Phát triển kinh tế hài hòa với phát triển văn hóa, gắn với tiến bộ và công bằng xã hội - đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Đoàn Thị Bích Hiền - Tạp chí Cộng sản

1. Quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế hài hòa với phát triển văn hóa, gắn với tiến bộ và công bằng xã hội

1.1. Phát triển kinh tế hài hòa với phát triển văn hóa, gắn với tiến bộ và công bằng xã hội là yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Ngay tại Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943, Đảng ta đã nhận định: “văn hóa là một trong ba mặt trận mà người cộng sản phải quan tâm”. Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ - nhà văn hóa vĩ đại của dân tộc, cũng từng nhấn mạnh: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Đến Hội nghị Trung ương 5, Khóa VIII, Đảng ta khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội, vừa là động lực vừa là mục tiêu thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội”. Hội nghị Trung ương 10, Khóa IX tiếp tục phát triển: “Đảm bảo sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn đảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội; tạo nên sự phát triển đồng bộ cả ba lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định để bảo đảm cho sự phát triển toàn diện bền vững của đất nước”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ rõ: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”.

Như vậy, xuyên suốt các quan điểm của Đảng về vị trí, vai trò của văn hóa trong sự nghiệp cách mạng có thể khái quát mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa là:

- Văn hóa là động lực của phát triển. Văn hóa với tư cách là sức mạnh mềm - sức mạnh nội sinh, nền tảng tinh thần của một dân tộc, đóng vai trò to lớn thúc đẩy sự phát triển của cả dân tộc nói chung và của nền kinh tế nói riêng.

- Văn hóa là mục tiêu của phát triển kinh tế - xã hội. Đối với Việt Nam, mục đích tối cao của phát triển kinh tế - xã hội là nhằm phục vụ công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, công cuộc cách mạng giải phóng con người. Mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa, xét cho cùng, chính là để giải phóng những giá trị văn hóa tích cực nhất cho loài người. Mặt khác, phát triển kinh tế đồng thời giúp cho con người có nhiều cơ hội, khả năng tiếp nhận các giá trị văn hóa. Phát triển kinh tế nhằm mục tiêu văn hóa chính là “đặc sắc” của cách mạng xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Mục tiêu cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là: xã hội dân chủ, công bằng, văn minh - những kết quả, giá trị to lớn nhất của văn hóa. Cách mạng để giải phóng con người, để con người có thể tồn tại trong một xã hội ngày càng dân chủ, công bằng văn minh hơn. Đối với cách mạng nước ta, các giá trị kinh tế trước hết và tối cao nhất là để phục vụ cho con người đạt được các giá trị văn hóa, nhằm thực hiện tiến bộ và công bằng.

Công bằng xã hội là một khái niệm rộng bao gồm cả yếu tố kinh tế, chính trịvăn hóa, xã hội và phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội sẽ có những định nghĩa riêng. Xét chung nhất, công bằng xã hội là sự công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, công bằng trong phân phối thu nhập, cơ hội phát triển... Một số công cụ để “đo” công bằng xã hội là: Chỉ số phát triển con người (HDI); Hệ số GINI; mức độ nghèo khổ; Mức độ thỏa mãn nhu cầu cơ bản của con người...

Tiến bộ xã hội là sự vận động phát triển của xã hội con người từ thấp lên cao; là sự phát triển của trình độ sản xuất, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất.

Mọi quan điểm của Đảng đều khẳng định phát triển kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội... Đại hội X của Đảng đã nêu: “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục..., giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội”. Đảng luôn khẳng định, giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại, làm tiền đề cho nhau cùng phát triển: Tăng trưởng kinh tế là điều kiện tiền đề để thực hiện công bằng xã hội thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội là động lực, điều kiện quan trọng có tác dụng thúc đẩy, bảo đảm tăng trưởng kinh tế cao, bền vững.

Sau 25 năm đổi mới, với những chứng minh trong thực tiễn về sự đúng đắn của con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam, chúng ta cũng đã tổng kết và làm rõ đặc điểm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, thành tố định hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện rõ nét bởi đặc điểm lớn: phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

1.2. Phát triển kinh tế hài hòa với phát triển văn hóa, gắn với tiến bộ và công bằng xã hội gắn với phát triển bền vững:

Thế giới ngày nay, sau sự sụp đổ của nhiều mô hình quản lý kinh tế với những cuộc khủng hoảng mang tính toàn cầu, với hàng loạt sự trả giá của con người do phát triển kinh tế không được đặt trong tổng thể gắn với văn hóa – môi trường sống, đã đặt ra cho nhân loại một bài toán mới: phát triển bền vững.

Khái niệm phát triển bền vững và quan điểm về phát triển bền vững đến nay còn có nhiều cách tiếp cận khác nhau tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia, khu vực. Nhưng, hiểu một cách chung nhất thì phát triển bền vững là một khái niệm nhằm định nghĩa một sự phát triển về mọi mặt trong hiện tại mà vẫn bảo đảm sự tiếp tục phát triển trong tương lai xa. Phát triển bền vững phải bảo đảm có sự phát triển kinh tế hiệu quả, xã hội công bằng và môi trường được bảo vệ, gìn giữ. Đối với Việt Nam, phát triển bền vững hiểu khái quát là sự cân bằng giữa 3 vấn đề: tăng trưởng - bảo vệ môi trường - bảo đảm an sinh xã hội.

Văn kiện Đại hội XI đã nêu quan điểm của Đảng về phát triển bền vững là:

- Coi chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là yêu cầu ưu tiên hàng đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức.

- Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống.

- Phát triển kinh tế - xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu.

Như vậy, trong quan điểm của Đảng, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là những điều kiện quan trọng để có sự phát triển bền vững. Phát triển bền vững là một tiêu chí không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

2. Tăng trưởng kinh tế gắn với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội Việt Nam thời gian qua

2.1. Nhũng thành quả đã đạt được

Thực tiễn trong những năm qua là những minh chứng rõ rệt nhất về quan điểm phát triển kinh tế nhằm mục tiêu phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội – một trong những tính chất cơ bản nhất để phân biệt mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với các mô hình kinh tế khác.

Giai đoạn 2001 - 2010, Việt Nam có tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt gần 7,3%/năm, thuộc nhóm nước có tốc độ tăng trưởng cao. GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt khoảng 1.200 USD, vượt qua ngưỡng nước đang phát triển có thu nhập thấp. Thu nhập thực tế bình quân đầu người 10 năm qua tăng khoảng 2,3 lần. Tổng sản phẩm trong nước năm 2010 tính theo giá thực tế ước đạt 106 tỷ USD, tăng gấp hai lần so với năm 2005. GDP bình quân đầu người từ khoảng 200 USD năm 1990 tăng lên l.200 USD năm 2010. Hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất gia tăng tích cực: Đóng góp của yếu tố vốn vào tăng trưởng GDP giảm từ 70% (giai đoạn kế hoạch 1991 - 1995) xuống còn khoảng 52% (giai đoạn 2006 - 2010); trong khi đó, đóng góp của yếu tố lao động vào tăng trưởng GDP tăng từ 16% lên khoảng 20% các giai đoạn tương ứng. Nền kinh tế đất nước tăng trưởng liên tục, hiệu quả quản lý nền kinh tế đất nước được nâng cao, vị trí kinh tế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao đáng kể.

Đi cùng với những thành tựu phát triển về kinh tế là những kết quả đáng ghi nhận về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển nền văn hóa. Dấu ấn nổi bật nhất là việc năm 2008, nước ta đã hoàn thành hầu hết các mục tiêu thiên niên kỷ đặt ra cho năm 2015.

- Dân chủ trong xã hội tiếp tục được mở rộng. Quốc phòng, an ninh được giữ vững, chính trị xã hội ổn định. Diện mạo của đất nước có nhiều thay đổi; thế và lực của nước ta vững mạnh thêm nhiều; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.

- Chỉ số phát triển con người (HDI – chỉ số đo sự tiến bộ trung bình của một nước về phát triển con người bao gồm tuổi thọ, trình độ dân trí và thu nhập GDP tính theo đầu người) ngày càng tăng cao. Mức hưởng thụ văn hoá, điều kiện tiếp cận thông tin của người dân được nâng lên rõ rệt. Hệ thống phúc lợi và an sinh xã hội được coi trọng và từng bước mở rộng. Bình đẳng giới có nhiều tiến bộ, tỷ lệ phụ nữ tham gia Quốc hội và giữ các trọng trách trong hệ thống chính trị ngày càng cao.

- Công cuộc xóa đói, giảm nghèo đạt nhiều thành tựu nổi bật. Chênh lệch thu nhập giữa thành thị và nông thôn giảm từ 2,3 lần năm 1999 xuống còn 2 lần năm 2008. Các Chương trình 135, 132 của Chính phủ đã giải quyết được tình trạng nghèo tuyệt đối ở các địa bàn nông thôn. Theo đó, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm rất ấn tượng trong 15 năm qua: từ 58,1% (năm 1993) xuống còn khoảng 11(năm 2009).

- Về lao động và việc làm: Từ năm 1991 đến năm 2000, trung bình giải quyết lao động cho khoảng 1 - 1,2 triệu người/năm; giai đoạn 2001-2005 đạt khoảng 1,4 - 1,5 triệu người/năm; giai đoạn 2006-2010, tăng lên đến 1,6 triệu người/năm. Công tác dạy nghề đã đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo từ dưới 10% năm 1990 lên khoảng 40% năm 2010.

- Cùng với những kết quả lớn trong việc xã hội hoá phát triển các lĩnh vực xã hội, ngân sách nhà nước chi cho các lĩnh vực này không ngừng tăng lên; bảo hiểm y tế được mở rộng từ 13,4% dân số năm 2000 lên khoảng 62% năm 2010; 100% số xã có trạm y tế và 78% số xã có bác sĩ phụ trách. Ngân sách nhà nước đã bảo đảm được 78% chi phí cho giáo dục đào tạo toàn xã hội (đạt 20% ngân sách nhà nước) v.v.. Trẻ em được quan tâm bảo vệ, chăm sóc, tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm từ 33,8% xuống còn dưới 18%. Tuổi thọ bình quân tăng từ 67 lên 72 tuổi.

- Công tác bảo vệ môi trường được quan tâm và có nhiều mặt được cải thiện.

Một so sánh thú vị là: GDP bình quân đầu người của Việt Nam xếp 129 trên tổng số 182 nước được thống kê, còn HDI thì xếp thứ 116/182. Điều này cho thấy sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta có xu hướng phục vụ sự phát triển con người, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội khá hơn một số nước đang phát triển có GDP bình quân đầu người cao.

Việt Nam đã thực hiện sự phát triển kinh tế hướng vào con người, nhất là những người nghèo. Thực thi chiến lược phát triển toàn diện, cùng với việc đạt được chỉ tiêu tăng trưởng GDP cao, thì tất cả các chỉ tiêu về xã hội, môi trường có liên quan trực tiếp đến tăng trưởng và sử dụng kết quả của tăng trưởng đều hoàn thành và hoàn thành vượt mức. Các chỉ tiêu xã hội có xu hướng được cải thiện rõ rệt.

Sau gần 25 năm đổi mới, mối quan hệ giữa tăng trưỏng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở nước ta đã được giải quyết một cách khá hiệu quả. Các cơ hội phát triển được mở rộng cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư. Đời sống của đại bộ phận nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước.

2.2  Hạn chế và những tồn tại:

Tuy đã đạt được những thành tích đáng khích lệ nêu trên, nhưng tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng ở nước ta còn có những tồn tại, hạn chế, được nêu trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020: “Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng. Kinh tế phát triển chưa bền vững. Chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp, các cân đối kinh tế vĩ mô chưa vững chắc, cung ứng hiện chưa đáp ứng yêu cầu. Công tác quy hoạch, kế hoạch và việc huy động, sử dụng các nguồn lực còn hạn chế, kém hiệu quả, đầu tư còn dàn trải; quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nói chung còn nhiều yếu kém, việc thực hiện chức năng chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước còn bất cập. Tăng trưởng kinh tế vẫn dựa nhiều vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội có một số mặt yếu kém chậm được khắc phục, nhất là về giáo dục, đào tạo và y tế; đạo đức, lối sống trong một bộ phận xã hội xuống cấp. Môi trường ở nhiều nơi đang bị ô nhiễm nặng; tài nguyên, đất đai chưa được quản lý tốt, khai thác và sử dụng kém hiệu quả, chính sách đất đai có mặt chưa phù hợp. Thể chế kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng vẫn là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển. Nền tảng để Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa được hình thành đầy đủ. Vẫn đang tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định chính trị - xã hội và đe đọa chủ quyền quốc gia”.

10 năm qua, Việt Nam tuy là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong khu vực và thế giới, ngay cả khi kinh tế toàn cầu gặp khủng hoảng, nhưng tăng trưởng kinh tế Việt Nam vẫn chủ yếu theo chiều rộng, chất lượng tăng trưởng thấp. Thể hiện thông qua tình trạng hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực thấp, cấu trúc tăng trưởng bất hợp lý, năng lực cạnh tranh quốc gia kém và bất bình đẳng có xu hướng gia tăng. Bên cạnh đó là những nhức nhối về lạm phát, môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm... cũng khiến cho nhiều người lo lắng về chất lượng thực sự của sự tăng trưởng kinh tế Việt Nam.

3. Đường lối, chiến lược, định hướng của Đảng về phát triển kinh tế hài hòa với phát triển văn hóa, gắn với tiến bộ và công bằng xã hội:

3.1. Về văn hóa, Đảng luôn chủ trương: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; con người phát triển toàn diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ pháp luật. Văn hóa là động lực, đóng góp trong mọi mặt của sức mạnh mềm, giúp kinh tế phát triển, trong đó trực tiếp nhất là giáo dục. Ngược lại, nền kinh tế của Việt Nam có đặc trưng lớn là phát triển nhằm mục đích nâng cao văn hóa cho nhân dân. Văn hóa vừa là động lực vừa là mục tiêu của tăng trưởng kinh tế; là một trong 3 nhiệm vụ lớn nhất của cách mạng Việt Nam, đồng thời với phát triển kinh tế và xây dựng đảng.

3.2. Chủ trương, đường lối của Đảng hiện nay thể hiện quan điểm phát triển kinh tế của Việt Nam là, tăng trưởng kinh tế là điều kiện vật chất bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, và tiến bộ, công bằng xã hội là động lực cho tăng trưởng kinh tế cao, ổn định; tăng trưởng kinh tế phải gắn với phát triển văn hóa, bảo đảm các quyền con người và bảo vệ môi trường. Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từ năm 2011 đến năm 2020 đã đề ra 5 quan điểm lớn:

- Thứ nhất, phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược.

- Thứ hai, đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

- Thứ ba, mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển.

- Thứ tư, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ ngày càng cao; đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Thứ năm, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

Như vậy, có thể thấy, xuyên suốt các quan điểm, đều thể hiện trực tiếp hoặc gián tiếp mục tiêu phát triển kinh tế hài hòa với phát triển văn hóa và gắn chặt với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Yêu cầu của đường lối làm tăng trưởng kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội phải được thực hiện trong toàn bộ quá trình và từng giai đoạn phát triển; thể hiện qua từng chính sách kinh tế lớn, nhỏ, trên phạm vi toàn quốc cho tới từng địa phương, các chính sách kinh tế gắn chặt với chính sách xã hội; mặt khác xây dựng các khung khổ, hành lang pháp lý tạo sự bình đẳng đối với các thành phần kinh tế; bảo đảm dân chủ trong xã hội...

Nhiều nhóm giải pháp đã được đưa ra trao đổi xung quanh vấn đề tăng trưởng kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, khái quát chung có thể nêu một số nhóm sau:

- Đẩy mạnh tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển dần sang phát triển kinh tế theo chiều sâu dựa trên nền kinh tế tri thức, nguồn nhân lực chất lượng cao.

- Đẩy mạnh việc chú trọng chất lượng thực sự của tăng trưởng kinh tế, không thể phát triển bằng mọi giá. Tăng trưởng kinh tế phải đặt trong mối quan hệ với chất lượng thực sự của phát triển đời sống, giảm thiểu tác động tới môi trường, sự suy thoái nguồn tài nguyên...

- Có quy hoạch, chiến lược cụ thể với việc phân bố các nguồn đầu tư giữa các vùng miền; giữa xây dựng các đầu tàu kinh tế với quan tâm tới phát triển ở các địa phương có vị thế kém hơn, nhất là vùng sâu, vùng xa...

- Tạo sự tiến bộ, công bằng trong “đầu vào”, “đầu ra” của nền kinh tế, từ tạo sự công bằng giữa các thành phần kinh tế tới việc phân phối kết quả lao động... Đấu tranh chống làm giàu phi pháp vì đây chính là sự nghiêm trọng nhất thể hiện thiếu công bằng và tiến bộ của phát triển nền kinh tế.

- Phát huy vai trò của các chính sách xã hội trong việc xây dựng một hệ thống phúc lợi xã hội nhằm bảo đảm sự hài hòa trong phân phối lợi ích do tăng trưởng kinh tế đem lại; hạn chế sự gia tăng khoảng cách giàu nghèo.

Như vậy, xuyên suốt các quan điểm của Đảng về vị trí, vai trò của văn hóa trong sự nghiệp cách mạng có thể khái quát mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa là:

- Văn hóa là động lực của phát triển. Văn hóa với tư cách là sức mạnh mềm, sức mạnh nội sinh, nền tảng tinh thần của một dân tộc, đóng vai trò to lớn thúc đẩy sự phát triển của cả dân tộc nói chung và của nền kinh tế nói riêng.

- Văn hóa là mục tiêu của phát triển kinh tế - xã hội. Đối với Việt Nam, mục đích tối cao của phát triển kinh tế - xã hội là nhằm phục vụ công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa - cuộc cách mạng giải phóng con người. Mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa, xét cho cùng, chính là để giải phóng những giá trị văn hóa tích cực nhất cho loài người. Mặt khác, phát triển kinh tế có nhiều cơ hội, khả năng tiếp nhận các giá trị đồng thời giúp cho con người có nhiều cơ hội, khả năng tiếp nhận các giá trị văn hóa. Phát triển kinh tế nhằm mục tiêu văn hóa chính là “đặc sắc” của cách mạng xã hội chủ nghĩa Việt Nam./.

 

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Các tin khác

Ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng

(ĐCSVN) - Ngày 10/10, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký Quyết định số 190-QĐ/TW về việc ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng.

Kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công

(ĐCSVN) - Bộ Chính trị vừa ban hành Quy định số 189-QĐ/TW ngày 08/10/2024 về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công.

Bộ Chính trị ban hành quy định phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong điều tra, xét xử

(ĐCSVN) – Ngày 27/10/2023, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 132-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Tập trung tuyên truyền những chủ đề lớn, trọng tâm từ nay đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng

(ĐCSVN) - Ban Tuyên giáo Trung ương yêu cầu thông tin chính xác, kịp thời với nhiều hình thức linh hoạt, sáng tạo, phong phú, sinh động gắn với tuyên truyền đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và tuyên truyền kỷ niệm các ngày lễ lớn, sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước trong năm 2024, 2025.

Quy trình kỷ luật đảng viên thuộc thẩm quyền của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư

(ĐCSVN) - Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường vừa ký Quyết định số 165-QĐ/TW ngày 6/6/2024 của Bộ Chính trị ban hành Quy trình xem xét, thi hành kỷ luật đối với tổ chức Đảng, đảng viên thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Liên kết website