí Minh; cán bộ khoa học và sinh viên trong các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề; công nhân, người lao động trong các thành phần kinh tế. Tập trung chỉ đạo phát triển đảng viên ở những lĩnh vực và địa bàn trọng yếu; những nơi chưa có tổ chức đảng, có ít hoặc chưa có đảng viên.
Bảy là, bổ sung, sửa đổi và ban hành mới các văn bản pháp luật, quy định, quy chế của Bộ Chính trị, Ban Bí thư nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ sở. Bổ sung, sửa đổi quy định về chức năng, nhiệm vụ của TCCSĐ trong các loại hình cơ sở, nhất là doanh nghiệp nhà nước và công ty cổ phần mà Nhà nước giữ cổ phần chi phối, trong cơ quan, đơn vị sự nghiệp theo hướng tăng cường vai trò lãnh đạo của TCCSĐ trong việc xây dựng, thực hiện nhiệm vụ sản xuất - kinh doanh, nhiệm vụ chuyên môn và công tác cán bộ. Bảo đảm mọi TCCSĐ đều có quy định chức năng, nhiệm vụ phù hợp.
Tám là, tăng cường sự chỉ đạo, kiểm tra, giúp đỡ của cấp uỷ cấp trên. Các cấp uỷ cấp trên, nhất là cấp uỷ cấp trên trực tiếp của TCCSĐ phải đi sâu, đi sát, nắm chắc tình hình cơ sở; tăng cường công tác chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc tổ chức thực hiện ở cơ sở; phân công các uỷ viên thường vụ, cấp uỷ viên trực tiếp phụ trách cơ sở và có trách nhiệm cùng với cấp uỷ, chính quyền, các đoàn thể chính trị - xã hội ở cơ sở kịp thời tháo gỡ khó khăn, giải quyết dứt điểm những vấn đề phức tạp xảy ra. Các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn cơ sở phải ngắn gọn, rõ chủ trương, nhiệm vụ và trách nhiệm; nội dung phải cụ thể, dễ nhớ, dễ hiểu, dễ kiểm tra và dễ thực hiện.
Theo Tạp chí Xây dựng Đảng