Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính trong giai đoạn mới theo tinh thần Đại hội XI của Đảng Hiếu Giang - Tạp chí Cộng sản

1. Quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ của cải cách hành chính ở nước ta đã được đề cập trong các văn kiện Hội nghị Trung ương 8 khoá VII, Hội nghị Trung ương 3 và 7 khoá VIII, trong các nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, IX và X. Hội nghị Trung ương 8 khoá VII xác định cải cách nền hành chính là nhiệm vụ trọng tâm của việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước đã đề ra mục tiêu: xây dựng một nền hành chính trong sạch, có đủ năng lực, sử dụng đúng quyền lực và từng bước hiện đại hóa để quản lý có hiệu lực, hiệu quả công việc của nhà nước, thúc đẩy xã hội phát triển lành mạnh, đúng hướng, phục vụ đắc lực đời sống nhân dân, xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong xã hội.

Nền hành chính trong hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước có chức năng trực tiếp tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, luật pháp và nghị quyết của Quốc hội. Thực tiễn cho thấy, có chính sách và pháp luật đúng chưa đủ, cần phải có nền hành chính mạnh, có hiệu lực thì chính sách và luật pháp mới đi vào cuộc sống. Hơn nữa, trong quá trình tổ chức thực hiện nền hành chính còn góp phần tích cực vào việc bổ sung, phát triển chính sách, pháp luật. Các cơ quan hành chính là các cơ quan trực tiếp xử lý công việc hằng ngày của nhà nước, thường xuyên tiếp xúc với dân giải quyết các yêu cầu của dân, là cầu nối quan trọng giữa Đảng, Nhà nước với dân, nhân dân đánh giá chế độ, đánh giá Đảng trước hết là thông qua hoạt động của bộ máy hành chính.

Cải cách hành chính ngoài yêu cầu của đổi mới phát triển đất nước, công nghiệp hóa, hiện đại hóa xây dựng nền kinh tế thị trường mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, cải cách nền hành chính còn do yêu cầu bức xúc của người dân: không muốn bị phiền hà, sách nhiễu; được pháp luật bảo vệ... Nền hành chính có trách nhiệm chính trong việc đáp ứng yêu cầu đó. Không phải ngẫu nhiên Trung ương Đảng đi ra mục tiêu, nhiệm vụ của cải cách hành chính, xây dựng nền hành chính dân chủ phục vụ đắc lực nhân dân; cải cách hành chính là để giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cơ quan hành chính với tổ chức và nhân dân. Đây là vấn đề liên quan đến bản chất của nền hành chính nhà nước ta - Nền hành chính trong nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, nhân dân là chủ thể duy nhất và tối cao của quyền lực nhà nước.

Cải cách hành chính từ khi có Nghị quyết Trung ương 8 khóa VII đến nay được triển khai trên tất cả các cấp hành chính theo hướng đơn giản hóa, tạo môi trường thuận lợi, thông thoáng cho sự phát triển kinh tế - xã hội; bảo đảm lợi ích chính đáng và quyền làm chủ của nhân dân. Tập trung rà soát, loại bỏ những quy định, những thủ tục không phù hợp, không cần thiết, gây phiền hà, sách nhiễu, khó khăn cho người dân và doanh nghiệp. Đồng thời sửa đổi, bổ sung những quy định và cơ chế chính sách, tạo thuận lợi cho sản xuất kinh doanh của Doanh - Dân, cải thiện môi trường đầu tư, xây dựng, cấp các loại giấy phép, quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản, giải quyết nhanh và có kết quả các yêu cầu chính đáng của người dân, qua đó cải thiện mối quan hệ giữa các cơ quan hành chính nhà nước với nhân dân, lấy lại niềm tin của nhân dân đối với các cơ quan và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước.

Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng ta đã chỉ rõ sự cần thiết phải tiến hành cải cách hành chính, coi đây là một giải pháp quan trọng góp phần đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Chúng ta đã tiến hành cải cách hành chính từng bước thận trọng và đã thu được nhiều kết quả rất đáng khích lệ. Cải cách hành chính ở Việt Nam được triển khai trên nhiều nội dung: cải cách thể chế, cải cách tổ chức bộ máy hành chính, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, cải cách tài chính công, hiện đại hóa nền hành chính, trong đó cải cách thủ tục hành chính là một khâu quan trọng và được đặt ra ngay từ giai đoạn đầu của tiến trình cải cách. Thủ tục hành chính không chỉ liên quan đến công việc nội bộ của một cơ quan, một cấp chính quyền, mà còn đến các tổ chức và công dân trong mối quan hệ với Nhà nước. Các quyền, nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp hay ở các văn bản pháp luật khác có được thực hiện hay không, thực hiện như thế nào về cơ bản đều phải thông qua thủ tục hành chính do các cơ quan, các cấp chính quyền nhà nước quy định và trực tiếp giải quyết. Nhận rõ mục đích, ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác cải cách thủ tục hành chính, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 38/CP ngày 4 tháng 5 năm 1994 về cải cách một bước thủ tục hành chính mà mục tiêu quan trọng là hướng đến việc giải quyết tốt hơn các công việc của công dân, tổ chức đặc biệt là cộng đồng doanh nghiệp. Yêu cầu của Nghị quyết là “nhằm tạo bước chuyển căn bản trong quan hệ và thủ tục giải quyết công việc giữa các cơ quan nhà nước với nhau, giữa cơ quan nhà nước với tổ chức xã hội và giữa cơ quan nhà nước với công dân”. Cùng với yêu cầu phát triển và hội nhập, cải cách thủ tục hành chính ở nước ta từng bước được định hình về nội dung, phương hướng triển khai với những bước đi, cách làm nhằm bảo đảm bộ máy hành chính phục vụ tốt hơn nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.

Trên lộ trình thực hiện Nghị quyết số 38/CP, cơ chế một cửa đã được thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh và sau đó là tại nhiều địa phương khác. Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 – 2010 ban hành kèm theo Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17 tháng 9 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ đã xác định phải đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính với mục tiêu cơ bản là: Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính nhằm bảo đảm tính pháp lý, hiệu quả, minh bạch và công bằng trong khi giải quyết công việc hành chính. Loại bỏ những thủ tục rườm rà, chồng chéo dễ bị lợi dụng để tham nhũng, gây khó khăn cho dân. Mở rộng cải cách thủ tục hành chính trên tất cả các lĩnh vực, xóa bỏ kịp thời những quy định không cần thiết về cấp phép và thanh tra, kiểm tra, kiểm soát, kiểm định, giám định. Trên tinh thần đó, những năm qua công tác cải cách thủ tục hành chính trở thành nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt trong chương trình công tác của Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương. Nghị quyết Trung ương 5 Khoá X về tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước đã nêu rõ: Tập trung đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, xem đây là khâu đột phá để tạo môi trường thuận lợi, minh bạch cho mọi hoạt động của người dân và doanh nghiệp, phải tiến hành rà soát các thủ tục hành chính trên tất cả các lĩnh vực, chỉ rõ những thủ tục, những quy định sai trái, không phù hợp và nguyên nhân cụ thể để kiên quyết sửa đổi. Đây là khâu cản trở sự phát triển và gây nhiều bức xúc trong nhân dân, phải tập trung chỉ đạo tạo sự chuyển biến nhanh trong lĩnh vực này. Thực hiện Nghị quyết Trung ương, việc tiếp tục cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính gắn với việc thực hiện cơ chế “một cửa” đã được triển khai mạnh và thu được những kết quả bước đầu tích cực. Các bộ, ngành và địa phương đã tích cực rà soát, sửa đổi một số thủ tục hành chính liên quan nhiều đến người dân, doanh nghiệp, những vấn đề bức xúc đã được sửa đổi theo hướng đơn giản hoá, thuận tiện. Đặc biệt, thủ tục hành chính trên những lĩnh vực bức xúc, liên quan trực tiếp tới người dân và doanh nghiệp như đất đai, xây dựng, hộ tịch, hộ khẩu, đầu tư, đăng ký doanh nghiệp, hải quan, thuế, kho bạc, xuất nhập khẩu v.v... đã được rà soát nhiều lần, loại bỏ những thủ tục hành chính phức tạp, gây phiền hà, bước đầu tạo lập lại niềm tin của người dân và doanh  nghiệp vào hoạt động phục vụ của các cơ quan công quyền.

Những kết quả tích cực đã đạt được của cải cách hành chính là đáng ghi nhận: bộ mặt của nền hành chính nhà nước đã bước đầu thay đổi, hướng tới phục vụ dân; xã hội, hệ thống thể chế được xây dựng và hoàn thiện hơn, tổ chức bộ máy tinh gọn hơn và chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức được nâng lên một bước, cải cách hành chính đã thực sự góp phần vào những thành tựu phát triển kinh tề - xã hội, ổn định chính trị và trật tự xã hội ở nước ta trong thời gian qua. Tuy nhiên, vẫn còn những mặt hạn chế:

Tốc độ cải cách hành chính còn chậm, chưa nhất quán, hiệu quả còn thấp so với mục tiêu đặt ra là “đến năm 2010 xây dựng được một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại”. Nhìn một cách tổng thể, những kết quả đạt được chưa tương xứng với yêu cầu, quy mô đổi mới toàn diện theo tinh thần Nghị quyết của Đảng và mục tiêu chung mà chương trình tổng thể đề ra; kết quả đạt được chưa bền vững.

Hệ thống thể chế thiếu đồng bộ, thống nhất, còn chồng chéo, đảm bảo về số lượng nhưng chất lượng còn hạn chế; Có sự giảm đầu mối trực thuộc Chính phủ, nhưng bộ máy bên trong các bộ, ngành còn chưa giảm. Bộ máy  chính quyền địa phương thiếu ổn định, thường xuyên thay đổi. Thiếu quy hoạch tổng thể đơn vị hành chính các cấp. Công tác kiểm tra sau phân cấp còn buông lỏng.

Chưa xây dựng cơ cấu cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính và thực hiện chưa tốt việc đào tạo trước khi bổ nhiệm; chưa có cơ chế quy định trách nhiệm của người đứng đầu và đánh giá được chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức sau đào tạo; công tác cải cách tiền lương còn chậm; Cải cách tài chính công thực hiện mới chỉ là bước đầu, kết quả đạt được còn hạn chế. Các thể chế về cải cách tài chính công chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời cho phù hợp với thực tế.

Áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001- 2000 vào hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước theo Quyết định số 144/2006/QĐ-TTg ngày 20-6-2006 của Thủ tướng Chính phủ đạt được còn hạn chế. Việc hiện đại hoá công sở không đồng bộ, dẫn tới manh mún, phân tán. Kết quả đầu tư xây dựng trụ sở xã vẫn chưa thực hiện được như Chương trình tổng thể đề ra, ứng dụng công nghệ thông tin không đạt mục tiêu của Chương trình tổng thể.

2. Tiếp tục cải cách hành chính trong giai đoạn mới theo tinh thần Nghị quyết XI của Đảng

Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ XI của Đảng gần 20 lần nói đến vấn đề cải cách hành chính. Điều này cho thấy Đảng ta đặc biệt quan tâm đến vấn đề này. Quan điểm chỉ đạo của Đại hội XI là: “Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập mới trường cạnh tranh lành mạnh và cải cách hành chính”(1), “bãi bỏ các thủ tục hành chính gây phiền hà cho tổ chức và công dân”(2), “tiếp tục hoàn thiện và đẩy mạnh cải cách hành chính phục vụ phòng, chống tham nhũng lãng phí, tập trung vào các lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng, lãng phí”(3), “đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong Đảng khắc phục tình trạng rườm rà, bất hợp lý về thủ tục”(4), “đẩy mạnh cải cách lập pháp, hành pháp và tư pháp”(5), “thực hiện chương trình tổng thể cải cách hành chính và hiện đại hóa nền hành chính quốc gia”(6).

Từ quan điểm trên của Đảng, Chương trình cải cách hành chính giai đoạn 2011-2020 là vấn đề chiến lược. Vì vậy, các nội dung cải cách phải bảo đảm tính hệ thống, tính khả thi của quá trình xây dựng một nền hành chính mới, một mô hình tổ chức hành chính phù hợp với thời kỳ phát triển mới, hội nhập của đất nước. Do đó, trong thời gian tới, các nội dung cần ưu tiên, tập trung thực hiện là:

Một là, tiếp tục hoàn chỉnh thể chế quản lý nhà nước mới bảo đảm tính đồng bộ, tính hệ thống, tính khả thi của thể chế pháp luật gắn với mục tiêu cải cách, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, bảo đảm công khai, minh bạch và tính dễ áp dụng trong thực hiện các quan hệ nhà nước với dân. Công chức và cơ quan nhà nước chỉ được phép làm những gì mà pháp luật quy định.

- Hai loại thể chế tiếp tục được ưu tiên hoàn chỉnh là: thứ nhất, thể chế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - hội nhập kinh tế quốc tế; thứ hai, thể chế tổ chức, vận hành của bộ máy Chính phủ và chính quyền các cấp phù hợp.

- Tiếp tục thực hiện Đề án 30, điều chỉnh hợp lý các quy định về thủ tục hành chính trong các văn bản luật, pháp lệnh và pháp quy của Chính phủ tới năm 2012, kiểm soát chặt chẽ các quy định về thủ tục hành chính trong các văn bản pháp luật mới ban hành. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế “một cửa – liên thông và hiện đại” ở tất cả các cấp.

- Sớm ban hành Luật trưng cầu dân ý; Luật về quyền được cung cấp thông tin của dân; Luật về tổ chức xã hội.

Hai là, tiếp tục cải cách, cơ cấu lại Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ và chính quyền địa phương các cấp.

- Xác định rõ nội dung, quyền, trách nhiệm quản lý hành chính vĩ mô của Chính phủ, làm rõ nhiệm vụ của tập thể Chính phủ, vai trò, nhiệm vụ, thẩm quyền trách nhiệm của cá nhân Thủ tướng Chính phủ trong thực hiện quyền hành pháp - hành chính mới.

- Tổ chức bộ máy Chính phủ nhỏ, các bộ, cơ quan ngang bộ với số lượng khoảng 20 theo mô hình tổ chức bộ đa ngành, đa lĩnh vực có chức năng quản lý nhà nước thống nhất về ngành, lĩnh vực trong phạm vi cả nước và cơ cấu Chính phủ phù hợp để ổn định lâu dài cho quản lý phát triển. Xác định rõ vai trò của bộ trưởng, là người đứng đầu hành chính về ngành, lĩnh vực và trách nhiệm tham gia hoạt động chung của Chính phủ với tư cách thành viên Chính phủ.

- Kiên quyết tách chức năng quản lý hành chính nhà nước của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bộ, bộ trưởng khỏi chức năng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước, sự nghiệp, dịch vụ công của các tổ chức sự nghiệp theo yêu cầu độc lập và tự chủ theo pháp luật. Chính phủ tổ chức cơ quan chuyên trách quản lý thống nhất các doanh nghiệp nhà nước. Chính phủ không điều hành nền kinh tế thị trường mà giữ vai trò định hướng chiến lược, tạo khuôn khổ thể chế cho kinh tế mọi thành phần phát triển, kiểm soát, điều tiết và can thiệp vào nền kinh tế khi cần thiết. Đây là bản chất quản lý nhà nước phù hợp với nền kinh tế thị trường.

- Thực hiện tổ chức lại chính quyền địa phương theo 2 cấp chính quyền địa phương hoàn chỉnh có hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân tại tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cơ sở xã, thị trấn, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và một cấp hành chính ở huyện, quận, phường có ủy ban hành chính.

- Tiến hành phân công, phân cấp mạnh hơn cho các cấp chính quyền để phát huy vai trò chủ động, tích cực, sáng tạo và tự chịu trách nhiệm của chính quyền từng cấp trong thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước và phát triển trên địa bàn. Sớm có bộ luật về phân cấp - phân quyền.

Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức bảo đảm chất lượng theo hướng chuyên nghiệp, có chế độ tiền lương tương xứng.

- Tập trung rà soát đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan chính quyền các cấp căn cứ vào tiêu chuẩn chức danh công chức mới theo vị trí làm việc của công chức. Tiến hành cơ cấu lại công chức các cấp làm cơ sở cho tiếp tục tinh giản biên chế, đồng thời tuyển chọn, bổ sung lực lượng công chức mới bảo đảm các tiêu chuẩn vị trí công chức.

- Tiến hành cải cách cơ bản tiền lương và thu nhập của công chức có sức cạnh tranh với khu vực tư. Đây là vấn đề có tính đột phá của việc nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, là động lực của công chức trong thực thi công vụ một cách tận tụy, trung thành với ý thức trách nhiệm phục vụ cao, thực sự là “công bộc” của dân.

- Thực hiện triệt để thi tuyển cạnh tranh đầu vào công chức và thi tuyển vào các vị trí lãnh đạo, quản lý các cấp để thực sự tuyển chọn được người tài, có năng lực, phẩm chất vào nền công vụ. Chấm dứt việc tuyển chọn, bổ nhiệm vào công chức rồi mới đi học. Thực hiện đào tạo, bồi dưỡng tiền công vụ và trước bổ nhiệm và chức vụ lãnh đạo, quản lý. Xây dựng quy định về chế độ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hằng năm trong nền công vụ về nghiệp vụ, về kỹ năng hành chính và các chủ trương, chính sách mới.

Bốn là, về cải cách tài chính công.

Vấn đề sử dụng tài chính công có hiệu quả là yêu cầu của cải cách nền hành chính, giai đoạn này cần ưu tiên vào một số nội dung:

- Làm rõ nội dung quản lý ngân sách, thẩm quyền, trách nhiệm cụ thể của từng cấp ngân sách tương ứng với từng cấp chính quyền (bộ, ngành, tỉnh, cơ sở) trong việc tổ chức thu, chi ngân sách.

- Xây dựng được chế độ dự toán ngân sách theo kết quả đầu ra và mục tiêu quản lý của từng đơn vị hành chính, khắc phục việc cấp ngân sách theo biên chế.

- Tiến hành cải cách, cơ cấu lại ngân sách nhà nước theo hướng hợp lý, khoa học, được sử dụng đúng và hiệu quả; điều chỉnh cơ cấu giữa đầu tư cơ sở hạ tầng, nhiệm vụ quốc phòng an ninh, xóa đói giảm nghèo với chi thường xuyên cho bộ máy quản lý và chi tiền lương công chức xứng đáng.

- Hoàn thiện chế độ kiểm toán nhà nước, kiểm soát độc lập và kiểm toán nội bộ bất kỳ cơ quan, tổ chức nào có sử dụng ngân sách nhà nước.

Năm là, hiện đại hóa nền hành chính.

- Chuẩn hóa theo tiêu chuẩn, từng bước hiện đại hóa trụ sở làm việc của các cơ quan, tổ chức nhà nước các cấp. Hoàn chỉnh các mẫu quy hoạch, thiết kế trụ sở từ cấp xã, cấp huyện, cấp tỉnh và bộ, ngành trung ương theo hướng tổ chức các trung tâm hành chính, tạo thuận lợi cho người dân tới giải quyết công việc, lấy vị trí giao dịch thuận lợi với dân làm trung tâm của các trụ sở, tập trung vào nơi tổ chức giao dịch “một cửa liên thông - hiện đại”.

- Áp dụng triệt để việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý hành chính các cấp làm cơ sở cho việc tổ chức, chỉ đạo, điều hành kịp thời, chính xác các nhiệm vụ giữa các cấp chính quyền từ trung ương tới cơ sở và được xử lý một cách hệ thống. Mặt khác, ứng dụng công nghệ thông tin để thực hiện công khai, minh bạch các chính sách, pháp luật và quy định hành chính với người dân, tổ chức, doanh nghiệp, tạo điều kiện nhanh nhất trong việc giải quyết các công việc của dân, tránh các biểu hiện sách nhiễu, phiền hà và tham nhũng./.

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Các tin khác

Chỉ thị của Ban Bí thư về về đổi mới công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn

(ĐCSVN) - Ngày 10/7, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường đã ký ban hành Chỉ thị số 37-CT/TW về đổi mới công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.

Nghị định quy định mức lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang

(ĐCSVN) - Nghị định này quy định mức lương cơ sở áp dụng quy định mức lương cơ sở và chế độ tiền thưởng đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang. Theo đó, từ ngày 1/7/2024, mức lương cơ sở là 2,34 triệu đồng/tháng thay cho mức 1,8 triệu đồng/tháng như hiện tại.

Quy trình kỷ luật đảng viên thuộc thẩm quyền của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư

(ĐCSVN) - Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường vừa ký Quyết định số 165-QĐ/TW ngày 6/6/2024 của Bộ Chính trị ban hành Quy trình xem xét, thi hành kỷ luật đối với tổ chức Đảng, đảng viên thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Về thẩm quyền của người đứng đầu trong việc tạm đình chỉ công tác với cán bộ cấp dưới

(ĐCSVN) - Ngày 23/5/2024, đồng chí Lương Cường đã ký ban hành Quy định 148-QĐ/TW về thẩm quyền của người đứng đầu trong việc tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ cấp dưới trong trường hợp cần thiết hoặc khi có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Bộ Chính trị ban hành quy định phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong điều tra, xét xử

(ĐCSVN) – Ngày 27/10/2023, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 132-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Liên kết website