Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định 8 phương hướng cơ bản cần tập trung quán triệt và thực hiện để hoàn thành mục tiêu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là ''xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc''. Cương lĩnh yêu cầu, trong quá trình thực hiện các phương hướng đó, phải chú trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ cơ bản, trong đó có mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
l. Về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
Tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, tiến bộ và công bằng xã hội.
Tăng trưởng kinh tế là một khái niệm kinh tế học, dùng để chỉ sự gia tăng về quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Các chỉ tiêu thường được sử dụng để đo mức tăng trưởng kinh tế là mức tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân (GNP) và các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp khác. Tăng trưởng đơn thuần chỉ là sự thay đổi về lượng, chưa phản ánh mặt chất của một nền kinh tế.
Văn hóa, phát triển văn hoá.
Theo nghĩa rộng, văn hoá là toàn bộ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra, được tích lũy trong quá trình hoạt động thực tiễn của con người và nhằm phục vụ cho sự phát triển của con người. Các giá trị này được cộng đồng chấp thuận, vận dụng trong đời sống xã hội và được truyền lại cho các thế hệ sau. Văn hoá thể hiện trình độ phát triển và những đặc trưng riêng có của từng dân tộc. Theo nghĩa hẹp, văn hoá liên quan đến toàn bộ hoạt động tinh thần của xã hội. Phát triển văn hoá chính là phát triển và củng cố nền tảng tinh thần của xã hội.
Tiến bộ và công bằng xã hội
Tiến bộ xã hội là khái niệm phản ánh sự vận động của xã hội từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, là sự vận động của xã hội loài người từ hình thái kinh tế - xã hội này lên hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn, hoàn thiện hơn cả về cơ sở hạ tầng, cả về kiến trúc thượng tầng.
Tiến bộ xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta được thể hiện trên bình diện chung của toàn xã hội, của từng lĩnh vực, của mỗi tổ chức, mỗi gia đình và mỗi cá nhân. Một xã hội vận động theo hướng đi lên chủ nghĩa xã hội phải là một xã hội ngày càng giàu có hơn về của cải vật chất, phong phú hơn về đời sống tinh thần; đem lại cho con người những giá trị cuộc sống nhân văn, cao đẹp, hạnh phúc. Cái đích huớng tới của tiến bộ xã hội phải là con người, là sự phát triển toàn diện con người.
Công bằng xã hội là một khái niệm có tính lịch sử và có nội hàm, trình độ khác nhau ở các chế độ xã hội khác nhau. Công bằng xã hội là phương thức đúng đắn nhất để thỏa mãn một cách hợp lý những nhu cầu của các tầng lớp xã hội, các nhóm xã hội, các cá nhân xuất phát từ khả năng hiện thực của những điều kiện kinh tế -xã hội nhất định. Trước đây, khi nói đến công bằng xã hội dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, chủ yếu nhấn mạnh công bằng trong chế độ phân phối theo lao động. Còn việc phân phối trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhất là trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, thì công bằng xã hội mang nhiều nội hàm mới.
Công bằng xã hội không chỉ giới hạn ở công bằng về kinh tế, mặc dù đây là yếu tố nền tảng, mà còn lập công bằng trong các lĩnh vực chính trị, pháp lý, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế...
Về một phương diện nào đó, công bằng cũng là một mặt biểu hiện của tiến bộ xã hội; phản ánh việc giải quyết tương quan giữa các chủ thể trong các mối quan hệ xã hội về quyền và trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi, cống hiến, hưởng thụ...
Như vậy công bằng xã hội được thể hiện trên ba phương diện chủ yếu sau: công bằng về cơ hội phát triển (học tập, lao động, việc làm, tiếp cận các nguồn lực và điều kiện phát triển sản xuất, kinh doanh...); công bằng về phân phối sản phẩm xã hội; công bằng về quan hệ phát triển giữa các vùng miền, các nhóm, tầng lớp xã hội, thực hiện các chính sách xã hội đối với các đối tượng chính sách và những đối tượng yếu thế.
Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa.
Đời sống của con người cũng như của xã hội bao gồm hai mặt vật chất và tinh thần. Nếu kinh tế là nền tảng vật chất của xã hội, đáp ứng nhu cầu vật chất của con người và xã hội, thì văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, đáp ứng nhu cầu tinh thần của con người và xã hội. Tăng trưởng kinh tế là cơ sở và điều kiện quan trọng hàng đầu cho sự phát triển văn hóa, phát triển văn hóa chính là mục tiêu và động lực của tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế phải nhằm mục tiêu phát triển văn hóa, phát triển con người. Sức sản xuất càng phát triển, thì quan hệ giữa văn hoá và kinh tế càng mật thiết. Mọi hoạt động kinh tế từ thiết kế sản phẩm tới trao đổi và sử dụng sản phẩm đều thấm sâu yếu tố văn hoá, vì toàn bộ quá trình kinh tế đều là hoạt động của người, và con người, thông qua các hoạt động của mình thiết lập, các quan hệ giữa con người với tự nhiên, giữa con người với con người. Hiện nay, toàn cầu hoá kinh tế và sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật đã tạo điều kiện đề kinh tế phát triển nhanh chóng, và những thay đổi trong phát triển kinh tế có tác động rất lớn đến văn hóa. Mặt khác, chỉ khi những quyết sách và chiến lược phát triển kinh tế mang hàm lượng văn hóa cao, thì sự phát triển mới thật sự có giá trị.
Hiện nay, tăng trưởng kinh tế gắn chặt chẽ với phát triển văn hoá còn vì bên cạnh yếu tố vốn, kỹ thuật, tài nguyên, thì lao động, nhất là năng lực sáng tạo của con người ngày càng trở thành nguồn lực quan trọng hơn của sự giàu có và phát triển. Một chính sách phát triển đúng đắn phải là một chính sách làm cho các yếu tố văn hóa thấm sâu vào tất cả các lĩnh vực hoạt động sáng tạo của con người, nhân tố văn hóa phải trở thành nội dung quan trọng của hệ thống chính sách, chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước.
Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội
Tiến bộ và công bằng xã hội quan hệ chặt chẽ với tăng trưởng kinh tế có hai khía cạnh: vừa là động lực, vừa là thành quả của tăng trưởng kinh tế, thể hiện sự phân phối thành quả của tăng trưởng. Tăng trưởng kinh tế tạo cơ sở và điều kiện vật chất để thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Đến lượt mình, tiến bộ và công bằng xã hội là động lực, mục tiêu của tăng trưởng kinh tế. Không bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội sẽ gây cản trở cho tăng trưởng kinh tế ở giai đoạn tiếp theo.
2. Giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở Việt Nam trong những năm qua
Quan điểm của Đảng ta và kết quả giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá.
Vấn đề giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá đã được đặt ra ngay từ những ngày đầu của nước Việt Nam mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề phải chú ý đến cùng, phải coi trọng ngang nhau, đó là chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá. ''Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa''1. Văn hoá nghệ thuật, cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị''2. Đảng ta luôn luôn coi trọng gắn kết phát triển kinh tế với xây dựng văn hóa. Đại hội VIII của Đảng, khi nêu ra những nhiệm vụ phát triển kinh tế, đã nhận thấy sự gắn bó hữu cơ của yếu tố văn hoá và kinh tế qua việc xác định ''lấy việc phát huy, nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”3. Đại hội X của Đảng đã đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức, yêu cầu phát triển kinh tế phải gắn bó chặt chẽ và đồng bộ với phát triển văn hoá. Khi bàn về văn hoá, Đảng ta luôn khẳng định ''văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”. Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII đã xác lập một hệ thống chính sách để xây dựng và phát triển văn hoá, trong đó đáng chú ý là chính sách ''kinh tế trong văn hoá'' nhằm gắn văn hoá với các hoạt động kinh tế, khai thác tiềm năng tài chính hỗ trợ cho phát triển văn hoá và ''chính sách văn hoá trong kinh tế'' nhằm bảo đảm cho văn hoá thể hiện rõ trong các hoạt động kinh tế. Hội nghị Trung ương 10 khoá IX đã khẳng định mục tiêu chủ yếu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá là bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao đời sống văn hoá, nền tảng tinh thần của xã hội. Nghị quyết Đại hội X của Đảng nhấn mạnh: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sác dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội''4. Đại hội XI của Đảng yêu cầu ''Phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hoá, xã hội hài hoà với phát triển kinh tế''5.
Trên thực tế, sự phát triển kinh tế - xã hội, quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế và phân công lao động quốc tế tác động mạnh mẽ đến đời sống văn hoá của Việt Nam. Chúng ta đã phát triển đồng bộ và toàn diện quan hệ văn hoá - xã hội và các thành tố văn hoá theo hướng dân tộc, hiện đại, dân chủ, khoa học và nhân văn trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối văn hoá của Đảng nhằm phát triển con người, xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh và môi trường sinh thái an toàn, là động lực để thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong những năm qua, sự nghiệp phát triển văn hoá đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần tạo động lực tinh thần cho sự phát triển đất nước; tư tưởng, đạo đức và lối sống có nhiều chuyển biến tích cực; chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng thấm sâu vào nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Nhiều giá trị văn hoá mới, chuẩn mực đạo đức tiến bộ được khẳng định, dân chủ trong xã hội không ngừng được củng cố và phát huy. Thế hệ trẻ có khát vọng và ý chí lập thân, lập nghiệp để phát triển đất nước. Các giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc được kế thừa và phát huy trong điều kiện mới. Việc tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại làm giàu cho nền văn hoá dân tộc trong thời kỳ hội nhập quốc tế được chú trọng. Văn hoá đã ngày càng khẳng định vai trò nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Mặt khác, khi mức sống bình quân của người dân được cải thiện, quá trình đô thị hóa, hiện đại hóa ngày càng mạnh mẽ thì nhu cầu về văn hoá của nhân dân ngày càng cao là điều tất yếu. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, giao lưu văn hoá toàn cầu ngày càng sôi động cũng tác động không nhỏ đến văn hóa Việt Nam. Những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin đã và đang kích thích năng lực sáng tạo và thụ hưởng các giá trị văn hoá của nhân dân. Vai trò của văn hoá trong xây dựng doanh nghiệp, phát triển kinh tế khu vực và quốc tế ngày càng được coi trọng. Quá trình dân chủ hoá trong sáng tạo, sản xuất, truyền bá và hưởng thụ các giá trị văn hoá ngày càng gia tăng trong bối cảnh toàn cầu hoá. Đây là những viễn cảnh thuận lợi để phát triển văn hóa.
Trong giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa chúng ta đối mặt với cả thuận lợi và thách thức. Thứ nhất,tăng trưởng kinh tế đã góp phần giải phóng các tiềm năng kinh tế. Quá trình dân chủ hóa đời sống kinh tế, cùng với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, sự tồn tại và phát triển của các thành phần kinh tế khác đã đóng góp một cách tích cực, to lớn vào sự phát triển kinh tế chung của đất nước. Thứ hai, tăng trưởng kinh tế đã góp phần đa dạng hóa và năng động hoá nền sản xuất, tạo điều kiện cho quá trình dân chủ hoá đời sống xã hội, thúc đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trong những năm gần đây, để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, Đảng và nhà nước ta chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, làm cho lực lượng sản xuất phát triển đa dạng, phong phú và nhanh hơn, để tăng năng suất lao động, có đủ sức cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế thành công, khắc phục tình trạng lạc hậu của lực lượng sản xuất, của lao động thủ công, lao động nông nghiệp. Thứ ba, tăng trưởng kinh tế có tác dụng thúc đẩy hình thành thói quen suy nghĩ về tính hiệu quả, tính thiết thực của công việc.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã và đang được phát triển ở nước ta, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, bên cạnh những tác động tích cực, cũng ảnh hưởng tiêu cực không nhỏ đối với sự phát triển con người ở Việt Nam. Một là, dẫn đến phân hoá xã hội sâu sắc giữa khu vực nông thôn và thành thị, giữa các ngành nghề khác nhau trong xã hội, giữa nhóm người có thu nhập thấp và nhóm người có thu nhập quá cao. Trong xã hội ta vẫn tồn tại hiện tưọng bất bình đẳng, và do vậy, dẫn đến nảy sinh nhiều mâu thuẫn về lợi ích.Hai là, tình trạng suy thoái đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên diễn ra nghiêm trọng; lối sống thực dụng, sùng bái đồng tiền, ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa, tham nhũng, tệ nạn xã hội có xu hướng gia tăng; tình trạng ô nhiễm môi trường, sự lây lan dịch bệnh nguy hiểm xảy ra thường xuyên, thái độ xem thường luân lý và các giá trị tinh thần, giá trị nhân văn, đề cao lợi ích vật chất, vô cảm, bàng quan với cuộc sống.v.v. có xu hướng mở rộng. Ba là, cùng với việc phát triển kinh tế thị trường là sự tác động mạnh mẽ của xu thế toàn cầu hóa kinh tế, hội nhập quốc tế, các giá trị văn hoá truyền thống có những biến đổi nhất định và đang đặt ra nhiều vấn đề bức xúc cho xã hội.
Quan điểm của Đảng ta và kết quả giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm yêu cầu phải gắn kết phát triển kinh tế với bảo đảm công bằng xã hội, xem đó không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực cho tăng trưởng kinh tế. Người nói: ''Trong công tác lưu thông phân phối, có hai điều quan trọng phải luôn nhớ: Không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng; không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên''6. Vấn đề này cũng được Đảng ta đặc biệt quan tâm. Văn kiện Đại hội VII của Đảng xác định: ''Kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội...''7. Văn kiện Đại hội VIII của Đảng nêu rõ: ''Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ, công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái''8. Văn kiện Đại hội IX của Đảng khẳng định: ''Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước phát triển''9. Văn kiện Đại hội X của Đảng nhấn mạnh: ''Phải gắn tăng trưởng kinh tế, với phát triển văn hoá, phát triển toàn diện con người, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội''10. Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định quan điểm nhất quán: ''Phải coi trọng, việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội''11. Như vậy, tư tưởng tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội được thể hiện rõ ngay trong từng bước hoàn thiện đường lối chiến lược và từng chính sách phát triển của Đảng.
Ngay khi nền kinh tế còn ở trình độ thấp, Đảng ta đã sớm lựa chọn mô hình phát triển kinh tế gắn với phát triển văn hóa và công bằng xã hội. Đến thời kỳ đổi mới, Đảng đề ra và triển khai thực hiện nhiều chính sách gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội. Chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần đã tạo động lực để huy động nguồn lực dạng của xã hội cho phát triển. Mỗi năm nước ta có khoảng 1,4 triệu người bước vào độ tuổi lao động, Nhà nước đã ban hành các chính sách hỗ trợ việc làm, khuyến khích các thành phần kinh tế mở các trung tâm dạy nghề, tạo điều kiện cho vay vốn tín dụng đối với người lao động đi xuất khẩu, chính sách xóa đói, giảm nghèo, chính sách phát triển giáo dục và y tế, chính sách bảo đảm an sinh xã hội, chính sách với người có công, người khuyết tật, người gặp khó khăn.., Đến nay, Việt Nam đã hoàn thành cơ bản các mục tiêu thiên niên kỷ về giảm nghèo và gần đây, Việt Nam được đánh giá là đã thoát nghèo.
Cùng với hệ thống chính sách ngày càng hoàn thiện và phát huy hiệu quả trong thực tiễn, những năm qua Việt Nam đã đạt nhiều tiến bộ trong giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Về kinh tế, vị thế của Việt Nam được cải thiện rõ rệt cả ở khu vực và trên thế giới. Lựa chọn xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mô hình tăng trưởng kinh tế mà chúng ta hướng tới là tăng trưởng bền vững, tăng trưởng vì con người, tăng trưởng gắn với bảo vệ môi trưởng. Đời sống vật chất và tinh thẩn của nhân dân được cải thiện. Trình độ dân trí, chất lượng nguồn nhân lực và tính năng động xã hội của con người được nâng lên đáng kể. Các địa phương trong cả nước đã hoàn thành mục tiêu xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở. Công tác đào tạo nghề được mở rộng. Năng lực nghiên cứu khoa học và ứng đụng công nghệ mới được nâng cao. Xoá đói, giảm nghèo đạt kết quả nổi bật, được thế giới đánh giá cao. Việc đền ơn đáp nghĩa đối với những người có công với nước; công tác bảo trợ xã hội, chăm sóc và giúp đỡ những người bị ảnh hưởng chất độc da cam, người tàn tật, người già không nơi nương tựa, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn... được quan tâm và thực hiện tốt. Việc bảo vệ, chăm sóc trẻ em, chăm lo sức khoẻ cộng đồng,... đạt nhiều tiến bộ.
Bên cạnh những kết quả tích cực, việc thực hiện công bằng xã hội ở nước ta vẫn còn những hạn chế. Trong lĩnh vực kinh tế, tuy chúng ta đã đổi mới mạnh mẽ về cơ chế, chính sách để phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất nhằm thực hiện công bằng xã hội, nhưng trong chỉ đạo thực hiện vẫn còn nhiều lúng túng, gây cản trở đối với sự phát triển của các thành phần kinh tế. Sự phân phối nguồn vốn đầu tư - một trong những tiền đề cho việc phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm sự công bằng giữa các vùng miền còn nhiều bất cập. Việc ưu tiên, ưu đãi các điều kiện phát triển sản xuất trong các doanh nghiệp như đầu tư, quyền sử dụng đất đai, chính sách tín dụng, thuế,... còn thiên về thành phần, chứ chưa thực sự căn cứ vào mục tiêu, nhiệm vụ, hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Hiện nay, các doanh nghiệp cũng chưa thực sự được hoạt động trên một “sân chơi” hoàn toàn bình đẳng.
Về xã hội, nảy sinh nhiều vấn đề bức xúc, đặc biệt là tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm ở nông thôn, những nơi đất nông nghiệp được chuyển đổi mục đích sử dụng. Bên cạnh đó, sự phân hoá giàu nghèo diễn ra khá nghiêm trọng giữa các tầng lớp dân cư, khoảng cách về thu nhập giữa nhóm có thu nhập cao nhất và nhóm có thu nhập thấp nhất đang có xu hướng mở rộng. Trong lĩnh vực giáo dục, y tế còn nhiều hiện tượng tiêu cực, ảnh hưởng tới chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, vi phạm công bằng xã hội. Thực hiện bình đẳng giới trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường gặp nhiều khó khăn, một bộ phận không nhỏ phụ nữ, nhất là phụ nữ nông thôn, vùng sâu vùng xa, vùng dân tộc thiểu số hiện đang trong tình trạng sức khoẻ yếu, trình độ học vấn và tay nghề thấp, thu nhập bấp bênh, nguy cơ mất việc làm cao và ít có điều kiện tham gia các hoạt động xã hội.
3. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong thời gian tới
Thứ nhất, để thúc đẩy và giải quyết tốt mối quan hệ nêu trên phải kiên trì lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm, nỗ lực phát triển sức sản xuất, đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng tăng trưởng bền vững. Của cải vật chất xã hội phong phú là cơ sở vật chất thực hiện công bằng xã hội. Chỉ có nỗ lực phát triển sức sản xuất, sáng tạo ra của cải vật chất ngày càng phong phú, chúng ta mới có khả năng đáp ứng và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Hơn nữa, phải từng bước nâng cao trình độ sức sản xuất chúng ta mới có thể hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo cơ sở vật chất hùng hậu để bảo đảm hạnh phúc cho nhân dân.
Thứ hai, giải quyết tốt mối quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế thị trường và xây dựng văn hoá.
Kinh tế thị trường đã góp phần giải phóng các tiềm năng kinh tế, làm năng động hoá đời sống kinh tế, tạo điều kiện phát triển cho các thành phần kinh tế, đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, kinh tế thị trường cũng dẫn đến sự phân hoá xã hội sâu sắc, hiện tượng suy thoái đạo đức lối sống lan rộng, làm biến dạng nhiều giá trị dẫn đến đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải biết phát huy cao nhất tác động tích cực và hạn chế đến mức tối thiểu ảnh hưởng tiêu cực của kinh tế thị trường, duy trì sự ổn định và phát triển xã hội.
Phải nhanh chóng khắc phục tình trạng kém phát triển của nền giáo dục Việt Nam, xây dựng thành công xã hội học tập, học tập suốt đời theo phương châm hiện đại, tiên tiến, mở rộng hệ thống trường dạy nghề, đẩy mạnh đào tạo đại học và sau đại học theo hướng phát triển kinh tế tri thức.
Về khoa học công nghệ cần có chiến lược phát triển đúng hướng, chú trọng tăng mạnh năng lực khoa học công nghệ nội sinh, mở rộng và phát triển thị trường công nghệ, tăng cường mối gắn kết giữa nghiên cứu ở các trường đại học và doanh nghiệp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong hoạt động khoa học và công nghệ, thực hiện việc chuyển giao công nghệ, đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý khoa học và công nghệ. Tạo nên sự thâm nhập sâu rộng giũa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, từng bước chuyển từ mục tiêu tăng trưởng vật chất sang mục tiêu vì chất lượng sống toàn diện của con người.
Thứ ba, tăng cường hơn nữa việc hoàn thiện các chính sách xã hội. Công tác này cần được triển khai theo hướng: Một là, nhanh chóng hoàn thiện chế độ phân phối thu nhập, quy phạm trật tự phân phối thu nhập; hai là, tích cực hoàn thiện chế độ tài chính công, thiết lập hệ thống phúc lợi hợp lý, chú ý thích đáng đến công tác xoá đói, giảm nghèo, đầu tư hiệu quả cho y tế, giáo dục, văn hoá, bảo đảm công ăn việc làm cho nhân dân, xây dựng môi trường sinh thái lành mạnh, an toàn,...; ba là, chú ý bảo đảm và cải thiện an sinh xã hội, hoàn thiện chế độ bảo đảm xã hội, kiện toàn hệ thống bảo đảm công bằng phúc lợi xã hội. Vận dụng các biện pháp khác nhau trên cơ sở căn cứ vào luật pháp, từng bước hình thành hệ thống an sinh xã hội, lấy công bằng quyền lợi, công bằng cơ hội, công bằng phân phối là nội dung chủ yếu, để toàn thể nhân dân được hưởng thành quả của sự nghiệp đổi mới.
Thứ tư, xây dựng chế độ chính trị dân chủ và chế độ pháp luật xã hội chủ nghĩa. Trong xã hội hiện đại, nếu không có dân chủ và pháp luật thì không thể có sự phát triển hài hòa kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, môi trường. Chúng ta nói công bằng xã hội là nói đến sự phân phối hợp lý quyền lợi chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội cho tất cả nhân dân.
Thứ năm, để thúc đẩy việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, cần đẩy mạnh việc giáo dục, tuyên truyền về mối quan hệ này vì đây là mối quan hệ liên quan đến toàn bộ đời sống xã hội đến mọi người và mọi giai tầng xã hội. Phải nhận thức rõ, mối quan hệ này không chỉ đề cập tới quyền lợi và nghĩa vụ về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, mà còn đề cập đền quan niệm tư tưởng, ý thức chủ thể và tố chất văn hoá của người dân. Vì thế, nó phải trở thành nhận thức của toàn dân và dựa vào sự nỗ lực phấn đấu của tất cả mọi thành viên trong xã hội.
Để phát huy những thành tựu, khắc phục những hạn chế, bất cập trong giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, cần sớm thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đại hội XI thành chính sách, kế hoạch, chương trình hành động của các cấp, các ngành, quyết liệt trong triển khai thực hiện các chính sách, kế hoạch, chương trình hành động đó.
__________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t.6. tr.448.
2. Hồ Chí Minh: Sđd, t.6, tr.368-369.
3. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.85.
4. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.33.
5. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.124.
6. Hồ Chí Minh: Sđd, t.12, tr.185.
7. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1991, tr.73.
8. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.85.
9. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.88.
10. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.178-179.
11. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.21.