Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa V) về giá - lương - tiền

 

NGHỊ QUYẾT

HỘI NGHỊ LẦN THỨ TÁM BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG (KHÓA V)

Số 25-NQ/TW, ngày 17 tháng 6 năm 1985

Về giá - lương - tiền

-----------------------------------------



I- Nhận định tình hình

Trong hoàn cảnh chiến tranh kéo dài, nền kinh tế nước ta chậm phát triển, để bảo đảm nhu cầu về chiến đấu và đời sống trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, chúng ta đã phải dựa một phần quan trọng vào viện trợ của các nước anh em. Nhờ đó, giá cả, tiền lương cũng như tài chính, tiền tệ trong thời kỳ này cơ bản giữ được ổn định.

Từ sau ngày giải phóng miền Nam, điều kiện kinh tế - tài chính của nước ta thay đổi căn bản: viện trợ không hoàn lại hầu như không còn nữa; số vốn vay dài hạn của các nước anh em và bè bạn để nhập khẩu nguyên liệu, nhiên liệu và hàng tiêu dùng bị giảm đi nhiều. Mặc dù chúng ta đã ra sức phát triển sản xuất trong nước, cố gắng đẩy mạnh xuất, nhập khẩu, và đã đạt được một số thành tựu đáng phấn khởi, nhất là từ năm 1981 trở đi, song số của cải do sản xuất trong nước tăng thêm vẫn chưa nhiều hơn số của cải từ các nguồn bên ngoài giảm đi. Hai cuộc chiến tranh xâm lược do bọn phản động ... gây ra ở biên giới phía tây nam và phía bắc nước ta cùng những hoạt động phá hoại về nhiều mặt của chúng đã gây cho ta nhiều thiệt hại. Dân số lại tăng lên quá nhanh. Vì vậy, thu nhập quốc dân sử dụng bình quân đầu người, sau khi đã giảm đột ngột 20% năm 1975, vẫn tiếp tục giảm mỗi năm 2-3%. Trong khi đó thì nhu cầu tiêu dùng xã hội tăng hơn trước, nhu cầu quốc phòng và chi về xây dựng cơ bản vẫn phải duy trì ở mức cao.

Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước chưa kiên quyết và kịp thời sắp xếp lại sản xuất và xây dựng, định lại chính sách tài chính quốc gia, lấy nguồn động viên trong nước làm cơ sở; xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu - bao cấp để chuyển hẳn sang hạch toán kinh tế, kinh doanh xã hội chủ nghĩa... Do bảo thủ, quan liêu, thiếu nhạy bén, chỉ đạo, điều hành có nhiều khuyết điểm, tư tưởng ỷ lại vào viện trợ từ bên ngoài còn nặng, nên chúng ta đã chậm đổi mới chính sách kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế.

Những mất cân đối trong nền kinh tế chậm được khắc phục, tính năng động trong sản xuất kinh doanh không được phát huy, tài chính quốc gia ngày càng thiếu hụt, lạm phát nghiêm trọng, hệ thống giá của Nhà nước ngày càng tách rời giá trị và sức mua của đồng tiền, tiền lương thực tế và đời sống của công nhân, viên chức và các lực lượng vũ trang ngày càng giảm sút, gây ra nhiều tiêu cực trong tâm lý và đời sống xã hội.

Từ sau Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá IV (tháng 9-1979), Đảng và Nhà nước đã đề ra một số chủ trương, chính sách về sản xuất và phân phối lưu thông; một số ngành, địa phương và cơ sở đã mạnh dạn áp dụng những cách làm mới nhằm tháo gỡ vướng mắc, thúc đẩy sản xuất phát triển, đẩy mạnh thu mua nắm hàng, cải thiện một bước nền tài chính quốc gia, giải quyết một số vấn đề cấp bách về giá và lương.

Tuy nhiên, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nước về vấn đề phân phối lưu thông còn có những mặt hạn chế rất cơ bản:

a) Vẫn giải quyết các vấn đề giá, lương và các vấn đề kinh tế khác trên cơ sở tiếp tục duy trì cơ chế quản lý tập trung quan liêu - bao cấp:

Chúng ta đã tiếp tục kế hoạch hoá và quản lý đơn thuần dựa vào chế độ cấp phát và giao nộp, hạch toán kinh tế chỉ là hình thức, giả tạo; cơ chế ấy đặt các cơ sở sản xuất kinh doanh trong tình trạng bị gò bó, trở nên thụ động, ỷ lại, không kích thích, cũng không ràng buộc họ phải quan tâm đến năng suất, chất lượng, hiệu quả. Duy trì quá lâu chế độ phân phối hiện vật với giá rất thấp, đến mức gần như cho không và diện cung cấp tràn lan. Tiền lương không còn có ý nghĩa kích thích lao động.

Trong các hình thức bao cấp thì bao cấp qua giá là nghiêm trọng hơn cả: mua và bán với giá quá thấp; vật tư và hàng hoá Nhà nước bán ra phổ biến là không bù được chi phí sản xuất, có khi dưới giá trị tới 5-10 lần; hàng trăm tỷ đồng chênh lệch giá biến thành nguồn thu nhập bổ sung của nhiều người trong xã hội, biến thành miếng đất nuôi dưỡng thị trường tự do và chợ đen, làm giàu cho bọn gian thương và những phần tử thoái hoá, biến chất trong bộ máy nhà nước.

b) Nghị quyết số 26 của Bộ Chính trị đề ra nội dung cải tiến phân phối lưu thông bao gồm ba bước, mà bước một là ổn định tình hình kinh tế và đời sống, thực hiện cân bằng ngân sách và tiền mặt, chuẩn bị các điều kiện để cải cách giá và lương.

Thực tiễn chứng minh rằng việc chia ra ba bước như vậy là không đúng: không thể ổn định được tình hình kinh tế và đời sống, cân bằng được ngân sách và tiền mặt, trong khi vẫn duy trì bao cấp qua giá và lương.

Phát hiện ra thiếu sót ấy, tháng 5-1981, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số 109, nhằm điều chỉnh hệ thống giá và định lại một phần tiền lương. Song, khuyết điểm của chúng ta là:

- Do không quán triệt quan điểm xoá bỏ quan liêu bao cấp, chuyển sang hoạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, cho nên đã cải tiến giá và lương một cách nửa vời: không tính đủ các yếu tố chi phí sản xuất vào giá thành, còn duy trì bù lỗ tràn lan và hạch toán kinh tế giả tạo; duy trì giá mua và giá bán thấp; duy trì chế độ cung cấp hiện vật là chính với giá cung cấp giả tạo và diện bao cấp quá rộng.

- Sau khi điều chỉnh giá và lương, vẫn tiếp tục áp dụng cơ chế "tĩnh" đối với giá và lương, trong khi tình hình kinh tế chung đòi hỏi một cơ chế "động". Kết quả là: hệ thống giá Nhà nước tiếp tục tách rời giá trị, bù lỗ sản xuất kinh doanh ngày càng lớn, bội chi ngân sách và tiền mặt ngày càng tăng, sức mua của tiền lương danh nghĩa ngày càng giảm sút.

Tiến hành điều chỉnh giá, lương một cách đơn độc, chắp vá, không gắn với cải cách cơ chế quản lý kinh tế, sắp xếp và tổ chức lại sản xuất, tăng cường thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh cải tạo và quản lý thị trường. Chúng ta đã buông lỏng quản lý thị trường, không làm chủ được giá cả, để cho giá tăng lên quá nhanh, vượt ra khỏi sự kiểm soát của Nhà nước.

Do phạm những khuyết điểm trên, tình hình giá cả tiếp tục diễn biến xấu; giá nhà nước trở nên thấp dưới giá trị quá nhiều.

Hệ thống giá thấp (dưới giá trị) của Nhà nước đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng:

a) Thu nhập của khu vực kinh tế quốc doanh chỉ đủ trả lương công nhân, viên chức của bản thân nó ở mức rất thấp, không đủ sống, không có đóng góp cho Nhà nước, không có tích luỹ cho công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.

b) Máy móc, thiết bị, nhà xưởng ngày càng hao mòn, hư hỏng; thu về khấu hao tài sản cố định không đủ chi cho sửa chữa, càng không thể tái tạo, khôi phục tài sản cố định. Chúng ta đang ăn dần cả vào vốn.

c) Việc cấp vật tư với giá thấp, bù lỗ về hàng cung cấp cho công nhân để đổi lại việc giao nộp sản phẩm theo giá thấp làm cho giá thành và giá tiêu thụ sản phẩm thấp xa so với giá trị thực của nó; do đó, mọi tính toán về hiệu quả kinh tế đều bị sai lệch, hạch toán kinh tế chỉ là hình thức, giả tạo. Đó là những sợi dây trói buộc xí nghiệp vào cơ chế quan liêu, thủ tiêu quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của xí nghiệp.

d) Xuất khẩu càng nhiều thì ngân sách phải bù lỗ càng lớn. Một bộ phận không nhỏ tiền vay nợ nước ngoài đã bị phung phí qua bao cấp theo giá quá thấp.

đ) Duy trì giá mua và giá bán thấp mang tính chất bao cấp làm cho Nhà nước khó nắm hàng, nắm tiền, đó là nguồn gốc gây ra nhiều hiện tượng tiêu cực, rối ren trong xã hội. Vật tư hàng hoá của Nhà nước biến thành đối tượng mua đi bán lại kiếm chênh lệch giá. Ngân sách và tiền mặt ngày càng bội chi lớn.

Cũng như giá cả, tiền lương đã thành vấn đề nóng bỏng trong đời sống xã hội nước ta.

Tiền lương của cán bộ, công nhân, viên chức không được điều chỉnh tương ứng với mức tăng giá năm 1981-1982, và sau đó phụ cấp lương không tăng kịp thời và thoả đáng, trong lúc giá Nhà nước có điều chỉnh (từ cuối 1984) và nhất là giá thị trường biến động mạnh (phần quan trọng của tiền lương công nhân, viên chức còn phải chi tiêu trên thị trường tự do). Do đó, tiền lương thực tế mấy năm qua liên tục bị giảm sút, không đủ tái sản xuất sức lao động, làm phát sinh nhiều hiện tượng tiêu cực trong nội bộ giai cấp công nhân. Sự chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa các ngành nghề, các vùng và giữa các tầng lớp dân cư ngày càng bất hợp lý.

Cùng với chế độ cung cấp hiện vật bình quân với giá thấp, trên thực tế là cấp phát cho không, bản thân chế độ lương hiện hành đã quá lâu không sửa đổi cho nên không những lạc hậu về mức lương bằng tiền, mà tự thân nó mang nặng tính bao cấp; quy luật phân phối theo lao động bị vi phạm nghiêm trọng, tiền lương không gắn với năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất và công tác. Chế độ lương hiện vật gây ra nhiều lãng phí và tiêu cực, vi phạm nghiêm trọng quyền làm chủ của người lao động đối với đồng lương và thu nhập của mình.

Trong khi chế độ tiền lương chung chậm sửa đổi, các địa phương và cơ sở đã kịp thời vận dụng các chính sách của Trung ương, tìm nhiều biện pháp khắc phục các mặt tiêu cực của chế độ tiền lương hiện hành, một số địa phương và cơ sở đã tiến hành bù giá vào lương và đưa lương vào giá thành sản phẩm, nhằm kích thích người lao động, tăng năng suất để tăng thu nhập, góp phần giảm bớt khó khăn về đời sống của công nhân, viên chức. Kinh nghiệm thực tiễn trong việc bù giá vào lương đang đặt ra yêu cầu giải quyết đồng bộ trên phạm vi cả nước.

Từ tình hình trên, cần rút ra bài học bao trùm là: phải dứt khoát xoá bỏ tập trung quan liêu - bao cấp, thực hiện đúng chế độ tập trung dân chủ, hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa thì mới đẩy mạnh được sản xuất kinh doanh có hiệu quả.

II- Mục tiêu và phương hướng giải quyết vấn đề giá - lương - tiền

Căn cứ vào tình hình nói trên và nhằm góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng đề ra, việc giải quyết các vấn đề giá - lương - tiền phải nhằm đạt các mục tiêu chủ yếu sau đây:

- Thúc đẩy sản xuất phát triển theo cơ cấu hợp lý (ngành, vùng, thành phần), khai thác mọi tiềm năng lao động, đất đai, ngành nghề, cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện có, nhằm phát triển mạnh sản xuất với năng suất, chất lượng, hiệu quả cao hơn.

- ổn định đời sống nhân dân lao động, trước hết là đời sống công nhân, viên chức và lực lượng vũ trang. Nhà nước làm chủ sản xuất và phân phối lưu thông, làm chủ thị trường và giá cả; từng bước cân bằng ngân sách và tiền mặt.

- Góp phần tạo dần nguồn tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc dân để công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.

- Thúc đẩy cải tạo xã hội chủ nghĩa, tăng cường kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, phát triển kinh tế gia đình.

- Góp phần tăng cường quốc phòng và an ninh, kiên quyết chống địch phá hoại; đấu tranh có hiệu quả chống các hiện tượng tiêu cực.

Hiện nay, xoá quan liêu bao cấp trong giá và lương là yêu cầu hết sức cấp bách, là khâu đột phá có tính quyết định để chuyển hẳn nền kinh tế sang hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa trên cơ sở kế hoạch hoá, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tính chủ động, sáng tạo của các cấp, các ngành, các cơ sở sản xuất, kinh doanh trong cả nước.

Nội dung xoá quan liêu, bao cấp trong giá - lương - tiền hiện nay chủ yếu là:

1. Tính đủ chi phí hợp lý trong giá thành sản phẩm, giá cả bảo đảm bù đắp chi phí thực tế hợp lý, người sản xuất có lợi nhuận thoả đáng và Nhà nước từng bước có tích luỹ; xoá bỏ tình trạng Nhà nước mua thấp, bán thấp và bù lỗ bất hợp lý.

Thực hiện cơ chế một giá trong toàn bộ hệ thống giá, khắc phục tình trạng "thả nổi" giá cả cũng như việc định giá và quản lý giá cứng nhắc.

Phân công, phân cấp hợp lý trong cơ chế quản lý giá, vừa bảo đảm quyền tập trung thống nhất của trung ương trong việc định giá những vật tư hàng hoá chủ yếu có tính toàn quốc; vừa bảo đảm quyền chủ động, linh hoạt của địa phương và cơ sở về những vật tư và hàng hoá có tính địa phương. Trên cơ sở định giá đúng và phân công, phân cấp hợp lý, phải tăng cường kỷ luật quản lý giá.

2. Tiền lương thực tế phải thực sự bảo đảm cho người ăn lương sống chủ yếu bằng tiền lương, tái sản xuất được sức lao động và phù hợp với khả năng của nền kinh tế quốc dân.

Gắn chặt tiền lương với năng suất, chất lượng, hiệu quả lao động, thực hiện phân phối theo lao động.

Thực hiện trả lương bằng tiền có hàng hoá bảo đảm, xoá bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp, thoát ly giá trị hàng hoá.

Thực hiện chế độ lương thống nhất trong cả nước có tính đến sự khác biệt hợp lý giữa các vùng, các ngành; ưu đãi thoả đáng các ngành nghề nặng nhọc, độc hại, có yêu cầu nghiệp vụ, kỹ thuật cao, các ngành giáo dục, y tế, văn hoá, nghệ thuật.

3. Xác lập quyền tự chủ về tài chính của các ngành kinh tế - kỹ thuật, các địa phương và đơn vị cơ sở gắn liền với sửa đổi cơ chế kế hoạch hoá và quản lý. Chuyển hẳn mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh của các ngành, địa phương và đơn vị cơ sở sang cơ chế hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa, bắt đầu ngay từ kế hoạch hoá. Tất cả các tổ chức kinh tế phải tự chịu trách nhiệm về lời - lỗ của mình; xoá bỏ mọi khoản bù lỗ bất hợp lý của ngân sách nhà nước (trung ương và địa phương) về các hoạt động sản xuất - kinh doanh. Trường hợp có bù lỗ chỉ là cá biệt, tạm thời và phải được xem xét thật nghiêm ngặt.

Xoá bỏ các khoản chi của ngân sách trung ương và địa phương mang tính chất bao cấp tràn lan; phấn đấu tích cực thực hiện cân bằng ngân sách trong thời gian ngắn; tạo điều kiện cho ngân sách địa phương có nguồn thu ổn định và phát triển.

4. Nhanh chóng chuyển hẳn công tác ngân hàng sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện tốt nhất cho các ngành, địa phương, đơn vị cơ sở thực hiện hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, lấy hiệu quả kinh tế của đồng vốn làm tiêu chuẩn hàng đầu trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.

Để làm chủ sản xuất, làm chủ thị trường, làm chủ phân phối - lưu thông, cần chủ động kế hoạch hoá phát hành, phấn đấu sớm chấm dứt lạm phát cho chi tiêu ngân sách.

Trong tình hình kinh tế đang chuyển biến, chưa ổn định, cuộc điều chỉnh lớn và toàn diện về giá - lương - tiền lần này phải tiến hành khẩn trương, kiên quyết, nhưng phải tính toán kỹ lưỡng các phương án vững chắc gắn với việc xây dựng và hoàn chỉnh cơ chế quản lý mới.

Các chủ trương và việc tổ chức thực hiện ngay trong mỗi bước phải đồng bộ, quán triệt quan điểm xoá bỏ quan liêu bao cấp. Phải dự kiến được mặt tích cực, đồng thời phải lường trước những hệ quả kinh tế, chính trị và xã hội bất lợi nhất thời có thể xảy ra để có biện pháp tích cực đề phòng và khắc phục.

III- Những chủ trương và biện pháp lớn

1. Về giá cả

Căn cứ vào những mục tiêu và phương hướng nói trên, việc điều chỉnh mặt bằng giá cả (bao hàm cả việc điều chỉnh các quan hệ tỷ giá) và cơ chế quản lý giá phải dựa trên các nguyên tắc sau đây:

- Xác định giá phù hợp với giá trị và với sức mua thực tế của đồng tiền.

- Định giá trên cơ sở lấy kế hoạch làm trung tâm, thực hiện hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, chủ động vận dụng quy luật giá trị và quan hệ cung - cầu.

- Trong điều kiện nước ta đi từ một nền kinh tế mà tiểu sản xuất hàng hoá còn phổ biến tiến thẳng lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, theo chủ trương của Đảng coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, phải lấy giá thóc làm chuẩn để tính toán các loại giá khác và toàn bộ mặt bằng giá.

- Quản lý giá cả phải có phân công, phân cấp hợp lý theo nguyên tắc tập trung dân chủ, phù hợp với thực tế.

a) Giá mua lương thực và nông sản:

Giá mua lương thực và nông sản phải thể hiện và góp phần thực hiện đường lối phát triển nông nghiệp nhằm hình thành cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý, thể hiện quan hệ công - nông cùng làm chủ, cả công nghiệp và nông nghiệp đều phát triển và đóng góp đúng mức cho Nhà nước, đời sống công nhân, nông dân đều được cải thiện.

Xác định giá mua lương thực và nông sản trên cơ sở thoả thuận giữa Nhà nước và nông dân, bảo đảm cho người sản xuất bù đắp đủ chi phí, có lãi hợp lý nhằm khuyến khích nông dân hăng hái sản xuất.

Đối với những vùng điều kiện thiên nhiên không thuận lợi (đất đai, thời tiết...) và cơ sở vật chất - kỹ thuật thấp kém, đời sống còn nhiều khó khăn, Nhà nước có chính sách giá mua cao hơn, đi đôi với chính sách đầu tư. Đối với những vùng có điều kiện thiên nhiên thuận lợi, cần có các chính sách thuế và giá thích hợp.

Giá mua nông sản phẩm phải khuyến khích việc hình thành và phát triển các vùng chuyên canh, các vùng kinh tế mới, chú trọng những vùng chuyên trồng lúa.

Thực hiện ngay việc Nhà nước thống nhất quản lý, độc quyền kinh doanh lương thực và các nông sản chủ yếu, bằng chính sách giá và phương thức mua hợp lý.

áp dụng cơ chế một giá mua (có phân biệt theo vùng và được điều chỉnh theo từng vụ sản xuất) trên cơ sở thoả thuận giữa Nhà nước và nông dân. Thông qua hợp đồng kinh tế, Nhà nước nắm hầu hết lương thực hàng hoá và đại bộ phận nông sản hàng hoá quan trọng. Giá mua thóc do Bộ Chính trị phê chuẩn.

b) Tính đủ các yếu tố chi phí và xác định đúng giá thành sản phẩm công nghiệp; cụ thể là:

- Tính đủ chi phí tiền lương mới của khu vực sản xuất.

- Tính đủ khấu hao tài sản cố định, theo hướng: đánh giá lại tài sản cố định, tính đủ khấu hao sửa chữa lớn, tạm thời tính khấu hao cơ bản căn cứ vào tình hình sử dụng thực tế máy móc, thiết bị.

- Tính đúng và đủ giá trị vật tư: vật tư sản xuất trong nước tính đủ giá vốn; vật tư nhập khẩu dựa trên giá vốn nhập tính theo tỷ giá kết toán nội bộ mới và theo chính sách giá trong nước.

Đồng thời với việc tính đủ các chi phí hiện còn để ngoài giá thành, qua thực hiện hạch toán, kinh doanh mà phát hiện và loại bỏ các chi phí bất hợp lý, bất hợp lệ làm cho giá bị "vống lên".

Xác định đúng tỷ giá kết toán nội bộ nhằm bảo đảm kinh doanh xuất - nhập khẩu bình thường có lãi, trên cơ sở tổ chức lại và hình thành cơ cấu xuất - nhập khẩu có hiệu quả ngày càng cao và tăng cường quản lý xuất - nhập khẩu theo nguyên tắc Nhà nước độc quyền ngoại thương và Nhà nước thống nhất quản lý ngoại hối, chống cạnh tranh mua bán đẩy giá vốn xuất lên; có chính sách đúng đắn về thu bù chênh lệch ngoại thương và thực hiện thuế xuất - nhập khẩu.

Phân biệt tỷ giá hối đoái đồng rúp và đồng đôla với đồng tiền của ta. Tỷ giá hối đoái phải do Nhà nước trung ương định, từng thời kỳ có điều chỉnh cho phù hợp; các ngành, các cấp không được tự tiện thay đổi.

c) Điều chỉnh giá bán buôn hàng công nghiệp (vật tư và hàng tiêu dùng) trên cơ sở giá thành tính đủ chi phí, có lãi thoả đáng cho người sản xuất và thể hiện chính sách kinh tế của Nhà nước, bảo đảm tính chung có tích luỹ cho Nhà nước.

Giá bán buôn công nghiệp đối với vật tư và hàng công nghiệp tiêu dùng phải thể hiện chính sách tích luỹ và tiêu dùng của Đảng và Nhà nước: đối với tư liệu sản xuất, Nhà nước thu quốc doanh có mức độ (có trường hợp không thu khi cần khuyến khích sản xuất, như đối với một số tư liệu sản xuất phục vụ nông nghiệp, cá biệt có thể còn bù lỗ, xem như là một chính sách đầu tư cho nông nghiệp); đối với hàng công nghiệp tiêu dùng, Nhà nước thu quốc doanh tuỳ theo tính chất loại hàng hoá.

Giá bán vật tư, hàng hoá nhập khẩu phải phù hợp với các quan hệ giá cả và chính sách giá trong nước; đồng thời khuyến khích sản xuất vật tư trong nước thay thế hàng nhập khẩu và sử dụng tiết kiệm vật tư nhập khẩu.

Trên cơ sở Nhà nước thống nhất quản lý và độc quyền kinh doanh những vật tư và hàng công nghiệp tiêu dùng chủ yếu, Nhà nước trung ương định giá thống nhất (một số mặt hàng giả định chênh lệch theo vùng) cho những loại hàng này.

Nhất thiết phải tổ chức, sắp xếp lại sản xuất công nghiệp, sắp xếp lại công tác xuất - nhập khẩu nhằm đạt hiệu quả cao hơn; chấn chỉnh lưu thông, tính đúng định mức, loại bỏ chi phí sản xuất và lưu thông bất hợp lý và bất hợp lệ. Cùng với việc tính lại giá bán buôn, phải xử lý hàng loạt vấn đề về cơ cấu và tổ chức sản xuất, quản lý trên toàn bộ nền kinh tế quốc dân, cũng như trong từng ngành và từng cơ sở theo quan điểm triệt để xoá bỏ bao cấp, thực hiện hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Đối với những xí nghiệp và sản phẩm bị lỗ, phải xem xét lại mặt hàng, nếu cần thì phải chuyển hướng sản xuất, thậm chí đóng cửa. Phải sắp xếp lại hệ thống lưu thông (cung ứng vật tư, nội thương, ngoại thương...), xoá ngay các khâu trung gian không cần thiết, để hàng hoá có thể đi thẳng từ nơi sản xuất đến người tiêu dùng (kể cả tiêu dùng trực tiếp và tiêu dùng cho sản xuất) bằng con đường ngắn nhất với giá cả hợp lý.

d) Giá bán lẻ

Giá bán lẻ phải được xác định trên cơ sở giá trị hàng hoá, có tính đến quan hệ cung - cầu, tiền - hàng, và phải thể hiện chính sách kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước. Chính sách giá bán lẻ hàng tiêu dùng cần phân biệt theo tính chất mặt hàng.

Hàng công nghiệp thực phẩm và hàng công nghiệp tiêu dùng nói chung phải có tích luỹ cho ngân sách, trừ một vài mặt hàng thiết yếu thì tích luỹ ít hoặc không tích luỹ, cá biệt có thể bù lỗ theo chính sách xã hội (ví dụ thuốc chữa bệnh, sữa cho trẻ em, sách giáo khoa...).

Theo chính sách trên, Nhà nước thực hiện nhất quán cơ chế một giá bán lẻ; trung ương định một giá kinh doanh thống nhất cho những mặt hàng tiêu dùng thiết yếu (có những mặt hàng trung ương định giá khung), có phân biệt thoả đáng về mức giá theo vùng, nhất là về lương thực - thực phẩm, và một số loại vật tư hàng hoá đòi hỏi vận chuyển xa, chi phí vận tải lớn.

Khi cần thiết, Nhà nước sẽ chủ động tính toán, điều chỉnh giá cho phù hợp.

Giá bán hàng công nghiệp để tính lương cơ bản phải thống nhất cả nước. Giá lương thực và một số nông sản thực phẩm như gạo, thịt lợn... tính theo vùng có mức giá thấp nhất (trên cơ sở chi phí sản xuất và lưu thông theo mặt bằng giá mới). Mức chênh lệch giữa giá bán lẻ lương thực, thực phẩm ở các vùng khác cao hơn giá tính lương cơ bản được xử lý bằng phụ cấp đắt đỏ theo khu vực. Để hạn chế tác động phức tạp do giá cả còn biến động và để thực hiện việc kế hoạch hoá và hạch toán kinh tế, cần ổn định giá bán để tính lương trong từng thời gian. Khi điều chỉnh giá thì tính lại tiền lương cho tương ứng.

Việc thực hiện chính sách và cơ chế giá bán lẻ như trên đòi hỏi tính toán, cân đối quỹ hàng hoá xã hội và khối lượng tiền lưu thông trên từng địa phương và khu vực; phải đẩy mạnh cải tạo và quản lý chặt chẽ thị trường tự do, nghiêm trị đầu cơ, buôn lậu; bảo đảm tiền lương thực tế cho công nhân, viên chức và lực lượng vũ trang.

đ) Cơ chế quản lý giá

Thực hiện cơ chế một giá thống nhất, do Nhà nước (trung ương và địa phương) quy định và điều chỉnh kịp thời khi cần thiết; từng bước ổn định giá trên cơ sở làm chủ kế hoạch sản xuất và phân phối, nắm hàng, nắm tiền, cải tạo, quản lý và làm chủ thị trường.

Thực hiện sự phân công, phân cấp quản lý giá hợp lý giữa các cơ quan nhà nước trung ương và địa phương. Giá vật tư quan trọng, giá bán hàng tiêu dùng thiết yếu do trung ương quy định thống nhất trong cả nước (có phân biệt theo vùng). Trung ương quy định khung giá mua nông, lâm, hải sản chủ yếu và giá các hàng hoá khác để địa phương vận dụng cho phù hợp với tình hình cụ thể của địa phương. Đối với những hàng hoá có tính địa phương, thì giá cả do chính quyền địa phương hoặc cơ sở sản xuất quyết định.

2. Chủ trương, chính sách về lương

Chính sách tiền lương phải quán triệt nguyên tắc phân phối theo lao động, xoá bỏ bao cấp, từng bước khắc phục tính chất bình quân, chênh lệch bất hợp lý; phải nhằm ổn định và từng bước cải thiện đời sống của công nhân, viên chức và các lực lượng vũ trang; phải khôi phục lại trật tự về tiền lương, tiền thưởng trong phạm vi cả nước.

Để đạt các yêu cầu trên, cần thực hiện những chủ trương, chính sách như sau:

a) Bãi bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá bù lỗ, chuyển sang chế độ trả lương bằng tiền; xác định lại hệ thống lương cơ bản thống nhất cả nước

Tiền lương phải bảo đảm tái sản xuất sức lao động (kể cả phần nuôi người ăn theo). Trong điều kiện cụ thể của nước ta, mức lương tối thiểu phải bảo đảm cung cấp cho người lao động ít nhất 2.000 calo/ngày với mức chi về ăn chiếm khoảng 70% tiền lương.

Căn cứ vào mức trên, tính lại tiền lương tối thiểu theo mặt bằng giá mới, lấy đó làm cơ sở để tính hệ thống lương cơ bản thống nhất cho cả nước.

Bãi bỏ chế độ tem phiếu. Riêng về gạo (ở một số thành phố và khu công nghiệp lớn có thể cả chất đốt và một vài mặt hàng thực phẩm thiết yếu), ở những nơi Nhà nước chưa đủ lực lượng hàng hoá để bán lẻ bình thường cho mọi nhu cầu thì tạm thời còn cấp sổ hoặc phiếu mua hàng cho công nhân, viên chức.

b) Sắp xếp lại các mức lương, thang lương, phụ cấp, tiền thưởng

Tạm thời bố trí mức lương tối đa bằng 3,5 lần mức lương tối thiểu; mức lương tối thiểu do Bộ Chính trị phê chuẩn. Khi có nguồn tài chính khá hơn, sẽ mở rộng dần chênh lệch giữa các bậc lương.

Sắp xếp lại các thang lương, bậc lương phù hợp với trình độ, trách nhiệm và cống hiến của các loại công nhân, viên chức. Bảo đảm quan hệ hợp lý giữa các ngành nghề, đãi ngộ thoả đáng hơn các ngành nghề nặng nhọc, độc hại, các ngành nghề đòi hỏi trình độ khoa học, kỹ thuật cao, các ngành y tế, giáo dục, văn hoá, nghệ thuật. Mức lương sĩ quan và quân nhân chuyên nghiệp trong quân đội và công an phải cao hơn một ít so với các cán bộ, nhân viên ở các ngành nghề nặng nhọc.

Phụ cấp thâm niên thoả đáng đối với các ngành nghề đòi hỏi công nhân, viên chức gắn bó lâu dài với ngành nghề. Đối với tất cả các ngành nghề khác, nếu công nhân, viên chức đã đạt đến bậc cao nhất của thang lương mà vẫn tiếp tục lao động, tiếp tục cống hiến thì được hưởng phụ cấp vượt khung.

Sắp xếp lại hệ thống phụ cấp khu vực căn cứ vào điều kiện khí hậu và mức độ xa xôi hẻo lánh, đi lại khó khăn, điều kiện sinh hoạt vật chất và văn hoá thiếu thốn. Không áp dụng phụ cấp khu vực đối với các thành phố, thị xã ở vùng đồng bằng và ven biển.

Thực hiện rộng rãi chế độ lương sản phẩm trong các cơ sở sản xuất kinh doanh. Sắp xếp lại các khoản phụ cấp và tiền thưởng từ quỹ lương, làm cho lương cơ bản trong khu vực sản xuất kinh doanh chiếm khoảng 70% thu nhập về tiền lương.

Nghiên cứu để quy định các khoản tiền thưởng, các chế độ khuyến khích các hoạt động sáng tạo về khoa học, kỹ thuật, văn học, nghệ thuật.

c) Phụ cấp đắt đỏ

Để bảo đảm tiền lương thực tế cho công nhân, viên chức, cần xem xét tình hình giá cả từng quý (hoặc đột xuất khi cần thiết) để định phụ cấp đắt đỏ. Phụ cấp đắt đỏ do trung ương thống nhất quy định cho từng vùng.

Phụ cấp đắt đỏ được hạch toán vào quỹ lương và vào giá thành sản phẩm.

d) Điều chỉnh chế độ trợ cấp xã hội

Tính lại trợ cấp hưu trí căn cứ vào mức lương cũ (trước khi về hưu) chuyển đổi sang mức lương mới.

Đối với những người nghỉ việc vì mất sức lao động, cần soát xét lại chế độ trợ cấp, bãi bỏ bao cấp, và tính lại trợ cấp theo mức lương mới.

Đối với học sinh, bãi bỏ chế độ bao cấp về sinh hoạt phí. Định lại chế độ học bổng theo hướng khuyến khích học sinh giỏi và quan tâm tới học sinh con liệt sĩ và học sinh dân tộc thiểu số.

Nghiên cứu sửa lại bệnh viện phí.

Đối với gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng, thương binh... đang được hưởng chế độ cung cấp theo tem phiếu thì định lại mức trợ cấp bằng tiền theo chế độ thống nhất phù hợp với mặt bằng giá mới.

Bãi bỏ chế độ cung cấp hiện vật cho người ăn theo. Đối với công nhân, viên chức có nhiều người phải nuôi dưỡng mà gặp khó khăn, thì dùng quỹ trợ cấp xã hội để trợ cấp bằng tiền.

3. Chủ trương, chính sách về tài chính, tiền tệ

Cùng với việc điều chỉnh giá và lương, cần cải tiến công tác tài chính và lưu thông tiền tệ.

a) Trên cơ sở phát triển sản xuất và cải tiến quản lý, phấn đấu hạ giá thành và phí lưu thông, cần nắm chắc và huy động mạnh mẽ các nguồn thu cho ngân sách nhà nước.

Cải tiến chế độ thu quốc doanh và các loại thuế. Thực hiện tiết kiệm chi một cách nghiêm ngặt; định lại các chế độ chi tiêu phù hợp với khả năng tài chính của Nhà nước. Tích cực phấn đấu tiến tới thực hiện cân bằng ngân sách, chấm dứt phát hành cho chi tiêu ngân sách.

b) Thực hiện chế độ tự chủ tài chính của xí nghiệp, làm cho giá, lương, tài chính, tín dụng... phát huy đầy đủ chức năng đòn bẩy kinh tế, kích thích và đòi hỏi các đơn vị kinh tế phát triển sản xuất, mở rộng kinh doanh xã hội chủ nghĩa, cải tiến kỹ thuật, làm ăn có hiệu quả.

Chuyển đại bộ phận vốn đầu tư và toàn bộ vốn lưu động của xí nghiệp sang hình thức tín dụng.

c) Điều chỉnh mối quan hệ giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, thực hiện chế độ phân cấp ngân sách trên cơ sở ba cấp cùng làm chủ, bảo đảm sự nhất trí giữa ba lợi ích (toàn xã hội, tập thể, cá nhân người lao động); tạo điều kiện cho địa phương chủ động hơn nữa trong việc khai thác các tiềm năng để phát triển kinh tế địa phương, tăng nguồn thu, và chủ động bố trí ngân sách địa phương đáp ứng các nhu cầu chi tiêu cần thiết của mình.

d) áp dụng các biện pháp có hiệu lực để cải tiến lưu thông tiền tệ, thu hút tiền nhàn rỗi, đẩy nhanh nhịp độ quay vòng đồng tiền. Chuyển mạnh hoạt động của ngân hàng sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa; kịp thời đáp ứng những nhu cầu về vốn cho sản xuất - kinh doanh theo giá mới.

đ) Tăng cường sự kiểm soát bằng đồng tiền và kỷ luật về tài chính và tiền mặt. Sửa đổi chế độ chi tiêu phù hợp với cơ chế mới; trên cơ sở đó, nghiêm cấm mọi sự chi tiêu sai chế độ; chống lãng phí; nghiêm trị mọi hành vi tham ô, lập quỹ đen. Thực hiện nghiêm ngặt sự kiểm tra và thanh tra tài chính của Nhà nước.

IV- Tổ chức và chỉ đạo thực hiện

1. Nghị quyết này cần được quán triệt sâu sắc trong cán bộ lãnh đạo các cấp, các ngành từ trung ương đến cơ sở. Khi trung ương công bố thi hành chính sách mới về giá và lương thì phổ biến rộng rãi đến đảng viên và nhân dân, nhằm tạo ra sự nhất trí cao trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân để bảo đảm thực hiện thắng lợi. Ban Bí thư chỉ đạo chặt chẽ nội dung và kế hoạch tuyên truyền, phổ biến nghị quyết.

2. Trung ương và tỉnh cần khẩn trương chuẩn bị về các mặt như sau:

- Hội đồng Bộ trưởng trình Bộ Chính trị thông qua giá những mặt hàng chuẩn, trên cơ sở đó, quyết định giá những mặt hàng thuộc thẩm quyền quyết định của Hội đồng Bộ trưởng, rồi thông báo cho các bộ, các tỉnh để bộ và tỉnh có căn cứ quyết định giá những mặt hàng thuộc thẩm quyền của mình.

- Trên cơ sở mức lương tối thiểu được Bộ Chính trị phê chuẩn, Hội đồng Bộ trưởng cùng Ban Bí thư thông qua các mức lương, bảng lương, phụ cấp, trợ cấp, rồi thông báo cho các bộ, các tỉnh để chuẩn bị xếp lương cho công nhân, viên chức thuộc quyền quản lý của mình.

- Các Bộ Nội thương, Lương thực cùng các tỉnh chuẩn bị quỹ hàng hoá và mạng lưới bán lẻ. Đặc biệt chú ý các thành phố lớn và khu công nghiệp tập trung. Ngay từ bây giờ, cần nhanh chóng mở rộng và đổi mới hoạt động của thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán, tăng cường cải tạo và quản lý thị trường, quản lý giá, tăng cường quản lý chặt chẽ việc thu thuế công thương nghiệp, ráo riết truy quét và trừng trị bọn đầu cơ, buôn lậu, bọn phá hoại, phao tin đồn nhảm, gây rối thị trường.

- Ngân hàng Nhà nước chuẩn bị quỹ tiền mặt để bảo đảm phát lương và nắm hàng.

- Hội đồng Bộ trưởng chỉ đạo các ngành có biện pháp xử lý các vấn đề đặt ra khi công bố chính sách mới về giá và lương. Các ngành cần chuẩn bị đầy đủ thông tư hướng dẫn để kịp thời ban hành ngay khi công bố giá và lương mới.

- Các công việc chuẩn bị phải tiến hành chu đáo, nhưng phải hạn chế trong một số cán bộ hết sức cần thiết để bảo đảm bí mật.

3. Trước khi công bố giá và lương mới, theo lệnh thống nhất của Hội đồng Bộ trưởng, phải kiểm kê tồn kho vật tư hàng hoá thuộc khu vực nhà nước, tập thể và tư nhân sản xuất, kinh doanh.

4. Việc thi hành Nghị quyết này đòi hỏi thống nhất ý chí và hành động của toàn Đảng, toàn dân, của các ngành, các cấp; đòi hỏi nâng cao ý thức tổ chức và kỷ luật.

Các ngành, các địa phương phải chuẩn bị chu đáo và vững chắc để thực hiện tốt chính sách mới về giá - lương - tiền. Các cơ quan trung ương có trách nhiệm hướng dẫn, phối hợp, giúp đỡ các địa phương và cơ sở đã thực hiện hoặc đang chuẩn bị thực hiện bù giá vào lương và đưa lương vào giá thành. Nơi nào dự định thực hiện bù giá vào lương cần bàn kỹ với các ngành trung ương có liên quan; theo tinh thần và nội dung Nghị quyết mà rà soát phương án cụ thể trước khi tiến hành.

Khi trung ương công bố thi hành chính sách mới về giá và lương, thì tất cả các quy định riêng của địa phương, cơ quan, xí nghiệp phải bãi bỏ để thực hiện thống nhất theo quy định chung.

Các cấp lãnh đạo của Đảng, chính quyền, đoàn thể, từ trung ương đến cơ sở, phải coi việc chỉ đạo thực hiện Nghị quyết này là công tác trung tâm đột xuất từ nay cho đến hết năm 1985.

Các cơ quan thông tin, báo chí dựa vào Nghị quyết và các quyết định của Hội đồng Bộ trưởng để tuyên truyền, giải thích cho toàn dân. Phải tuyên truyền, giáo dục sâu rộng, nhạy bén, nhưng tránh để lộ bí mật các chủ trương và số liệu cụ thể.

5. Tất cả các cấp, các ngành từ trung ương đến cơ sở phải căn cứ vào tinh thần Nghị quyết mà xác định lại chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và cán bộ của các cơ quan, kiên quyết sắp xếp, chấn chỉnh những tổ chức và bộ máy bất hợp lý, loại bỏ những tổ chức trung gian không cần thiết, gây trở ngại cho hoạt động sản xuất, kinh doanh xã hội chủ nghĩa, giảm biên chế bộ máy nhà nước; sửa đổi chương trình, nội dung và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo và quản lý kinh tế; điều động và bố trí cán bộ để bảo đảm thực hiện tốt các chủ trương cải cách giá và lương, thực hiện cơ chế quản lý mới.

6. Để chỉ đạo việc chuẩn bị và thực hiện Nghị quyết này, Ban Bí thư và Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng cần phối hợp chặt chẽ, theo dõi hằng ngày và xử lý kịp thời các vấn đề cụ thể xuất hiện trong quá trình thực hiện các chủ trương, chính sách mới về giá - lương - tiền. Cần hướng dẫn, chỉ đạo và giúp đỡ cụ thể Thủ đô Hà Nội, các thành phố, các khu công nghiệp lớn và một số cơ sở kinh tế quan trọng để rút kinh nghiệm, bảo đảm thực hiện thắng lợi Nghị quyết này trong phạm vi cả nước.

*
*   *

Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần này về giá - lương - tiền là kết quả rút ra từ thực tiễn và kinh nghiệm của Đảng và Nhà nước ta trong những năm qua, thể hiện sự chuyển hướng mạnh mẽ, sâu sắc trong chủ trương, chính sách của Đảng ta không những về giá cả, tiền lương mà cả về thương nghiệp, tài chính, tiền tệ, về cơ chế kế hoạch hoá và quản lý kinh tế, nhằm triệt để xoá bỏ quan liêu, bao cấp, chuyển hẳn sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế nước ta phát triển lên một bước mới.

Việc đổi mới chính sách giá, lương và cơ chế quản lý kinh tế là sự thay đổi lớn có ý nghĩa cách mạng. Ban Chấp hành Trung ương tin tưởng rằng Nghị quyết này sẽ tạo ra sự nhất trí cao trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động trong cả nước, dấy lên cao trào cách mạng của quần chúng trong lao động sản xuất và bảo vệ Tổ quốc, đưa sự nghiệp cách mạng nước ta tiến lên giành những thắng lợi mới.


T/M BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
Tổng Bí thư 

Lê Duẩn

 

Nguồn: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr 110 - 133

 

 

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Các tin khác

Ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng

(ĐCSVN) - Ngày 10/10, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký Quyết định số 190-QĐ/TW về việc ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng.

Kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công

(ĐCSVN) - Bộ Chính trị vừa ban hành Quy định số 189-QĐ/TW ngày 08/10/2024 về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công.

Bộ Chính trị ban hành quy định phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong điều tra, xét xử

(ĐCSVN) – Ngày 27/10/2023, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 132-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Tập trung tuyên truyền những chủ đề lớn, trọng tâm từ nay đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng

(ĐCSVN) - Ban Tuyên giáo Trung ương yêu cầu thông tin chính xác, kịp thời với nhiều hình thức linh hoạt, sáng tạo, phong phú, sinh động gắn với tuyên truyền đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và tuyên truyền kỷ niệm các ngày lễ lớn, sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước trong năm 2024, 2025.

Quy trình kỷ luật đảng viên thuộc thẩm quyền của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư

(ĐCSVN) - Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường vừa ký Quyết định số 165-QĐ/TW ngày 6/6/2024 của Bộ Chính trị ban hành Quy trình xem xét, thi hành kỷ luật đối với tổ chức Đảng, đảng viên thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Liên kết website