Phát huy vai trò giai cấp nông dân Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp – nông thôn theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Trong phạm vi chủ đề này xin nêu một vài suy nghĩ bước đầu. 

Tại lớp huấn luyện đào tạo cán bộ hợp tác xã nông nghiệp ngày 13/3/1958, Bác nói: “Các cán bộ phải chú ý lãnh đạo nông nghiệp, vì muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển công nghiệp nhưng đồng thời cũng phải phát triển nông nghiệp, vì hai ngành đó khăng khít với nhau. Ngành nông nghiệp có nhiệm vụ cung cấp nguyên liệu cho ngành công nghiệp và trái lại ngành công nghiệp sẽ giúp cho ngành nông nghiệp phát triển. Nếu ngành công nghiệp phát triển mà ngành nông nghiệp không phát triển thì sẽ khập khễnh như người đi một chân". “Muốn phát triển nông nghiệp thì trước hết phải xây dựng tốt phong trào đổi công ở khắp mọi nơi và trên cơ sở đó sẽ xây dựng hợp tác xã nông nghiệp từ thấp đến cao”. Như vậy, Bác chỉ rõ nhiệm vụ phát triển sản xuất và mối quan hệ giữa nông nghiệp với công nghiệp. Nhưng thế nào là: “Làm cho nông nghiệp xã hội hoá" đây là vấn đề chúng ta còn lúng túng trong giai đoạn vừa qua và hiện nay. Nêu vấn đề trên là Bác đã nghiên cứu rất sâu về chủ nghĩa Mác-Lênin từ các nội dung sau: 

Một là, phải sản xuất hàng hoá, phải chấm dứt tình trạng phân tán của kinh tế nhỏ (bởi phân tán thì không có xã hội hoá). 

Hai là, phải tạo ra sự tập trung sản xuất chưa từng có trong nông nghiệp và công nghiệp. 

Ba là, đẩy lùi những hình thức phụ thuộc cá nhân. 

Bốn là, tạo ra tình trạng lưu động dân cư. 

Năm là, thường xuyên giảm bớt tỷ lệ dân số làm nông nghiệp, làm nghề nông. 

Sáu là, phá vỡ những hiệp hội có tính phường hội, địa phương chật hẹp, tạo ra sự cạnh tranh tự do, hình thành những tập đoàn lớn. 

Bảy là, thay đổi trong kinh tế đưa đến thay đổi bộ mặt tinh thần của nông thôn, tính chất của người nông dân. 

Như vậy, có thể hiểu xã hội hoá là: phát triển hàng hoá, mở rộng thị trường trong nước và ngoài nước; tập trung sản xuất, biến nông dân thành công nhân nông nghiệp, tăng các trung tâm công nghiệp, thay đổi bộ mặt tinh thần ở nông thôn và tính chất của nông dân. Bác nói: “Làm cho nông nghiệp xã hội hoá" chính là thấm đậm tư tưởng của Lênin. Người viết tiếp: “Một nước nông nghiệp lạc hậu thì nông nghiệp phải là gốc, nông nghiệp là trung tâm", “tăng gia sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân như nước với thuyền, nước dâng thuyền lên" một luận đề, một hình ảnh mộc mạc nhưng là một nguyên lý sâu sắc về phát triển lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, về quan hệ dân giàu, nước mạnh. 

Kiểm nghiệm trong thực tế chúng ta thấy trên thế giới có ba dạng tăng trưởng kinh tế: 

Thứ nhất, tăng trưởng bằng mọi giá, không tính đến rủi ro, những nước như vậy ban đầu có tăng trưởng rất nhanh, rồi sau đó mất ổn định. 

Thứ hai, vay nợ, nhận viện trợ ào ạt của nước ngoài để cải thiện đời sống nhân dân, kích thích sản xuất để tăng trưởng rồi trả nợ. Nhưng do nhiều nguyên nhân cộng với cơ chế xin cho dẫn đến chảy máu vốn, mất vốn kéo theo sự chồng chất nợ nần. 

Thứ ba, “Nước dâng thuyền lên, nước phải dâng trước", nghĩa là phải tăng gia sản xuất trước, phát triển đến đâu thì dần cải thiện đời sống nhân dân từng bước đến đó. Đảng ta thành công trong đổi mới, ổn định chính trị, chính là đổi mới kinh tế gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân. Nên ai cũng thấy mình được nâng lên về thu nhập, được hưởng thụ. 

Vấn đề thứ hai là, hình thành nền kinh tế quốc dân ở một nước nông nghiệp lạc hậu bắt đầu đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì cơ cấu kinh tế là cốt lõi của chiến lược. Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đã chỉ rõ đổi mới cơ cấu đầu tư, cơ cấu ngành theo định hướng: “Lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu". Đại hội VI trở về đúng tư tưởng Hồ Chí Minh là lương thực, thực phẩm; là nông nghiệp, công nghiệp nhẹ, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. 

Về nền kinh tế quốc dân, Bác Hồ chỉ rõ: “Nền kinh tế quốc dân có ba mặt quan trọng: nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp. Ba mặt công tác quan hệ mật thiết với nhau. Thương nghiệp là cái khâu giữa nông nghiệp và công nghiệp. Thương nghiệp đưa hàng đến nông thôn phục vụ nông dân, thương nghiệp lại đưa nông sản, nguyên liệu cho thành thị tiêu dùng. Nếu khâu thương nghiệp bị đứt thì không liên kết được nông nghiệp với công nghiệp, không củng cố được công nông liên minh". 

Về vốn và sự giúp đỡ từ bên ngoài, Bác nói: “Nước bạn giúp ta cũng như thêm vốn cho ta, như vậy cái bên ngoài cũng như cái thêm, chứ không phải là cái chính. Ta phải khéo dùng cái vốn ấy để bồi bổ lực lượng của ta. Song tuyệt đối chớ ỷ lại, phải coi nội lực là chính". Thực hiện tư tưởng của Bác, tại Đại hội VII năm 1991, Đảng ta nhấn mạnh phải phát huy nội lực, biến ngoại lực thành nội lực. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới và khu vực cho thấy nước nào tranh thủ nguồn lực bên ngoài biến nó trở thành nguồn lực bên trong thì mới phát triển được. Đại hội IX của Đảng xác định: “Thích nghi công nghiệp nhập khẩu, ứng dụng và tạo ra công nghệ của nước mình" đó là biến ngoại lực thành nội lực mà Đảng ta đã thấm nhuần được tư tưởng của Bác. 

Hiện đại hoá nông nghiệp, công nghiệp hoá nông thôn trên thực tế đã được bắt đầu từ 1976 – 1980 với nội dung chủ yếu là cơ giới hoá đồng bộ, áp dụng các biện pháp công nghiệp trong trồng trọt, chăn nuôi, tập trung triệt để đất đai về tập thể, theo một công thức máy móc và giản đơn là: Cơ giới hoá + hợp tác xã quy mô lớn = sản xuất nông nghiệp quy mô lớn. 

Rút kinh nghiệm từ bài học không thành công của thời kỳ bao cấp, những năm đầu đổi mới, Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX về “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2001 - 2010" đã phát triển về lý luận, khái quát rộng hơn và được điều chỉnh về mục tiêu, nội dung, bước đi cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn đó là: “Xây dựng một nền nông nghiệp và kinh tế nông thôn phát triển bền vững với nhịp độ tăng trưởng cao, trên cơ sở kỹ thuật hiện đại, cơ cấu hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ và phù hợp, nhằm giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất, tăng năng sất lao động, giải quyết việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân nông thôn, rút ngắn khoảng cách giữa nông thôn và thành thị. Xây dựng nông thôn mới văn minh, hiện đại, công bằng, dân chủ, góp phần thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước". 

Như vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất – kinh doanh - dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội mà ở đó nông dân đóng vai trò quyết định, bởi giai cấp nông dân là một lực lượng chính trị - xã hội, là lực lượng sản xuất, nông dân và nông thôn là nơi lưu giữ kho tàng văn hoá dân tộc. 

Giai cấp nông dân là lực lượng cơ bản để thực hiện, đồng thời là đối tượng trực tiếp hưởng thụ thành quả của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Phát huy vai trò của giai cấp nông dân là động lực, là nguồn lực mạnh mẽ, trực tiếp nên phải được tập trung đồng thời trên ba mặt: kinh tế - chính trị - xã hội với một số nội dung lớn sau: 

Một là, phát huy truyền thống yêu nước của giai cấp nông dân trong lao động sản xuất, thực hiện thành công chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2006 – 2010 với nhịp độ nhanh, cân đối, hài hoà giữa trồng trọt với chăn nuôi, giữa ngành nghề truyền thống với xây dựng các cụm khu công nghiệp; hình thành các vùng kinh tế sản xuất hàng hoá tập trung, cung cấp đủ lương thực, thực phẩm và nguyên liệu cho công nghiệp, có năng lực xuất khẩu để đạt được mục tiêu quan trọng là: 

+ Giải phóng mạnh mẽ sức lao động, phát triển lực lượng sản xuất, bởi phát triển lực lượng sản xuất, là nguyên nhân sâu xa nhất, là nguyên nhân cuối cùng quyết định mọi biến đổi và phát triển xã hội ở nông thôn. Nông nghiệp phát triển mạnh, nông sản hàng hoá nhiều về số lượng, đa dạng về chủng loại, tốt về chất lượng từ trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế là tiền đề vật chất cho công nghiệp hoá nói chung, công nghiệp chế biến nói riêng đồng thời tạo ra sự tăng tiến của tích luỹ từ nông nghiệp, nông thôn đóng góp cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá và góp phần vào ổn định chính trị - xã hội, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho dân cư ở nông thôn. 

+ Cần phải nhận thức đầy đủ về vai trò nông dân trong sản xuất nông nghiệp, cung cấp lương thực, thực phẩm nuôi sống con người và cung cấp nguyên liệu cần thiết cho quá trình công nghiệp hoá. Công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm từ đơn giản tiến đến mở ra ngành công nghiệp có kỹ thuật cao, công nghệ hiện đại… Vì vậy, quy mô và tốc độ tăng trưởng của công nghiệp chế biến phụ thuộc rất lớn vào quy mô tốc độ sản xuất nông nghiệp. 

+ Cơ giới hoá nông nghiệp ở nước ta hiện nay đang trong tình trạng mâu thuẫn giữa yêu cầu của hiện đại hoá với lực lượng lao động dư thừa quá lớn ở nông thôn. Cần sớm giải quyết được mâu thuẫn này. Vừa phải tạo ra nền sản xuất hàng hoá, hiệu quả kinh tế, năng suất lao động cao, đồng thời vẫn tạo ra nhiều việc làm để thu hút lao động, tăng thu nhập, chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, chuyển đổi lao động từ thuần nông sang sản xuất kinh doanh tổng hợp, sang công nghiệp, dịch vụ. Muốn vậy, phải tích cực đào tạo dạy nghề mới cho nông dân. 

Hai là, phát huy nội lực, tính cần cù, sáng tạo của nông dân. Đẩy mạnh lưu thông hàng hoá nông sản; xây dựng nông nghiệp, nông thôn là thị trường rộng lớn và cung cấp nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 

Ở nước ta, nông dân chiếm gần 80% dân số cả nước, nhưng sức mua hiện nay còn thấp, tiềm năng khai thác còn rất lớn. Vì vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá kinh tế muốn phát triển bền vững, ổn định phải có thị trường rộng, trong đó thị trường trong nước là chủ yếu, đối tượng lớn là nông dân. Có thể nói, khi hàng hoá nông sản được chế biến, tiêu thụ và xuất khẩu sẽ kích thích sản xuất phát triển, từ đó việc làm, thu nhập của nông dân tăng. Khi đó sức mua của nông dân tăng lên chính là tạo ra thị trường thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá và xuất khẩu. 

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tạo ra xu hướng thu hút lao động ở nông thôn vào công nghiệp và dịch vụ phi nông nghiệp không những diễn ra ở thành thị, mà lâu dài là trên địa bàn nông thôn đang dần được đô thị hoá. Nguồn "cung - cầu" nhân lực là nông dân. Cần coi trọng việc giáo dục đào tạo, mở mang dân trí, bồi dưỡng nhân lực ở nông thôn. 

Ba là, tổ chức tốt phong trào nông dân, xây dựng Hội Nông dân Việt Nam vững mạnh là trung tâm và nòng cốt cho phong trào thi đua yêu nước của nông dân về xây dựng kết cấu hạ tầng, xây dựng nông thôn mới, xây dựng gia đình nông dân văn hoá, thôn, ấp, bản làng văn hoá, phong trào thi đua sản xuất kinh doanh giỏi, giúp nhau xoá đói giảm nghèo và làm giàu, nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp hướng lòng dân, lòng người và toàn xã hội vào cuộc chiến chống nghèo nàn lạc hậu, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho dân cư ở nông thôn. 

Hướng trọng tâm của các phòng trào thi đua yêu nước, phải đem lại lợi ích thiết thực mới tập hợp và phát huy được sức mạnh của nông dân. Trước hết tập trung vào các vấn đề nông dân quan tâm nhất là: Phát triển hệ thống thuỷ lợi theo hướng sử dụng tổng hợp tài nguyên nước, phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Nước cho sinh hoạt và cải thiện môi trường, phòng chống, hạn chế, giảm nhẹ thiên tai. Phát triển các tổ chức hợp tác dùng nước và quản lý thuỷ nông của người nông dân. 

Phát triển mạnh mẽ mạng lưới giao thông nông thôn trong cả nước. Nhà nước có chính sách hỗ trợ thoả đáng cùng với các địa phương và đóng góp của nông dân, để mở rộng nâng cấp các tuyến đường đã có, từng bước cứng hoá mặt đường, xây dựng cầu cống. Gắn với giao thông là xây dựng các thị tứ, thị trấn trên địa bàn nông thôn, để thực hiện chức năng trung tâm công nghiệp, ngành nghề, dịch vụ, văn hoá-xã hội, hỗ trợ cho chuyển dịch kinh tế, mở mang ngành nghề ở nông thôn. 

Đầu tư thoả đáng cho nghiên cứu, chuyển giao khoa học kỹ thuật tới nông dân, trong đó ưu tiên cho công nghệ sinh học, công nghiệp chế biến, công nghệ bảo quản sau thu hoạch và đầu tư cho vùng nghèo, nhất là miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có đồng bào các tôn giáo. 

Động viên nông dân tham gia phát triển hệ thống điện đáp ứng nhu cầu sản xuất và sinh hoạt ở nông thôn. Những nơi không có điện cần phát triển điện năng tại chỗ theo phương châm " Nhà nước và nhân dân cùng làm", đảm bảo đến năm 2010 tất cả đều có điện năng-điện thoại viễn thông để sử dụng. Khuyến khích nông dân đầu tư phát triển hệ thống thông tin nông nghiệp, từng bước ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại trong công nghiệp nông thôn. 

Huy động mọi sức mạnh và nguồn lực hiện có trong nông dân, nông thôn cùng Nhà nước chăm lo sự nghiệp giáo dục, y tế, tham gia bảo vệ, tôn tạo các di tích lịch sử, văn hoá, danh lam thắng cảnh, khuyến khích nông dân xây dựng làng sinh thái, nông nghiệp sinh thái trong chương trình "Du lịch xanh" về nông thôn cùng với việc nâng cao chất lượng hiệu quả của phong trào thi đua “xây dựng gia đình nông dân văn hoá; thôn, ấp, bản, làng văn hoá”, đó là dòng chảy cùng chiều, trợ lực cho quan hệ sản xuất phát triển và sự hợp tác lao động có văn hoá trong nông dân, nông thôn, là biện pháp quan trọng để "nông dân ly nông, bất ly hương". 

Bốn là, phát huy tinh thần đoàn kết - tương ái, nông dân cùng đồng tâm-đồng hành-đồng tiến xây dựng hợp tác xã nông nghiệp vững mạnh. 

Thực trạng hiện nay tổ chức kinh tế hợp tác chỉ dừng lại phạm vi hẹp từ 5 đến 20 hộ. Tổ chức đơn giản, hoạt động hạn chế chủ yếu là dịch vụ, nhưng gọn, bảo đảm được nguyên tắc tự nguyện và cùng có lợi nên tổ kinh tế hợp tác có sức sống trong cộng đồng. Song, muốn phát triển sản xuất theo hướng kinh tế hàng hoá, chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tiến bộ là phải có tổ chức kinh tế phù hợp, tổ chức đó là tổ chức kinh tế hợp tác xã. 

Các tổ chức kinh tế hợp tác là những nhân tố mới xuất hiện trong lòng hợp tác xã nông nghiệp. Song nó chưa đủ sức tạo nên sự liên kết trên diện rộng bởi vốn ít chưa đủ tư cách pháp nhân, chưa có lực từ bên ngoài. Phát huy vai trò của nông dân về phát triển kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá tất yếu là phải xây dựng hợp tác xã từ cấp thấp, đơn giản đến cấp cao và cổ phần hoá để người nông dân được tham gia ngày càng nhiều hơn vào công việc chung của tập thể, được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Qua hợp tác xã, người nông dân được mở mang về kiến thức khoa học - kỹ thuật, văn hoá - xã hội. 

Năm là, phát huy vai trò của giai cấp nông dân trong khối đại đoàn kết dân tộc nâng cao hiệu quả trong thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh, xây dựng nông thôn an toàn, phát triển. 

Quá trình phát triển kinh tế-xã hội, sự tác động từ chủ trương, chính sách, pháp luật và cơ chế thị trường vào nông dân đã tạo nên các yếu tố tích cực sau: 

Một là, sự biến đổi tư duy về hệ thống giá trị, từ trọng danh sang trọng thực, từ coi buôn bán là xấu sang nhu cầu giao lưu mở rộng. 

Hai là, có sự thay đổi về lối sống, nhu cầu và quan niệm về lợi ích ngày một đa dạng hơn, trước đây là an phận thủ thường, nay có ý thức vươn lên để thoả mãn nhu cầu về vật chất tinh thần, cần sự đảm bảo chắc chắn của pháp luật về bảo vệ quyền lợi chính đáng của nông dân và trước đây là bằng lòng, nay muốn mở rộng hợp tác, muốn lối sống đô thị. 

Ba là, quan điểm về người cày có ruộng, về làm thuê không nặng nề như trước, nông dân ước muốn có nghề, có thu nhập ngoài làm nông, muốn con cái được học hành và thoát ly khỏi đồng ruộng. 

Tuy nhiên, trên lĩnh vực nông dân, nông thôn, nông nghiệp, cũng nảy sinh nhiều vấn đề đáng quan tâm, công tác quản lý lãnh đạo ở nông thôn bộc lộ nhiều tồn tại, khuyết điểm nổi bật là: đất đai, huy động sức dân không hợp lý, tình trạng quan liêu, tham nhũng, công bằng xã hội, phân hoá giàu nghèo, việc làm và thu nhập, quan hệ giá cả nông sản và hàng hoá công nghiệp…, về cải cách hành chính, một số nơi chưa được giải quyết kịp thời đã phát sinh “điểm nóng". Những tồn tại nêu trên phải giải quyết tích cực, có lộ trình, bước đi thích hợp. 

Dòng tư tưởng lớn nhất có vai trò chủ đạo ở nông thôn là: nông dân tuyệt đối tin tưởng vào Đảng, đi theo Đảng, theo con đường Bác Hồ đã chọn. Sức mạnh tinh thần ấy được nhân lên và bồi đắp bền vững khi quyền làm chủ của nông dân được tôn trọng và bảo vệ theo pháp luật. Nông dân tham gia ngày một nhiều hơn về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh, xây dựng nông thôn an toàn - phát triển chính là tăng cường sự giám sát của quần chúng vào tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, là cơ sở và là một trong những giải pháp tích cực giữa “nói đi đôi với làm" cùng với chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, mức hưởng thụ văn hoá cho nông dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc sẽ thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước. 

Phát huy vai trò của giai cấp nông dân Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn theo tư tưởng Hồ Chí Minh là cuộc cách mạng lớn mà trong đó giai cấp nông dân là một lực lượng chính trị-xã hội, là một lực lượng sản xuất, là lực lượng lớn gìn giữ, bảo lưu và phát triển nền văn hoá dân tộc. Với vai trò đó giai cấp nông dân là người trực tiếp tham gia đồng thời là đối tượng trực tiếp thụ hưởng thành quả. Phát huy vai trò của giai cấp nông dân là một quá trình động, các yếu tố quyết định quá trình đó không thể tách rời sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, sự hợp tác phát triển với giai cấp công nhân, đội ngũ trí thức trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Hội Nông dân Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp nông dân Việt Nam, hoạt động của Hội nhằm mục đích tập hợp nông dân, chăm lo bảo vệ và nâng cao trình độ mọi mặt cho giai cấp nông dân. Lợi ích thiết thực của nông dân lúc này là phát triển sản xuất, nâng cao đời sống, dân chủ và công bằng xã hội, là việc làm và thu nhập… tiến nhanh và tiến mạnh vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, theo tư tưởng Hồ Chí Minh vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh"./. 

Theo TS. Vũ Ngọc Kỳ
Uỷ viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam, Tạp chí Thông tin công tác tư tưởng lý luận tháng 8/2005

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng

(ĐCSVN) - Ngày 10/10, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký Quyết định số 190-QĐ/TW về việc ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng.

Kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công

(ĐCSVN) - Bộ Chính trị vừa ban hành Quy định số 189-QĐ/TW ngày 08/10/2024 về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công.

Bộ Chính trị ban hành quy định phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong điều tra, xét xử

(ĐCSVN) – Ngày 27/10/2023, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 132-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Tập trung tuyên truyền những chủ đề lớn, trọng tâm từ nay đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng

(ĐCSVN) - Ban Tuyên giáo Trung ương yêu cầu thông tin chính xác, kịp thời với nhiều hình thức linh hoạt, sáng tạo, phong phú, sinh động gắn với tuyên truyền đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và tuyên truyền kỷ niệm các ngày lễ lớn, sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước trong năm 2024, 2025.

Quy trình kỷ luật đảng viên thuộc thẩm quyền của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư

(ĐCSVN) - Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường vừa ký Quyết định số 165-QĐ/TW ngày 6/6/2024 của Bộ Chính trị ban hành Quy trình xem xét, thi hành kỷ luật đối với tổ chức Đảng, đảng viên thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Liên kết website