Những điểm mới trong Điều lệ Đảng được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI thông qua

Điều lệ Đảng là bộ luật cơ bản của Đảng, quy định tôn chỉ, mục đích và các nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của Đảng, nhằm bảo đảm cho Đảng ta thống nhất ý chí, tổ chức và hành động. Mỗi kỳ đại hội toàn quốc của Đảng, Điều lệ Đảng đều được bổ sung, sửa đổi những điểm cần thiết phù hợp với yêu cầu thực tiễn của tình hình, nhiệm vụ mới.

Qua tổng kết thực tiễn, đánh giá sâu sắc những kết quả đạt được, những hạn chế, vướng mắc trong thi hành Điều lệ Đảng do Đại hội X của Đảng thông qua; đồng thời để phù hợp với những quan điểm, nội dung quan trọng của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và với những vấn đề mới về đường lối, chủ trương xây dựng Đảng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã quyết định nghiên cứu để trình Đại hội XI xem xét bổ sung, sửa đổi một số điểm trong Điều lệ Đảng. Việc bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng lần này tuân theo 3 quan điểm chỉ đạo:

1) Kiên định các nguyên tắc cơ bản về Đảng và xây dựng Đảng trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, phát triển, thể chế hóa những quan điểm mới có tính nguyên tắc về xây dựng Đảng, nhất là những quan điểm mới thể hiện trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011).

2) Nghiên cứu bổ sung vào Điều lệ Đảng một số nội dung trong các nghị quyết của Trung ương về xây dựng Đảng; các văn bản quy định thi hành Điều lệ Đảng; một số vấn đề tiến hành thí điểm đã được tổng kết mà thực tiễn xây dựng Đảng thời gian qua khẳng định là đúng đắn, cần thiết, chín muồi, thuộc thẩm quyền quyết định của Đại hội Đảng toàn quốc.

3) Phát huy dân chủ, trí tuệ trong thảo luận, tập hợp đầy đủ, trung thực ý kiến tham gia của đảng viên, cán bộ, của các cấp ủy, tổ chức đảng, các thành viên trong hệ thống chính trị, các vấn đề đã được tổng kết, đúc rút từ lý luận và thực tiễn công tác xây dựng Đảng, có sự thống nhất cao trong toàn Đảng để bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng.

Trên cơ sở Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về một số vấn đề bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã thảo luận và thông qua dự thảo Điều lệ Đảng (bổ sung, sửa đổi). Để triển khai thực hiện tốt Điều lệ Đảng, các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên cần nắm được cơ sở lý luận, thực tiễn và nội dung của những điểm sửa đổi đó.

1. Về tiêu chuẩn đảng viên. Đại hội quyết định bổ sung cụm từ “nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam” vào khoản 1, Điều 1 để diễn đạt đầy đủ là: "Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam;..." cho thống nhất với phần mở đầu của Điều lệ Đảng (phần này ghi"Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam”). Quyết định bổ sung này được 74,56% đại biểu tán thành.

Trong quá trình xây dựng và lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã nhiều lần thay đổi tên Đảng và điều chỉnh cách diễn đạt về Đảng, nhưng Đảng luôn luôn mang bản chất giai cấp công nhân. Bản chất giai cấp công nhân của Đảng thể hiện ở chỗ: mục đích của Đảng là xây dựng CNXH và CNCS; nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng là tập trung dân chủ; Đảng liên hệ mật thiết với quần chúng công nông; lấy tự phê bình và phê bình làm quy luật phát triển...

Tuy nhiên, Đảng ta ra đời ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu, cho nên Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam. Hơn nữa, trong giai đoạn cách mạng hiện nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước đang đòi hỏi phải huy động được sự tham gia của tất cả các tầng lớp nhân dân lao động, của cả dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, không chỉ giai cấp công nhân mà tất cả các giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động đang ra sức phấn đấu thực hiện đường lối đổi mới của Đảng để xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Trong sự nghiệp này, Đảng không chỉ là đội tiên phong của giai cấp công nhân, mà thật sự còn là đội tiên phong dẫn đường cho cả nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam. Đảng cũng không chỉ thu nhận vào hàng ngũ của mình những công nhân ưu tú, mà còn thu hút vào Đảng tất cả những người ưu tú trong các giai cấp, tầng lớn nhân dân lao động trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.

Vậy nên sự thay đổi cách diễn đạt về tiêu chuẩn đảng viên này là cần thiết để hoàn thiện các quy định về tiêu chuẩn đảng viên, phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và yêu cầu xây dựng Đảng trong tình hình mới. Với sự sửa đổi, bổ sung này sẽ giúp Đảng hiệu triệu được đông đảo hơn nữa các tầng lớp nhân dân lao động tham gia vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, xây dựng Đảng, tăng cường mối liên hệ gắn bó máu thịt với nhân dân; đồng thời cũng nâng cao trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và toàn Đảng trước nhân dân, dân tộc.

2. Về quy định những điều đảng viên không được làm. 81,18% đại biểu đồng ý bổ sung vào khoản 2, Điều 2 nội dung: đảng viên phải: "Chấp hành Quy định của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm". Tuy đã có Điều lệ Đảng quy định quyền và trách nhiệm của đảng viên và các nguyên tắc tổ chức, hoạt động mà đảng viên phải thực hiện, nhưng đây là những quy định mang tính khái quát, không thể phản ánh những yêu cầu cụ thể của thực tiễn đối với đảng viên trong từng thời kỳ. Chính vì vậy, căn cứ vào tình hình cụ thể, Trung ương Đảng cần thiết phải có những quy định cụ thể về những điều đảng viên không được làm để định hướng hoạt động cho đảng viên, đồng thời tăng cường quản lý, giúp đảng viên phòng tránh những việc làm không đúng. Đến nay, Trung ương Đảng đã hai lần ban hành quy định về những điều đảng viên không được làm: Quy định số 19-QĐ/TW, ngày 3/1/2002 của Bộ Chính trị (khoá IX); Quy định số 115-QĐ/TW ngày 7/12/2007 của Bộ Chính trị về những điều đảng viên không được làm với 19 điều cấm. Tuy còn những điểm cần tiếp tục nghiên cứu, sửa chữa, hoàn thiện, nhưng các quy định đó đã góp phần tăng cường kỷ cương, kỷ luật của Đảng và giữ gìn phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, tính tiên phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng trong thời gian vừa qua. Với việc bổ sung quy định mang tính nguyên tắc về những điều đảng viên không được làm vào Điều lệ lần này sẽ tạo cơ sở pháp lý chặt chẽ cho các quy định đó được tiếp tục thi hành nghiêm túc, đồng thời không làm cho Điều lệ phải ghi những điều quy định quá cụ thể.

3. Về tính tuổi đảng của đảng viên. 82,78% đại biểu đồng ý bổ sung, sửa đổi Khoản 4, Điều 5 như sau: "Đảng viên đó được công nhận chính thức thì tuổi đảng của đảng viên tính từ ngày ghi trong quyết định kết nạp". Điều lệ Đảng trước đây quy định tuổi đảng của đảng viên tính từ ngày ghi trong quyết định công nhận đảng viên chính thức. Cách tính tuổi đảng này không phù hợp với ý nghĩa thiêng liêng của quyết định và lễ kết nạp đảng viên và không ghi nhận được cống hiến của đảng viên trong thời gian dự bị. Hơn nữa, trong điều kiện thực tế, nhiều đảng viên không giữ được quyết định công nhận đảng viên chính thức mà chỉ ghi nhớ ngày được quyết định kết nạp vào Đảng, do đó không ít trường hợp đã gặp khó khăn khi xác định tuổi Đảng của đảng viên. Với quy định mới: "Đảng viên đó được công nhận chính thức thì tuổi đảng của đảng viên tính từ ngày ghi trong quyết định kết nạp" sẽ nâng cao ý nghĩa quan trọng của ngày đảng viên được quyết định kết nạp vào Đảng, ghi nhận cống hiến của đảng viên trong thời gian dự bị, đồng thời góp phần làm đơn giản hóa một thủ tục hành chính, thuận tiện cho đảng viên cũng như tổ chức đảng xác định tuổi đảng của đảng viên.

4. Về lập tổ chức cơ sở đảng. 74,27% đại biểu đồng ý bổ sung, sửa đổi khoản 2, Điều 21 như sau: "Ở xã, phường, thị trấn có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức cơ sở đảng (trực thuộc cấp ủy cấp huyện). Ở cơ quan, doanh nghiệp, hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp, đơn vị quân đội, công an và các đơn vị khác có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức đảng (tổ chức cơ sở đảng hoặc chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở); cấp ủy cấp trên trực tiếp xem xét, quyết định việc tổ chức đảng đó trực thuộc cấp ủy cấp trên nào cho phù hợp".

Điều lệ Đảng do Đại hội X thông qua quy định: "Ở xã, phường, thị trấn, cơ quan, hợp tác xã, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp, đơn vị cơ sở trong quân đội, công an và các đơn vị cơ sở khác có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức cơ sở đảng;...". Quy định này không còn phù hợp với tình hình thực tế hiện nay, do công cuộc đổi mới đang thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, dẫn đến việc thành lập ngày càng nhiều tổ chức đảng trong các loại hình đơn vị cơ sở mới, nhất là ở các doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, làm cho cấp ủy cấp trên cơ sở phải trực tiếp quản lý quá nhiều tổ chức đảng có quy mô nhỏ. Với điều sửa đổi về lập tổ chức cơ sở đảng sẽ làm cho việc lập tổ chức đảng linh hoạt hơn, đáp ứng kịp thời yêu cầu mở rộng sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời vẫn bảo đảm sự chặt chẽ trong hệ thống tổ chức của Đảng.

5. Về nhiệm kỳ đại hội ở những nơi mới thành lập, chia tách, hợp nhất, sáp nhập trong nhiệm kỳ. Điều lệ mới bổ sung, sửa đổi Khoản 5, Điều 13 như sau: "Từ tổ chức cơ sở đảng đến đảng bộ trực thuộc Trung ương nếu được thành lập mới, chia tách, hợp nhất, sáp nhập trong nhiệm kỳ, thì cấp ủy cấp trên trực tiếp chỉ định cấp ủy chính thức; chỉ đạo xây dựng hoặc bổ sung nhiệm vụ cho phù hợp; nhiệm kỳ đầu tiên của các cấp ủy này không nhất thiết phải là 5 năm để nhiệm kỳ đại hội phù hợp với nhiệm kỳ đại hội của tổ chức đảng cấp trên".

Điều lệ Đảng do Đại hội X thông qua quy định đối với những trường hợp này thì "cấp uỷ cấp trên trực tiếp chỉ định cấp ủy lâm thời; chậm nhất trong vòng một năm kể từ ngày có quyết định chỉ định, tổ chức đảng đó phải tiến hành đại hội; nếu kéo dài thêm thời gian phải được cấp ủy cấp trên trực tiếp đồng ý". Thực tế cho thấy quy định như vậy làm cho hiệu lực lãnh đạo của cấp ủy lâm thời không cao, đồng thời phải chỉ đạo xử lý nhiều tình huống phát sinh về thời gian của nhiệm kỳ đầu tiên. Qua kiện toàn tổ chức đảng trong quá trình thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa X) vừa qua cho thấy, các tổ chức đảng từ tổ chức cơ sở đảng đến đảng bộ trực thuộc Trung ương nếu được thành lập mới, chia tách, hợp nhất, sáp nhập trong nhiệm kỳ, thì cấp uỷ cấp trên trực tiếp chỉ định cấp ủy chính thức; chỉ đạo xây dựng hoặc bổ sung nhiệm vụ cho phù hợp là cách làm hiệu quả, hợp với tâm tư của cán bộ, đảng viên. Mặt khác, với việc quy định rõ “nhiệm kỳ đầu tiên của các cấp ủy này không nhất thiết phải là 5 năm để nhiệm kỳ đại hội phù hợp với nhiệm kỳ đại hội của tổ chức đảng cấp trên” sẽ tạo cơ chế tự động cho việc xử lý các vấn đề liên quan đến thời gian của nhiệm kỳ đầu tiên cho phù hợp với nhiệm kỳ đại hội của tổ chức đảng cấp trên, khắc phục tình trạng vận dụng tùy tiện.

6. Về thí điểm một số chủ trương mới. Đại đa số (90,12%) đại biểu Đại hội XI đồng ý bổ sung Điều 16 quy định: "Ban Chấp hành Trung ương căn cứ tình hình thực tế quyết định chỉ đạo thí điểm một số chủ trương mới". Thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn là quy luật tồn tại, phát triển của đảng cộng sản, nhất là trong điều kiện là Đảng cầm quyền duy nhất. Hơn nữa, nhận thức cũng như thực tiễn là quá trình vận động, phát triển không ngừng, do đó những quy định trong Điều lệ Đảng không thể phản ánh kịp thời những yêu cầu phát triển trong suốt một nhiệm kỳ 5 năm. Thực tế vừa qua cho thấy, có thể ngay sau Đại hội đã xuất hiện những vấn đề mới đòi hỏi Đảng phải có những chủ trương mới. Tuy nhiên, để có đủ cơ sở khoa học đề ra những chủ trương mới đó rất cần phải làm thí điểm. Chính vì vậy, việc bổ sung vào Điều lệ quy định: "Ban Chấp hành Trung ương căn cứ tình hình thực tế quyết định chỉ đạo thí điểm một số chủ trương mới" là cần thiết để tạo hành lang pháp lý cho việc đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, đáp ứng kịp thời yêu cầu của tình hình mới.

7. Về chức năng, nhiệm vụ của ban cán sự đảng, đảng đoàn. Trong các Điều 42, 43, Điều lệ mới không quy định ban cán sự đảng, đảng đoàn trực tiếp thực hiện nhiệm vụ kiểm tra việc chấp hành đường lối, chính sách của Đảng mà chỉ lãnh đạo công tác kiểm tra.

Ban cán sự đảng, đảng đoàn là những tổ chức đảng có tính chất đặc biệt của Đảng, do cấp ủy cùng cấp thành lập, nhằm thực hiện hoặc tăng cường sự lãnh đạo đối với những cơ quan, tổ chức có vị trí quan trọng, có tính đặc thù. Đảng đoàn chủ yếu được thành lập trong các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội cấp Trung ương và cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, do bầu cử lập ra, như: Đảng đoàn Quốc hội, Mặt trận... Ban cán sự đảng thành lập trong các cơ quan hành pháp và tư pháp cấp trung ương và cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, như: Ban cán sự đảng Chính phủ, các bộ, Tòa án, Viện kiểm sát, ủy ban nhân dân tỉnh. Ban cán sự đảng, đảng đoàn chỉ bao gồm một số đảng viên là cán bộ lãnh đạo chủ chốt của cơ quan, đơn vị mà không có bộ máy giúp việc chuyên trách như cấp ủy, do đó, trong thực tế, các ban cán sự, đảng đoàn không trực tiếp thực hiện được nhiệm vụ kiểm tra. Chính vì vậy, việc quy định ban cán sự đảng, đảng đoàn trực tiếp thực hiện nhiệm vụ kiểm tra việc chấp hành đường lối, chính sách của Đảng là không phù hợp. Với sửa đổi không quy định ban cán sự đảng, đảng đoàn trực tiếp thực hiện nhiệm vụ kiểm tra việc chấp hành đường lối, chính sách của Đảng mà chỉ lãnh đạo công tác kiểm tra là phù hợp với thực tế, góp phần bảo đảm tính chặt chẽ của Điều lệ.

8. Về thẩm quyền kỷ luật đảng viên. Đại hội X đã giao cho chi bộ quyền thi hành kỷ luật khiển trách, cảnh cáo đối với tất cả đảng viên, kể cả cấp ủy viên các cấp, đảng viên là cán bộ diện cấp ủy cấp trên quản lý khi vi phạm về phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, sinh hoạt Đảng, thực hiện nhiệm vụ đảng viên (trừ nhiệm vụ do cấp trên giao), trong khi đó, cấp uỷ cấp huyện và tương đương trở lên lại chưa được giao thẩm quyền này. Để khắc phục sự bất hợp lý đó, với 63,44% đại biểu đồng ý, Đại hội XI quyết định sửa đổi khoản 2, 3, Điều 36 để bổ sung thẩm quyền kỷ luật đảng viên cho cấp uỷ từ cấp huyện và tương đương trở lên.

Điều lệ mới giao cho cấp uỷ tỉnh, thành, huyện, quận và tương đương thẩm quyền quyết định kỷ luật khiển trách, cảnh cáo cấp uỷ viên các cấp, đảng viên thuộc diện cấp uỷ cấp trên quản lý vi phạm phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, sinh hoạt đảng, thực hiện nhiệm vụ đảng viên; quyết định kỷ luật khiển trách, cảnh cáo cấp uỷ viên cùng cấp vi phạm nhiệm vụ do cấp ủy giao; giao cho ban thường vụ cấp ủy thẩm quyền quyết định khiển trách, cảnh cáo cấp ủy viên các cấp, đảng viên thuộc diện cấp ủy cấp trên quản lý vi phạm phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, sinh hoạt đảng, thực hiện nhiệm vụ đảng viên, cán bộ diện cấp ủy cấp trên quản lý vi phạm nhiệm vụ chuyên môn được giao; giao cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư quyết định các hình thức kỷ luật đảng viên, kể cả đảng viên là ủy viên Ban Chấp hành Trung ương vi phạm phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, sinh hoạt đảng, thực hiện nhiệm vụ đảng viên.

9. Về Đảng lãnh đạo Quân đội nhân dân và Công an nhân dân. Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là hai lực lượng vũ trang trọng yếu, bởi vậy, Đảng lãnh đạo Quân đội nhân dân và Công an nhân dân tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt. Tuy nhiên, trong các bản Điều lệ trước đây chưa quy định rõ một số vấn đề cơ bản trong nguyên tắc này, như: trách nhiệm lãnh đạo Quân đội nhân dân và Công an nhân dân của Trung ương Đảng, trách nhiệm của Nhà nước, thể chế hóa vị trí, vai trò của người đứng đầu tổ chức đảng trong cơ cấu lãnh đạo Quân đội nhân dân và Công an nhân dân. Trước yêu cầu đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, những thiếu sót đó cần được khắc phục. Với 80,16% đại biểu đồng ý, Đại hội XI bổ sung hai nội dung vào khoản 1, Điều 25: 1) sự lãnh đạo của Đảng được tập trung thống nhất vào Ban Chấp hành Trung ương mà trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư; Đảng quyết định những vấn đề cơ bản xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân; 2) Nhà nước thống nhất quản lý đối với Quân đội, Công an và sự nghiệp quốc phòng, an ninh theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.

Đại hội cũng quyết định sửa đổi Điều 26, 27, bổ sung quy định thống nhất cách gọi tên cơ quan lãnh đạo của Đảng trong Quân đội ở Trung ương là “Quân ủy Trung ương” thay cho cách dùng tên gọi trước đây: “Đảng uỷ Quân sự Trung ương”; quy định rõ đồng chí Tổng Bí thư là Bí thư Quân ủy Trung ương, đồng chí bí thư cấp ủy địa phương trực tiếp làm bí thư đảng ủy quân sự cùng cấp./.

(Theo Tạp chí Lý luận Chính trị)

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng

(ĐCSVN) - Ngày 10/10, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký Quyết định số 190-QĐ/TW về việc ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng.

Kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công

(ĐCSVN) - Bộ Chính trị vừa ban hành Quy định số 189-QĐ/TW ngày 08/10/2024 về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công.

Bộ Chính trị ban hành quy định phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong điều tra, xét xử

(ĐCSVN) – Ngày 27/10/2023, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 132-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Tập trung tuyên truyền những chủ đề lớn, trọng tâm từ nay đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng

(ĐCSVN) - Ban Tuyên giáo Trung ương yêu cầu thông tin chính xác, kịp thời với nhiều hình thức linh hoạt, sáng tạo, phong phú, sinh động gắn với tuyên truyền đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và tuyên truyền kỷ niệm các ngày lễ lớn, sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước trong năm 2024, 2025.

Quy trình kỷ luật đảng viên thuộc thẩm quyền của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư

(ĐCSVN) - Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường vừa ký Quyết định số 165-QĐ/TW ngày 6/6/2024 của Bộ Chính trị ban hành Quy trình xem xét, thi hành kỷ luật đối với tổ chức Đảng, đảng viên thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Liên kết website