PGS, TS. Phạm Ngọc Anh
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, từ xưa đến nay, đã có nhiều học thuyết, tư tưởng đề cập đến số phận con người, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của con người muốn được giải phóng khỏi những bế tắc trong cuộc sống đời thường, giải thoát khỏi những ràng buộc hà khắc, ngặt nghèo của tự nhiên, xã hội và của chính bản thân con người. Đó chính là tư tưởng nhân văn, nhân đạo được thể hiện ở những mức độ, trình độ khác nhau, tiếp cận từ những giác độ, bình diện khác nhau1.
Xét về thực chất, nhân văn là một giá trị mang tính phổ quát, tổ hợp các yếu tố Chân - Thiện - Mỹ. Nó thuộc bản chất người và là hiện thân của thiên hướng vươn lên và hoàn thiện không ngừng của chính con người. Vì thế, nhân văn bao giờ cũng là lý tưởng và mục tiêu mà loài người hằng vươn tới; nó tồn tại và biến thiên, ngày càng thể hiện sức sống mãnh liệt của mình trong suốt tiến trình đi lên của xã hội loài người.
1. Khái niệm tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
Như chúng ta đều biết tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh bao gồm nhiều bộ phận hợp thành. Về nội dung, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh thật rộng lớn, bao quát hết các mặt bản chất con người, đời sống cá nhân và đời sống cộng đồng, môi trường tồn tại, các nhu cầu thể hiện và khát vọng làm chủ mọi mặt cuộc sống v.v...; về hình thức thể hiện, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh rất phong phú, đa dạng, rất cô đọng, khái quát, lại rất cụ thể mà không hề trừu tượng, gần gũi với cuộc sống làm người và ai cũng có thể áp dụng được để tự hoàn thiện tính người, hoàn thiện nhân cách làm người.
Từ việc trình bày khái quát quá trình hình thành, phát triển, các nội dung chủ yếu tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, có thể hình dung diện mạo của tư tưởng đó, chúng tôi cố gắng đi vào xác định khái niệm khoa học. Việc định nghĩa khái niệm "Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh" phải xuất phát từ định nghĩa khái niệm rộng lớn hơn "Tư tưởng Hồ Chí Minh" và góp phần vào việc cụ thể hóa, xác định rõ hơn khái niệm này. Khi định nghĩa khái niệm "Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh" chúng tôi dựa vào các nguyên tắc phương pháp luận mácxít.
Vấn đề đặt ra ở đây là: Thế thì nội dung cốt lõi của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là gì? Nó có trùng hợp với nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung: Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người? Ở đây, chúng ta có thể trả lời câu hỏi đó theo gợi ý và phương pháp luận của Ph.Ăngghen khi nói về chủ nghĩa Mác.
Vào những năm đầu thập kỷ 90 thế kỷ XIX, khi chuẩn bị xuất bản các tác phẩm của C.Mác với tư cách là một vĩ nhân của thế giới, một giám đốc nhà xuất bản của Ý đã trực tiếp hỏi Ph.Ăngghen: Luận điểm nào của C.Mác thể hiện chính xác, tập trung, nổi bật nhất tinh thần cơ bản của chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa nhân văn mácxít? Ph.Ăngghen không cần phải suy nghĩ lâu để trả lời và nói rõ đó là một luận điểm được trình bày trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản (1848) khi nói về chủ nghĩa cộng sản như là một chế độ xã hội, trong đó "sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người"2.
Ở đây, cần lưu ý một điều rất quan trọng: Trong luận điểm nổi tiếng này Ph.Ăngghen đã nhìn thấy hạt nhân và chìa khóa của thế giới quan cộng sản chủ nghĩa của C.Mác và phải hiểu luận điểm đó một cách đầy đủ, trọn vẹn theo nghĩa: Không chỉ sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện phát triển tự do của tất cả mọi người, mà sự phát triển tự do của cá nhân chỉ có thể được thực hiện khi xã hội được giải phóng khỏi mọi hình thức áp bức, bóc lột, nô dịch và tha hóa. Sự phát triển tự do của cá nhân và sự phát triển tự do của xã hội, vì thế, có quan hệ biện chứng và mang tính chế ước lẫn nhau. Không thể có tự do cá nhân trong một xã hội còn có sự thống trị của chế độ tư hữu, người sản xuất bị tước đoạt và tách biệt hẳn các điều kiện và công cụ lao động.
Vào đầu thế kỷ XX, khi V.I.Lênin và Plêkhanốp soạn thảo Cương lĩnh đầu tiên của Đảng Dân chủ - xã hội Nga, V.I. Lênin đề nghị cần phải đưa luận điểm đó của Tuyên ngôn vào Cương lĩnh chính trị của Đảng.
Cũng như C.Mác, Ph.Ănghen, V.I.Lênin nhìn thấy trong việc phát triển tự do, toàn diện của con người, năng lực và tài năng của nó mục đích cơ bản và sự giàu có chủ yếu của xã hội tương lai. Các ông đồng nhất chủ nghĩa cộng sản với chủ nghĩa nhân đạo.
Sau Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản gần một trăm năm, vào năm 1946, khi trả lời các nhà báo nước ngoài về các điều kiện thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Muốn cho chủ nghĩa cộng sản thực hiện được, cần phải có kỹ nghệ, nông nghiệp và tất cả mọi người đều được phát triển hết khả năng của mình"3 (chúng tôi nhấn mạnh - P.N.A).
Các tư liệu lịch sử cho phép chúng ta khám phá ra một điều khá thú vị: Sự thống nhất của các nhà kinh điển Mác - Lênin và Hồ Chí Minh về mục tiêu phát triển của chế độ xã hội tương lai: Hướng vào sự phát triển tự do toàn diện của con người và đó là một nhu cầu khách quan, có thể sớm hay muộn, nhanh hay chậm do đặc điểm dân tộc và thời đại chi phối, nhưng chắc chắn cuối cùng nhân loại sẽ vươn tới xác lập được một xã hội như vậy, một xã hội do con người làm chủ chính đời sống con người.
Tinh thần này được Hồ Chí Minh diễn đạt bằng một phương châm khái quát, ngắn gọn: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do"; độc lập, tự do cho cả dân tộc, cho mỗi cá nhân và cho cả loài người. Với nghĩa đó, độc lập tự do trở thành bản chất cao quý trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, trở thành ngọn cờ chiến đấu và mục tiêu suốt đời hy sinh cống hiến của Người. Vì đó là cái tiên quyết đem lại hạnh phúc và tiến bộ cho nhân dân Việt Nam, cho mỗi người dân và cho cả cộng đồng nhân loại.
2. Một số đặc trưng chủ yếu của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh có một số đặc điểm tổng quát phản ánh quy luật vận động của lý tưởng nhân văn của loài người, lại rất riêng có của Hồ Chí Minh.
- Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới giá trị nhân văn truyền thống Việt Nam, tinh hoa nhân văn của nhân loại mà đỉnh cao là chủ nghĩa Mác - Lênin.
Một điểm dễ thống nhất với nhau là: Sở dĩ tư tưởng Hồ Chí Minh hiện thân khát vọng thể hiện các giá trị làm người cao quý, là linh hồn, là ngọn cờ lãnh đạo cách mạng Việt Nam, lương tâm của thời đại, có sức sống bền vững và có ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng, tình cảm của nhân dân Việt Nam và của nhân dân nhiều dân tộc trên thế giới, cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai, chính là vì tư tưởng của Người đã kế thừa những giá trị tư tưởng, văn hóa "vĩnh cửu" của nhân loại thấm đượm một chủ nghĩa nhân văn cao cả, đáp ứng những yêu cầu, nguyện vọng cháy bỏng và sâu xa của dân tộc và nhân loại.
Nói về thái độ của mình đối với một số học thuyết và tôn giáo lớn trên thế giới, chính Hồ Chí Minh đã xác nhận: "Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân.
Tôn giáo Giê-su có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả.
Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng.
Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta.
Khổng Tử, Giê-su, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng phải đã có những điểm chung đó sao? Họ đều muốn "mưu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội". Nếu hôm nay, họ còn sống trên đời này, nếu họ họp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết.
Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy"4.
Lời nói trên đây nổi lên hai khía cạnh đáng lưu ý:
Một là, khi nhận xét các nhà tư tưởng tiền bối, Hồ Chí Minh đã chỉ ra được điểm tương đồng, cốt lõi trong tư tưởng của họ, hạt nhân đó không có gì khác hơn là tinh thần nhân văn, tư tưởng nhân văn. Hồ Chí Minh đã thâu thái, tích hợp giá trị nhân văn của loài người thành tư tưởng nhân văn của chính mình. Vì thế, sự kế thừa và chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại ở Hồ Chí Minh là nhằm chủ đích nhân văn.
Hai là, các giá trị nhân văn của nhân loại chỉ có thể phát tán và thăng hoa trên một cái nền gốc mà Người đã chuẩn bị trước đó: Truyền thống nhân văn lâu đời của dân tộc Việt Nam.
Đứng trên truyền thống nhân văn Việt Nam, trước thực trạng đất nước mất độc lập, chủ quyền, Hồ Chí Minh đòi thực hiện yêu cầu nhân bản bao quát nhất: Đòi cho con người được hưởng những gì vốn có, đó là quyền sống, quyền làm người, quyền độc lập tự do; phải trả lại độc lập cho nhân dân Việt Nam để con người Việt Nam làm chủ đất nước mình, tự mình xây dựng cuộc sống. Đưa con người trở về với chính con người, đó là tư tưởng nhân văn cơ bản, điều mà từ thời cổ đại Arixtốt đã từng mong muốn. Trên cơ sở đó, Hồ Chí Minh kêu gọi xóa bỏ nô lệ, áp bức, bần cùng, đối xử với con người như là con người chân chính.
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh được nâng lên tầm cao hơn khi Người hội tụ được các tư tưởng tiến bộ toàn nhân loại: Văn minh châu Á, châu Âu, châu Mỹ, châu Phi, với các hệ tư tưởng nhân văn Phục hưng, Khai sáng, tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng Ý, Pháp... Đặc biệt, tư tưởng nhân văn đó trở thành lý luận khoa học, như một lý thuyết vững chắc khi người gặp tư tưởng cộng sản chủ nghĩa với các lãnh tụ thiên tài Mác, Ăngghen, Lênin.
Tư tưởng cộng sản chủ nghĩa đã giúp Hồ Chí Minh nâng những yêu cầu có tính nhân bản lên tầm cao đó là tính nhân văn thực thụ. Tính nhân văn ở đây không còn bị giới hạn trong khuôn khổ giải quyết vấn đề vị trí của con người, tách con người khỏi kiếp ngựa trâu do chế độ nô lệ kìm kẹp, làm cho bị tha hóa, mà là giải quyết vấn đề xây dựng vị thế con người trong xã hội mới. Tư tưởng của Người lúc này không chỉ là xóa bỏ tình trạng tha hóa, đưa con người về đúng vị trí của mình mà là phát huy mọi tiềm năng của con người để xây dựng một cuộc sống mới. Thực hiện tư tưởng nhân văn tư bản chủ nghĩa - tự do, bình đẳng, bác ái, từng bước thực hiện lý tưởng nhân văn cộng sản chủ nghĩa, tiến tới một xã hội cộng đồng và hòa nhập, ở đó con người không chỉ có điều kiện để phát huy mọi tiềm lực, tài năng xây dựng xã hội mới, mà còn phát triển toàn diện, hài hòa chính bản thân con người với tư cách là mục đích tối cao của con người. Đây là tính nhân văn cao nhất của con người, của xã hội loài người trên phương diện lý thuyết. Tư tưởng này ở tầm cao hơn, sâu hơn còn bởi vì nó mở ra tính nhân văn vĩ đại của chủ nghĩa cộng sản, về phương hướng thực hiện mục đích tối cao của con người: Con người là mục đích của sự phát triển lịch sử, của mọi hoạt động của chính mình.
- Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh mang tính khoa học, cách mạng và hiện thực sâu sắc. Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh là chủ nghĩa nhân văn khoa học, hiện thực, cách mạng. Người ta thường nói, Hồ Chí Minh là một nhà triết học hành động, thì cũng có thể nói nhà nhân văn Hồ Chí Minh là một nhà nhân văn hành động, hành động nhằm giải phóng con người.
Tinh thần nhân văn đặc sắc của Hồ Chí Minh thể hiện ở khát vọng biến tư tưởng thành hiện thực trên cơ sở một sự hiểu biết chắc chắn các điều kiện hiện tại và quy luật xã hội đặc thù của một nước thuộc địa nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu.
Để thực hiện lý tưởng nhân văn "không có gì quý hơn độc lập, tự do", Hồ Chí Minh đã nghiên cứu bản chất thật sự của chủ nghĩa thực dân, phát hiện các mâu thuẫn trong lòng nó, nắm bắt thấu đáo nhu cầu phát triển khách quan của xã hội Việt Nam, xu thế vận động của thế giới, khảo cứu các cuộc cách mạng điển hình để vạch ra con đường đi cho cách mạng Việt Nam: Con đường cách mạng vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Xét về lý tưởng nhân văn, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người Việt Nam trong giải phóng dân tộc là cả cộng đồng dân tộc Việt Nam đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc thực dân để giành độc lập dân tộc. Con người trong giải phóng giai cấp là các giai cấp cần lao, trước hết là công - nông, đấu tranh để xây dựng một chế độ xã hội chủ nghĩa. Còn con người trong giải phóng con người là mỗi con người, với tính cách là cá nhân, phải được giải phóng khỏi mọi sự áp bức, bất công, được tự do hạnh phúc, được phát triển về mọi mặt, được làm chủ xã hội, làm chủ tự nhiên, làm chủ bản thân mình; bằng cách đó tạo điều kiện cho con người thoát khỏi mọi sự tha hóa để có bản chất người tốt đẹp nhất.
Tính chất thực tiễn cách mạng của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh quy tụ ở mục đích của sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp giải phóng là xây dựng một xã hội mới không còn áp bức, bóc lột, bất công; một xã hội giàu mạnh, công bằng, văn minh; với những con người mới có phẩm chất cao đẹp, có trình độ phát triển toàn diện. Những con người được đào tạo, giác ngộ đó chính là động lực quyết định nhất của sự phát triển: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa"5. Con người xã hội chủ nghĩa là con người phát triển toàn diện, hoàn toàn đi đến không có chủ nghĩa cá nhân, nghĩa là loại bỏ được mọi sự tha hóa dai dẳng nhất, nguy hại nhất của chính bản thân con người.
Một xã hội đáp ứng được các nhu cầu giải phóng con người, tạo cho con người phát triển toàn diện chỉ có thể là chế độ xã hội chủ nghĩa. Lý tưởng nhân văn thực tiễn, đầy sinh khí hiện thực được Hồ Chí Minh biến thành mục tiêu cách mạng xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa.
Sau khi đất nước được giải phóng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ thì nhiệm vụ tiếp theo của dân tộc ta là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Đó là lôgíc tất yếu của lý thuyết phát triển theo hướng nhân văn. Về phương diện văn hóa, chủ nghĩa xã hội là kết quả đấu tranh không ngừng của con người theo hướng tiến về phía Chân - Thiện - Mỹ; nó là một trình độ phát triển cao của văn hóa, văn minh; văn hóa hiểu theo nghĩa là trình độ người, bản chất người của toàn bộ hệ thống các quan hệ xã hội. Trên cả hai bình diện đã nêu, không có chế độ xã hội nào tốt đẹp hơn chủ nghĩa xã hội!
Chủ nghĩa xã hội trong quan niệm của Hồ Chí Minh là chủ nghĩa xã hội hiện thực, cụ thể, nó phải được xây dựng trên mảnh đất của một quốc gia gắn liền với đặc điểm lịch sử, truyền thống văn hóa và bản sắc dân tộc. Chủ nghĩa xã hội mà Hồ Chí Minh xây dựng ở Việt Nam là một xây dựng mới công bằng, nhân đạo, tốt đẹp, nhằm mục tiêu cụ thể là dân giàu nước mạnh, xã hội văn minh, con người hạnh phúc.
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội do Hồ Chí Minh lãnh đạo thực sự là một cuộc cách mạng giải phóng, phát triển mọi tiềm năng dân tộc và tiềm năng xã hội, cụ thể là giải phóng và phát triển con người. Đó là một sự nghiệp của chính con người vì bản thân con người để đạt tới cả hai loại giá trị: Độc lập dân tộc và cuộc sống ấm no. Theo Hồ Chí Minh, con người không chỉ được giải phóng về mặt xã hội mà điều chủ yếu và cuối cùng là giải phóng, phát triển toàn bộ bản chất, bản tính tốt đẹp của mình. Bản chất sâu xa lớn lao trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là tất cả cuối cùng đều vì sự phát triển con người Việt Nam. Xóa bỏ tha hóa, trả lại cho con người Việt Nam phẩm chất, phẩm giá làm người, giải phóng toàn bộ tiềm năng thể chất, trí tuệ, tài năng sáng tạo của con người Việt Nam.
- Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh mang bản chất giai cấp công nhân, thống nhất trong đó tính giai cấp công nhân với tính dân tộc và tính quốc tế.
Trong chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh, lòng nhân ái giữ vị trí hàng đầu, song nó không bó hẹp lòng thương người ở tình nghĩa đồng bào, những "người trong một nước phải thương nhau cùng", mà mở rộng đến khắp năm châu bốn biển. Người luôn coi con người và cuộc sống ở bất cứ nơi đâu đều là giá trị cuối cùng và cao nhất phải đấu tranh giành được.
Khác với chủ nghĩa nhân văn tư bản chủ nghĩa cực đoan chỉ đề cao chủ nghĩa cá nhân mà không hề đả động đến con người lao động, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh đề xướng việc giải phóng hoàn toàn con người, mà trước hết là chủ yếu là giải phóng con người lao động bị áp bức bóc lột, thủ tiêu mọi gông xiềng, nô lệ, bất công, đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc, cơm no, áo ấm cho các dân tộc và mỗi con người. Tính giai cấp công nhân gắn liền với tính dân tộc, tính quốc tế và tính thời đại là một đặc trưng nổi bật nhất của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh bao giờ cũng gắn liền hạnh phúc của những con người bị áp bức, bị đọa đầy thuộc các dân tộc bị thống trị và lệ thuộc ở thuộc địa với độc lập dân tộc, với tự do, giai cấp được giải phóng.
Lòng thương yêu con người gắn chặt với tình yêu Tổ quốc và dân tộc đã thúc giục Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Sau ngày trở thành Chủ tịch nước, mặc dầu bận trăm công nghìn việc, người cũng rất quan tâm đến cuộc sống của nhân dân, đặc biệt đối với nhân dân miền Nam đang chịu nhiều đau khổ do đế quốc Mỹ và ngụy quyền gây nên. Người nói, "miền Nam luôn ở trong trái tim tôi". Ngay cả trước lúc "đi xa", Hồ Chí Minh còn nhớ "để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng".
Khi đi thăm bất cứ nước nào, Người đều giành thời gian tiếp xúc với nhân dân lao động. Đối với các cháu thiếu niên, nhi đồng, Hồ Chí Minh không chỉ là "Bác Hồ" của nhân dân, của thiếu nhi Việt Nam, mà còn của cả nhân dân, thiếu nhi nhiều nước trên thế giới. Chính lòng nhân ái, tư tưởng nhân văn của Người là một yếu tố đã chinh phục được nhân dân thế giới.
Ở chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh, không có tình yêu thương con người chung chung, mà chỉ có tình thương yêu dành cho người bị áp bức, nghèo khổ ở bất cứ nước nào. Người đã phân biệt bạn thù rõ rệt, phân biệt nhân dân Pháp, Mỹ với những bọn thực dân đế quốc là người Pháp, Mỹ - những kẻ chủ mưu xâm lược, nuôi mộng thôn tính các dân tộc nhỏ yếu và đẩy nhân dân nước họ đến chỗ chết chóc. Vì vậy, Hồ Chí Minh bao giờ cũng độ lượng khoan dung với những người lầm đường lạc lối đi đánh thuê cho bọn thực dân đế quốc.
Tình yêu thương dân tộc trong Hồ Chí Minh đã quyện chặt với tình yêu thương nhân loại bị bóc lột, đọa đầy, áp bức. Đó là lý do vì sao tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh được ca tụng, được noi theo và dần dần trở thành tư tưởng của thời đại. Nó không chỉ có tác dụng trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do mà còn phát huy ảnh hưởng trong công cuộc xây dựng xã hội văn minh, tiến bộ sau khi các dân tộc đã thoát được ách đô hộ của thực dân.
- Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh là chủ nghĩa nhân văn xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa. Tính chất xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh thể hiện cả trong bản chất xã hội, cả trong mục đích, nhiệm vụ và chức năng mà nó thực hiện trong đời sống xã hội của con người. Ngoài tính chất triệt để, phạm vi bao quát rộng, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh hướng tới giải phóng cả loài người. Điều này cho thấy tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh chỉ là một giai đoạn trong dòng chảy liền mạch của tư tưởng nhân văn loài người, nhưng nó đã đạt đến đỉnh cao và có thể thay thế cho các hình thái nhân văn chủ nghĩa đã từng tồn tại trước đó. Vì thế, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là cội nguồn sức mạnh của nhân loại, là nhân tố xích lại gần nhau giữa các quốc gia, phấn đấu hình thành nên một "thế giới đại đồng" cộng sản chủ nghĩa, trong đó con người thuộc mọi dân tộc được tôn trọng, đối xử bình đẳng với nhau như những con người.
___________
1. Xem thêm: Võ Nguyên Giáp (chủ biên): Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1997, tr.227.
2. C.Mác và Ph.Ăngghen: Tuyển tập, Nxb. Sự thật, H.1980, t.1, tr.569.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.4, tr.272.
4. Trương Niệm Thức: Hồ Chí Minh truyện, Nxb.Bát Nguyệt, Thượng Hải, tháng 6-1949.
5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.10, tr.310.