I
Hôm nay, tại thành phố mang tên Bác, chúng ta long trọng tổ chức Hội thảo để kỷ niệm 100 năm ngày Người ra đi tìm đường cứu nước. Tròn 100 năm trước, ngày 5 tháng 6 năm 1911, từ bến cảng Nhà Rồng, Bác Hồ - lúc đó là người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã bắt đầu cuộc hành trình 30 năm (1911 - 1941) tìm con đường giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước. Vào thời điểm đó, không một ai biết rằng vận mệnh của dân tộc Việt Nam đã gắn liền với quyết định ra đi của một con người mà lịch sử đã chứng tỏ là sáng suốt phi thường ấy.
Trên suốt chặng đường bôn ba qua nhiều châu lục, cuộc sống lao động đầy gian khổ đã không làm Người chùn bước, trái lại, càng tôi luyện, hun đúc lòng yêu nước nồng nàn và mục tiêu giải phóng dân tộc kiên định, thôi thúc Người tranh thủ mọi cơ hội để học hỏi, nghiên cứu các học thuyết cách mạng, hòa mình vào thực tiễn đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước tư bản và thuộc địa. Chính chủ nghĩa yêu nước cùng với những năm tháng tìm tòi không mệt mỏi về lý luận và hoạt động trong phong trào công nhân quốc tế đã dẫn dắt người thanh niên Việt Nam Nguyễn Tất Thành bất chấp mọi hiểm nguy, đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, trở thành nhà hoạt động cách mạng quốc tế xuất sắc Nguyễn Ái Quốc. Sớm nhận thức được xu thế phát triển của lịch sử và tính chất của thời đại mới mà Cách mạng tháng Mười Nga mở ra, Người đã khám phá ra chân lý "chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ" [1]. Khi đọc bản Luận cương của Lê-nin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, Người đã vui mừng reo lên "Đây là cái cần cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta" [2]. Người nhận thức sâu sắc rằng cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo và con đường phát triển tất yếu của cách mạng giải phóng dân tộc là tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc là điều kiện tiên quyết để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ngược lại, chỉ có làm cách mạng xã hội chủ nghĩa mới giữ vững và phát huy được những thành quả của sự nghiệp giải phóng dân tộc. Trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, đó là con đường cách mạng dân tộc dân chủ do Đảng tiên phong của giai cấp công nhân lãnh đạo đánh đổ đế quốc, thực dân, giành độc lập dân tộc, thực hiện người cày có ruộng, sau đó tiến lên thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa. Độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là sự vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lê nin, thể hiện tính quy luật của sự phát triển lịch sử của xã hội Việt Nam, trở thành quan điểm xuyên suốt trong toàn bộ tư tưởng và sự nghiệp cách mạng của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Đó chính là Đường kách mệnh cho dân tộc ta mà Người đã chọn.
Dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trong suốt hơn 80 năm qua, cách mạng Việt Nam đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, giành được những thắng lợi vĩ đại, có ý nghĩa lịch sử. Đó là thắng lợi của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam dưới ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh.
II
Ngay sau khi Cách mạng thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ "...nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì". [3] Người khẳng định "Đời sống nhân dân chỉ có thể thật dồi dào khi chúng ta dùng máy móc để sản xuất một cách thật rộng rãi, dùng máy móc trong công nghiệp và trong nông nghiệp... Đó là con đường phải đi của chúng ta. Con đường công nghiệp hóa nước nhà" và "công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là mục tiêu phấn đấu chung, là con đường no ấm thật sự của nhân dân ta” [4]. Trong điều kiện cả nước phải dồn sức cho công cuộc giải phóng Miền Nam, thống nhất Tổ quốc, Ðảng ta đã kiên định con đường mà Người đã chọn - thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở Miền Nam và đưa Miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa được xác định là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ.
Đại hội lần thứ III của Đảng năm 1960 đã đề ra đường lối tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội xác định “xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, nhằm biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có công nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại” [5]. Trong điều kiện chiến tranh, đất nước bị chia cắt, cơ chế kế hoạch hoá tập trung và chủ trương công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu, ưu tiên công nghiệp nặng đã góp phần quan trọng trong việc huy động và tập trung nguồn lực cho công cuộc giải phóng Miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Tuy nhiên, khi đất nước hoàn toàn độc lập, toàn cầu hoá kinh tế, hòa bình, hợp tác và phát triển trở thành những xu thế lớn của thời đại thì mô hình này trở nên lạc hậu, kém hiệu quả, kìm hãm sự phát triển.
Tại Đại hội lần thứ VI năm 1986, Đảng ta đã phát động công cuộc Đổi mới, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài, tạo ra xung lực phát triển mới, đưa nước ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, đi vào quỹ đạo tăng trưởng kinh tế và hội nhập quốc tế. Đại hội lần thứ VIII của Đảng năm 1996 đề ra chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp, có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Qua 25 năm thực hiện đường lối Đổi mới, đất nước ta đã giành được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đặc biệt, trong mười năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010, công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã đạt được những thành tựu rất quan trọng, duy trì tốc độ tăng trưởng bình quân 7,26%/năm, giá trị sản xuất công nghiệp tăng cao, đạt gần 15%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực; năng lực sản xuất và tiềm lực kinh tế của đất nước không ngừng tăng lên, tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 tăng gấp 3,26 lần năm 2000, góp phần đưa nền kinh tế vượt qua tác động nặng nề của khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á (1997 - 1998) và khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu (2008 - 2009). Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt; hệ thống an sinh xã hội được coi trọng và từng bước mở rộng, công cuộc xóa đói giảm nghèo đạt được những thành tựu nổi bật, tỷ lệ hộ nghèo giảm 2 - 3%/năm; thu nhập thực tế bình quân theo đầu người tăng hơn 2 lần. Đến năm 2010 nước ta đã hoàn thành phần lớn các mục tiêu thiên niên kỷ mà Liên hiệp quốc đề ra cho năm 2015. Việt Nam đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước có thu nhập trung bình.
III
Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 vừa được thông qua tại Đại hội lần thứ XI của Đảng, nhằm tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, đã đưa ra một hệ thống các quan điểm, mục tiêu và các giải pháp lớn, gắn kết với nhau hình thành một chỉnh thể phát triển. Tôi xin trình bày một số nội dung cốt lõi của Chiến lược được soi rọi bởi tư tưởng Hồ Chí Minh.
1. Phát triển nhanh gắn với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong chiến lược
Khi xác định con đường phải đi là công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn "công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa phải tiến hành từng bước" [6], "Phải bảo đảm chất lượng - Không nên chỉ dốc sức vào số lượng nhưng không bảo đảm chất lượng, không tiết kiệm được nguyên liệu, vật liệu, không hạ được giá thành ..." [7]. Người nhấn mạnh "Tiến nhanh, tiến mạnh không phải là phiêu lưu, làm ẩu. Phải thiết thực đi từng bước, phải tiến vững chắc. Phải nắm vững quy luật phát triển của cách mạng, phải tính toán cẩn thận những điều kiện cụ thể, những biện pháp cụ thể. Kế hoạch phải chắc chắn, cân đối. Chớ đem chủ quan của mình thay cho điều kiện thực tế" [8].
Như vậy là, quan điểm phát triển bền vững đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đặt ra từ rất sớm, nhưng trên thực tế quan điểm đó có lúc có nơi chưa được nhận thức đầy đủ và quán triệt sâu sắc trong hành động, vì vậy, kinh tế phát triển còn kém bền vững, chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh thấp. Đây là nguyên nhân sâu xa tác động tiêu cực đến ổn định kinh tế vĩ mô, làm giảm khả năng chống chịu của nền kinh tế nước ta trước những tác động từ bên ngoài trong một thế giới toàn cầu hóa và biến động không ngừng. Đó là khuyết điểm lớn mà chúng ta, trước hết là những người lãnh đạo, quản lý - những học trò của Hồ Chủ tịch phải nghiêm túc khắc phục. Phải quán triệt sâu sắc, kiên trì thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đại hội XI về phát triển bền vững.
2. Tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng
Phát triển bền vững được đo bằng nhiều tiêu chí, bảo đảm sự gắn kết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, tiến bộ và công bằng xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, bảo vệ môi trường. Để phát triển bền vững, trước hết phải bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô - yếu tố quan trọng hàng đầu cho tăng trưởng bền vững; đồng thời, tăng trưởng bền vững sẽ tạo điều kiện để ổn định kinh tế vĩ mô vững chắc. Vì vậy, vấn đề không chỉ là tăng trưởng mà quan trọng hơn là cách thức tạo ra tăng trưởng. Trong thời kỳ chiến lược 2001 - 2010, tăng trưởng kinh tế của nước ta chủ yếu dựa vào tăng vốn đầu tư và nguồn lao động giá rẻ, chất lượng thấp. Điều này là khó tránh khỏi khi bắt đầu quá trình công nghiệp hóa. Khuyết điểm của chúng ta là duy trì quá lâu mô hình này. Đã đến lúc phải chuyển mạnh sang tăng trưởng theo chiều sâu dựa trên việc ứng dụng các thành tựu về khoa học công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao và kỹ năng quản lý hiện đại nhằm tăng năng suất và hiệu quả sử dụng vốn, tạo ra nhiều sản phẩm có hàm lượng nội địa cao, giá trị gia tăng lớn, có sức cạnh tranh để có thể tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Đây là quá trình vừa tiệm tiến, vừa cách mạng. Tiệm tiến bởi không thể có ngay mọi điều kiện đáp ứng yêu cầu phát triển theo chiều sâu ở tất cả các lĩnh vực được lựa chọn; tiệm tiến cũng còn là sự tích lũy về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất. Cách mạng là để tận dụng được ưu thế của nước đi sau, thực hiện chiến lược tiến nhanh, bắt kịp ở những lĩnh vực mà khoa học công nghệ phát triển cao và chúng ta có điều kiện. Trên tinh thần này, Chiến lược xác định "Chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững” [9].
Chuyển đổi mô hình tăng trưởng trước hết phải được triển khai trong các ngành công nghiệp và dịch vụ. Bởi lẽ đây là những ngành chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế, lại là những ngành có điều kiện chuyển đổi nhanh. Định hướng cơ bản là cơ cấu lại các ngành sản xuất công nghiệp cả về ngành, vùng và giá trị mới; phát triển mạnh công nghiệp hỗ trợ; ưu tiên phát triển các sản phẩm có khả năng cạnh tranh; phát triển phù hợp các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động. Tập trung phát triển một số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao; hình thành một số trung tâm dịch vụ, du lịch tầm cỡ khu vực và quốc tế; hiện đại hoá và mở rộng các dịch vụ giá trị gia tăng cao. Đồng thời, cần nhận thức sâu sắc hơn vai trò quan trọng và thế mạnh của nông nghiệp nước ta trong tiến trình công nghiệp hoá gắn với đô thị hoá để tập trung sức xây dựng một nền nông nghiệp đa chức năng; gắn phát triển nông nghiệp với xây dựng nông thôn mới và không ngừng nâng cao đời sống nông dân. Phải tìm tòi những mô hình tổ chức sản xuất phù hợp, có cơ chế để thực hiện mô hình ấy, hình thành những vùng sản xuất hàng hoá lớn làm cơ sở đưa công nghiệp tác động vào nông nghiệp, áp dụng những tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, tạo ra nền nông nghiệp sạch, năng suất cao, chất lượng tốt; bảo đảm gắn kết chặt chẽ giữa sản xuất, chế biến, lưu thông trong một chuỗi giá trị, phân phối lợi ích hợp lý giữa các công đoạn trong chuỗi giá trị đó. Đây chính là điều kiện để phát triển nền nông nghiệp bền vững, bảo đảm lợi ích của nông dân.
Tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong một thế giới mà toàn cầu hóa và liên kết kinh tế ngày càng sâu sắc, cạnh tranh kinh tế diễn ra rất quyết liệt, các mô hình công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu hoặc hướng về xuất khẩu không còn nguyên ý nghĩa kinh điển của nó. Điều đó càng đòi hỏi chúng ta phải có tư duy toàn cầu và hành động quốc gia để có cách làm sáng tạo. Ở đây, một lần nữa tư tưởng Hồ Chí Minh về sự phát triển lại tỏa sáng, đòi hỏi chúng ta phải trên cơ sở những bài học lịch sử về tiến trình công nghiệp hóa mà các nước đi trước đã trải qua và những đặc điểm kinh tế của thời đại, chúng ta phải tìm ra cách đi phù hợp với những điều kiện cụ thể của nước ta. Không ai có thể nhìn rõ mọi vấn đề một lúc, nhất là trong bối cảnh thế giới biến đổi nhanh chóng và khó lường như thời đại hiện nay. Điều cốt yếu là phải bám sát sự vận động của thực tiễn và kịp thời điều chỉnh, mà thực tiễn thì luôn luôn cụ thể và sinh động. Lê-nin từng nói"Lấy trừu tượng mà thay thế cho cụ thể, đó là một trong những lỗi lầm lớn nhất và nguy hại nhất trong thời kỳ cách mạng” [11].
3. Phát huy nhân tố con người, coi con người là động lực, là mục tiêu của sự phát triển
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng yếu tố con người, lấy dân làm gốc. Người nêu luận điểm nổi tiếng "Muốn xã hội chủ nghĩa phải có người xã hội chủ nghĩa” [12] và "vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người” [13]. Thực tiễn khẳng định nguồn lực con người là yếu tố nội sinh năng động, là lợi thế cạnh tranh dài hạn của một quốc gia. Điều này đặc biệt đúng trong điều kiện khoa học công nghệ phát triển nhảy vọt trong thời đại chúng ta. Đây là nguyên lý cứng, là yếu tố bất biến trong một thế giới toàn cầu hoá và biến đổi không ngừng. Hơn nữa, mục tiêu của phát triển kinh tế là vì con người và cho con người. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 nêu rõ quan điểm “Phát huy tối đa nhân tố con người; con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của phát triển”[14]; nhấn mạnh yêu cầu “nâng cao năng lực và tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ, nhất là dân chủ trực tiếp để phát huy mạnh mẽ mọi khả năng sáng tạo và bảo đảm sự đồng thuận cao trong xã hội, tạo động lực phát triển đất nước” [15]; coi phát triển nguồn nhân lực là một trong ba đột phá chiến lược. Thời gian càng lùi xa, chúng ta càng hiểu sâu sắc hơn vì sao trong điều kiện nước sôi lửa bỏng của những ngày đầu kháng chiến, Bác Hồ lại phát động phong trào “chống giặc dốt” cùng với chống giặc đói và giặc ngoại xâm, càng thấy tầm nhìn rất chiến lược của Bác và càng bồi hồi xúc động nhớ lại lời căn dặn của Người trước khi vĩnh biệt chúng ta bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết. Thế hệ cách mạng cho đời sau chính là thế hệ thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo con đường xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng đất nước ta “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như Bác hằng mong muốn.
4. Nâng cao chất lượng thể chế, giải phóng mọi nguồn lực cho phát triển
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng việc xây dựng hệ thống pháp luật và hoàn thiện thể chế. Người viết “trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Người nêu nhiệm vụ cấp bách là “phải có một hiến pháp dân chủ” và chính Người đã chủ trì soạn thảo bản hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - Hiến pháp năm 1946, đạo luật cơ bản, khuôn khổ thể chế quan trọng nhất của nhà nước ta. Tư tưởng dân chủ, dân quyền của bản Hiến pháp này đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Trong Di chúc, Người viết Đảng phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Chúng ta cần hiểu kế hoạch mà Bác viết ở đây với cái nghĩa sâu rộng của cụm từ này. Nó bao gồm chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển và một hệ thống thể chế, chính sách nhằm huy động nguồn lực cho sự phát triển đó. Thực tiễn phát triển ở nhiều nước cho thấy, thể chế chứ không phải tài nguyên thiên nhiên và vị trí địa kinh tế là yếu tố quyết định sự phát triển. Một hệ thống thể chế phù hợp, có chất lượng cao là điều kiện để huy động mọi tiềm năng sáng tạo của con người cho phát triển, và chính hệ thống đó lại tạo ra môi trường rèn luyện năng lực và bản lĩnh con người. Chính vì vậy, Chiến lược xác định “hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính” [16] là một đột phá. Thực hiện tốt đột phá chiến lược này là điều kiện cần để các chủ thể kinh doanh phát huy lợi thế so sánh sẵn có và không ngừng tạo ra lợi thế so sánh mới, biến lợi thế so sánh thành lợi thế cạnh tranh, tạo nên hiệu quả và sự phát triển bền vững.
5. Hoàn thiện bộ máy nhà nước, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường
Mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường luôn là một trong những vấn đề trung tâm của các học thuyết kinh tế. Về mối quan hệ này, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng có những chỉ dẫn quý báu. Người nói “Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân” [17] và “đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân… Chính phủ chỉ giúp kế hoạch, cổ động” [18]. Trong Thư gửi các giới công - thương Việt Nam ngày 13 tháng 10 năm 1945, Bác viết “Trong lúc các giới khác trong quốc dân ra sức hoạt động để giành lấy nền độc lập hoàn toàn cho nước nhà thì giới Công - Thương phải hoạt động để xây dựng một nền kinh tế và tài chính vững vàng và thịnh vượng. Chính phủ nhân dân và tôi sẽ tận tâm giúp đỡ giới Công - Thương trong công cuộc kiến thiết này” [19]. Như vậy, Bác đã xác định rõ mối quan hệ giữa Nhà nước và các chủ thể kinh doanh trên thị trường, theo đó, giới doanh nghiệp và nhân dân đóng vai trò quyết định, nhà nước “giúp kế hoạch”, tạo môi trường và “tận tâm phục vụ” cho hoạt động kinh doanh của họ. Quán triệt tư tưởng đó của Người và từ các bài học của những cuộc khủng hoảng đã xẩy ra trong thế kỷ 20 và thập niên đầu của thế kỷ 21, Đại hội XI của Đảng đã đề ra các định hướng cơ bản trong việc hoàn thiện bộ máy nhà nước, mối quan hệ giữa nhà nước với thị trường và khẳng định “Nhà nước quản lý điều hành nền kinh tế bằng pháp luật, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường. Tăng cường công tác giám sát, nhất là giám sát thị trường tài chính, chủ động điều tiết, giảm các tác động tiêu cực của thị trường, không phó mặc cho thị trường hoặc can thiệp làm sai lệch các quan hệ thị trường” [20].
Phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu lực hiệu quả, thực hiện tốt các chức năng và nhiệm vụ của mình, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững của đất nước.
IV
Lịch sử có những sự trùng hợp thú vị. Từ thành phố này, Bác Hồ đã ra đi tìm đường cứu nước. Và Thành phố này cũng là một nơi khởi phát mạnh mẽ những tìm tòi con đường đổi mới, đưa nước ta thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội vào cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ 20, dẫn đến quyết định lịch sử của Đại hội Đảng lần thứ VI. Trong 25 năm qua, Thành phố Hồ Chí Minh luôn giữ được vai trò tiên phong trong tiến trình đổi mới theo đường lối của Đảng. Là trung tâm lớn về kinh tế, văn hoá, khoa học công nghệ, đầu mối giao lưu quốc tế, thực hiện Nghị quyết số 01 và Nghị quyết số 20 của Bộ Chính trị, Đảng bộ và quân dân Thành phố đã phát huy truyền thống cách mạng kiên cường, phấn đấu bền bỉ, năng động, sáng tạo, vượt qua nhiều khó khăn thách thức, đạt được những thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong mười năm qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Thành phố luôn ở mức 2 con số, đạt bình quân 11,2%/năm, đóng góp khoảng 30% ngân sách Nhà nước, 20% GDP và 30% sản lượng công nghiệp của cả nước. Thành phố Hồ Chí Minh thực sự đóng vai trò đầu tàu trong phát triển kinh tế - xã hội của cả nước.
Bước vào thời kỳ phát triển mới, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế với những cơ hội và thách thức đan xen rất phức tạp, Thành phố Hồ Chí Minh cần phấn đấu với quyết tâm cao hơn nữa, năng động và sáng tạo hơn nữa. Tôi muốn nhấn mạnh rằng, quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, thường bắt đầu từ những địa bàn có chất lượng nguồn nhân lực cao, là trung tâm khoa học công nghệ, từ đó lan toả ra các địa bàn khác. Đây là vấn đề có tính quy luật. Thành phố Hồ Chí Minh cần nhận thức sâu sắc quy luật đó để phát huy tốt nhất lợi thế của mình, tiếp tục đi đầu trong sự nghiệp rất khó khăn nhưng cũng đầy hào khí cách mạng này. Cần hiểu đúng phương châm chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu theo chiều rộng sang kết hợp hợp lý giữa chiều rộng với chiều sâu, vừa mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng hiệu quả và tính bền vững không phải được thực hiện dàn đều trên mọi địa bàn. Với vị thế của Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và các trung tâm kinh tế lớn, phát triển theo chiều sâu phải là hướng đi chủ yếu. Cần tập trung phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao, thân thiện với môi trường, các dịch vụ có giá trị gia tăng lớn, xây dựng nền nông nghiệp sạch, đi đôi với đầu tư phát triển nhanh kết cấu hạ tầng và tăng cường chất lượng quản lý đô thị, tập trung giải quyết có hiệu quả những vấn đề xã hội bức xúc. Đồng thời, Thành phố phải rất coi trọng đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao để đi đầu trong việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng và phát triển kinh tế tri thức. Từ đó, tạo tác động lan toả, góp phần thúc đẩy qúa trình chuyển dịch cơ cấu, chuyển đổi mô hình tăng trưởng ở cả khu vực phía nam và trong cả nước. Đây là sứ mệnh rất vẻ vang của Đảng bộ và quân dân Thành phố mang tên Bác. Chúng ta tin tưởng rằng Thành phố Hồ Chí Minh sẽ phát huy truyền thống tốt đẹp, làm tốt hơn nữa vai trò tiên phong của mình trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
*
* *
Chín năm sau khi rời Bến Nhà Rồng đi tìm đường cứu nước, Bác Hồ của chúng ta đã đến với Luận cương của Lê-nin về vấn đề dân tộc và thuộc điạ, bắt đầu quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam. Là bậc Đại nhân, Đại trí, Đại dũng, trải qua "cuộc đời hoạt động oanh liệt, đầy gian khổ hy sinh, vô cùng cao thượng và phong phú, vô cùng trong sáng và đẹp đẽ”, tư tưởng đó không ngừng được Người bổ sung, phát triển đạt đến tầm cao minh triết, trở thành "tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta” [21]. Dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, lớp lớp thế hệ người Việt Nam đã vững bước theo con đường mà Người đã chọn. Đó là con đường của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, con đường mang tầm nhìn vượt thời gian, đưa đất nước và dân tộc ta vượt qua biết bao khó khăn, thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, thực hiện công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thoát khỏi tình trạng nước kém phát triển, từng bước tiến lên "sánh vai các cường quốc năm châu", thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, kết hợp sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và sức mạnh của thời đại, với sự quản lý điều hành có hiệu quả của Nhà nước và sự nỗ lực phấn đấu của toàn xã hội, chúng ta sẽ vững bước trên con đường Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trước mắt là toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần tập trung mọi nỗ lực để kiềm chế lạm
____________________
1. Hồ Chí Minh. Con đường dẫn tôi đến Chủ nghĩa Lê-nin. Báo Nhân dân, ngày 22/4/1960. Trích trong Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 10, Nxb Chính trị Quốc gia, H.: 1996, tr. 128.
2. Hồ Chí Minh. Sđd, tr. 127.
3. Hồ Chí Minh. Thư gửi ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng. Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, H.: 1995, tr. 64
4. Hồ Chí Minh. Con đường phía trước. Báo Nhân dân, ngày 20/1/1960. Trích trong Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 10, Nxb Chính trị Quốc gia, H.: 1996, tr. 40-41.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam: Văn kiện Đại hội. Ban Chấp hành trung ương Đảng Lao động Việt Nam xuất bản, 1960, tập I, tr 65.
6. Hồ Chí Minh. Về phát triển sản xuất, thực hành tiết kiệm. Nxb Sự thật, H.: 1973, tr. 86.
7. Hồ Chí Minh. Vài ý kiến về “phong trào Duyên Hải”. Báo Nhân dân, ngày 15/5/1961. Trích trong Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 10, Nxb Chính trị Quốc gia, H.: 1996, tr. 358.
8. Hồ Chí Minh. Xây dựng những con người của chủ nghĩa xã hội. Báo Nhân dân, ngày 27/3/1961. Trích trong Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 10, Nxb Chính trị Quốc gia, H.: 1996, tr. 315.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb Chính trị Quốc gia, H.: 2011, tr. 107.
10. Hồ Chí Minh. Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Trích trong Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, H.: 1995, tr 465.
11. Lênin tuyển tập, Quyển 2. Phần 1. Nxb Sự thật, H.: 1959, tr 81.
12. Hồ Chí Minh. Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị Quốc gia, H.:1996, tr. 296.
13. Hồ Chí Minh. Bài nói chuyện tại Lớp học chính trị cho giáo viên cấp 2, cấp 3 toàn miền Bắc ngày 13/9/1958. Trích trong Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị Quốc gia, H.: 1996, tr. 222.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb Chính trị Quốc gia, H.: 2011, tr. 100.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb Chính trị Quốc gia, H.: 2011, tr. 100.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb Chính trị Quốc gia, H.: 2011, tr. 106.
17. Hồ Chí Minh. Dân vận. Trích trong Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, H.: 1995, tr. 698.
18. Hồ Chí Minh. Thanh Hóa kiểu mẫu. Trích trong Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, H. : 1995, tr. 65.
19. Hồ Chí Minh. Thư gửi các giới công thương Việt Nam. Báo Cứu quốc, ngày 13/10/1945. Trích trong Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, H.: 1995, tr. 49.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb Chính trị Quốc gia, H.: 2011, tr. 141.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb Chính trị Quốc gia, H.: 2011, tr. 88.
Đồng chí Nguyễn Tấn Dũng
Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ