Đại hội XI của Đảng ta đã giải quyết nhiều vấn đề trọng đại, trong đó có việc thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (sau đây gọi tắt là Cương lĩnh 2011) và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 (gọi tắt là Chiến lược 2011-2020). Một trong những nội dung trọng tâm thể hiện cả trong Cương lĩnh 2011 lẫn trong Chiến lược 2011-2020 là đường lối “xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”. Để triển khai hiệu quả trong thực tiễn, cần nhận thức đúng nội dung cơ bản của đường lối này.
Chủ trương xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ không phải là chủ trương mới của Đảng ta. Ngay từ khi giành được độc lập, trong Tuyên ngôn độc lập đọc tại quảng trường Ba Đình ngày 2.9.1945, Hồ Chủ tịch đã thay mặt Đảng, Nhà nước, nhân dân trịnh trọng tuyên bố nước Việt Nam là một nước độc lập. Lịch sử đất nước đã chứng minh, độc lập, tự do là khát vọng, ý chí và bản lĩnh dân tộc Việt Nam trải qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Tuy nhiên, độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế là một mô hình mới với nhiều nội dung cần làm rõ. Chính vì vậy, sự khẳng định một lần nữa đường lối xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế tại Đại hội XI không những là cần thiết mà còn bao hàm cả sự phát triển về lý luận và nhận thức.
Về mặt nhận thức, Đại hội XI nhấn mạnh, đường lối xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế được thực hiện xuyên suốt thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Có nghĩa là sẽ không có bước đảo chiều để quay về nền kinh tế khép kín tự cung, tự cấp, thay thế hàng nhập khẩu như trước kia. Hơn nữa, hội nhập quốc tế được coi là một điều kiện để xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Chiến lược 2011-2020 nêu rõ: “Phát huy nội lực và sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định, đồng thời tranh thủ ngoại lực và sức mạnh thời đại là yếu tố quan trọng đế phát triển nhanh, bền vững và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ”1. Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới 2008-2009 chưa kết thúc, nhiều quốc gia có xu hướng thực hiện chính sách bảo hộ, Đại hội XI nhấn mạnh chủ trương tiếp tục hội nhập sâu rộng của nước ta là một điểm đáng chú ý.
Tầm quan trọng của xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đi đôi với tích cực và chủ động hội nhập quốc tế thể hiện ngay trong Cương lĩnh 2011. Ba trong tám phương hướng cơ bản, một trong tám mối quan hệ lớn cần phải giải quyết trong thời kỳ quá độ là mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế. Cương lĩnh 2011 cũng nhấn mạnh, không được phiến diện, cực đoan, duy ý chí trong giải quyết mối quan hệ này 2 và phải được giải quyết linh hoạt, mềm dẻo theo nguyên tắc: độc lập tự chủ là nền tảng, hội nhập quốc tế vừa bổ sung, vừa làm cho nội dung độc lập tự chủ phát triển lên một trình độ mới.
Về mặt lý luận, độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế là hai mặt của mối quan hệ biện chứng tồn tại trong suốt thời kỳ quá độ ở nước ta. Độc lập, tự chủ là nền tảng bởi vì trong một thế giới còn chịu sự chi phối của kinh tế thị trường và nguyên tắc tư bản chủ nghĩa thì các quốc gia dân tộc vẫn là các chủ thể chính trong bảo vệ quyền và lợi ích của dân tộc trên trường quốc tế. Không có độc lập, tự chủ, quốc gia sẽ trở thành công cụ trong tay các quốc gia khác, hậu quả là dân tộc bị chèn ép, bóc lột, thua thiệt.
Tuy nhiên, trong thời đại toàn cầu hóa, nếu cô lập, bất kỳ quốc gia nào cũng bị thiệt thòi về các phương diện mức sống, trình độ khoa học, kỹ thuật và tốc độ phát triển. Do đó, nền kinh tế độc lập, tự chủ trong thế giới ngày nay phải là nền kinh tế có năng lực độc lập, tự chủ trong mở rộng giao lưu kinh tế với các nước khác theo nguyên tắc thị trường. Bởi vì mở rộng giao lưu kinh tế, văn hóa, kỹ thuật với các nước, nhất là với các nước phát triển, Nhà nước, doanh nghiệp, dân cư có cơ hội học hỏi kinh nghiệm, tiếp thu thành tựu văn hóa, khoa học kỹ thuật của toàn thế giới, cơ hội mở rộng thị trường nhằm sử dụng tốt hơn các nguồn lực vốn có của đất nước. Hội nhập cũng là con đường tối ưu để nước ta có thể tham gia vào mạng phân công lao động toàn cầu trên cơ sở sử dụng lợi thế cạnh tranh. Hội nhập cho phép nước ta thu hút ngoại lực để phát triển nhanh, đi tắt, đón đầu, rút ngắn khoảng cách lạc hậu.
Trong mối quan hệ biện chứng này hội nhập quốc tế và độc lập, tự chủ có mặt thống nhất, đồng thời cũng có mặt mâu thuẫn lẫn nhau. Hội nhập quốc tế thống nhất với độc lập, tự chủ kinh tế trên góc độ “Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng”3. Hội nhập quốc tế tạo nguồn lực và môi trường để tăng tiềm lực cho nền kinh tế độc lập tự chủ. Hơn nữa, hội nhập quốc tế là cách thức thực hiện độc lập tự chủ tốt nhất trong điều kiện toàn cầu hóa. Bởi vì trong một thế giới mà các nền kinh tế quốc gia phụ thuộc một cách khách quan và nhau, thì hội nhập tích cực và chủ động không những tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế quốc gia mà còn tạo cơ hội ảnh hưởng đến luật lệ ràng buộc giữa các nước. Khi thế giới còn hội nhập với nhau bằng ngôn ngữ thị trường thì tiềm lực kinh tế quốc gia càng lớn, khả năng độc lập và tự chủ đưa ra được các quyết định hợp tình, hợp lý càng cao, càng giúp quốc gia đó có điều kiện hội nhập hiệu quả và có lợi hơn. Song hội nhập sẽ làm thay đổi nội hàm của độc lập và tự chủ theo hướng: trong hội nhập, các Nhà nước quốc gia dân tộc phải chuyển giao bớt quyền tự quyết của họ cho các định chế quản trị toàn cầu như WTO, IMF, WB... Nhiều quyết định của các Nhà nước quốc gia phải tuân thủ luật pháp và chuẩn mực quốc tế. Đó còn chưa kể các quốc gia siêu cường lợi dụng tiềm lực mọi mặt của họ để áp chế các nước yếu hơn. Muốn làm cho quyền tự chủ không bị suy giảm, quốc gia đó phải vươn lên thực hiện quyền tự chủ trong các quyết định quốc tế. Đó là tầm cao và vị thế mới của nền kinh tế độc lập, tự chủ trong tương lai của nước ta.
Điểm lưu ý thứ hai của Đại hội XI là làm rõ nét hơn những đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với tư cách điều kiện của độc lập tự chủ. Cương lĩnh 2011 nêu rõ các định hướng phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ:
- Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, nhiều hình thức phân phối, trong đó các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể không ngừng được củng cố, phát triển, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của kinh tế quốc dân; kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển.
- Các yếu tố thị trường được tạo lập đồng bộ, các loại thị trường từng bước được xây dựng và phát triển.
- Phân định rõ quyền của người sở hữu, quyền của người sử dụng, quyền quản lý của nhà nước trong lĩnh vực kinh tế.
- Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác, phân phối qua hệ thống an sinh và phúc lợi xã hội.
- Thực hiện CNH,HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường4.
Trong nửa đầu thế kỷ XXI, nền kinh tế độc lập, tự chủ ở nước ta phải có những đặc trưng sau: là nền kinh tế có cơ cấu kinh tế hợp lý dựa trên nên tảng công nghiệp; có quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa; là nền kinh tế thị trường phát triển toàn diện; là nền kinh tế có sức cạnh tranh và có vị thế trên thị trường thế giới. Đại hội XI cũng chỉ rõ trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 phương hướng giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và tích cực, chủ động hội nhập nhằm tạo dựng được sức mạnh dân tộc với tính chất yếu tố quyết định; tranh thủ được yếu tố ngoại lực và thời đại với vai trò yếu tố quan trọng. Vận dụng quan điểm này trong thực tiễn có nghĩa là phải tăng cường tiềm lực kinh tế và sức mạnh tổng hợp của đất nước trên các mặt: tăng trưởng cao; ổn định kinh tế vĩ mô; nâng cao hiệu quả nền kinh tế; đẩy mạnh áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ; phát triển hệ thống doanh nghiệp trong nước về số lượng, uy tín và sức cạnh tranh; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH,HĐH.... Sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững nền kinh tế là điều kiện để nước ta hội nhập quốc tế tích cực và sâu rộng trên nguyên tắc chủ động thích ứng với những thay đổi của tình hình thế giới, bảo đảm hiệu quả và lợi ích quốc gia. Đồng thời hoạt động đối ngoại tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế trong nước thông qua quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước láng giềng, chủ động, tích cực và có trách nhiệm trong xây dựng cộng đồng ASEAN vững mạnh, kết hợp chặt chẽ đối ngoại của Đảng với ngoại giao của nhà nước và ngoại giao nhân dân, giữa ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế, phát huy vai trò và nguồn lực của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài trong phát triển đất nước, thu hút mạnh đầu tư nước ngoài, mở rộng thị trường xuất khẩu... Nói cách khác, ngoại giao kinh tế có vai trò quan trọng trong đường lối ngoại giao. Để phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế, phải sử dụng sức mạnh tổng hợp của ngoại giao trên cả ba mặt trận: Đảng, chính phủ, nhân dân.
Trong ngắn hạn, cụ thể là trong kế hoạch 5 năm 2011-2015, Đại hội XI chỉ rõ phải xây dựng nền kinh tế có sức mạnh nội tại bằng cách “phát triển kinh tế nhanh, bền vững; ...tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”5. Đây là điểm cần nhấn mạnh, vì chỉ có nền kinh tế phát triển, mà bước đầu tiên là nền kinh tế dựa trên nền công nghiệp hiện đại, nước ta mới có điều kiện cải thiện năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh để không những nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, mà còn nâng cao vị thế và sức ảnh hưởng của đất nước trên trường quốc tế. Đi đôi với phát huy nguồn lực trong nước thực hiện CNH, HĐH, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2011-2015 cũng chỉ rõ phải tranh thủ ngoại lực cho phát triển, mở rộng, nâng cao các hoạt động đối ngoại, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế.
Điểm lưu thứ ba của Đại hội XI là nhấn mạnh tính chất của hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta trong những năm tới. Cương lĩnh 2011 nêu rõ: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam XHCN giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”6.
Chiến lược 2011-2020 cũng nêu nhiệm vụ “Phải không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế và sức mạnh tổng hợp của đất nước để chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng và có hiệu quả”. Ở đây, một lần nữa Đảng ta nhấn mạnh vai trò quyết định của tiềm lực kinh tế quốc gia trong nâng cao trình độ hội nhập quốc tế có lợi cho đất nước. Chỉ bằng cách phát triển bền vững nền kinh tế quốc dân dựa trên hệ thống doanh nghiệp mạnh và đường lối điều hành kinh tế nhanh nhạy của chính phủ thích nghi với những biến đổi của kinh tế thế giới. Hai chân: doanh nghiệp và nhà nước cùng vững mạnh thì nước ta mới có thể tiến bước vào thị trường thế giới một cách sâu, rộng, hiệu quả. Đại hội XI chỉ ra phương hướng hành động ưu tiên của doanh nghiệp và nhà nước trong 10 năm tới là:
- Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó doanh nghiệp chủ động nâng cao sức cạnh tranh và Nhà nước chủ động cải cách hành chính.
- Ưu tiên đầu tư vào nguồn nhân lực để tạo năng suất cao cho nền kinh tế. Tạo dựng điều kiện cần cho nền kinh tế năng động, hiệu quả, đó là hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, có khả năng phục vụ với chất lượng cao, chi phí cạnh tranh.
Điểm lưu ý thứ tư của Đại hội XI là chủ trương phối hợp đồng bộ mọi hoạt động, mọi lĩnh vực để vừa tận dụng được cơ hội cho phát triển kinh tế, bảo vệ được nền độc lập tự chủ nước nhà, vừa giảm thiểu tác động bất lợi từ quá trình hội nhập sâu hơn, rộng hơn vào nền kinh tế thế giới, vừa thích nghi với các quy định và cam kết quốc tế. Đại hội nhấn mạnh hơn nữa chủ trương phối hợp ngoại giao, chính trị, văn hóa với phục vụ phát triển kinh tế đã được triển khai trong một số năm qua. Đại hội nêu rõ phải “Kết hợp chặt chẽ quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế - xã hội trên từng địa bàn lãnh thổ, trong công tác quy hoạch, kế hoạch và các chương trình dự án... Lồng ghép các chương trình để xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng ở vùng biên giới, hải đảo”7. Đây là những điểm mới nhằm nâng tầm hoạt động của các lĩnh vực trong xã hội phù hợp với phương thức hành xử trong một thế giới vừa tồn tại các đối tác có thiện chí hợp tác cùng phát triển, vừa tồn tại các đối thủ cạnh tranh, chèn ép, thậm chí phá hoại nước khác vì mục tiêu vụ lợi.
Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong điều kiện một nước nghèo, ít nhiều chậm phát triển là công việc khó khăn. Sẽ còn khó khăn hơn nữa khi phải giữ được quyền độc lập, tự chủ quốc gia trong một thế giới toàn cầu hóa với tốc độ nhanh như hiện nay. Tuy nhiên, trong khó khăn cũng tiềm ẩn rất nhiều cơ hội đề nước ta có thể tận dụng ngoại lực, phát huy cao độ nội lực nhằm gặt hái nhiều thành công trên con đường xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ đi đôi với hội nhập quốc tế. Những kinh nghiệm đã có và đường lối đúng đắn do Đại hội XI sẽ tạo nền tảng cơ bản để đất nước ta thành công trên con đường đã chọn.
___________
1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr.102.
2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr.72-72.
3. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr.102.
4. Văn kiện Đại hội XI, Sđd, tr.73-75.
5. Văn kiện Đại hội XI, Sđd, tr.188.
6. Văn kiện Đại hội XI, Sđd, tr.83-84.
7. Văn kiện Đại hội XI, Sđd, tr.137-138.