(ĐCSVN) - Hội nghị lần thứ sáu BCH T.Ư Ðảng khóa X đã bàn và thông qua Nghị quyết "Về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa". Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc bài viết của PGS.TS. Vũ Văn Phúc, Phó trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương về những nội dung cơ bản của Nghị quyết nói trên.
Trong nền kinh tế thị trường, các quy luật kinh tế hoạt động một cách khách quan, tác động vào những quan hệ kinh tế và qua đó đến các lĩnh vực của đời sống xã hội, đến lợi ích của mỗi cá nhân, nhóm, tầng lớp, giai cấp xã hội. Do vậy, trên cơ sở đảm bảo lợi ích giai cấp và mục đích phát triển của nền kinh tế, các giai cấp cầm quyền trong xã hội đều cần thiết phát huy những mặt tích cực và hạn chế các mặt tiêu cực của các quy luật kinh tế (đến một mức nào đó do lợi ích giai cấp, nhóm xã hội quy định) bằng hệ thống pháp luật, chính sách... Đó chính là thể chế kinh tế.
Như vậy, thể chế kinh tế hiểu theo nghĩa chung nhất là hệ thống pháp luật, chính sách do Nhà nước ban hành dựa trên các quy luật vận động khách quan của nền kinh tế để điều tiết, phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của chúng. Theo ý nghĩa đó, thể chế kinh tế là những tác động chủ quan, định hướng của con người vào sự vận động và phát triển của nền kinh tế.
Ngày nay, kinh tế thị trường đã được áp dụng phổ biến trên thế giới. Tuy nhiên, do mục đích và điều kiện của nền sản xuất ở mỗi nước khác nhau, nên thể chế kinh tế thị trường ở các nước không hoàn toàn giống nhau.
Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay là nhằm phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội IX của Đảng (2001), Đảng đã đưa ra mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đề ra nhiệm vụ xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội X đã nêu lên những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta và đề ra nhiệm vụ “hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Héi nghÞ lÇn thø 6 Ban ChÊp hµnh Trung ¬ng §¶ng, kho¸ X ra Nghị quyết số 21-NQ/TWvề “Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” là cụ thể hóa quan điểm và tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội X.
Sau khi đánh giá tình hình chuyển đổi cơ chế kinh tế và xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hơn 20 năm qua, Nghị quyết đã xác định mục tiêu, quan điểm, chủ trương và giải pháp tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như sau:
1. Mục tiêu
Nghị quyết xác định mục tiêu chung của việc tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị trường nhằm:
- Thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, hội nhập kinh tế quốc tế thành công, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Thực hiện thắng lợi mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Mục tiêu cụ thể đến năm 2010 là:
- Từng bước xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật bảo đảm cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển thuận lợi.
- Phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước đi đôi với phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp; hình thành một số tập đoàn kinh tế, các tổng công ty đa sở hữu, áp dụng mô hình quản trị hiện đại, có năng lực cạnh tranh quốc tế.
- Đổi mới cơ bản mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công.
- Phát triển đồng bộ, đa dạng các loại thị trường cơ bản thống nhất trong cả nước, từng bước liên thông với thị trường khu vực và thế giới.
- Giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.
- Nâng cao hơn hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân trong quản lý, phát triển kinh tế - xã hội.
Giai đoạn từ năm 2010 - 2020, tiếp tục hoàn thiện thể chế, nâng cao trình độ phát triển của nền kinh tế, thực hiện về cơ bản mục tiêu chung nêu trên.
2. Quan điểm
Để thực hiện các mục tiêu trên, đảm bảo nền kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Nghị quyết nêu 5 quan điểm cần quán triệt trong việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong những năm tới là:
Quan điểm thứ nhất: Nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, thông lệ quốc tế, phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế.
Thực hiện quan điểm này nhằm khắc phục tư tưởng chủ quan, duy ý chí, vi phạm sự vận động của quy luật khách quan, cũng như khắc phục chủ nghĩa giáo điều, rập khuôn, máy móc, bắt chước nước ngoài, không tính tới đặc điểm và trình độ phát triển của nền kinh tế nước ta; chạy theo các chỉ tiêu kinh tế thuần túy, coi nhẹ định hướng xã hội chủ nghĩa, định hướng phát triển của nền kinh tế nước ta.
Quan điểm thứ hai: Bảo đảm tính đồng bộ giữa các bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế.
Theo quan điểm này cần bảo đảm đồng bộ giữa các yếu tố thị trường và các loại thị trường; giữa thể chế kinh tế với thể chế chính trị, xã hội; giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Gắn kết hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hoá và bảo vệ môi trường.
Quan điểm thứ ba:Chủ động, tích cực với quyết tâm chính trị cao, tập trung giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng, bức xúc, đồng thời phải có bước đi vững chắc, vừa làm vừa tổng kết, rút kinh nghiệm.
Quan điểm này xuất phát từ thực tế của quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường ở nước ta là công việc mới mẻ, chưa có tiền lệ, phải vừa làm, vừa tổng kết thực tiễn, rút ra những bài học kinh nghiệm. Nhưng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới, không cho phép chúng ta lừng chừng, trù trừ khi đã có nhận thức đúng đắn quá trình phát triển của đất nước.
Quan điểm thứ tư:Kế thừa có chọn lọc thành tựu phát triển kinh tế thị trường của nhân loại và kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn đổi mới ở nước ta; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời bảo đảm giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Quan điểm thứ năm: Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Quan điểm này xuất phát từ bài học kinh nghiệm qua 20 năm đổi mới, xác định đổi mới là sự nghiệp của toàn dân, do nhân dân thực hiện và vì lợi ích của nhân dân. Do vậy, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải huy động được sự tham gia của toàn dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng nước ta.
3. Chủ trương và giải pháp tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
3.1. Thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
3.2. Hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp và các tổ chức sản xuất kinh doanh
* Hoàn thiện thể chế về sở hữu
Để hoàn thiện thể chế về sở hữu, Nghị quyết nêu rõ các công việc phải làm là:
+ Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo hướng khẳng định sự tồn tại khách quan, lâu dài và khuyến khích sự phát triển đa dạng các hình thức sở hữu, các loại hình doanh nghiệp, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu trong nền kinh tế; xây dựng, hoàn thiện luật pháp về sở hữu đối với các loại tài sản mới, như trí tuệ, cổ phiếu, tài nguyên nước, khoáng sản...
+ Khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà đại diện là Nhà nước; các quyền của người sử dụng đất theo các quy định hiện nay của pháp luật được tôn trọng và bảo đảm.
+ Hoàn thiện thể chế về sở hữu nhà nước theo các hướng sau:
Một là, tách bạch vai trò của Nhà nước với tư cách là bộ máy công quyền quản lý toàn bộ nền kinh tế - xã hội với vai trò chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước.
Hai là, tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước và chức năng quản trị, kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước.
Ba là, thu hẹp, tiến tới xóa bỏ chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước của các bộ, ủy ban nhân dân đối với tài sản, vốn nhà nước tại các doanh nghiệp có tài sản, vốn nhà nước.
Bốn là, tiếp tục đổi mới, củng cố và phát huy vai trò của mô hình công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước.
+ Hoàn thiện thể chế, quy định rõ, cụ thể về quyền của chủ sở hữu và những người liên quan đối với các loại tài sản (trí tuệ, tài sản vật chất, tài sản cổ phiếu, tài sản nợ); bảo hộ các quyền hợp pháp. Đồng thời, quy định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu và những người liên quan đối với xã hội.
+ Bổ sung luật pháp, cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển sở hữu tập thể, các tổ hợp tác, hợp tác xã; bảo vệ tốt hơn các quyền và lợi ích của các xã viên đối với tài sản thuộc sở hữu của các hợp tác xã.
+ Khuyến khích liên kết hỗn hợp giữa sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân, làm cho chế độ cổ phần, sở hữu hỗn hợp trở thành hình thức sở hữu chủ yếu của các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
+ Sớm ban hành các quy định pháp lý về quyền sở hữu của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam; quy định đối tượng, điều kiện để người nước ngoài có quyền được mua, được sở hữu nhà ở gắn với quyền sử dụng đất và các tài sản khác tại Vịêt Nam.
* Hoàn thiện thể chế về phân phối
Nghị quyết nêu rõ, hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách về phân bổ nguồn lực, phân phối và phân phối lại theo hướng bảo đảm tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách phát triển.
+ Các nguồn lực xã hội được phân bổ theo cơ chế thị trường và theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển của Nhà nước bảo đảm đạt hiệu quả kinh tế cao.
+ Tập trung vốn đầu tư nhà nước cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, dịch vụ công quan trọng, một số ngành sản xuất thiết yếu, then chốt, đóng vai trò chủ đạo và lĩnh vực tư nhân không thể hoặc chưa thể đảm đương được; quan tâm đến các vùng, đối tượng còn nhiều khó khăn, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng, các địa phương.
- Về chính sách phân phối và phân phối lại, Nghị quyết yêu cầu phải bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, người lao động và doanh nghiệp, tạo động lực cho người lao động, doanh nghiệp và bảo đảm lợi ích quốc gia.
+ Chú trọng phân phối lại quỹ phúc lợi xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục, y tế; bảo đảm đời sống, ít nhất là ở mức độ trung bình của xã hội, cho các đối tượng chính sách. Đổi mới cơ chế phân bổ chi ngân sách cho phát triển xã hội, củng cố và mở rộng hơn nữa hệ thống an sinh xã hội.
+ Tiếp tục hoàn hiện pháp luật về thuế theo hướng vừa bảo đảm nguồn thu cho ngân sách nhà nước, vừa khuyến khích đầu tư, đổi mới công nghệ, phát triển sản xuất, nuôi dưỡng nguồn thu và thực hiện công bằng xã hội.
* Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế
a. Đối với các doanh nghiệp nhà nước
Nghị quyết nêu rõ: “Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới, sắp xếp lại, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước để góp phần giữ vững và phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa".
b. Đối với các loại hình kinh tế tập thể
- Tiếp tục đổi mới, phát triển hợp tác xã và tổ hợp tác theo cơ chế thị trường, phù hợp với các nguyên tắc: tự nguyện, dân chủ, bình đẳng, cùng có lợi và phát triển cộng đồng.
- Khuyến khích tăng vốn góp, tăng vốn đầu tư phát triển, tăng tài sản và quỹ không chia trong hợp tác xã; phát triển các tổ hợp tác, hợp tác xã đa dạng, sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
- Nhà nước có chính sách hỗ trợ cho các tổ chức kinh tế tập thể tiếp cận các nguồn vốn; đào tạo cán bộ quản lý, lao động; trợ giúp kỹ thuật và chuyển giao công nghệ; hỗ trợ phát triển thị trường, tham gia các chương trình xúc tiến thương mại, các dự án đầu tư của Nhà nước.
c. Đối với doanh nghiệp tư nhân
- Thực hiện nghiêm túc, nhất quán một mặt bằng pháp lý và điều kiện kinh doanh cho các doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế.
- Khuyến khích phát triển doanh nghiệp tư nhân trong và ngoài nước vào các lĩnh vực mà pháp luật không cấm; tạo điều kiện để các doanh nghiệp tư nhân tiếp cận các nguồn lực của Nhà nước trên nguyên tắc cạnh tranh bình đẳng.
- Khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp nhà nước, bán cổ phần cho người lao động tại doanh nghiệp.
- Tăng cường và nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân để các doanh nghiệp tư nhân tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật, cơ chế, chính sách của Nhà nước.
d, Đối với kinh tế trang trại và kinh tế hộ, Nghị quyết nêu rõ:
+ Nhà nước có chính sách khuyến khích, hỗ trợ các trang trại, hộ kinh doanh, đặc biệt là trang trại, hộ kinh doanh trong nông nghiệp và ở khu vực nông thôn, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để các trang trại và hộ sản xuất, kinh doanh góp vốn phát triển theo hình thức hợp tác xã, công ty cổ phần hoặc trở thành doanh nghiệp tư nhân và các loại hình kinh doanh thích hợp.
e. Đối với các đơn vị sự nghiệp công
Nghị quyết nêu rõ: “Tăng cường đầu tư và đổi mới cơ chế quản lý của Nhà nước để các đơn vị sự nghiệp công lập phát triển mạnh mẽ, có hiệu quả”.
3.3. Hoàn thiện thể chế bảo đảm đồng bộ các yếu tố thị trường và phát triển đồng bộ các loại thị trường
* Hoàn thiện thể chế bảo đảm đồng bộ các yếu tố thị trường
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế về giá, cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh, Nghị quyết nêu rõ:
+ Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước.
+ Tăng cường vai trò của Nhà nước trong việc bình ổn giá bằng các biện pháp kinh tế vĩ mô và sử dụng nguồn lực kinh tế của Nhà nước, giảm tối đa các biện pháp hành chính trong quản lý giá.
- Hoàn thiện khung pháp lý cho ký kết, thực hiện hợp đồng; không hình sự hóa các tranh chấp dân sự trong hoạt động kinh tế.
- Hoàn thiện thể chế giám sát, điều tiết thị trường của Nhà nước và xúc tiến thương mại, đầu tư, giải quyết tranh chấp phù hợp với kinh tế thị trường và các cam kết quốc tế. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng cao lòng tin của xã hội đối với pháp luật và các cơ quan tư pháp.
* Hoàn thiện thể chế đảm bảo đồng bộ các loại thị trường
* Hoàn thiện thể chế thị trường hàng hoá, dịch vụ
Nghị quyết yêu cầu “Đa dạng hoá các loại thị trường hàng hoá, dịch vụ theo hướng văn minh, hiện đại, chú trọng phát triển thị trường dịch vụ”. Theo tinh thần trên, trong những năm tới cần:
- Phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ cho các thị trường hàng hóa, dịch vụ, xây dựng các khu trung tâm thương mại lớn.
- Thực hiện tự do hoá thương mại và đầu tư phù hợp với các cam kết quốc tế.
- Phát triển các phương thức giao dịch thị trường hiện đại, nhất là với hàng hóa nông sản và vật tư nông nghiệp để ổn định giá, giảm bớt rủi ro cho người sản xuất và người tiêu dùng.
- Tăng cường công tác quản lý nhà nước về giá đối với một số ít hàng hoá, dịch vụ độc quyền, bảo đảm tuân thủ yêu cầu của cơ chế thị trường và các cam kết quốc tế.
- Xây dựng tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá, vệ sinh an toàn thực phẩm, môi trường. Tăng cường kiểm tra chất lượng hàng hoá, dịch vụ, nhất là những hàng hóa, dịch vụ liên quan trực tiếp đến sức khoẻ của người dân. Xử lý nghiêm những vi phạm.
+ Hoàn thiện thể chế thị trường tài chính
Nghị quyết nêu rõ, trong những năm tới, việc hoàn thiện thể chế thị trường tài chính được thực hiện theo các giải pháp sau:
- Phát huy tốt hơn vai trò điều hành thị trường tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước như một ngân hàng trung ương hiện đại, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát.
- Từng bước mở cửa thị trường tín dụng, các dịch vụ ngân hàng phù hợp với cam kết quốc tế.
- Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại, thực hiện tốt việc cổ phần hoá các ngân hàng thương mại nhà nước, thu hút được các đối tác chiến lược, song Nhà nước giữ cổ phần chi phối, áp dụng các thông lệ và chuẩn mực quốc tế để nâng cao năng lực cạnh tranh và vai trò chủ đạo của các ngân hàng này.
- Đổi mới hoạt động thẩm tra, giám sát; phát triển các công cụ dự báo, phòng ngừa rủi ro, bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng.
- Hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách cho hoạt động và phát triển lành mạnh của thị trường chứng khoán, làm cho thị trường chứng khóan ngày càng đóng vai trò quan trọng trong huy động vốn cho đầu tư phát triển. Theo định hướng này cần:
+ Đưa các giao dịch chứng khoán phi tập trung vào phạm vi quản lý, kiểm soát của Nhà nước.
+ Tăng tính minh bạch của thị trường. Chống các giao dịch phi pháp, các hành vi rửa tiền, nhiễu loạn thị trường.
+ Năng cao năng lực dự báo, có biện pháp phòng ngừa tình trạng rút vốn hàng loạt, ảnh hưởng xấu đến kinh tế vĩ mô.
+ Mở rộng từng bước quyền mua cổ phiếu của nhà đầu tư nước ngoài và tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam giao dịch trên thị trường chứng khoán quốc tế.
- Về thị trường bảo hiểm, Nghị quyết nêu rõ: “Phát triển đa dạng và nâng cao chất lượng các sản phẩm bảo hiểm”. Theo hướng này cần:
+ Tạo điều kiện phát triển các doanh nghiệp bảo hiểm thuộc các thành phần kinh tế trong nước, khuyến khích hợp tác và liên kết giữa các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước.
+ Thực hiện lộ trình mở cửa thị trường bảo hiểm theo cam kết hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Quan tâm hơn nữa đến các dịch vụ bảo hiểm đối với con người và hàng nông sản.
+ Nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với thị trường bảo hiểm.
+ Hoàn thiện thể chế thị trường bất động sản
- Nghị quyết xác định:“Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách để các quyền về đất đai và bất động sản được vận động theo cơ chế thị trường, trở thành một nguồn vốn trong sản xuất kinh doanh”.
+ Hoàn thiện thể chế thị trường lao động
Về thể chế thị trường lao động, Nghị quyết xác định các giải pháp sau:
- Tiếp tục hoàn thiện khung pháp luật, chính sách về tiền lương, tiền công. Tiền lương phải được coi là giá cả sức lao động, được hình thành theo quy luật thị trường, dựa trên cung - cầu về sức lao động, chất lượng, cường độ lao động và mức độ cạnh tranh việc làm.
- Thực hiện tốt, phấn đấu rút ngắn lộ trình điều chỉnh tiền lương và trợ cấp xã hội giai đoạn 2008-2012 đi đối với kiểm soát lạm phát để bảo đảm thu nhập thực tế ngày càng tăng cho người hưởng lương.
- Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ, tay nghề của người lao động. Khuyến khích khu vực tư nhân, doanh nghiệp tham gia dạy nghề thông qua các ưu đãi về đất đai, thuế, đào tạo giáo viên, đầu tư hỗ trợ cơ sở hạ tầng, v.v…
- Hoàn thiện khung luật pháp, chính sách về hệ thống giao dịch thị trường lao động, đổi mới và hiện đại hoá hoạt động của các trung tâm dịch vụ việc làm của Nhà nước; khuyến khích tổ chức các hội chợ việc làm; phát triển các tổ chức dịch vụ tư vấn, sàn giao dịch, giới thiệu việc làm tư nhân đi đôi với tăng cường quản lý, kiểm soát của Nhà nước, ngăn chặn các hành vi lừa đảo và các hiện tượng tiêu cực khác.
- Nâng cao chất lượng và hiệu quả xuất khẩu lao động, hướng tới xuất khẩu lao động có trình độ cao. Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước thu hút và sử dụng lao động nước ngoài có trình độ chuyên môn cao.
- Áp dụng phổ biến chế độ hợp đồng lao động, kể cả trong các đơn vị sự nghiệp công lập và khu vực kinh tế nhà nước. Đưa thương lượng và ký kết thỏa ước lao động tập thể trở thành quy định bắt buộc; tăng cường sự tham gia của đại diện người lao động và người sử dụng lao động vào hoạch định chính sách, kế hoạch phát triển thị trường lao động.
- Tăng cường sự quản lý và giám sát của Nhà nước đối với các hoạt động trên thị trường lao động. Nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của các tòa lao động, xử lý tốt các trường hợp tranh chấp, bảo đảm lợi ích chính đáng của người lao động và người sử dụng lao động.
+ Hoàn thiện thể chế thị trường công nghệ
- Xây dựng đồng bộ luật pháp, cơ chế, chính sách quản lý và hỗ trợ phát triển các tổ chức nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học - công nghệ và nâng cao năng lực công nghệ của doanh nghiệp.
- Khuyến khích doanh nghiệp đổi mới, nhập khẩu và ứng dụng công nghệ mới, công nghệ tiên tiến vào sản xuất, kinh doanh.
- Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm Luật Sở hữu trí tuệ.
- Phát triển các dịch vụ thiết kế, đo lường, đánh giá, thẩm định, giám định chất lượng, thông tin, môi giới, chuyển giao công nghệ, tư vấn pháp lý về sở hữu trí tuệ theo hướng xã hội hóa.
- Đổi mới đồng bộ cơ chế quản lý khoa học và công nghệ phù hợp với cơ chế thị trường. Hoàn thiện tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý thị trường công nghệ.
+ Về thể chế thị trường một số loại dịch vụ công cơ bản (y tế, giáo dục, văn hoá, thể thao)
Nghị quyết nêu rõ, trong lĩnh vực dịch vụ công, cần“tuân thủ nguyên tắc bù đắp đủ chi phí để tái tạo và mở rộng quy mô cung ứng dịch vụ công với chất lượng ngày càng cao”. Trong thời gian tới, cần thực hiện các giải pháp sau:
- Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư cho giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục, thể thao, đặc biệt là cho những vùng nghèo, người nghèo, bảo đảm những dịch vụ cơ bản cho nhân dân.
- Đồng thời, Nhà nước đẩy mạnh xã hội hóa, vận dụng hợp lý những mặt tích cực của cơ chế thị trường để khuyến khích và huy động các thành phần kinh tế trong và ngoài nước, các nghuồn lực khác phát triển mạnh các dịch vụ công, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu đa dạng ngày càng tăng của nhân dân qua các chính sách ưu đãi về đất đai, thuế, tín dụng...
- Nhà nước xác định rõ các tiêu chuẩn, tiêu chí mà các đơn vị dịch vụ phải tuân theo;, các dịch vụ cơ bản Nhà nước phải đảm bảo cho nhân dân để bảo đảm quyền của nhân dân được học tập, chăm sóc sức khỏe phù hợp với trình độ phát triển của đất nước.
- Thực hiện cơ chế Nhà nước đặt mua từ các nhà cung cấp dịch vụ theo chất lượng và chi phí chuẩn, tạo cạnh tranh giữa các đơn vị cung ứng thuộc mọi thành phần kinh tế.
- Tiếp tục hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách và tăng cường quản lý của Nhà nước, giám sát của tổ chức xã hội để hạn chế các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, xử lý nghiêm các vi phạm.
- Từng bước mở rộng và cải thiện hệ thống an sinh xã hội để đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu đa dạng của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội, nhất là của nhóm đối tượng chính sách, đối tượng nghèo.
Căn cứ vào những định hướng này, Nhà nước cụ thể hoá và vận dụng thích hợp vào từng lĩnh vực y tế, giáo dục - đào tạo, văn hoá và thể thao.
3.4. Hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển và bảo vệ môi trường
Thực hiện và cụ thể hóa quan điểm của Đại hội X, Nghị quyết Trung ương 6 nêu 4 nhóm giải pháp sau:
+ Khuyến khích làm giàu đi đôi với xóa đói giảm nghèo
+ Xây dựng một hệ thống bảo hiểm xã hội đa dạng và linh hoạt, phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội đa dạng và linh hoạt.
+ Tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính sách về bảo vệ môi trường.
3.5. Hoàn thiện thể chế phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng về kinh tế; nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước, tăng cường sự tham gia của nhân dân và các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội
+ Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng về kinh tế
Để phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng về kinh tế, Nghị quyết xác định nhiệm vụ sau:
Một là, Đảng tăng cường chỉ đạo nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để xác định rõ và đầy đủ mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là những nội dung của định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường.
Hai là, coi trọng đổi mới tư duy, công tác tuyên truyền, giáo dục cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân thống nhất nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội.
Ba là, bổ sung, phát triển Cương lĩnh, đường lối, các chủ trương, chính sách lớn về phát triển kinh tế - xã hội của Đảng; lãnh đạo quá trình tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, đổi mới công tác tổ chức và đào tạo cán bộ, đặc biệt là cán bộ trong lĩnh vực xây dựng và thực thi thể chế kinh tế.
Năm là, nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp uỷ đảng các cấp phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Đổi mới, nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước
Nghị quyết nêu rõ, cần “Đổi mới, nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước phù hợp với những yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn hiện nay”. Cụ thể là:
- Nhà nước vận dụng và phát huy mặt tích cực, hạn chế ngăn ngừa mặt tiêu cực của cơ chế thị trường; tiếp tục tạo ra những tiền đề, điều kiện để nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Đổi mới mạnh mẽ hơn phương thức quản lý kinh tế của Nhà nước theo các hướng sau:
. Coi trọng và làm tốt công tác xây dựng, thực hiện chiến lược, quy hoạch, định hướng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, sử dụng có hiệu quả các công cụ quản lý, điều tiết vĩ mô, bảo đảm những cân đối lớn của nền kinh tế, kiềm chế lạm phát.
. Phát triển lành mạnh các thị trường tài chính, tiền tệ chứng khoán, bảo hiểm.
. Ngăn ngừa và xử lý kịp thời những biến động xấu đối với ổn định kinh tế vĩ mô.
. Phát triển lĩnh vực xã hội, gắn thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội với phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường.
. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách tư pháp.
. Giữ vững an ninh, quốc phòng, ổn định chính trị – xã hội cho sự phát triển đất nước.
- Chuyển giao những công việc Nhà nước không nhất thiết phải làm cho các tổ chức xã hội; tinh giản bộ máy nhà nước, tập trung nguồn lực vào một số lĩnh vực quan trọng nhất trong phát triển kinh tế, xã hội.
+ Nâng cao vai trò của các tổ chức dân cử, tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết nêu rõ, cần:
- Tiếp tục đổi mới tư duy, nhận thức về vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp và của người dân trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Nhà nước tiếp tục hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để các tổ chức dân cử, tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp và nhân dân tham gia có hiệu quả vào quá trình hoạch định, thực thi và giám sát thực hiện luật pháp, các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội.
PGS.TS. Vũ Văn Phúc
Phó Trưởng ban Tuyên Giáo Trung ương