Kết luận số 18-KL/TW ngày 29/11/2002 của Bộ Chính trị về dự thảo Báo cáo tình hình thực hiện và kiến nghị tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 - 2010"
  • Về dự thảo Báo cáo tình hình thực hiện và kiến nghị tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 - 2010"
  • 18-KL/TW
  • Kết luận
  • Nông - Lâm - Ngư nghiệp
  • 29/11/2002
  • 29/11/2002
  • Ban Bí thư
  • Phan Diễn
Nội dung:

BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG

*

Số 18-KL/TW

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

 

Hà Nội, ngày 29 tháng 11 năm 2002

 

 

KẾT LUẬN

CỦA BAN BÍ THƯ

Về dự thảo Đề án "công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 - 2010"

(Đề án trình Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương)

------


Tại phiên họp từ ngày 13 đến ngày 15-11-2002, Bộ Chính trị đã nghe Ban chỉ đạo Trung ương chuẩn bị Đề án chính sách đất đai trình bày bản dự thảo báo cáo và nghe các ban, ngành liên quan phát biểu ý kiến. Bộ Chính trị cho rằng trong thời gian qua, Ban chỉ đạo đã tiến hành tổng kết công phu, nghiêm túc, trực tiếp nghiên cứu, khảo sát thực tiễn, nghiên cứu kinh nghiệm một số nước, tập hợp được nhiều ý kiến đóng góp của các cơ quan, các ngành, địa phương và các chuyên gia. Dự thảo báo cáo đã đề cập khá toàn diện đến các vấn đề về sử dụng và quản lý đất đai hiện nay đang đặt ra và kiến nghị tiếp tục đổi mới nhiều nội dung quan trọng trong chính sách đất đai.

Bộ Chính trị kết luận về những vấn đề sau :

I- Về tư tưởng chỉ đạo và chủ đề của Đề án.

Bộ Chính trị nhất trí với phạm vi, chủ đề của Đề án và nhấn mạnh thêm :

- Chính sách đất đai là chính sách lớn, hệ trọng, có tính tổng hợp cả về kinh tế, chính trị - xã hội, được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta rất quan tâm. Giải quyết đúng đắn chính sách đất đai sẽ tạo thêm động lực, góp phần quan trọng để đạt được những thành tựu to lớn của cách mạng nước ta.

- Cần đánh giá toàn diện và đúng đắn tình hình thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai trong thời gian vừa qua, cả về nội dung các chính sách, pháp luật, việc tổ chức thực hiện chính sách và tình hình thực tế quan hệ đất đai diễn ra trong xã hội; tập trung phân tích đánh giá tình hình từ năm 1993 tới nay. Khẳng định những quy định đúng đắn trong chính sách, pháp luật hiện hành và nêu lên những vấn đề cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung để phù hợp với thực tế hiện nay.

- Đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai phải dựa trên cơ sở quán triệt các quan điểm chỉ đạo trong Cương lĩnh của Đảng, Hiến pháp của Nhà nước ta và Nghị quyết Đại hội IX của Đảng; kế thừa những thành quả đạt được, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tạo động lực để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thời gian tới.

- Lần này, Trung ương bàn để tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính sách, pháp luật về đất đai phù hợp với thời kỳ phát triển mới. Bộ Chính trị đồng ý với tiêu đề của báo cáo là : "Báo cáo tình hình thực hiện và kiến nghị tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước". Trên cơ sở Nghị quyết của Hội nghị Trung ương 7, sẽ tiến hành xây dựng Luật đất đai mới.

II- Về đánh giá tình hình.

Bộ Chính trị cơ bản nhất trí với các đánh giá tình hình trong Đề án và lưu ý một số điểm dưới đây :

- Nhìn chung, kết quả đạt được trong đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai thời gian qua là tích cực, góp phần giải phóng sức sản xuất và nâng cao hiệu quả sử dụng đất, làm cho người sản xuất gắn bó hơn với đất đai, tạo thêm thuận lợi cho việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp, chuyển dịch đất cho phát triển cơ sở hạ tầng, công nghiệp, dịch vụ..., thúc đẩy phát triển kinh tế và ổn định chính trị - xã hội trong những năm đổi mới.

- Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy chính sách, pháp luật về đất đai cũng như công tác quản lý, sử dụng đất đai hiện nay còn nhiều mâu thuẫn, hạn chế và còn nhiều vấn đề bức xúc cần nghiên cứu giải quyết. Cần tập trung phân tích sâu những điểm sau đây :

+ Chưa phát huy tốt tiềm năng đất đai để phát triển kinh tế - xã hội. Sử dụng đất, nhất là đất dùng vào mục đích phi nông nghiệp còn nhiều lãng phí.

+ Việc thực hiện các quyền sử dụng đất còn nhiều khó khăn, thủ tục phiền hà; phần lớn các giao dịch về đất đai diễn ra trong xã hội, như chuyển nhượng, cho thuê đất... chưa thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và không ít trường hợp bị đầu cơ, làm ngân sách thất thoát một nguồn thu lớn, lợi ích của người dân bị thiệt hại. Đất đai chưa thực sự trở thành nguồn lực tài chính quan trọng của Nhà nước để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội.

+ Hoạt động của thị trường bất động sản, trong đó có thị trường quyền sử dụng đất diễn ra không lành mạnh; quản lý nhà nước đối với thị trường bất động sản bị buông lỏng và bị lợi dụng, trong nhiều trường hợp tạo ra đặc quyền, đặc lợi, tiêu cực và tham nhũng cho một số cá nhân và tổ chức, gây cản trở cho đầu tư phát triển của cả Nhà nước và nhân dân, cho việc giải quyết nhà ở, nhất là nhà ở đô thị cho những người có thu nhập thấp...

+ Tranh chấp, khiếu kiện về đất đai có chiều hướng phát triển, nhiều vụ kéo dài, đông người tham gia, ảnh hưởng xấu tới công cuộc phát triển kinh tế và ổn định chính trị - xã hội.

III- Nguyên nhân và bài học kinh nghiệm.

1- Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém đã được trình bày khá rõ trong dự thảo báo cáo. Cần nhấn mạnh một số vấn đề sau :

- Một số quan điểm, chính sách đất đai chưa được nhận thức thống nhất và thông suốt trong Đảng và các cơ quan nhà nước ở cả Trung ương và địa phương. Nhiều chính sách đã ban hành chưa được các cơ quan có thẩm quyền thi hành nghiêm túc. Vai trò đại diện chủ sở hữu của Nhà nước đối với đất đai chưa được thực hiện tốt. Khuynh hướng chạy theo tính tự phát của cơ chế thị trường và tư tưởng thương mại hoá đất đai một cách giản đơn có chiều hướng phát triển, đã gây ra nhiều sai lệch trong việc thực hiện chính sách đất đai của Đảng và Nhà nước.

- Một bộ phận cán bộ, đảng viên tha hoá, đã lợi dụng chức quyền để trục lợi, tham nhũng trong công tác quản lý, sử dụng đất đai, nêu gương xấu trong xã hội và gây bất bình trong nhân dân.

- Chúng ta chưa kiên quyết xử lý hoặc xử lý chưa nghiêm những trường hợp vi phạm chính sách, pháp luật đất đai.

- Chậm tổng kết và làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến quản lý đất đai trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chậm có chính sách xử lý dứt điểm các vi phạm chính sách, pháp luật đất đai.

Đảng và Nhà nước chưa quan tâm đúng mức tới việc đầu tư cho công tác quản lý đất đai, xây dựng bộ máy và chỉ đạo công tác nghiệp vụ quản lý đất đai, để lĩnh vực công tác này có nhiều yếu kém : quy hoạch đất đai thiếu cơ sở khoa học và không ổn định, chưa trở thành công cụ quản lý sắc bén của Nhà nước; hồ sơ, tài liệu, phương tiện để phục vụ cho quản lý nhà nước về đất đai còn bất cập; tổ chức bộ máy quản lý đất đai các cấp không tương xứng với nhiệm vụ, chậm được kiện toàn.

2- Về những bài học kinh nghiệm, cần chú ý thêm bài học kinh nghiệm trong giải quyết vấn đề đất đai hiện nay là phát huy tinh thần dân chủ, công khai trong công tác quy hoạch và quản lý, sử dụng đất từ cấp cơ sở, bảo đảm hiệu lực của công tác quy hoạch và quản lý, sử dụng đất.

IV- Về quan điểm chỉ đạo và phương hướng, mục tiêu tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai. Cần khẳng định các vấn đề sau :

- Kiên định nhất quán quan điểm đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý; Nhà nước giao đất, cho thuê đất cho các tổ chức, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài hoặc có thời hạn theo quy định của pháp luật; không thừa nhận việc đòi lại đất đã giao cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước qua các giai đoạn cách mạng trước đây.

- Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, là nguồn tài nguyên đặc biệt, là không gian, môi trường sống của cả dân tộc. Quyền sử dụng đất là hàng hoá đặc biệt. Vấn đề đất đai mang tính kinh tế, chính trị, xã hội sâu sắc. Vì vậy, các giải pháp về đất đai phải chú ý đầy đủ tới các khía cạnh kinh tế, chính trị, xã hội; phải vì lợi ích chung của xã hội, bảo đảm hài hoà lợi ích của Nhà nước, người đầu tư và người sử dụng đất đai, trong đó đặc biệt cần chú trọng đúng mức lợi ích của Nhà nước, của cả cộng đồng dân tộc.

- Khai thác và sử dụng có hiệu quả quỹ đất đai các loại phục vụ cho quá trình đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Duy trì và bảo vệ đất sản xuất lương thực theo quy hoạch, kế hoạch.

- Đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai phải phù hợp với đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển thị trường bất động sản vững chắc, có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước, trọng tâm là tại đô thị; khuyến khích đầu tư nâng cao chất lượng đất, đầu tư tạo cơ sở hạ tầng; không tách rời thị trường quyền sử dụng đất và các tài sản gắn liền với đất; bảo đảm kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong thị trường này; chống đầu cơ đất đai.

- Kiên quyết xử lý dứt điểm mọi trường hợp vi phạm chính sách, pháp luật về đất đai, nhất là đối với cán bộ, đảng viên.

V- Về những nội dung kiến nghị tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật đất đai.

Bộ Chính trị cơ bản nhất trí với những kiến nghị trong bản Đề án và nhấn mạnh một số vấn đề sau :

1- Về chế độ sở hữu đất đai và vai trò quản lý của Nhà nước về đất đai.

- Tiếp tục khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.

- Cần chú ý tập trung nâng cao vai trò quản lý đất đai của Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu đất đai trong việc thực hiện các quyền về sở hữu, như quyền quản lý, quyền định đoạt và quyền hưởng lợi từ đất đai. Bảo đảm vai trò Nhà nước thống nhất quản lý đất đai.

2- Về hạn mức sử dụng đất nông nghiệp.

- Khuyến khích quá trình tích tụ đất đai, sớm khắc phục tình trạng đất sản xuất nông nghiệp manh mún, nhưng thực hiện tích tụ đất đai không phải chỉ thông qua việc chuyển nhượng (mua, bán), mà phải áp dụng nhiều biện pháp phù hợp với từng thời kỳ, từng vùng và có bước đi thích hợp.

- Quy mô sử dụng đất sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, diêm nghiệp của các tổ chức và cá nhân được mở rộng phù hợp với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu sử dụng lao động, trình độ thâm canh và quỹ đất đai trên từng địa bàn; chuyển diện tích đất vượt hạn mức được giao sang hình thức thuê đất có thời hạn và áp dụng thuế luỹ tiến.

3- Về thời hạn giao đất, cho thuê đất sản xuất nông nghiệp và đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp.

Tiếp tục ổn định thời hạn đã giao đối với các diện tích ruộng đất đã giao hay cho thuê. Khi hết thời hạn giao đất hiện nay, Nhà nước sẽ xem xét, thống nhất thời hạn giao đất, cho thuê các loại đất sản xuất nông nghiệp (có thể tiếp tục giữ thời hạn như hiện nay hoặc có thể tới 50 năm).

Đối với các loại đất dùng vào mục đích sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp thì căn cứ vào thời hạn của dự án (nói chung là 50 năm).

4- Về chính sách bảo đảm đất đai cho người sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp.

- Tiếp tục thực hiện chính sách bảo đảm đất đai đối với những người trực tiếp sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp; đồng thời có chính sách phát triển ngành nghề và đào tạo nghề để tạo điều kiện cho các lao động nông nghiệp chuyển sang hoạt động sản xuất phi nông nghiệp, bảo đảm thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

- Giữ hình thức giao đất nông nghiệp không thu tiền như quy định hiện hành đối với các hộ nông dân.

Những người đã được giao đất nông nghiệp nhưng không trực tiếp canh tác nữa thì có chính sách phù hợp để chuyển diện tích đó vào quỹ đất công ích.

- Đối với đất dùng làm mặt bằng sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp và đất sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp của các tổ chức kinh tế thì áp dụng cả hai hình thức giao đất có thu tiền và cho thuê đất, tuỳ khả năng, điều kiện cụ thể và nguyện vọng của người sử dụng đất.

- Mở rộng đối tượng được Nhà nước giao đất không thu tiền đối với các cộng đồng dân cư thôn, bản phù hợp với tập quán quản lý đất đai cộng đồng của từng vùng và đối với các hộ, tổ chức, cá nhân chưa có đất khi khai phá các diện tích đất chưa sử dụng để dùng vào sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản. Cần xác định rõ hơn vai trò, quyền hạn, trách nhiệm của cộng đồng dân cư và mối quan hệ của các động đồng dân cư với các cấp chính quyền trong quản lý, sử dụng các loại đất đai trên địa bàn.

5- Về các quyền sử dụng đất nông nghiệp.

Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, đất nông nghiệp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với người trực canh sản xuất nông nghiệp. Vì vậy, cần có chính sách đặc biệt về sử dụng đất nông nghiệp. Cần làm rõ thêm nội dung, phạm vi các quyền của người sử dụng đất nông nghiệp.

Về quyền thừa kế, nên quy định theo hướng người trực canh và ở tại chỗ mới được hưởng quyền thừa kế đất nông nghiệp trong thời hạn được giao đất. Tuy nhiên, vấn đề này còn có ý kiến khác (giữ như trong Luật đất đai và Bộ luật dân sự hiện nay; thực hiện quyền được để thừa kế quyền sử dụng đất như các tài sản khác), Tiểu ban nên trình các phương án để Trung ương thảo luận, lựa chọn.

6- Về quyền sử dụng đất của các hộ nông, lâm trường.

Nhà nước giao đất cho nông, lâm trường (tức là giao cho tổ chức kinh tế) sử dụng gắn với chức năng, nhiệm vụ của nông, lâm trường. Các hộ được nông, lâm trường giao khoán phải sử dụng đất đúng mục đích do nông, lâm trường giao, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của nông, lâm trường; đồng thời có thể bổ sung một số quyền cho các hộ được giao khoán để các hộ gắn bó với đất đai, nâng cao hiệu quả sử dụng đất.

Đây là vấn đề Bộ Chính trị đã giao Ban cán sự đảng Chính phủ chuẩn bị thành chuyên đề riêng, cần sớm báo cáo Bộ Chính trị cho ý kiến.

7- Đối với đất sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp.

Các cơ sở sản xuất, kinh doanh, cá nhân và hộ gia đình được lựa chọn hình thức nhận quyền sử dụng đất có thời hạn phù hợp với điều kiện sản xuất, kinh doanh và nguyện vọng. Có thể lựa chọn hình thức nhận đất có trả tiền, hoặc thuê đất trả tiền một lần, trả tiền nhiều lần. Trong thời hạn được giao, thuê đất, nếu có thay đổi chủ sử dụng đất thì phải báo cáo với cấp quản lý có thẩm quyền của Nhà nước.

8- Về định giá quyền sử dụng đất.

Cần nghiên cứu thêm để trình Trung ương 2 phương án sau :

- Thực hiện cơ chế một giá theo giá thị trường; giao chính quyền địa phương quyết định giá; nhưng phải thực hiện đúng các quy định về phương pháp và tổ chức xác định giá của Nhà nước, phải tổ chức các trung tâm định giá, phải công bố công khai.

- Thực hiện cơ chế xác định giá quyền sử dụng đất theo khung giá do Nhà nước (chính quyền Trung ương) quy định. Khung giá được xác định trên cơ sở quy hoạch phát triển chung về đất đai.

9- Bồi thường giải phóng mặt bằng.

- Khi xây dựng các dự án đầu tư dẫn đến phải thu hồi đất đang được sử dụng, chủ đầu tư phải lập dự án tái định cư đối với những người bị thu hồi đất và cần phải xây dựng khu tái định cư trước khi thu hồi đất. Người đang sử dụng đất hợp pháp khi bị thu hồi đất được bồi thường và hỗ trợ tái định cư đối với diện tích đất bị thu hồi (theo nguyên tắc bảo đảm cho họ có chỗ ở mới bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ); chú trọng đào tạo để chuyển đổi nghề cho lao động tái định cư nếu cần.

- Trong việc đền bù giải phóng mặt bằng, phải chú ý phân phối hợp lý phần giá đất tăng lên do việc quy hoạch đất đai và đầu tư cơ sở hạ tầng mang lại, bảo đảm hài hoà lợi ích của Nhà nước, lợi ích của người đang sử dụng đất nay bị thu hồi và lợi ích của người đầu tư, trong đó phải chú trọng ưu tiên lợi ích của Nhà nước.

10- Về việc xác định giá trị quyền sử dụng đất trong giá trị tài sản của cơ quan nhà nước và đoàn thể, của các doanh nghiệp.

Xác định giá trị đất đai được giao cho các cơ quan, đoàn thể để quản lý và sử dụng theo quy định của pháp luật. Các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp nhà nước, được giao đất có thu tiền, hoặc thuê đất có trả tiền theo quy định, thì số tiền đó tính vào giá trị tài sản của doanh nghiệp. Với doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá, tiến hành thí điểm đưa một phần giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị của doanh nghiệp, coi đó là vốn góp cổ phần của Nhà nước.

11- Thị trường bất động sản.

- Xây dựng thị trường bất động sản đồng bộ và có trọng điểm, trong đó có quyền sử dụng đất tại đô thị và các vùng quy hoạch phát triển đô thị. Hình thành các yếu tố thị trường trong giao dịch giữa Nhà nước là đại diện chủ sở hữu toàn dân của đất đai với những tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng đất.

- Bảo đảm hiệu lực công tác quản lý và điều tiết của Nhà nước đối với thị trường bất động sản theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế tham gia, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, định hướng thị trường phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá; thông qua các biện pháp kinh tế để điều tiết lại giá trị gia tăng phục vụ cho lợi ích chung của xã hội. Từng bước hình thành ngành kinh doanh bất động sản.

12- Không thừa nhận việc đòi lại đất đã giao cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai qua các giai đoạn cách mạng trước đây; đối với những người gặp khó khăn thì Nhà nước có thể xét hỗ trợ, giúp đỡ theo chế độ hiện hành; không trả lại nhà, đất cũ.

13- Về đất tôn giáo, giữ như quy định hiện hành. Tiếp tục nghiên cứu đầy đủ hơn về hướng giải quyết đất cho các cơ sở tôn giáo phù hợp với nguyện vọng chính đáng và hợp pháp của nhân dân.

14- Nâng cao hiệu lực quản lý đất đai của Nhà nước.

- Chú trọng đầu tư, củng cố bộ máy quản lý đất đai từ Trung ương tới cơ sở đủ mạnh để thực hiện tốt chức năng được giao.

- Cần chú ý vai trò của cộng đồng dân cư trong việc quản lý, sử dụng đất.

15- Đổi mới chính sách, pháp luật đất đai.

- Tiếp tục chuẩn bị nghiên cứu để sớm ban hành Luật đất đai mới thay thế cho Luật đất đai năm 1993. Luật đất đai mới cần bao quát tất cả các loại đất và phù hợp với các quy định về đất đai trong các luật khác. Dự thảo Luật cần được tổ chức lấy ý kiến nhân dân theo quy định của pháp luật.

- Rà soát và điều chỉnh các chính sách đất đai hiện nay, xây dựng hệ thống chính sách quản lý đất đai thống nhất, hài hoà và đồng bộ. Nâng cao hiệu lực thực hiện các chính sách đất đai.

- Tiếp tục nghiên cứu thêm một số vấn đề cụ thể đang nổi lên, như giải quyết khiếu kiện về đất đai, xác định cụ thể các quyền sử dụng đất đối với các đối tượng khác nhau và các loại đất khác nhau, tổ chức kê khai các diện tích đất đang sử dụng đối với mọi tổ chức và cá nhân...

*

*         *

Trên cơ sở kết luận trên và ý kiến của các đồng chí Bộ Chính trị, Ban Bí thư tại Hội nghị này, Ban Chỉ đạo hoàn chỉnh Báo cáo và dự thảo Tờ trình Ban Chấp hành Trung ương của Bộ Chính trị về vấn đề này; hoàn thành trước ngày 10-12-2002.

 

T/M BỘ CHÍNH TRỊ

Phan Diễn

Văn bản khác

Số hiệu
Trích yếu
Ngày ban hành
Ngày hiệu lực
File
94/QĐ-TW
15/10/2007
15/10/2007

Ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng

(ĐCSVN) - Ngày 10/10, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký Quyết định số 190-QĐ/TW về việc ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng.

Kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công

(ĐCSVN) - Bộ Chính trị vừa ban hành Quy định số 189-QĐ/TW ngày 08/10/2024 về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công.

Bộ Chính trị ban hành quy định phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong điều tra, xét xử

(ĐCSVN) – Ngày 27/10/2023, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 132-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Tập trung tuyên truyền những chủ đề lớn, trọng tâm từ nay đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng

(ĐCSVN) - Ban Tuyên giáo Trung ương yêu cầu thông tin chính xác, kịp thời với nhiều hình thức linh hoạt, sáng tạo, phong phú, sinh động gắn với tuyên truyền đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và tuyên truyền kỷ niệm các ngày lễ lớn, sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước trong năm 2024, 2025.

Quy trình kỷ luật đảng viên thuộc thẩm quyền của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư

(ĐCSVN) - Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường vừa ký Quyết định số 165-QĐ/TW ngày 6/6/2024 của Bộ Chính trị ban hành Quy trình xem xét, thi hành kỷ luật đối với tổ chức Đảng, đảng viên thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Liên kết website