Xuất thân trong một gia đình Nho học giàu truyền thống yêu nước, từ lúc thiếu thời đến tuổi trưởng thành, Hồ Chí Minh đã nhận được sự giáo dục theo đạo Thánh hiền và được nuôi dưỡng bằng truyền thống nhân ái của dân tộc. Quá trình tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh là một quá trình vận động biện chứng từ một người yêu nước trở thành một người cộng sản chân chính.
Lớn lên trong thời kỳ đất nước bị chìm đắm trong vòng nô lệ, Người đã được chứng kiến nhiều cuộc khởi nghĩa, nhiều phong trào yêu nước của các nhà chí sĩ bị thực dân Pháp dập tắt như cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng hay các phong trào Đông Du, Duy Tân của Phan Bội Châu, Phan Chu Chinh. Sự đàn áp của thực dân Pháp khiến cách mạng nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng, thiếu hẳn một con đường cách mạng phù hợp với tình hình mới. Một đòi hỏi tất yếu là phải tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc. Hồ Chí Minh khâm phục tinh thần yêu nước của Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh,... nhưng không tán thành con đường cứu nước của họ.
Xuất phát từ thực tiễn đất nước trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể, Hồ Chí Minh đã vượt thoát khỏi tín điều Nho giáo, phê phán các phong trào yêu nước mang nặng cốt cách phong kiến. Người cho rằng, các cuộc khởi nghĩa mang “cốt cách phong kiến” lỗi thời không thể có được sức mạnh thực hiện nhiệm vụ đánh đuổi thực dân, giành lại độc lập cho dân tộc trong điều kiện, hoàn cảnh mới. Bên cạnh đó, mặc dù sớm tiếp xúc với Tân văn, Tân thư của các nhà cách mạng Trung Quốc, chứng kiến các phong trào yêu nước trên lập trường dân chủ tư sản và cũng đồng thời chứng kiến sự thất bại của các phong trào này, Hồ Chí Minh nhận ra một điều rằng lập trường dân chủ tư sản ở một nước thuộc địa nửa phong kiến ở Việt Nam chưa đủ sức tập hợp được lực lượng để chống lại chủ nghĩa thực dân, chưa đủ sức chống lại được sự đàn áp của thực dân Pháp.
Chính vì vậy, để tìm ra con đường cứu nước, không còn con đường nào khác là phải ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác như thế nào, để trở về giúp đồng bào mình. Do đó, Người đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước. Năm 1923 Người đã trả lời một nhà báo Nga rằng: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp Tự do, Bình đẳng, Bác ái… Tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy”[1]. Một lần khác trả lời một nhà văn Mỹ, Người nói: “Nhân dân Việt Nam trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”[2].
Đi nhiều nơi, đến nhiều nước trên thế giới, Hồ Chí Minh đã học hỏi được rất nhiều điều mà trong nước không thể có. Những khái niệm, những giá trị mới, tiến bộ như: tự do, bình đẳng, bác ái, nhân quyền, dân quyền, pháp quyền, dân chủ, xã hội chủ nghĩa... đã ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng Hồ Chí Minh. Những giá trị mới như Độc lập, Tự do... là những giá trị, theo Người, không thể tìm thấy trong các chế độ phong kiến chuyên chế, ở các nước thuộc địa.
Có thể nói, mặc dù được nuôi dưỡng bằng truyền thống yêu nước nhưng Hồ Chí Minh, bằng bản lĩnh của mình, đã vượt lên trên truyền thống mà nhiều nội dung không còn phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể để tìm con đường cứu nước mới.
Ngày 5-6-1911, trên con tàu Đô đốc Latútsơ Tơrêvin, từ bến cảng Sài Gòn, thành phố Sài Gòn, Hồ Chí Minh rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước. Tìm hiểu những cuộc cách mạng nổi tiếng thế giới là cách mạng Mỹ (năm 1776), cách mạng tư sản Pháp (năm 1789), đặc biệt là phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa chống chủ nghĩa thực dân, Người rất khâm phục tinh thần cách mạng ở những nước này, nhưng không thể đi theo con đường đó được. Bởi vì, như Người đã nói: “Kách mệnh Mỹ cũng như kách mệnh Pháp là kách mệnh tư bản, kách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực thì nó tước đoạt công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”[3].
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế phát triển mạnh mẽ. Đầu năm 1919, V.I.Lênin và những người theo chủ nghĩa Mác ủng hộ lập trường của Lênin họp đại hội ở Mátxcơva, thành lập Quốc tế III - tức Quốc tế Cộng sản. Quốc tế Cộng sản đã kiên quyết ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc ở các nước phương Đông. Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin được Đại hội lần thứ hai Quốc tế Cộng sản họp năm 1920 thông qua, đã vạch ra đường lối cơ bản cho phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc.
Báo Nhân đạo, ngày 16 và 17-7-1920 đã đăng Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin. Tên đầu bài có liên quan đến vấn đề thuộc địa lập tức thu hút sự chú ý của Người. Trong văn kiện này, V.I.Lênin phê phán luận điểm sai lầm của những người đứng đầu Quốc tế II về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa, lên án mạnh mẽ tư tưởng sô vanh, tư tưởng dân tộc hẹp hòi, ích kỷ, đồng thời nhấn mạnh nhiệm vụ của các đảng cộng sản là phải giúp đỡ thật sự phong trào cách mạng của các nước thuộc địa và phụ thuộc, về sự đoàn kết giữa giai cấp vô sản các nước tư bản với quần chúng cần lao của tất cả các dân tộc để chống kẻ thù chung. Đặc biệt, trong bản Luận cương, V.I.Lênin đã đề cập đến quyền bình đẳng giữa các dân tộc dựa trên lợi ích thiết thực về kinh tế, chính trị...
Trong tác phẩm Đường kách mệnh, Hồ Chí Minh khẳng định: trong thế giới bây giờ chỉ có kách mệnh Nga là thành công và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng hạnh phúc, tự do bình đẳng thật sự. Kách mệnh Nga đã đuổi được vua, tư bản, địa chủ, rồi lại ra sức cho công nông các nước và các dân tộc bị áp bức, các thuộc địa làm kách mệnh để lật đổ tất cả đế quốc và tư bản chủ nghĩa trên thế giới. Áp dụng cho cách mạng Việt Nam, Người vạch ra chân lý muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.
Trên hành trình tìm đường cứu nước, qua những trải nghiệm lao động, học tập, đấu tranh của bản thân và thực tiễn cách mạng thế giới, với tâm và tầm của một nhà cách mạng kiệt xuất, Hồ Chí Minh đã đến với của chủ nghĩa Mác - Lênin – tìm thấy con đường duy nhất có thể thực hiện được mục tiêu cứu dân cứu nước của mình.
Trong suốt hành trình tìm đường cứu nước, động lực mạnh mẽ thôi thúc Hồ Chí Minh chính là lòng yêu nước, vì dân. Khi đến với Luận cương của V.I.Lênin, đến với Quốc tế III, Người thấy rằng đó chính là con đường duy nhất có thể giúp dân tộc mình có được độc lập, dân mình có được tự do. Người viết: “chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”[4]. Theo Người, chủ nghĩa dân tộc gắn với tôn quân (quân quyền) phải được thay thế bởi chủ nghĩa dân tộc gắn với dân quyền. Người xác định cần phải phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ. Người nói: “...người ta sẽ không thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên động lực vĩ đại, và duy nhất của đời sống xã hội của họ”[5].
Con đường cứu nước của Hồ Chí Minh thể hiện sự phát triển tư tưởng từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản. Người đã tổng kết quá trình tìm đường cứu nước của mình như sau: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba. Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”[6]. Từ chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh đã đến với con đường cách mạng vô sản, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và cách mạng tháng Mười. Có thể nói, sự vượt thoát truyền thống để đến với những giá trị mới của thời đại trên cơ sở chủ nghĩa yêu nước đã giúp Hồ Chí Minh tìm ra con đường cứu nước, cứu dân, đó là con đường kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, kết hợp tinh thần yêu nước với tinh thần quốc tế vô sản.
Ngày nay, để thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, chúng ta cần phải quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về động lực hành động dựa trên chủ nghĩa yêu nước, thực hiện mong ước của Người: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp Cách mạng Thế giới”./.
____________________
[1] Báo Ogoniok, số 39, ngày 23-12-1923.
[2] Báo Nhân dân, ngày 18-5-1965.
[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, tr.268.
[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. CTQG, H, 2000, tập 1, tr.466.
[5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. CTQG, H, 2000, tập 1, tr.467.
[6] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. CTQG, H, 1996, Tập 10, tr. 128.
Thiếu tá, ThS Nguyễn Giáo
Viện Khoa học Xã hội Nhân văn quân sự