PGS, TS. Phùng Đức Thắng
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
Khoan dung là một truyền thống lâu đời của dân tộc Việt Nam. Đó là tình thương yêu vô hạn đối với con người: những cụ già cô đơn, trẻ em cơ nhỡ và tật nguyền, những số phận không may mắn, những cảnh đời oan nghiệt... Đó cũng là tấm lòng bao dung, độ lượng, không chỉ với những kẻ đã một thời lầm lỗi mà cả với kẻ thù nghịch, chống đối. Đối với nhân dân: "Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ, bền gốc. Đó là thượng sách giữ nước" (Trần Hưng Đạo). Đối với kẻ thù đã quy hàng: "Lấy khoan hồng để bụng hiếu sinh", (Nguyễn Trãi). Trải qua hàng nghìn năm đấu tranh giải phóng và giữ nước, nó đã được thử thách, phát huy tác dụng trong đời sống xã hội và làm giàu thêm những giá trị truyền thống của Việt Nam. Khoan dung Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống khoan dung của dân tộc kết hợp với tinh hoa thời đại. Sự kế thừa và kết hợp đó đã làm thắm đượm thêm truyền thống khoan dung của con người Việt Nam và nâng truyền thống đó lên một tầm cao mới. Khoan dung Hồ Chí Minh là một nét đặc sắc trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh và là một lợi khí đầy hiệu quả trong cuộc đấu tranh vì mục tiêu cao đẹp của sự nghiệp cách mạng.
Ra đi tìm đường cứu nước trong nỗi đau vô hạn của người dân nô lệ, từ chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin và tìm ra con đường giải phóng dân tộc. Trong những tháng năm dừng chân tại nhiều nước châu Âu, châu Phi và Mỹ Latinh, hòa mình trong cuộc sống của những người lao động, từ nỗi đau đồng bào, Người thấu hiểu thêm nỗi đau nhân loại. Người viết: "dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái mà thôi: tình hữu ái là thật vô sản"1. Giải phóng dân tộc, giải phóng con người trở thành mục tiêu cao cả trong suốt cuộc đời hoạt động, đấu tranh cách mạng của Hồ Chí Minh. Người thấu hiểu sâu sắc giá trị của con người, trước hết là con người Việt Nam. Để tập hợp đông đảo lực lượng quần chúng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, Người chủ trương thức tỉnh cả đến phần ít ỏi của lương tri còn sót lại trong những con người tội lỗi.
Cách mạng Tháng Tám thành công, Người tha thiết kêu gọi đồng bào cả nước tham gia xây dựng đất nước, đấu tranh chống thù trong giặc ngoài để giữ vững và củng cố những thành quả cách mạng đã giành được. Trong bài Khoan hồng mà không nhu nhược, ký bút danh Chiến Thắng, Người viết: "Đối với quan lại cũ, trừ những bọn đại gian, đại ác, Chính phủ Cộng hòa ta cũng tỏ ra một lượng không để tâm moi ra những tội cũ đem làm án mới làm gì"2. Người mời những quan chức trong chế độ cũ tham gia điều hành công việc quốc gia. Người đề nghị Vĩnh Thụy (Bảo Đại) - một ông vua đã gắn bó sâu nặng với chế độ thực dân, và giám mục Lê Hữu Từ, người vẫn âm thầm nuôi dưỡng tư tưởng chống cộng, làm cố vấn cho Chính phủ. Trong năm đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhiều khuôn mặt tiêu biểu của các tổ chức đối lập giữ những trọng trách trong Chính phủ và Quốc hội như Nguyễn Hải Thần (Phó Chủ tịch Chính phủ), Nguyễn Tường Tam (Bộ trưởng Bộ Ngoại giao), Vũ Hồng Khanh (Phó Chủ tịch Quân sự ủy viên hội), Cung Đình Quỳ, Trịnh Quốc Quang, Đàm Quang Thiện, Dương Văn Dư (Ủy viên Ban Thường trực Quốc hội). Người cho đưa Ngô Đình Diệm đang bị giam giữ tại Tuyên Quang về Hà Nội và đề nghị cộng tác với chính quyền cách mạng3. Nhiều vị nguyên là khâm sai đại thần, bộ trưởng, tỉnh trưởng... dưới chế độ cũ đã hăng hái hòa nhập vào cuộc chiến đấu của toàn dân tộc. Đó là một chủ trương sáng suốt của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh để thực hiện sách lược thêm bạn, bớt thù nhằm quy tụ đông đảo các chính khách, các tầng lớp xã hội phụng sự cho nền độc lập của nước nhà. Đồng thời, đó cũng là những biểu hiện cao đẹp của chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh. Trong những lần gặp gỡ, tiếp xúc, trong thư từ, điện văn, lời kêu gọi đồng bào cả nước, Người đều dành những lời tâm huyết nhắn gửi tới tất cả những ai còn chưa tham dự vào công việc chung. Ngày 31-5-1946, trong Thư gửi đồng bào Nam Bộ trước khi lên đường sang thăm nước Pháp và dự Hội nghị Phôngtennơblô, Người viết: "Tôi khuyên đồng bào đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi. Năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc chắn sẽ vẻ vang"4. Người đã chấp nhận 70 đại biểu của các tổ chức đối lập trong Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không thông qua bầu cử. Phần lớn trong số họ đã không chọn con đường hợp với đạo lý làm người. Có kẻ còn lợi dụng chức vụ để mưu cầu lợi ích cá nhân, tiếp tục con đường phản dân, hại nước. Tuy vậy, cũng có người đã nhận ra chân lý và hăng hái hòa nhập vào cuộc sống kháng chiến của toàn dân tộc, xứng đáng là đại biểu chân chính cho quyền lợi của nhân dân. Người kiên quyết giữ vững những vấn đề về nguyên tắc nhưng cũng vô cùng nhân từ, độ lượng. Tại kỳ họp thứ hai của Quốc hội khóa I, tháng 11-1946, Người nói: "Về ông Phó chủ tịch Nguyễn Hải Thần, ông Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Tường Tam và về ông Phó Chủ tịch Quân ủy hội Vũ Hồng Khanh... các ông ấy không có mặt ở đây... Lúc nước nhà đương gặp bước khó khăn, quốc dân tin ở người nào trao cho người ấy công việc lớn mà các ông ấy lại bỏ đi thì các ông ấy phải hỏi lương tâm thế nào? Những người đã bỏ việc đi kia. Họ không muốn gánh vác việc nước nhà hoặc họ cũng không đủ năng lực mà gánh vác! Nay chúng ta không có họ ở đây, chúng ta cũng cứ gánh vác được như thường... Nhưng nếu các anh em ấy biết nghĩ lại, dối không nổi với lương tâm, với đồng bào, với Tổ quốc mà trở về, thì chúng ta vẫn hoan nghênh"5. Đối với những người đối lập, những người lầm đường lạc lối, Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên trì giáo dục, cảm hóa họ trở về với lẽ phải, với chính nghĩa. Cũng có trường hợp sự cảm hóa, giáo dục của Người tuy không thay đổi được tâm địa của những kẻ đã cố tình quay lưng lại với dân tộc, những đã góp phần quan trọng hạn chế sự phá hoại của họ. Điều đó càng làm cho mọi người thấy rõ hơn lòng độ lượng, khoan dung của Người.
Về mặt đối ngoại, mặc dù đã biết rõ bản chất chống cộng của tập đoàn Tưởng Giới Thạch, nhưng khi quân Tưởng mang danh nghĩa Đồng minh ồ ạt kéo vào Việt Nam giải giáp quân đội Nhật và đưa ra hàng loạt những yêu sách ngang ngược đối với Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn thực hiện chủ trương Hoa - Việt thân thiện. Người kêu gọi toàn dân sẵn sàng hợp tác và giúp đỡ lực lượng đồng minh làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật. Người viết nhiều bài báo biểu dương tinh thần Hoa - Việt thân thiện, trong đó đánh giá cao sự có mặt của quân đội Tưởng Giới Thạch trên miền Bắc đã góp phần ngăn chặn bước tiến của quân Pháp ở miền Nam. Trong Thư chúc mừng năm mới (1946), Người viết: "Nhờ có anh em Trung Hoa mà miền Bắc nước ta tránh được họa binh đao, đồng bào ta được làm ăn yên ổn, do đó mà có thể giúp đỡ đồng bào miền Nam. Tinh thần thân thiện đó, chúng ta phải biết và phải nhớ luôn luôn.
Vậy trong dịp Tết này, tôi kính thay mặt toàn quốc đồng bào mà chào mừng toàn thể anh em Trung Hoa ở đây và ở Trung Quốc, năm mới muôn sự tốt lành.
Chúng ta cùng hô to:
Năm mới Hoa - Việt thân thiện muôn năm!
Việt Nam kháng chiến thắng lợi!
Việt Nam độc lập muôn năm!"6.
Bằng kinh nghiệm trong đấu tranh cách mạng và một tấm lòng khoan dung, độ lượng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần hạn chế một bước quan trọng âm mưu và thủ đoạn phá hoại của tập đoàn chiếm đóng Tưởng Giới Thạch. Phó tướng Tiêu Văn - một viên tướng mật vụ đã nhận lệnh của Tưởng Giới Thạch theo dõi Hồ Chí Minh khi Người được trả tự do tháng 8-1943, mới đến Việt Nam tỏ ra rất ngạo mạn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động đến gặp Tiêu Văn. Phong thái đĩnh đạc, đàng hoàng của một nguyên thủ quốc gia, trí tuệ uyên bác của một nhà cách mạng, đã làm cho Tiêu Văn trở nên mềm mỏng. Từ nhiều mối quan hệ khác nhau, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gặp Tiêu Văn nhiều lần.
Thái độ mềm mỏng và khoan hòa đối với quân Tưởng những năm 1945-1946 là một chủ trương đúng đắn và khôn khéo của Chủ tịch Hồ Chí Minh để góp phần giữ vững và củng cố nền độc lập dân tộc non trẻ. Điều đó còn giúp cho chính quyền cách mạng mua được nhiều vũ khí của quân Tưởng khi họ rút về nước và cũng có thể điều đó đã có tác dụng một phần đến cả tư tưởng, tình cảm những tướng lĩnh cầm đầu quân đội chiếm đóng Tưởng Giới Thạch như tư lệnh Lư Hán, phó tướng Tiêu Văn. Lư Hán thì trầm ngâm, tư lự. Tiêu Văn thì năng đến viếng thăm những di tích văn hóa Việt Nam7. Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết về Người trong những năm tháng đất nước "ngàn cân treo sợi tóc" (1945-1946):
"Với một sự nhạy cảm lạ thường, Bác dường như thấu hiểu mọi trạng thái tư tưởng, tình cảm của kẻ thù. Bác đã vận dụng một cách vô cùng sắc bén những đối sách cụ thể đối với từng loại kẻ địch, với từng tên.
Con người Bác là hiện thân sức mạnh của chính nghĩa. Nhiều chính khách nước ngoài gặp Bác hồi đó, cũng như sau này đều nói lên ý nghĩ cảm phục. Ngay cả những kẻ thù, những tên khét tiếng chống cộng, khi tiếp xúc với Bác đều phải tỏ ra kính nể. Đứng trước Bác, dường như chúng cũng bớt hung hãn đi nhiều8.
Đối với người Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chủ trương xây dựng và duy trì mối quan hệ tốt đẹp. Một số sĩ quan Mỹ có mặt ở Việt Nam ngay sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công như thiếu tá E.Tômát, thiếu tá A.Pátti... đã tỏ ra có cảm tình với phong trào độc lập của nhân dân Việt Nam. Cùng với Hội Hoa - Việt thân thiện, tháng 10-1945, Hội Việt - Mỹ đã được thành lập. Trong bài viết Thế giới với Việt Nam, ký bút danh Q.Th., đăng báo Cứu quốc, ngày 31-1-1945, Người viết về nước Mỹ: "Thứ nữa, chúng ta không thể quên nước bạn của chúng ta là nước Mỹ, một nước dân chủ bao giờ cũng bênh vực sự tự do, độc lập cho các dân tộc nhỏ yếu"9.
Đối với Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ những kẻ thực dân xâm lược và những người bạn Pháp. Người nói với kiều dân Pháp sống ở Việt Nam: Các bạn sống chung chạ với nhân dân Việt Nam, ra vào gặp nhau, no đói có nhau. Vậy nên nhân dân Việt Nam là bằng hữu của các bạn. Đất nước Việt Nam là tổ quốc thứ hai của các bạn. Các bạn cùng với nhân dân Việt Nam phải tương kính, tương thân, thành thật hợp tác, êm ấm thuận hòa, thực hiện Tứ hải giai huynh đệ. Nước Việt Nam được thịnh vượng thì các bạn cũng được hạnh phúc. Ngày 12-7-1946, giữa thủ đô nước Pháp, Người tuyên bố với các nhà báo về lập trường của nhân dân Việt Nam: Tôi tin nước Pháp mới. Tôi có gặp nhiều người Pháp phụ trách, họ đều hiểu chúng tôi. Về phần chúng tôi, chúng tôi rất thật thà - chúng tôi mong rằng người khác cũng thật thà với chúng tôi. Chúng tôi quyết không chịu hạ thấp chúng tôi. Mà chúng tôi cũng không muốn hạ thấp nước Pháp. Chúng tôi không muốn đẩy người Pháp ra khỏi Việt Nam. Nhưng chúng tôi nói với họ: các người hãy phái đến đất nước chúng tôi những kỹ sư, những nhà khoa học, những vị giáo sư, phái đến những người họ biết yêu chuộng chúng tôi. Nhưng chớ phái qua những người họ muốn bóp cổ chúng tôi. Tháng 9-1946, trong chuyến trở về Tổ quốc từ nước Pháp trên chiến hạm Đuymông Đuyếcvin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hoàn toàn cảm hóa được cả thuyền trưởng và toàn bộ đoàn thủy thủ. Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, binh lính và sĩ quan trên chiến hạm này từ vịnh Hạ Long, theo lệnh cấp trên đã nã đại bác vào đất liền nhưng là những chỗ không người.
Đối với con người ngã xuống vì chiến tranh, Người xót thương cho cả những hồn tử sĩ mà hôm qua đã gây ra tai họa cho đồng bào mình. Người viết : "Tôi nghiêng mình trước linh hồn những chiến sĩ và đồng bào Việt Nam, đã vì Tổ quốc mà hy sinh tính mệnh.
Tôi cũng ngậm ngùi thương xót cho những người Pháp đã tử vong.
Than ôi, trước lòng bác ái, thì máu Pháp hay máu Việt cùng đều là máu, người Pháp hay người Việt cùng đều là người"10. Người luôn quan tâm viết thư thăm hỏi, tiễn đưa những người lính đối phương được trở về quê hương: "Trên đường về, hãy giữ gìn kỷ luật một cách gương mẫu... để cho mọi người đều giữ được những kỷ niệm tốt đẹp mãi về các bạn.
Về đến nhà, hãy chuyển tới gia đình các bạn lời chào của nhân dân Việt Nam. Trong số các bạn, những ai còn cha mẹ già và con nhỏ hãy nói với các cụ, các cháu là Bác Hồ gửi nhiều cái hôn tốt lành.
Xin từ biệt các bạn thân mến, từ biệt các con của Bác"11.
Nhiều lá thư của họ cũng thắm thiết tình người đã được gửi lên Người để bày tỏ sự tri ân sâu sắc đối tấm lòng khoan dung Việt Nam. Từ đó những cuộc biểu tình rầm rộ chống chiến tranh diễn ra ở nước Pháp và nhiều thành phố lớn ở châu Âu. Những Raymông Điêng và Hăngri Máctanh xuất hiện ngày càng nhiều. Cả một phong trào đấu tranh ủng hộ Việt Nam lan rộng.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã góp phần tạo nên sức mạnh đoàn kết của nhân dân Pháp, nhân dân thế giới đối với sự nghiệp chính nghĩa của Việt Nam. Những phong trào đòi chấm dứt chiến tranh, vãn hồi hoà bình diễn ra ở các thành phố lớn trên thế giới đã góp một phần vào thành công của Hội nghị Giơnevơ năm 1954, chấm dứt chiến tranh ở miền Bắc Việt Nam.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam bước vào giai đoạn quyết liệt. Nhân dân Việt Nam lại đứng trước thử thách mới. Ba mươi năm sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, trên đất nước này mới lại có nhiều quân đội nước ngoài đến như vậy: hơn nửa triệu quân Mỹ và các nước chư hầu: Nam Triều Tiên, Philíppin, Ôxtrâylia, Niu Dilân... với trang bị hiện đại và thủ đoạn cũng tàn bạo hơn trước nhiều. Trong bối cảnh đó, Hồ Chí Minh vẫn đặt niềm tin vào nhân dân Mỹ, giải thích cho họ hiểu tính chất chính nghĩa của Việt Nam, vạch rõ tính chất xâm lược của cuộc chiến tranh do Chính phủ họ tiến hành. Người phân định rõ một bộ phận hiếu chiến xâm lược và quần chúng nhân dân Mỹ yêu chuộng hòa bình, khơi gợi tình cảm nhân đạo cao quý và lòng thiết tha công lý để thức tỉnh lương tri con người, phân tích hậu quả tai hại của cuộc chiến tranh phi nghĩa đối với ngay chính nhân dân Mỹ. Những con người bình thường và thiện chí ở bên kia đại dương, khi đã hiểu rõ thì sẽ thấy sự vô nghĩa của việc chồng con họ hay chính họ phải chết trên chiến trường xa xôi, sẽ thấy bị lừa dối khi chính phủ họ giải thích sai lệch về mục tiêu của chiến tranh, sẽ thấy bị xúc phạm khi một cường quốc tiến hành xâm lược một quốc gia nhỏ hơn. Từ đó, sẽ chống lại việc lao vào cuộc chiến tranh đầy tội ác và không hy vọng chiến thắng. Hồ Chí Minh viết thư cho nhân dân Mỹ bày tỏ thiện chí của nhân dân Việt Nam rất tha thiết với hòa bình, nhưng hòa bình phải gắn liền với độc lập dân tộc. Người lên án nhà cầm quyền Mỹ nói hòa bình nhưng thật sự là họ đang tăng cường chiến tranh. Hồ Chí Minh cũng thông qua với báo chí tiến bộ, thuyết phục các trí thức có lương tri để tạo nên những tiếng nói chính nghĩa ủng hộ Việt Nam. Người luôn nói rõ, nhân dân Việt Nam không bao giờ nhầm lẫn nhân dân Mỹ yêu chuộng công lý với những Chính phủ Mỹ đã phạm nhiều tội ác đối với nhân dân Việt Nam. Chính những kẻ phá hoại nền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam cũng là những kẻ đã phản bội bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ... Người tha thiết kêu gọi sự đồng tình ủng hộ của đồng chí, bạn bè khắp thế giới. Từ đó, ngày càng có nhiều cuộc xuống đường rầm rộ của nhân dân Mỹ phản đối cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Phong trào sôi động của thanh niên Mỹ chống quân dịch. Những hoạt động nhiệt tình và dũng cảm của nghệ sĩ Giên Phônđa, của danh ca Đêvít vì Việt Nam. Đặc biệt là ngọn lửa Noman Morixơn đã tiếp tục thức tinh lương tâm và làm bùng cháy nhiệt tình của người dân Mỹ đòi chấm dứt chiến tranh, đẩy Chính phủ Mỹ ngày càng lâm vào thế lúng túng và bế tắc. Việt Nam ngày càng trở thành niềm tin yêu hy vọng của nhân loại tiến bộ. Nhân dân Việt Nam ngày càng nhận được tiếng nói đồng tình của đông đảo bạn bè quốc tế, trong đó có những tên tuổi lớn như nhà bác học Anh Bêctơrăng Rútxen, nhà báo Ôxtrâylia Uyphrết Bớcsét, nhà điện ảnh Hà Lan Giôrít Iven, nhà văn Thụy Điển Xara Littman...
Hình ảnh sống động mà Người đã để lại là tài năng đó được kết hợp nhuần nhuyễn với đạo đức, phong cách và năng lực sáng tạo nhân văn của Người. Hồ Chí Minh là biểu tượng của lòng khoan dung, nhân ái, của việc thực hành lối sống nhân văn. Nhà sử học Ba Lan Hêlen Tuốcmêrơ đã viết về Người : "Hồ Chí Minh là hình ảnh hoàn chỉnh của sự kết hợp đức khôn ngoan của Phật, lòng bác ái của Chúa, triết học của Mác, thiên tài cách mạng của V.I.Lênin, tình cảm của người chủ gia tộc. Tất cả đều hòa hợp trong một dáng dấp tự nhiên"12. Mục tiêu lý tưởng chính trị Hồ Chí Minh là hết sức cao quý: giải phóng dân tộc và giải phóng con người. Đồng thời có sự thống nhất cao độ về tính nhân văn giữa lý tưởng, mục đích chính tả và các phương pháp, phương tiện đạt đến mục đích đó. Xuất phát từ tình thương yêu con người, từ tình cảm mãnh liệt, sâu sắc đối với Tổ quốc và nhân dân, dân tộc và nhân loại, Hồ Chí Minh đã tự nguyện dấn thân vàn cuộc đấu tranh gian khổ và nguy hiểm, sẵn sàng hy sinh cả tính mạng. Hồ Chí Minh nêu tấm gương về sự khoan dung và yêu chuộng hòa bình. Trong phong cách ứng xử Hồ Chí Minh toát lên thái độ tin cậy với con người, là sự nâng niu, quý trọng nhân cách con người. Phương pháp Hồ Chí Minh là phương pháp cảm hóa, thuyết phục, thu phục con người ở mọi đối tượng, mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi. Với tình cảm con người và rất giàu tình người, Hồ Chí Minh đã quan tâm đến tất cả với sự ân cần, chu đáo, tế nhị, lịch thiệp. Đó chính là phương pháp đoàn kết và đại đoàn kết toàn dân mà Người là linh hồn của khối đại đoàn kết đó. Đoàn kết để có sức mạnh phấn đấu cho thắng lợi của sự nghiệp vĩ đại, nên đoàn kết phải dựa trên đạo lý của người cách mạng, phải thấu lý, đạt tình, có tình có nghĩa. Phương pháp hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh thấm đậm chủ nghĩa nhân văn, hướng tới con người, dùng người và chiến lược trồng người. Phong cách Hồ Chí Minh hướng tới sự thanh cao, giản dị, ung dung, tự tại, không để sự ham muốn vật chất làm vẩn đục tâm hồn, không để sự tàn bạn của chiến tranh làm ảnh hướng đến tinh thần nhân văn, lạc quan và tình yêu cuộc sống Đó là cốt cách của một lãnh tụ chính trị thời đại mới nhưng lại mang dáng dấp của một nhà hiền triết phương Đông. Nhân cách đó có sức tỏa sáng và quy tụ triệu triệu con người.
____________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.1, tr.266.
2, 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.4, tr.45, 246-247.
3. Vào thời điểm đó, Ngô Đình Diệm đã đồng ý cộng tác với chính quyền cách mạng sau khi biết tin về cái chết của người anh (Ngô Đình Khôi) và các cháu (Ngô Đình Huân) tại miền Trung nên hoảng sợ và bỏ trốn.
5. Võ Nguyên Giáp: Những chặng lịch sử, Nxb.Văn học, H.1977, tr.530.
6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.4, tr.170.
7. Năm 1949, trước sức tấn công của Quân Giải phóng Trung Quốc vào thành phố Côn Minh, Lư Hán và Tiêu Văn đã quyết định phản chiến chống lại Tưởng Giới Thạch. Lư Hán trở thành một cán bộ cao cấp của Chính Phủ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Tiêu Văn thì chí thú với công việc của một nhà hoạt động văn hóa, khoa học xã hội.
8. Võ Nguyên Giáp: Những chặng đường lịch sử, Nxb. Văn học, H.1977, tr.303.
9,10. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.4, tr. 192, 457.
11. Báo Quân đội nhân dân, ngày 5-4-1990.
12. Tạp chí Cộng sản, số 3 – 1992.